(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Lễ tam hợp_Vesak

17 Tháng Tư 201412:00 SA(Xem: 112268)


Lễ Tam Hợp _ Vesak

 

(Đức Phật Đản Sanh - Đức Phật Thành Đạo - Đức Phật Nhập Niết Bàn)

Minh Hạnh lượt dịch từ Wikipedia

 

thichcadansinhVesak là một danh từ trong ngôn ngữ Sinhalese để chỉ tháng thứ hai trong lịch của Hindu, là thời gian thánh thiện trong lịch của Phật giáo. Trong tiếng Phạn thì viết là Visakha, tại Ấn Độ được gọi là Visakah Puja hay là Buddha Purnima. Được gọi là Visakha Bucha tại Thái Lan, Waisak tại quốc gia Nam Dương, riêng tại Tích Lan và Mã Lai thì viết là Vesak (Wesak). Tương tựa ngày lễ như vậy ở Lào thì gọi là Vixakha Rouxa. Vesak - Đại lễ Tam Hợp là một lễ trọng đại của các quốc gia ở Đông Nam Á theo hệ phái Theravada.

 Quyết định chọn ngày lễ Tam Hợp như là ngày lễ Đức Phật Đản Sanh đã được nghi thức hoá tại hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới - World Fellowship of Buddhists (W.F.B.) diễn ra tại Tích Lan vào năm 1950, mặc dù ngày nay các ngày lễ Phật giáo trên thế giới đã có truyền thống từ hàng thế kỷ nay. Bản nghị quyết được chấp thuận tại đại Hội Thế Giới ghi như sau:

"Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới ghi nhận niềm hân hoan, cảm kích đã được Quốc Vương Nepal chính thức chọn ngày rằm Vesak làm ngày lễ của Nepal, đồng thời Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới cũng đạt lời thỉnh nguyện đến nguyên thủ của tất cả các quốc gia, dù có ít hay nhiều Phật tử, nên ban bố sắc lệnh chọn ngày Rằm tháng Năm là ngày lễ vinh danh Đức Phật là người đã đem đến biết bao lợi lạc cho nhân loại.”

Thật vậy, ngày lễ Tam Hợp là ngày Phật tử khắp nơi trên thế giới làm lễ tưởng niệm ba ngày quan trọng xảy ra trong cuộc đời Đức Phật đó là: Ngày Đức Phật Đản Sanh, ngày Đức Phật thành đạo, và ngày Đức Phật nhập Niết bàn. Phật Giáo đã phát triển nhiều nơi trên thế giới xuất phát từ Ấn Độ, giáo lý Phật Giáo đã hoà nhập vào nền văn hoá bản xứ ở những nơi có sự phát triển của Đạo Phật. Kết quả là nghệ thuật và văn hoá của Đạo Phật đã có muôn màu sắc khác nhau do sự hài hòa của Đạo Phật với văn hoá của địa phương. Sự tu tập theo nhiều chiều hướng phù hợp với văn hoá khác nhau đã được chấp nhận. Do vậy Vesak là một buổi lễ trọng đại đã được tổ chức theo nhiều hi`nh thức khác nhau trên thế giới, cho dù rằng hình thức hành trì theo nhiều cách khác nhau nhưng bản chất vẫn chỉ là một. Ngày thiêng liêng này là một ngày đại lễ của tôn giáo, chứ không phải là một ngày lễ hội thông thường. Trong ngày này tất cả các Phật tử mong mỏi được xác nhận một lần nữa về lòng tin của họ trong Phật Pháp và hướng đến đời sống tôn giáo thánh thiện. Đó là một ngày cho thiền định và cho tình thương và sự thân ái..

Ngày Phật Đản hay ngày Giáng sanh của Đức Phật, thường trùng vào tháng năm dương lịch. Đức Phật sinh nhằm ngày rằm, tháng Vesak, vào buổi sáng, trong thành Kapilavatthu (Ca-ty-la-vệ) gần biên thùy giữa đông bắc Ấn Độ và Népal. Thái tử Siddatha Gotama. Cha của ngài là Hoàng Đế Tịnh Phạn (Cuddhodana) (Gotama), và mẹ của Ngài là hoàng hậu Ma Gia (Mayadevi) họ Cồ Đàm (Gotama)Ngài tên là Siddhartha Gotama. Ngài mất mẹ rất sớm, sau khi sanh được 7 ngày.

Ngài giác ngộ được rằng vạn vật là vô thường, có rồi không, thành rồi bại, có sinh có tử, có gìa có bệnh. Ngài xuất gia, bỏ thế sự, năm 29 tuổi, từ bỏ cung- điện nguy nga và những sa hoa vật chất của một vị Hoàng tử, đi tìm con đường giải thoát cho nhân-loại. Sau sáu năm kiên tri` tu tập và vào ngày rằm, tháng Vesak, Ngài đắc quả Chánh Đẳng, Chánh Giác. Ngài đã thành Phật, lúc bấy giờ Ngài 35 tuổi. Suốt 45 năm sau đó Ngài đã đi hoằng pháp giáo hoá chúng sanh ra khỏi bờ mê bể khổ.

