(Xem: 1506)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1861)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

01-Đạo Phật có phải là một tôn giáo không?

16 Tháng Hai 201412:00 SA(Xem: 18513)

Như một người đang đi trong khu rừng tìm thấy con đường xưa có in dấu chân của những người đi trước; và đi theo con đường đó, người ấy tìm đến một đô thị cổ với những khu vườn, lùm cây, và hồ nước; và đô thị đó được xây dựng lại để trở nên phồn vinh và sung túc; Cũng thế ấy, Ta đã tìm thấy con đường xưa có in dấu chân của những đấng giác ngộ từ nhiều kiếp trước.

Đó là Con Đường Thánh Thiện Có Tám Chi Phần hay Bát Chánh Đạo; Đó là Chánh Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mệnh, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm, và Chánh Định. Ta đã đi theo con đường ấy, và trên đường đi, Ta đã hoàn toàn thấy và hiểu được sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và hiểu được sự bắt đầu của sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và hiểu được sự chấm dứt của sự già và sự chết; Ta đã hoàn toàn thấy và hiểu được con đường dẫn đến sự chấm dứt của sự già và sự chết.

-- Kinh Tương Ưng, Phẩm 65 Nidana Vagga

 

PHẦN I - TIẾP CẬN VỚI PHÁP

Chương 1
ĐẠO PHẬT CÓ PHẢI LÀ MỘT TÔN GIÁO KHÔNG?


Chúng ta thường dễ dãi cho là mình đã biết nhiều về tôn giáo vì ảnh hưởng của tôn giáo thấm rất sâu vào đời sống văn hóa của chúng ta. Tuy nhiên, nhín chút thì giờ để quán tưởng về mục đích và mục tiêu thật sự của tôn giáo vẫn là điều hữu ích.

Nhiều người thường xem tôn giáo là niềm tin vào một Đấng Thượng Đế hay những vị thần linh và từ đó, họ cho rằng bất cứ tôn giáo nào chủ trương tin vào thần thánh, hay nói khác đi, có quan điểm hữu thần, mới thật sự là tôn giáo. Vì thế, các tôn giáo hửu thần thường cho đạo Phật là đạo vô thần hay thậm chí không phải là tôn giáo. Họ xem Đạo Phật chỉ là một khoa triết học hay tâm lý học vì đạo Phật không chủ trương tin vào thần linh hay thượng đế. Đạo Phật không dựa trên một lý thuyết siêu hình hay một giáo điều nào đó mà chỉ dựa trên một kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại -- đó là sự đau khổ. Tư tưởng nền tảng của Đạo Phật là qua việc quán niệm, suy tưởng và hiểu biết về kinh nghiệm khổ đau chung đó, con người có thể vượt lên trên những ảo tưởng tâm lý đã tạo nên chính sự khổ đau của họ.

Từ "tôn giáo" hay "religion" có gốc từ tiếng La tinh "religio" có nghĩa là "mối liên hệ", "sự nối kết" hay "sự kết hợp." Nó hàm ý về quan hệ giữa con người với một đối tượng thiêng liêng và ảnh hưởng bao trùm của quan hệ nầy trên toàn bộ nhân cách của người đó. Để trở thành một người thật sự "tôn giáo", bạn phải tìm cầu và thiết lập quan hệ với một đối tượng thiêng liêng, hay một thực tại tuyệt đối, dâng hiến đời mình và sống trọn vẹn với quan hệ đó cho đến lúc bạn đạt được sự hiểu biết tối thượng. Tất cả tôn giáo đều nói về "sự giải thoát" và "sự cứu rỗi." Những danh từ đại loại như thế nhằm truyền đạt ý nghĩa về sự tự do và giải thoát khỏi những mê lầm và ảo tưởng tâm lý, về sự tự do tuyệt đối và viên mãn, và về sự hiểu biết toàn bộ thực tại tuyệt đối. Trong đạo Phật, chúng ta gọi đó là sự giác ngộ.

TÌM HIỂU BẢN CHẤT CỦA KHỔ ĐAU

Đạo Phật là đạo quán niệm và suy tưởng về sự khổ đau vì đó là kinh nghiệm chung của toàn thể nhân loại. Trong đạo Phật, khổ đau không nhất thiết phải đến từ một thảm kịch lớn lao hay một nỗi bất hạnh kinh hoàng. Nó chỉ đơn giản là tình cảm bất toại nguyện, không hạnh phúc và thất vọng mà tất cả chúng ta đều trải qua nhiều lần trong đời. Khổ đau là kinh nghiệm chung của cả nam lẫn nữ, cả người giàu lẫn người nghèo. Dù chúng ta khác biệt về màu da và dân tộc, khổ đau vẫn là sợi dây chung ràng buộc và nối kết chúng ta lại với nhau.

Vì thế trong Đạo Phật, khổ đau được xem là một sự thật thánh thiện. Nó không phải là sự thật tuyệt đối. Khi Đức Phật thuyết giảng về khổ đau như một sự thật thánh thiện, Ngài không có ý muốn khuyên chúng ta bám vào kinh nghiệm khổ đau và mù quáng tin vào đó như một sự thật tuyệt đối. Trái lại, Ngài dạy chúng ta dùng kinh nghiệm khổ đau như một chân lý thánh thiện để quán niệm và suy tưởng. Chúng ta quán tưởng: Khổ đau là gì? Thực chất của nó là gì? Tại sao ta đau khổ? Đau khổ về cái gì?

Hiểu biết được bản chất của khổ đau là một cái nhìn trí tuệ quan trọng. Với kinh nghiệm riêng của mình, bạn hãy thử suy nghĩ. Trong đời, bạn đã dành bao nhiêu thời gian để tránh né hoặc chạy trốn những điều phiền lòng hay những gì bạn chán ghét? Xã hội mà chúng ta đang sống đã bỏ ra bao công sức để đi tìm hạnh phúc và lạc thú ở đời và trốn tránh những điều khó chịu và những gì chúng ta không ưa thích? Chúng ta có thể cảm thấy hạnh phúc trong một giây phút nào đó, say mê miệt mài trong một khoảnh khắc nào đó, đạt được những điều mà chúng ta không cho là khổ đau, thí dụ như một tình cảm sôi nổi và hứng thú, một mối tình lãng mạn, một cuộc phiêu lưu kỳ thú, những cảm giác êm dịu của thân xác, được ăn những món ngon vật lạ, nghe tiếng nhạc êm dịu, hay nhiều thứ khác nữa. Nhưng thật ra, chúng ta làm tất cả những điều nầy chỉ là để tránh xa và xua đuổi những sợ hãi, bất mãn, lo âu, và phiền muộn luôn là bóng ma lãng vãng trong tâm thức chưa giác ngộ của chúng ta. Ngày nào mà con người còn sống trong vô minh, không chịu nhìn thẳng vào khổ đau và tìm hiểu bản chất của khổ đau thì họ sẽ tiếp tục bị ám ảnh và không ngừng lo âu, sợ hãi về chính cuộc sống của mình.

Để hiểu được khổ đau, chúng ta phải chấp nhận thay vì tìm cách xua đuổi và chối bỏ khổ đau, hay đổ lỗi cho người khác. Chúng ta sẽ nhận ra rằng khổ đau có nguyên nhân của nó và rằng sự xuất hiện của khổ đau tùy thuộc vào một số điều kiện. Đó là những điều kiện tâm lý do chúng ta tự tạo hay do nếp sống văn hóa và gia đình huân tập. Kinh nghiệm sống và quá trình huân tập tâm lý nầy bắt đầu ngay từ lúc chúng ta lọt lòng mẹ. Gia đình, tập thể, cộng đồng, trường học, tất cả những định chế này đã gieo trồng và nuôi dưỡng trong tâm chúng ta những định kiến, thiên kiến, và quan điểm -- cả thiện lẫn bất thiện.

Giờ đây, nếu chúng ta không thật sự nhìn thẳng vào những điều kiện tâm lý nầy, xem xét và tìm hiểu bản chất thật sự của chúng, chắc chắn chúng ta sẽ tiếp tục bị chúng sai khiến, chúng ta sẽ hiểu và diễn giải kinh nghiệm sống của mình qua những cái nhìn lệch lạc. Nhưng nếu chúng ta xem xét và tìm hiểu chính bản chất của sự đau khổ, chúng ta sẽ bắt đầu làm quen với những tình cảm như kinh sợ, ham muốn và khát khao, và rồi chúng ta sẽ khám phá ra rằng bản chất thật của chúng ta không phải là những ham muốn hay sợ hãi nầy. Bản chất thật của chúng ta hoàn toàn không tùy thuộc vào bất cứ điều kiện nào.

PHÁP HỮU VI, PHÁP VÔ VI, VÀ Ý THỨC CON NGƯỜI

Các tôn giáo thường lấy quan hệ giữa thế giới hữu vi, còn được gọi là thế giới duyên sinh hay thế giới bị điều kiện và thế giới vô vi, còn được gọi là thế giới vô sinh hay thế giới không bị điều kiện làm đối tượng chính. Điều nầy có nghĩa là nếu đi vào tận cốt lõi của bất cứ tôn giáo nào, bạn sẽ thấy là tất cả đều đặt trọng tâm vào điểm kết thúc của cuộc sống hay sự ngừng nghỉ của thế giới hữu vi. Thấy được sự chấm dứt của thế giới hữu vi cũng là điểm bắt đầu của một quá trình chứng ngộ và hiểu biết về thế giới vô vi. Thuật ngữ đạo Phật có ghi: " Có pháp vô vi; và nếu không có pháp vô vi, thì cũng không có pháp hữu vi." Pháp hữu vi sinh và diệt trong pháp vô vi, và qua đó, chúng ta có thể thấy được quan hệ giữa thế giới hữu vi và thế giới vô vi. Đã sinh ra làm người, chúng ta phải chịu sự chi phối của những giới hạn và điều kiện của thế giới dựa trên giác quan. Sự có mặt của chúng ta trên cõi đời nầy có nghĩa là chúng ta đã thoát sinh từ thế giới vô vi và thị hiện dưới dạng một sắc thân riêng biệt và tùy thuộc vào nhiều điều kiện. Và có sắc thân con người nầy cũng bao hàm ý nghĩa là chúng ta có ý thức.