Đến năm Đức Phật thọ tám mươi tuổi. Ngài cảm thấy sức đã kiệt, Ngài trở về Kusinara, là một làng nhỏ, tại nơi đây Đức Phật đã nhập Niết bàn giữa hai câu long thọ (Sala), đúng vào ngày rằmg tháng Vesak.

Trong ngày đại lễ Vesak, những Phật tử thành tín tụ tập về các ngôi chùa từ lúc rạng đông để dự lễ, họ trương cao cờ Phật Giáo và tụng những bài kinh cầu nguyện Tam Bảo: Phật, Pháp và Tăng (những vị Thánh đệ tử của đức Phật). Những Phật tử có thể dâng hoa, đèn cầy và nhang đặt dưới chân các vị Thầy. Những bông hoa sẽ úa tàn trong thời gian ngắn, và những cây đèn cầy và nhang cũng sẽ tàn lụi trong thời gian ngắn, thì đời sống cũng giống như vậy, dễ bị suy tàn và tiêu diệt. Những Phật tử phát tâm thọ giới không sát sanh. Họ đã ăn chay lạt trong ngày này. Tại một vài quốc gia, đặc biệt là nước Tích Lan, đại lễ Vesak được tổ chức hai ngày, chính phủ đã ra lệnh đóng cửa tất cả những tiệm bán rượu và các nhà giết thú vật trong hai ngày đó. Người ta đã phóng sanh hàng ngàn chim chóc và các thú vật khác. Tuy nhiên một điều xin nhắc là tránh không phóng sanh chim chóc và thú vật tại các thành phố đông đúc, bởi vì sẽ làm hại các con thú những con không thể bay xa sau một thời gian dài bị nhốt, và chúng sẽ bị những kẻ buôn bán chim và thú vật bắt lại rồi lại đem bán cho các Phật tử tín thành khác. Nếu những con thú được phóng sanh ở những nơi đồng ruộng quang đãng thì chúng sẽ thật sự đạt được tự do. Cũng trong ngày đại lễ Vesak có nhiều Phật tử tín thành thọ Bát Quan Trai.