Ý thức luôn xác định quan hệ giữa chủ thể và khách thể, và trong Đạo Phật, ý thức được xem là chức năng phân biệt của tâm. Ngay bây giờ, bạn hãy suy nghĩ về điều nầy. Bạn đang ngồi đây và lắng nghe những lời tôi đang giảng. Đây là kinh nghiệm của ý thức. Bạn có thể cảm thấy hơi nóng trong phòng, bạn có thể nhìn quang cảnh chung quanh, bạn có thể nghe những âm thanh. Tất cả điều nầy có nghĩa là bạn đã được sinh ra trong sắc thân con người và từ đây cho đến cuối đời, ngày nào mà sắc thân nầy còn sống, nó sẽ tiếp tục ghi nhận những cảm thọ và ý thức sẽ tiếp tục sinh khởi trong tâm. Ý thức luôn cho ta cái ấn tượng là có chủ thể và khách thể, vì thế, nếu chúng ta không chịu khó quan sát và tìm hiểu bản chất thật sự của sự vật, chúng ta sẽ bị kẹt trong cái nhìn nhị nguyên, cho "sắc thân nầy là của tôi, cảm thọ nầy là của tôi, ý thức nầy là của tôi."

Do đó, thái độ nhị nguyên bắt nguồn từ ý thức. Và để rồi, với khả năng hiểu biết, ghi nhớ và nhận thức của tâm, chúng ta xây dựng cho mình một cá tính hay nhân cách. Thỉnh thoảng chúng ta rất yêu thích và thú vị về nhân cách của mình. Nhưng đôi khi chúng ta lại sợ hãi một cách vô lý, nhìn sai lệch và lo âu về chính con người của mình.

ƯỚC VỌNG CỦA TÂM THỨC CON NGƯỜI

Hiện nay, trong các xã hội có đời sống vật chất phát triển cao, phần lớn các nỗi đau khổ và tuyệt vọng của con người đều bắt nguồn từ sự kiện là chúng ta -- những con người hiện đại -- thường không thể hướng đến với một cái gì cao hơn ngoài cái trái đất mà chúng ta đang sống và sắc thân làm người nầy. Xã hội hiện đại không thật sự khuyến khích con người ước mơ và hướng về sự hiểu biết tối thượng hay quả vị giác ngộ. Ngược lại, hình như người ta thường kiềm chế và ngăn cản ước nguyện nầy.

Vì không liên hệ được với một sự thật cao hơn cuộc đời bình thường nầy, cuộc sống của chúng ta trở thành vô nghĩa. Nếu chúng ta không thể liên hệ được với một cái gì khác hơn ngoài những kinh nghiệm của một thân người sống trên trái đất, trong cái vũ trụ đầy bí ẩn nầy, thì tất cả ý nghĩa còn lại của cuộc sống chỉ là để sinh ra rồi chết. Dĩ nhiên, những câu hỏi kế tiếp sẽ là mục đích của cuộc sống là gì? Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Tại sao chúng ta phải quan tâm vấn đề nầy? Tại sao sống phải có mục đích? Tại sao cuộc đời phải có ý nghĩa? Tại sao chúng ta muốn cuộc sống có ý nghĩa? Tại sao chúng ta tạo ra những ngôn ngữ, triết học và tôn giáo? Tại sao chúng ta mong mỏi hay ước mơ về sự giác ngộ tối thượng nếu tất cả những gì đang có hay có thể có chỉ là những kinh nghiệm sống dựa trên cái nhìn của tự ngã? Phải chăng việc chúng ta được sinh ra trong sắc thân làm người nầy, với những giới hạn của nó, chỉ là một điều ngẫu nhiên trong cái hệ thống hành tinh vượt ngoài tầm kiểm soát của chúng ta?

Chúng ta hoàn toàn không thể nào hiểu tường tận cái vũ trụ mà chúng ta đang sống. Chúng ta chỉ có thể đặt câu hỏi và tìm hiểu về nó. Chúng ta có thể trực tiếp cảm nhận và ngắm nhìn vũ trụ, nhưng chúng ta không thể nào thu nó nhỏ lại thành viên thuốc hay hạt đậu. Đầu óc của chúng ta cũng không thể ghi nhận hết được nó. Vì thế, những người có tư tưởng duy vật thường khuyên chúng ta không nên đặt ra những câu hỏi có tính tâm linh và triết học vừa nêu trên. Ngược lại, họ thúc đẩy chúng ta diễn giải tất cả kinh nghiệm của cuộc đời nầy bằng lô gích và lý luận, dựa trên những giá trị của chủ nghĩa duy vật và khoa học thực nghiệm.

KINH NGHIỆM TỈNH THỨC

Đạo Phật chỉ cho chúng ta thấy cái kinh nghiệm chung và phổ biến của tất cả chúng sinh. Đó là sự đau khổ. Đạo Phật cũng trình bày cho chúng ta con đường đi ra khỏi khổ đau. Khổ đau là kinh nghiệm có sức mạnh làm thức tỉnh con người. Khi đau khổ, chúng ta sẽ bắt đầu đặt câu hỏi. Chúng ta sẽ đi tìm, xem xét, nghi vấn và thử tìm giải đáp.

Trong câu chuyện của Thái tử Siđdattha (tên của Đức Phật trước khi Ngài giác ngộ), chúng ta được kể rằng khi còn là thái tử, Ngài sống trong khung cảnh chỉ có dục lạc, sắc đẹp, tiện nghi, và ân sủng -- nói khác đi, Ngài có tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời. Và rồi, như câu chuyện tiếp tục kể, vào lúc hai mươi chín tuổi, Thái tử Siđhattha rời cung điện hoàng gia đi tham quan ngoại thành, và trong chuyến đi nầy, Ngài gặp và biết được những sứ giả hiện thân của tuổi già, bệnh tật, và sự chết.

Ngày nay, có người sẽ nói là Đức Phật chắc chắn phải biết về tuổi già, bệnh tật, và sự chết trước năm Ngài hai mươi chín tuổi. Theo cách suy nghĩ của chúng ta ngày nay, rõ ràng là từ lúc còn nhỏ, ai cũng biết là mọi người đều lớn lên, già, bịnh, rồi chết. Tuy nhiên, trong trường hợp của Đức Phật, Thái tử Siđattha đã bị cách ly khỏi những kinh nghiệm này từ lúc còn nhỏ, và mãi cho đến lúc Ngài tiếp cận trực tiếp với những kinh nghiệm trên, Ngài mới thật sự bừng ngộ.

Cũng tương tự như thế, chúng ta có thể sống cả đời và cho rằng mọi việc đều sẽ ổn thỏa. Ngay cả những đau khổ hay thất vọng thường gặp hàng ngày cũng không nhất thiết làm chúng ta thức tỉnh. Chúng ta có thể suy nghĩ phớt qua về chúng. Nhưng chung quanh chúng ta có quá nhiều điều kiện và yếu tố lôi kéo và hướng chúng ta ra bên ngoài nên chúng ta không còn màng đến việc tìm hiểu và để ý đến những nỗi đau thường gặp trong đời nữa. Phải chăng đổ lỗi cho người khác đã gây đau khổ cho chúng ta là một việc dễ làm? Chúng ta có thể đổ lỗi cho nhà nước, cha mẹ, bạn bè hay kẻ thù của chúng ta và cho những thế lực từ bên ngoài. Nhưng chúng ta chỉ bừng tỉnh với cái đau của tuổi già, bệnh tật, và sự chết khi chúng ta biết là những điều này sắp xảy đến cho chúng ta. Và sự bừng tỉnh này đến, không phải chỉ như một khái niệm trừu tượng mà là một tình cảm thật sự trào dâng lên từ chính gan ruột của chúng ta, là một cái nhìn trí tuệ thật sự rằng đây là những gì xảy đến cho tất cả mọi người. Những gì sinh ra sẽ già, suy thoái, rồi chết.

Sứ giả thứ tư mà Đức Phật gặp trong chuyến tham quan ngoại thành là một vị sa môn. Sa môn là một tu sĩ hay một người tầm đạo, một người dâng hiến đời mình cho lý tưởng đi tìm sự thật tuyệt đối. Trong câu chuyện về cuộc đời Đức Phật, vị Sa môn được mô tả như một tu sĩ cạo đầu và mặc y.

Trong đạo Phật, bốn vị sứ giả nầy tượng trưng cho sự Già, Bịnh, Chết, và Giải thoát . Nó tượng trưng cho sự thức tỉnh của tâm thức con người về một lý tưởng tôn giáo, về ước mơ nhận thức được sự thật tuyệt đối, và về ước vọng được tự do và giải thoát khỏi tất cả si mê và đau khổ tiềm ẩn trong tất cả trái tim của nhân loại.