Để tỏ sự tôn kính đến Đức Phật. Ngài nhắc nhở chúng ta hướng đến đời sống tâm linh thánh thiện, phát triển tâm từ, thực hành tình thương và mang hoà bình và sự hoà thuận cho nhân loại.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 78252)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 80785)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 74759)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 51609)
Những lời Kinh tụng có linh nghiệm hay không? Sám hối có hết tội không? Làm sao để biết có sự linh nghiệm khi chúng ta tụng Kinh hoặc sám hối? Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại
(Xem: 152105)
Thời gian an cư là 16/6 ÂL đến 15/9 ÂL, còn gọi là Tiền An cư (purimika vassūpanāyika). Nhờ có sự an cư kiết hạ mà chư Tăng, Ni mới làm cho Phật pháp được sống còn, vì có an cư kiết hạ mà Giới, Định, Tuệ mới có điều kiện phát huy. Nơi nào còn Giới, Định, Tuệ, nơi đó mới còn Phật pháp
(Xem: 32119)
45 năm, 45 mùa an cư kiết hạ của Đức Thế Tôn đã trải qua. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại được nhưng những bước chân của Ngài và chư Tăng trên khắp nẻo đường để thuyết pháp tế độ chúng sanh vẫn lưu lại. Đó là hình ảnh đẹp, tấm gương sáng về một bậc vĩ nhân duy nhất trong tam giới này.
(Xem: 24716)
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu nhân, phàm ra thánh. Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được gọi là Appamannà (vô lượng). Gọi như vậy bởi vì Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn bao la, không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định.
(Xem: 21860)
Kinh văn Pāli có ý nghĩa rõ ràng, không phải là mật chú. Người đọc tụng các bài Kinh Pāli nếu hiểu được ý nghĩa thì tín tâm sẽ được hun đúc, trí tuệ sẽ được phát triển, và phước báu càng thêm tăng trưởng. Nhờ vậy thời công phu tụng Kinh sẽ được thành tựu oai lực trọn vẹn, không những có kết quả hộ trì trong thời hiện tại, mà còn là nhân duyên để không bị xu huớng theo tà kiến ngoại đạo, để được gặp Phật, rồi nhờ vào thiện pháp đã tích lũy mà được thoát khỏi các nỗi khổ đau, và thành tựu quả vị giải thoát không còn sanh tử luân hồi trong ngày vị lai
(Xem: 26630)
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy - Nam Tông, câu kệ lễ Phật "Namo Tassa bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa" (phiên âm theo tiếng Việt: Ná-mô tá-sá phá-gá-vá-tô á-rá-há-tô sâm-ma sâm-bút-thá-sá) được dịch nghĩa theo kinh tụng Phật giáo Nam tông Việt Nam là "Con đem hết lòng thành kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy"
(Xem: 22856)
12 nhân duyên sanh tử luân hồi được hình thành hay cụ thể hoá trong vòng bánh xe luân hồi. Sau này đối với bên Hán học bên Bắc Tông cụ thể là HT Minh Châu dịch là Duyên Khởi và sau này đối với Ngài Tịnh Sự thì đôi khi Ngài dịch là Duyên Sinh, đôi khi Ngài dịch là Liên Quan Tương Sinh, rồi sau cuối cùng của đời Ngài dịch là Y Tương Sinh
(Xem: 21842)
Sau ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày kết thúc an cư mùa mưa, chư Tăng phải hội lại tại trú xứ mà mình nhập hạ để làm lễ tự tứ (pavāraṇā). Ngày Tự tứ có thể thực hiện vào ngày rằm tháng 9, cuối tháng 10 hoặc là trễ lắm là vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, nghĩa là phải làm lễ tự tứ trong thời gian mùa mưa, không được quá mùa mưa. Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu hay nói cách khác là sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ khưu đương sự thấy lỗi của mình mà sửa sai và hoàn thiện bản thân.
(Xem: 19702)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
(Xem: 24862)
Đây là lễ hội hàng năm duy nhất của Phật giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế. Đối với những người dân theo Phật giáo Nguyên thủy, đại lễ dâng y kathina mang một ý nghĩa hết sức to lớn, vừa thể hiện thiện tâm của người phật tử đối với việc hộ trì tăng đoàn, vừa tạo nên niềm vui lớn trong mùa lễ hội cho người phật tử tại gia, đồng thời đại lễ dâng y cũng còn nhắc nhở cho tứ chúng, cả hàng phật tử xuất gia và tại gia, luôn nhớ về và trân trọng tấm lòng của đàn tín.
(Xem: 92670)
Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á.
(Xem: 30163)
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần. Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng
(Xem: 20443)
Đó không phải chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa học. Theo cách dùng thông thường, từ mindfulness trong tiếng Anh có ý nghĩa đơn giản là biết, hay lưu ý. Sati có ý nghĩa phong phú hơn, vì thế những ai muốn thực hành thiền Phật giáo cần phải hiểu rõ từ này và những từ liên quan khác dựa trên những văn liệu có thẩm quyền nhất có thể có được. Nếu không, thiền Phật giáo sẽ nhanh chóng phát triển thành một loại tư tưởng “đây và bây giờ” hồ đồ, mà nơi đó, sự thâm sâu và phong phú của những truyền thống thiền Phật giáo siêu việt sẽ bị mai một.
(Xem: 36686)
Có một hành giả học giả (vì biết vị này có ngồi thiền và cũng có nghiên cứu Kinh điển) làm research cho biết rằng: Ở bản dịch Trung Bộ Kinh có tới 232 chữ chánh niệm, còn chữ sammāsati (23) sammāsatiyā (3) sammāsatiṃ (2) sammāsatissa (2), chỉ gặp có 30 lần. Cũng như đã gặp ở 1 đề tài gần đây về chữ satimā (được dịch là “chánh niệm”, thay vì CÓ NIỆM. khiến số lượng các chữ “chánh niệm” nhiều hơn đến 202 lần. Trong ngôn ngữ thường ngày hình như chữ “chánh niệm” được sử dụng cũng nhiều, ví dụ như vị Trụ Trì của Sư ngày xưa thường hay nhắc nhở rằng: “Mấy Sư phải có chánh niệm một chút.” Vậy nên hiểu NIỆM VÀ CHÁNH NIỆM như thế nào đây ?
(Xem: 105012)
Tỉnh thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức, ngay cả trong lúc thở, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v. Mục đích của sự chú tâm là kiểm soát và làm lắng dịu tâm. Đây là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái mình muốn.
(Xem: 101798)
Phương pháp tu thiền vipassana là con đường dẫn đến giải thoát mọi ràng buộc khổ đau; nó đoạn trừ tham, sân, si là nguyên nhân của mọi khổ đau. Hành giả vipassana tu tập để dời đi, một cách tuần tự, căn nguyên của khổ và thoát ly sự đen tối của những căng thẳng từ trước để dẫn đến cuộc sống sung túc, lành mạnh và hạnh phúc
(Xem: 26762)
Là những hành giả thiền Quán, quý vị cần phải hiểu rõ ràng và chính xác sự khác biệt giữa Khái niệm và Thực tại, vì chỉ một trong hai điều này là đối tượng của thiền Minh sát (Vipassana).