VIỆC TU TẬP TRONG ĐẠO PHẬT

Ngày nay, nhiều người thường mô tả việc hành thiền trong đạo Phật như là sự rời bỏ cuộc đời nầy để phát triển một trạng thái tâm thức vắng lặng và tập trung cao độ, trong một khung cảnh được lựa chọn, điều chỉnh, và kiểm soát cẩn thận. Vì thế ở Mỹ và một số nước khác nơi mà việc hành thiền ngày càng phổ biến, người ta quyết đoán rằng hành thiền là để đạt được một trạng thái vắng lặng và tập trung của tâm trong đó kỹ thuật thiền và việc kiểm soát thân tâm là rất quan trọng.

Kỹ thuật hành thiền là tốt và cần thiết. Nhưng khi đã phát huy được một số năng lực quán chiếu thì bạn không cần, hoặc thậm chí không nên mất thì giờ tinh luyện bằng cách đè nén tất cả những gì thô thiển hay khó chịu xảy ra trong tâm. Trái lại, bạn nên triển khai và phát huy tối đa năng lực quán chiếu và nhạy cảm của tâm để biết rằng, ngay bây giờ, những điều kiện mà bạn nhận thức được -- hay nói khác đi, những gì bạn đang cảm xúc, thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm, và suy nghĩ -- đều là vô thường.

Vô thường là đặc tính chung của tất cả hiện tượng, cho dù đó là niềm tin vào Thượng Đế hay những hồi tưởng về quá khứ, những tư tưởng sân hận hay tình cảm thương mến, cao hay thấp, thô thiển hay vi tế, xấu hay tốt, dễ chịu hay đau đớn. Bất kỳ tính chất của nó là gì, bạn đang quán sát nó như một sự vật khách quan. Tất cả những gì bắt đầu rồi sẽ chấm dứt. Đó là vô thường. Và bây giờ, như một phương pháp hành trì và quán niêïm về cuộc sống, việc khai mở tâm thức sẽ giúp bạn nhìn thấy rõ tình cảm và tư tưởng, bản chất của sắc thân, cùng với những đối tượng giác quan của bạn.

Chúng ta hãy trở lại vấn đề ý thức. Khoa học hiện đại hay khoa học thực nghiệm xem thế giới vật chất mà chúng ta thấy, nghe và cảm nhận được mới là thế giới có thật. Vì thế, thế giới khách quan nầy được xem là một thực tại. Chúng ta có thể trông thấy thế giới vật chất, đồng ý với nhau về tính chất của nó, nghe, ngửi, nếm, đụng chạm nó, hay thậm chí đồng ý với nhau về cảm nhận hay tên gọi mà chúng ta dành cho nó. Nhưng phải chăng cảm nhận về thế giới nầy cũng chỉ là một điều kiện khách quan được sinh khởi trong tâm thức? Vì ý thức tạo ra cảm tưởng là có chủ thể và khách thể nên khi quan sát về thế giới vật chất, chúng ta nghĩ là chúng ta đang quan sát một cái gì đó tồn tại bên ngoài và biệt lập với chúng ta.

Trong khi giảng dạy giáo lý, Đức Phật đã đẩy quan hệ chủ thể và khách thể đến điểm tận cùng của nó. Ngài dạy rằng tất cả cảm nhận, tất cả trạng thái khởi lên trong tâm thức, tất cả tình cảm, tất cả cảm xúc, tất cả đối tượng thế giới vật chất mà chúng ta nghe và thấy đều thay đổi. Ngài nói, "Những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt." Và Đức Phật luôn nhắc đi nhắc lại rằng đây là một cái nhìn trí tuệ rất quan trọng. Nó giải thoát chúng ta khỏi tất cả những mê lầm. Những gì có sự bắt đầu sẽ có sự chấm dứt.

Ý thức cũng có thể được định nghĩa là khả năng thấy biết hay kinh nghiệm của sự thấy biết. Chủ thể thấy biết khách thể. Khi nhìn vào những sự vật và cho chúng tên gọi, chúng ta nghĩ là chúng ta biết về chúng. Chúng ta nghĩ là mình biết người nầy hay người nọ vì chúng ta biết tên của họ hay ghi nhớ họ trong ký ức. Chúng ta nghĩ là chúng ta biết tất cả mọi việc trên đời vì chúng ta có thể ghi nhớ được chúng. Nhưng phần lớn, khả năng thấy biết của chúng ta luôn bị giới hạn -- chúng ta chỉ có thể biết "về" chứ không biết trực tiếp bản chất của sự vật.

Tu tập trong đạo Phật là an trú trong sự tỉnh giác thanh tịnh nơi đó có một loại hiểu biết đặc biệt mà chúng ta gọi là trí tuệ, hay cái thấy biết trực tiếp. Đó là một loại tri giác không dựa trên cảm nhận, tư duy, lập trường, hay học thuyết, mà chỉ có thể có qua sự chánh niệm và tỉnh giác. Chánh niệm và tỉnh giác là khả năng không bị dính mắc vào bất cứ đối tượng nào, dù đó là vật chất hay tinh thần. Khi không bị dính mắc, tâm sẽ ở trong trạng thái tỉnh thức, hiểu biết, và trong sáng thuần tịnh. Đó chính là tỉnh giác và chánh niệm. Tâm tỉnh giác là tâm thanh tịnh, dễ tiếp thu, và nhạy cảm với những gì xảy ra chung quanh. Nó không còn là cái tâm bị giới hạn, quy định và chỉ biết phản ứng lại với những lạc thú và đau đớn, lời khen và tiếng chê, hạnh phúc và đau khổ.

Thí dụ nếu bây giờ bạn đang nổi giận, bạn có thể để cho cơn giận khống chế mình. Bạn có thể cho mình giận là đúng và tiếp tục nuôi dưỡng tình cảm đặc thù đó, hoặc là bạn có thể đè nén cơn giận và tìm cách tiêu diệt nó vì bạn sợ hoặc không thích sự giận dỗi. Tuy nhiên, thay vì chọn một trong hai cách trên, bạn có thể quan sát cơn giận như một đối tượng khách quan. Và nếu cơn giận là bản ngã thật sự của bạn, thì bạn không thể nào quan sát nó được; đây chính là ý nghĩa của những gì mà tôi gọi là "quán tưởng". Cái gì có thể quan sát và suy tưởng về tình cảm giận? Cái gì có thể theo dõi và xem xét tình cảm, sự nóng lạnh của thân thể, hay những trạng thái của tâm? Cái có khả năng quan sát và xem xét nầy chính là tâm quán tưởng hay tâm chánh niệm và tỉnh giác. Tâm của con người là tâm có khả năng quán tưởng.

SỰ HIỂN LỘ CỦA CHÂN LÝ CHUNG CHO TẤT CẢ TÔN GIÁO

Chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tôi là ai? Tại sao tôi sinh ra trên đời nầy? Thật ra đời sống là gì? Điều gì sẽ xảy ra khi tôi chết ? Cuộc sống nầy có mục đích hay ý nghĩa gì không? Vì chúng ta thường cho là chỉ có người khác mới có thể trả lời những câu hỏi nầy còn bản thân chúng ta thì mù tịt, nên chúng ta thường đi tìm lời giải đáp từ bên ngoài thay vì tìm cách tự khai mở tâm thức của mình và kiên nhẫn chánh niệm nhìn sự thật hiển lộ. Qua việc chánh niệm và tỉnh giác thật sự, chân lý sẽ được hiển bày. Và sự hiển lộ chân lý nầy chính là sự giác ngộ về tâm linh. Khi chúng ta dâng hiến đời mình cho một lý tưởng thánh thiện và sống trọn vẹn trong đó, chúng ta tạo điều kiện cho chân lý hiển lộ và trí tuệ phát sinh. Đây là trí tuệ sâu sắc và thật sự có khả năng soi sáng vào bản chất của sự vật. Chân lý hiển lộ không thể diễn tả bằng lời. Ngôn ngữ không đủ khả năng diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ. Chính vì thế mà kinh nghiệm chứng ngộ có thể rất khác nhau. Ngôn từ và cách thức diễn đạt kinh nghiệm chứng ngộ là thay đổi không lường.

Vì thế khi diễn tả bằng lời, kinh nghiệm chứng ngộ của người Phật tử rất là Phật giáo, của người Ky tô giáo rất là Ky tô giáo, và điều nầy cũng hợp lý thôi. Không có gì sai trái cả. Nhưng chúng ta cần chấp nhận giới hạn của quy ước ngôn ngữ. Chúng ta cần hiểu rằng ngôn ngữ không phải là sự thật tuyệt đối; nó là một cố gắng của con người để truyền đạt cái thực tại không thể diễn đạt bằng lời nầy đến người khác.

Theo dõi những người tầm đạo ngày nay là một điều thú vị. Ở một nước như Anh nơi mà phần đông dân chúng là Ky tô giáo giờ đây lại trở thành đa tôn giáo. Tại đất nước nầy, tín đồ của những tôn giáo khác nhau đã nhiều lần tìm cách gặp gỡ và cố gắng tìm hiểu về đức tin của nhau. Chúng ta có thể dừng lại ở mức độ đơn giản và chỉ cần biết là người Hồi giáo tin ở Đấng Allah, người Ky tô giáo tin ở Chúa Jesus Christ và người Phật tử tin ở Đức Phật Thích Ca. Nhưng điều mà tôi quan tâm ở đây là làm sao chúng ta có thể vượt lên trên những quy ước và tập tục tôn giáo để tiến đến sự hiểu biết thật sự hay sự hiểu biết sâu sắc về chân lý tuyệt đối. Và đây là cách nói của người theo đạo Phật.

Ngày nay chúng ta có dịp cùng nhau đi tìm chân lý chung cho tất cả tôn giáo; tất cả chúng ta có thể giúp nhau trong cuộc hành trình nầy. Hình như bây giờ là lúc mà việc tìm cách thay đổi đức tin của người khác hay tranh giành ảnh hưởng tôn giáo đã trở thành vô ích và vô giá trị. Thay vì tìm cách thay đổi đức tin của người khác, tôn giáo cho chúng ta cơ hội để thức tỉnh về bản chất thật sự của chúng ta, về sự tự do thật sự, lòng từ ái và bi mẫn. Đó là cách sống với tất cả nhạy cảm và khả năng tiếp thu hầu chúng ta có thể hân hoan và mở rộng con người của mình để tiếp cận và tiếp nhận những bí ẩn và kỳ diệu của vũ trụ trong suốt phần còn lại của cuộc đời.

*

* Câu hỏi: Đạo Phật có phải là một tôn giáo hay triết học chỉ tập trung nhìn vào nội tâm con người?

Trả lời: Mới thoạt nhìn thì hình như là như thế vì trong khi hành thiền, bạn ngồi xuống, nhắm mắt, và nhìn vào bên trong. Nhưng thật ra, hành thiền là để giúp bạn thấy và hiểu được bản chất của tất cả sự vật trên đời.

Như là con người, bạn đang sống trong một sắc thân rất mỏng manh và nhạy cảm. Thân xác nầy rất yếu ớt và tồn tại trong cái vũ trụ bao la mà chúng ta không thể nào hiểu hết được. Chúng ta thường ngộ nhận cho thế giới nầy là một cái gì đó tồn tại bên ngoài chúng ta. Khi suy nghĩ theo cách nầy, nghĩa là khi còn phân biệt "bên trong" và "bên ngoài", thì việc nhìn vào nội tâm hình như không quan trọng bằng nhìn ra bên ngoài. Cái thế giới bên trong mà bạn sắp đi vào hình như quá nhỏ bé so với cái vũ trụ bao la nằm bên ngoài.

Nhưng khi buông bỏ những nhận thức hay những trạng thái tâm, bạn sẽ có những cảm nhận rất mới lạ về vũ trụ nầy. Nó sẽ trở thành một cái gì đó khác hơn là cái bên ngoài được phân chia thành chủ thể và khách thể. Chúng ta không có từ ngữ nào khác để mô tả sự cảm nhận đó ngoại trừ từ "giác ngộ". Sự vận hành của máy thu thanh (radio) là thí dụ tốt nhất để chúng ta hiểu thêm về hiện tượng nầy. Thân thể chúng ta nhạy cảm giống như máy thu thanh và thu hình (television). Những gì đi qua thân và tâm sẽ được thể hiện lại tùy theo thái độ, nỗi lo sợ và lòng ham muốn riêng của chúng ta. Nhưng khi tâm chúng ta không còn bị ràng buộc bởi những thái độ và tình cảm nầy, thân chúng ta sẽ bắt đầu tiếp nhận những làn sóng khác -- làn sóng của trí tuệ và từ bi.

* Câu hỏi: Thế thì người Phật tử tin gì?

Trả lời: Đây là một câu hỏi thông thường nhưng không dễ trả lời. Nếu nói chúng tôi không có tín điều, người ta sẽ bảo là " Vậy là ông không tin gì hết." Và nếu nói: "Không, không phải vậy. Chúng tôi cũng không cho là không có gì hết," thì họ sẽ bảo là, "Vậy thì ông tin có một cái gì đó; có phải ông tin Thượng Đế không?" Và nếu trả lời là chúng tôi không thấy cần phải tin Thượng đế. Thì họ sẽ bảo, "Vậy là ông không tin có Thượng đế?" Và như thế, chúng ta cứ cãi qua cãi lại vì người đời thường cho là theo một tôn giáo thì phải tin vào một cái gì đó: tin ở giáo lý và thái độ hữu thần hay tin ở thái độ vô thần. Đây là hai thái cực của tâm thức con người -- một là tin vào sự vĩnh hằng, hai là tin vào sự diệt tận.

Tuy nhiên, bạn không thể dùng những khái niệm của các tôn giáo khác để hiểu đạo Phật. Chúng ta tiếp cận với Đạo Phật từ một góc độ khác. Chúng ta không muốn tin vào các tín điều hay giáo lý mà người khác bảo chúng ta phải tin. Chúng ta muốn tự mình đi tìm chân lý.

Chúng ta phải tìm ra được sự thật của các pháp. Nếu không, chúng ta sẽ chỉ là những chúng sinh lạc loài và bơ vơ trong vũ trụ đầy bí ẩn nầy, không thể nào hiểu được những gì xảy đến với chúng ta hay hiểu tại sao sự vật xảy ra như nó đang xảy ra. Có phải sự có mặt của chúng ta trên đời nầy chỉ là một sự tình cờ hay có một cái gì hơn thế nữa? Loài người cảm thấy rằng có một cái gì cao hơn và vượt lên trên cõi dục giới nầy. Ở các xã hội sơ khai và hiện đại, chúng ta bắt gặp tình cảm tôn giáo vận hành như một luồng năng lượng hướng đến một cái gì đó hay một cố gắng để vươn đến một cái gì cao hơn. Tất cả chúng ta đều nằm trong cái bí ẩn vô biên đó và chúng ta muốn tìm cách liên hệ và tiếp cận với nó.

Thế thì chúng ta phải làm gì trong tư thế của mình -- tư thế bị giam hãm trong tấm thân làm người nầy trong suốt sáu, bảy, tám, chín chục năm trời? Nếu có chân lý, chắc chắn chúng ta sẽ mở rộng, tiếp nhận, và hiểu được nó. Trái lại, nếu chúng ta cứ luôn sống trong ảo tưởng và mê lầm, thì kiếp người nầy quả thật là đáng buồn và không có mục đích. Nếu không có chân lý, cuộc đời nầy sẽ vô nghĩa và cho dù bạn làm gì đi nữa, cuộc sống vẫn không có giá trị gì hết. Mặc dù bạn có thể theo chủ nghĩa hư vô cho rằng cuộc đời nầy chẳng có nghĩa gì hết, nhưng phải chăng bạn vẫn không tin chắc về điều nầy? Những gì bạn có thể biết chắc ngay bây giờ là bạn không biết gì về cuộc đời nầy và đó là tình trạng hiện tại của bạn.

Phải chăng con người có khả năng hiểu được chân lý? Con người có trí thông minh. Con người có khuynh hướng đi tìm cái Thiện và cái Mỹ. Ai cũng muốn trốn tránh sự đau khổ và những điều xấu xa thấp hèn. Con người luôn ước vọng về một cái gì cao hơn. Chúng ta chán ghét chính bản thân mình khi chúng ta sống đời thấp hèn, trụy lạc và đáng ghê tởm. Chúng ta cảm thấy xấu hổ khi làm những điều xấu ác hay hẹp lượng và không muốn ai biết về những gì chúng ta làm. Nếu quả thật cuộc đời nầy là vô nghĩa thì chúng ta đâu cần phải xấu hổ? Chúng ta có thể làm bất cứ điều gì và chả cần để ý đến ai cả. Nhưng chúng ta vẫn cảm thấy là có những việc chúng ta làm là đáng chê trách hay thiếu sáng suốt nên chúng ta luôn tìm cách vượt lên trên những thôi thúc bản năng của mình.

Con người có trí thông minh; chúng ta có thể tư duy về những điều hay ho và cao siêu nhất. Đầu óc chúng ta có thể nghĩ ra những giải pháp tốt đẹp nhất. Những thể chế dân chủ, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản -- đây là kết quả của quá trình tư duy cao cấp nhất về những hình thức nhà nước chính đáng và công bằng nhất. Điều này không có nghĩa là nhà nước chúng ta đã đạt được mục tiêu lý tưởng nhưng họ đã có cố gắng. Chúng ta cũng biết thưởng ngoạn những gì tinh tế và đẹp đẽ: cái hay và đẹp trong âm nhạc, nghệ thuật, và văn chương. Tất cả điều này nói lên ước vọng của con người về một cái gì đẹp hơn và toàn thiện hơn. Chúng ta có thể ước mơ về một nhân sinh quan rộng lớn và phổ biến hơn: một trái đất, một hệ thống sinh thái, và một gia đình chung cho toàn nhân loại. Ngày nay, những nhận thức nầy ngày càng trở nên phổ biến. Về nhiều mặt, nhân loại ngày nay đang trở thành một đại gia đình: những gì xảy ra ở Mông Cổ hay Argentina (Nam Mỹ) đều ảnh hưởng đến toàn thế giới.

Chúng ta có thể mở rộng khả năng thấy biết của mình, từ cái nhìn cá nhân hạn hẹp trong đó chúng ta chỉ biết có mình đến cái nhìn toàn cầu. Với cái nhìn mới nầy, chúng ta mở rộng và tiếp nhận tất cả loài người vào trong gia đình của chúng ta thay vì chỉ có gia đình và quốc gia riêng của mình. Khi tâm thức được khai mở, nhận thức và tư tưởng chúng ta sẽ từ ái và bi mẫn hơn và vượt lên trên tình cảm cá nhân ích kỷ. Chúng ta sẽ không chỉ lo cho gia đình, tập thể, giai cấp, hay chủng tộc của chúng ta. Chúng ta sẽ mở rộng tâm thức để tiếp nhận tất cả loài người và rồi tất cả chúng sinh. Tâm chúng ta sẽ phủ trùm tất cả và trở thành vô biên.

-ooOoo-

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn