(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

08.1-Thiền (Jhāna) và các Thánh chứng.

02 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 12372)

CHƯƠNG 08.1

Thiền (Jhāna) và các Thánh chứng

Chương cuối cùng của cuốn sách được dành nói về các đạo quả siêu thế luôn luôn khởi lên như những công việc của thiền. Ở chương này chúng ta sẽ lấy các bậc thiền siêu thế này làm đối tượng cho sự khảo sát, khám phá chúng trong mối tương quan với các bậc thiền hiệp thế tương ứng cũng như trong tiến trình nhận thức mà chúng thuộc về. Kế đến, chúng ta sẽ xét tới hai thành tựu đặc biệt trong lãnh vực thiền mà chỉ có các hạng Thánh nhân đặc biệt mới có thể đạt đến được, đó là, Thánh quả định (phalasamāpatti) và Diệt tận định (nirodhasamāpatti). Tiếp sau đó là phần mô tả tổng quát về cách gọi các bậc Thánh nhân theo Phật Giáo Nguyên Thủy (Theravāda). Phần này được giới thiệu để xác định rõ mối liên hệ của họ đối với việc hoàn thành các thiền hiệp thế, hơn nữa nó cũng sẽ cho chúng ta có khả năng lượng định vị trí của thiền (jhāna) trong đời sống của bậc Alahán, một con người đã hoàn mãn về phương diện tinh thần theo đạo Phật nguyên thủy.

THIỀN SIÊU THẾ.

Các đạo và các quả siêu thế, như chúng ta đã thấy, nhất thiết sẽ khởi lên như các trạng thái tâm thiền (as states of jhànic ansciousness). Chúng khởi lên như những trạng thái tâm thiền là vì trong tự thân chúng chứa đựng các thiền chi đã được nâng cao đến một cường độ được xem là tương ứng với sức mạnh của các thiền chi trong các bậc thiền hiệp thế. Nhờ có các thiền chi mà các tâm (đạo, quả) này có thể gắn chặn trên đối tượng của chúng với sức mạnh của an chỉ định. Do đó, nếu lấy sức an trú của các thiền chi làm chuẩn mực, các đạo, quả có thể được kể như thuôc về hoặc sơ thiền, hoặc nhị thiền, hoặc tam thiền, hoặc tứ thiền thuộc hệ thống tứ thiền; hay sơ, nhị, tam, tứ hoặc ngũ thiền thuộc hệ thống ngũ thiền.

Căn bản cho việc công nhận có một loại thiền siêu thế này được truy nguyên ở các bản Kinh, đặc biệt là phần nói về chánh định thuộc “Đại niệm xứ Kinh” (DN. Kinh số 22). Ở đây, đức Phật định nghĩa chánh định trong Bát Thánh Đạo bằng công thức mô tả tứ thiền (sắc giới). Tuy nhiên, phải nói là ở Tạng Diệu Pháp mối liên hệ giữa các thiền, đạo và quả mới được phân giải rõ tuy với chi tiết khá rắc rối. Bộ Pháp Tụ (Dhammasangani), trong phần nói về các tâm thiện siêu thế (lokuttarakusalacitta) giải thích tỉ mỉ từng tâm đạo và tâm quả như những sự kiện của một bậc thiền này hoặc một bậc thiền khác trong bốn bậc thiền thuộc hệ thống thiền bốn bậc, rồi lại giải thích các đạo quả ấy như những sự kiện của một bậc thiền nào đó trong năm bậc thiền thuộc hệ thống thiền năm bậc.[1] Lối phân tích theo tiêu chuẩn của Vi Diệu Pháp thường dùng hệ thống thiền năm bậc, như đã được chính thức hóa trong bộ Vi Diệu Pháp Yếu Nghĩa, và đem phối hợp từng tâm đạo và tâm quả ấy với mỗi trong năm bậc thiền. Theo cách này, tám tâm siêu thế – tâm đạo và tâm quả thuộc Nhập Lưu, Nhất Lai, Bất Lai và Alahán – thành bốn mươi loại tâm siêu thế, vì lẽ bất cứ một đạo hoặc một quả nào cũng có thể khởi lên ở mức của một bậc thiền nào đó trong năm bậc thiền. Tuy nhiên, cũng nên nhớ rằng không có các đạo, quả liên hợp với các thiền chứng vô sắc, lý do là thiền siêu thế chỉ được giới thiệu trên quan điểm cấu trúc thiền chi của nó, mà về điều này, các thiền chứng vô sắc và đệ ngũ thiền hoàn toàn giống nhau, đó là chỉ có xả và nhất tâm.

Sự luận bàn đầy đủ nhất về các thiền siêu thế này có thể được tìm thấy trong phần giải thích các tâm thiện siêu thế của Bộ Pháp Tụ – một bộ Luận thuộc văn hệ Pāḷi có căn cứ chính xác, đọc phối hợp với phần chú giải về những đoạn giải thích này trong Chú giải Bộ Pháp Tụ (Atthaslini). Bộ Pháp Tụ mở đầu phần phân tích của nó về tâm thiện siêu thế thứ nhất bằng đoạn văn:

Vào lúc hành giả tu tập thiền siêu thế, pháp dẫn xuất, nhân đưa đến tịch diệt (các hữu), đoạn trừ thiên kiến, chứng đạt đệ nhất địa vức, ly các dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền.[2]

Sau đó Luận tiếp tục kể ra các danh pháp thiện khác có mặt vào lúc đắc chứng tâm ấy và định nghĩa từng danh pháp một bằng những từ đồng nghĩa đúng theo tiêu chuẩn của chúng. Chúng ta sẽ xét đến các phần tử phụ thuộc có ý nghĩa nhất của các thiền siêu thế này một cách ngắn gọn, nhưng trước hết để có những kiến thức hữu ích chúng ta hãy nhìn vào đoạn giới thiệu dưới ánh sáng giải thích của Chú giải.

Atthasālini giải thích chữ Lokuttara, chúng ta thường dịch là siêu thế với nghĩa “nó vượt qua thế gian, nó siêu xuất thế gian, nó đứng vững sau khi đã leo lên và vượt qua thế gian”. Chú giải giải thích tiếp đoạn “hành giả tu tập thiền” như vầy: “Hành giả tu tập, tạo ra, trau dồi thiền ở mức an chỉ kéo dài trong một sát na tâm duy nhất.” Sự giải thích này chỉ ra cho chúng ta thấy hai điều về tâm đạo. Thứ nhất, nó khởi lên như hình thức một bậc thiền ở mức an chỉ (appanā). Và thứ hai, sự an chỉ của đạo này chỉ kéo dài một sát na tâm duy nhất (ekacittakkhanika). Chữ “pháp dẫn xuất” (niyyānika) được giải thích với ý rằng thiền này đi ra (niyyāti) khỏi thế gian, đi ra khỏi vòng luân hồi. Đoạn “nhân dẫn đến tịch diệt’ (apacayagāmi) với nghĩa nó phá hủy và buông bỏ tiến trình tái sanh.

Đoạn cuối cùng này chỉ ra một sự khác biệt đáng chú ý giữa thiền hiệp thế và thiền siêu thế. Sự giải thích của Bộ Pháp Tụ về thiền hiệp thế bắt đầu bằng: “Vào lúc hành giả tu tập con đường (đạo lộ) để đạt đến sự tái sanh trong cõi sắc giới, ly dục, ly các bất thiện pháp, chứng và trú sơ thiền.” Như vậy, theo lời giải thích này, thiền hiệp thế chứng tỏ khả năng duy trì vòng luân hồi của nó và đó chỉ là một thiện nghiệp đưa đến một hiện hữu mới mà thôi. Trong khi đó thiền siêu thế thuộc Thánh đạo không thúc đẩy sự luân lưu này. Ngược lại, nó tạo ra sự buông bỏ và phá hủy chính cái vòng (luân hồi) ấy như Atthasālini trình bày với một tỷ dụ minh họa.

Các pháp thiện thuộc tam giới được nói là dẫn đến sự tích tập bởi vì chúng xây dựng và làm tăng thêm sự tử sanh trong vòng luân hồi. Nhưng thiền siêu thế này thì không. Ví như khi một người đã xây dựng xong một bức tường cao năm mét, một người khác có thể dùng cái búa lớn để phá hủy nó. Cũng vậy, thiền này đi đến sự phá hủy và buông bỏ tử sanh do các thiện nghiệp thuộc tam giới xây dựng bằng cách đoạn trừ các duyên gây ra chúng. Vì thế, nó được gọi là đưa đến sự phá hủy.[3]

Thiền siêu thế, theo Luận nói, được trau dồi “để loại trừ các thiên kiến”. đoạn này biểu thị phận sự của sơ đạo là để đoạn trừ các kiết sử. Thiền siêu thế thuộc Nhập lưu đạo (Sơ đạo), cắt đứt thân kiến và tất cả những kiến chấp khác xuất phát từ đó. Atthasālini lưu ý rằng, ở đây chúng ta nên hiểu Nhập lưu đạo không chỉ đoạn trừ các tà kiến mà còn đoạn trừ luôn các pháp bất thiện khác như hoài nghi, giới cấm thủ và những tham, sân, si nào đủ mạnh để dẫn đến khổ cảnh. Đoạn “chứng đắc đệ nhất địa vức”, Chú giải giải thích như có nghĩa là để đạt đến Nhập lưu Thánh quả.

Liền sau đoạn này, Bộ Pháp Tụ kể ra các pháp cấu thành có mặt trong thiền siêu thế với những định nghĩa của chúng. Phương pháp trình bày quá tỉ mỉ và chi tiết của tác phẩm Vi Diệu Pháp theo truyền thống Kinh Điển này đã được sắp xếp lại một cách hợp lý trong Vi Diệu Pháp Yếu Nghĩa (Abhidhammattha Sangaha). Bằng cách tránh những sự lập lại của cùng một pháp dưới những đầu đề khác nhau, bộ Vi Diệu Pháp yếu nghĩa đã quy định ba mươi sáu tâm sở cho tâm sơ thiền dù thuôc bất kỳ đạo, quả nào trong bốn Thánh đạo và bốn Thánh quả. Ba mươi sáu tâm sở này gồm bảy biến hành, sáu biệt cảnh, mười chín tịnh hảo biến hành, trí tuệ và ba tiết chế là chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng tâm sở. Hai tâm sở vô lượng bi và hỷ luôn luôn được loại khỏi đạo và quả.[4]

Như chúng ta đã thấy ở trên Vi Diệu Pháp Yếu Nghĩa quy định tâm sơ thiền hiệp thế ba mươi lăm tâm sở khả dĩ. Điều này dẫn đến một sự so sánh giữa các yếu tố cấu thành của hai tâm sơ thiền hiệp thế và siêu thế này. Trước hết chúng ta thấy rằng bi và hỷ có thể có mặt trong thiền hiệp thế nhưng không có ở siêu thế. Lý do đơn giản là các tâm sở ấy lấy hữu tình chúng sanh làm đối tượng, trong khi các đạo và quả thì đối tượng lại là Niết Bàn.[5] Thứ hai, chúng ta thấy rằng ba tiết chế tâm sở đồng có mặt trong các thiền siêu thế nhưng không có ở hiệp thế. Điều này là do trong các tâm hiệp thế một sự tiết chế chỉ có mặt vào lúc mà một người cố tình chế ngự thân, khẩu hoặc nuôi mạng chân chánh của mình. Ở thiền hiệp thế không áp dụng được sự tiết chế như vậy, nó chỉ được áp dụng trong các tâm thiện dục giới khi một người đang chế ngự ý muốn phạm giới của họ. Ngay cả trong trường hợp đó mỗi lần cũng chỉ có thể có một tiết chế tâm sở khởi lên và chỉ liên quan đến sự vi phạm mà tiết chế tâm sở ấy bao hàm – đối với chánh ngữ là tránh nói dối, nói lời chia rẽ, nói lời thô ác, hoặc nói chuyện vô ích nhảm nhí; đối với chánh nghiệp là tránh sát sanh, trộm cắp hoặc tà dâm; đối với chánh mạng là tránh hình thức nuôi mạng không chân chánh. Tuy nhiên, trong các thiền siêu thế ba tiết chế tâm sở này khởi lên một lần và liên quan đến tất cả những vi phạm mà sự tiết chế ấy bao hàm. Trong các tâm đạo, nhiệm vụ của chúng không chỉ đơn thuần ngăn những hành động bất thiện mà còn tiêu diệt những khuynh hướng khiến cho những vi phạm này xảy ra. Vì lý do này, Bộ Pháp Tụ mô tả mỗi sự tiết chế được kể như “phá đổ cây cầu” – setughāta – một từ mà Chú giải giải thích với nghĩa là sự tiết chế bứng gốc các duyên (điều kiện) cho tà ngữ, tà nghiệp hoặc tà mạng.[6]

Trong phần liệt kê các pháp của Bộ Pháp Tụ, tâm sở trí tuệ đi vào các thiền siêu thế như ba căn (quyền)[7] mới trải khắp Bốn Thánh đạo và Bốn Thánh quả. Ba căn hay quyền này là “vị tri đương tri quyền” (anaññātaññāssāmitindriya), “dĩ tri quyền” (aññindriya) và “cụ tri quyền” (aññātavindriya).[8] Vị tri đương tri quyền có mặt trong sơ đạo, dĩ tri quyền có mặt trong sáu giai đoạn giữa (từ sơ quả cho đến Alahán đạo) và cụ tri quyền có mặt trong tứ quả hay Alahán quả. Vị tri đương tri quyền là tuệ căn của vị đang đứng trên Nhập lưu đạo, cái chưa biết ở đây (vị tri), theo Chú giải, là trạng thái bất tử của Niết bàn hoặc Tứ Thánh Đế, không có pháp nào trong số đó đã từng được biết trước đây trong vòng luân hồi vô thỉ.[9] Dĩ tri quyền là tuệ căn của các vị ở các giai đoạn giữa của tiến trình, trong khi cụ tri quyền là trí tuệ viên mãn của bậc Alahán. Như vậy không có quyền nào trong ba quyền này có mặt ở thiền hiệp thế.

Phần lớn các yếu tố cấu thành có mặt ở thiền hiệp thế được lặp lại một lần nữa trong phần phân tích về thiền siêu thế, song Bộ Pháp Tụ còn thêm vào đó hai tập ngữ hạn định mà ở phần định nghĩa thiền hiệp thế không có. Hai tập ngữ này là “đạo chi” (magganga) và “giác chi” (bojjhanga). Đạo chi gắn liền với tất cả những pháp nào nhập vào Bát Thánh Đạo dưới tên này hoặc tên khác của chúng như chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.[10] Mặc dù năm trong số tám pháp này cũng có mặt ở thiền hiệp thế, song chúng không hiện diện như các đạo chi vì vào những lúc đó chúng không thuộc về Bát Thánh Đạo trực tiếp dẫn đến sự diệt khổ.

Tập ngữ “giác chi” gắn liền với các pháp thuộc thất giác chi: niệm, trạch pháp, tinh tấn, hỷ, tịnh, định và xả. Sự tập hợp này được gọi là “giác ngộ” hay “thức tỉnh” (bodhi) bởi vì khi nó khởi lên ở sát na siêu thế đạo, nó cho vị Thánh đệ tử khả năng thức tỉnh khỏi giấc ngủ phiền não. Các thành phần của thất giác chi có thể có mặt trong bậc thiền hiệp thế nhưng không được kể như các giác chi. Chúng làm phận sự như các giác chi chỉ trong các bậc thiền siêu thế thuộc bốn Thánh đạo và bốn Thánh quả, vì chỉ vào lúc đó chúng mới góp phần trực tiếp vào sự chứng ngộ (Tứ Thánh Đế).

Ngoài những gì đã nói ở trên, giữa thiền hiệp thế và thiền siêu thế còn có một vài dị biệt khác có thể được tóm tắt ở đây. Thứ nhất, các thiền hiệp thế lấy chế định (paññatti) làm đối tượng; đối với các kasina (biến xứ), các bất tịnh tướng, niệm hơi thở, v.v… đối tượng là tợ tướng (patibhāganimitta), đối với các phạm trú (brahmavihāra) đối tượng là các hữu tình chúng sanh. Ngược lại, đối với thiền siêu thế thuộc các đạo – quả, đối tượng tuyệt đối là Niết bàn, thực tánh pháp (sabhāvadhamma).

Về tính chất ưu thắng, trong thiền hiệp thế yếu tố tịnh chỉ trội hơn. Mặc dù tuệ cũng đi vào các thiền hiệp thế song nó không thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt nào cả. Trái lại, thiền siêu thế thuộc các đạo – quả đưa yếu tố tịnh chỉ và tuệ giác vào thế quân bình. Tuệ có mặt như chánh kiến (sammāditthi) và tịnh chỉ như chánh định (sammāsamādhi). Cả hai vận hành cùng nhau trong sự hòa hợp mỹ mãn, không chi nào trội hơn chi nào.[11]

Sự khác biệt trong tính chất ưu thắng này dẫn đến một điểm dị biệt khác về nhiệm vụ hay hoạt động giữa hai loại thiền. Mặc dù cả hai, thiền hiệp thế lẫn siêu thế, đều là các bậc thiền trong nghĩa của sự thẩm lự hay chú tâm một cách sít sao (upanijjhāna), nhưng trong trường hợp của thiền hiệp thế, chú tâm sít sao này chỉ đưa đến sự an trú trong đề mục, một trạng thái tập trung toàn triệt chỉ có thể đè nén tam thời các phiền não. Ngược lại, trong thiền siêu thế, đặc biệt là thiền thuộc bốn Thánh đạo, sự nối kết giữa chú tâm sít sao này với tuệ đưa đến sự vận hành của bốn nhiệm vụ trong một sát na duy nhất. Bốn loại nhiệm vụ này mỗi loại áp dụng cho một trong Tứ Thánh Đế, tiêu biểu cách đặc biệt mà Thánh đế đó được thể nhập vào lúc các đạo khởi lên để tuệ tri chân lý. Bốn nhiệm vụ này là liễu tri (pariññā), đoạn trừ (pahāna), chứng ngộ (sacchikiriya) và tu tập (bhāvanā). Đạo thể nhập Thánh Đế thứ nhất bằng việc liễu tri hay thấu suốt khổ; thể nhập Thánh Đế thứ hai bằng việc đoạn trừ ái, tập khởi của khổ; thể nhập Thánh Đế thứ ba bằng việc chứng đắc Niết bàn, sự diệt khổ; và thể nhập Thánh đế thứ tư bằng việc phát triển Bát Thánh Đạo, con đường đưa đến sự chấm dứt khổ. Thanh Tịnh Đạo trích lại một đoạn giải thích mà các bậc tiền bối thường dùng để giải tỏa những hoài nghi về điều một Kinh nghiệm sao lại có thể thực hiện bốn nhiệm vụ một lúc như vậy.

Vì điều này đã được các bậc Cổ nhân (Ancient) nói: “Ví như một ngọn đèn thực hiện đồng thời bốn nhiệm vụ trong một sát na duy nhất – đốt cháy tim, xua tan bóng tối, ánh sáng xuất hiện và hút cạn dầu. Cũng vậy, đạo tuệ thể nhập đồng thời bốn chân lý trong một sát na duy nhất, nghĩa là, đạo thể nhập khổ bằng cách thâm nhập vào đó với sự liễu tri; thể nhập tập khởi của khổ bằng cách thâm nhập vào đó với sự đoạn trừ; thể nhập đạo bằng cách thâm nhập vào đó với sự tu tập và thể nhập diệt bằng cách thâm nhập vào đó với sự chứng ngộ. Nghĩa là gì? Bằng cách lấy diệt (Niết bàn) làm đối tượng, đạo tuệ đạt đến, thấy rõ và thấu triệt bốn chân lý.[12]  

Thêm chi tiết vào tỷ dụ này, Luân sư Buddhaghosa giải thích rằng, đạo tuệ liễu tri khổ ví như ngọn đèn đốt cháy tim; đạo tuệ đoạn trừ ái như ngọn đèn xua tan bóng tối; đạo tuệ tu tập các chi phần của Bát Thánh Đạo như ngọn đèn làm cho ánh sáng xuất hiện và đạo tuệ đắc chứng Niết bàn, pháp hủy diệt phiền não, như ngọn đèn hút cạn dầu. Mặc dù bốn nhiệm vụ này là phần hành riêng của tâm đạo và tâm quả hoàn toàn không chia sẻ gì cả, song tâm quả vẫn thực hiện nhiệm vụ nhận thức quyết định (decisively cognitive function) trong đó, vì nó được nói là (làm nhiệm vụ) “tác ý cẩn mật đến đến thực tánh hay chân lý về sự diệt (diệt đế)”.[13]

MỨC THIỀN CỦA ĐẠO VÀ QUẢ.

Khi các đạo, quả được quy cho mức của các bậc thiền, vấn đề sẽ phát sanh là yếu tố nào sẽ quyết định mức đặc biệt của cường độ thiền ở các đạo, quả này. Nói cách khác, tại sao đối với vị hành giả này đạo quả khởi lên ở mức sơ thiền, vị kia lại ở mức nhị thiền, v.v…? Thanh Tịnh Đạo và chú giải Bộ Pháp Tụ đề cập đến vấn đề này dưới hình thức đặt câu hỏi: cái gì quyết định sự khác biệt về con số các giác chi (bojjhanga), đạo chi (magganga) và thiền chi (jhānanga) của Thánh đạo. Các bộ luận đưa ra ba thuyết liên quan tới việc xác định mức thiền của đạo.[14] Các thuyết này rõ ràng đã được lập thành bởi các bậc chú giải sư cựu trào và truyền thừa qua các thế hệ học trò của các Ngài. Thuyết thứ nhất thuộc về Trưởng Lão tam tạng Cūla Nāga, chủ trương rằng chính thiền căn bản (pādakajjhāna) – bậc thiền dùng làm căn bản cho minh quán đưa đến sự xuất khởi (tuệ xuất khởi) trong đẳng vô gián duyên (immediate proximity) cho đạo – quyết định sự khác biệt về mức thiền của đạo. Thuyết thứ hai thuộc về Trưởng Lão Mahā Datta ngụ ở chùa Moravàpi nói rằng sự khác biệt này được quyết định bởi các uẩn làm đối tượng cho minh sát (vipassanāya àrammanabhūtā khandha) vào lúc tuệ dẫn đến sự xuất khởi. Thuyết thứ ba thuộc về Trưởng Lão Tam Tạng Cla Abhaya chủ trương rằng chính khuynh hướng cá nhân (puggalajjhāsaya) của hành giả quyết định sự khác biệt này.

Theo thuyết thứ nhất, đạo khởi lên nơi một hành giả thuần quán không có thiền, đạo khởi lên nơi một vị có một thiền chứng nhưng không dùng thiền ấy làm căn bản cho việc phát triển tuệ giác, và đạo khởi lên do thẩm sát sau khi xuất khỏi sơ thiền, là những đạo chỉ thuộc về sơ thiền. Cả ba đạo ấy đều có tám đạo chi, bảy giác chi và năm thiền chi. Trường hợp đạo được tạo ra sau khi xuất khỏi nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền , rồi dùng những bậc thiền này như căn bản cho minh sát, lúc ấy đạo sẽ thuộc về mức thiền được dùng làm căn bản, tức đạo có thể thuộc về nhị thiền, tam thiền, tứ thiền hay ngũ thiền. Đạo sẽ lần lượt có bốn, ba hoặc hai thiền chi tùy theo bậc thiền. Tuy nhiên, những đạo này sẽ chỉ có bảy đạo chi, bởi vì chánh tư duy (sammāsankappa), như một cách biểu hiện của tầm (vitakka), đã bị diệt trong nhị thiền và ở các bậc thiền cao hơn. Những đạo nào kết hợp với tứ thiền và ngũ thiền cũng sẽ thiếu đi hỷ giác chi (pītisambojjhanga), vì vậy chỉ còn sáu giác chi. Đối vối vị hành giả dùng một thiền vô sắc làm căn bản thì đạo sẽ là một đạo thuộc ngũ thiền.

Như vậy, theo thuyết thứ nhất này, nếu các hành được thẩm quán bằng minh sát tuệ sau khi xuất khỏi một thiền căn bản thì chính thiền chứng nổi bật lên vào thời điểm gần với đạo nhất, tức là ngay trước lúc đạt đến tuệ xuất khởi, sẽ làm cho đạo về bản chất giống như chính nó vậy.

Theo thuyết thứ hai, đạo khởi lên, về bản chất giống như những pháp đang được thẩm quán với minh sát tuệ vào lúc tuệ xuất khởi nảy sanh. Như vậy, nếu hành giả sau khi xuất khỏi môt thiền chứng và đang thẩm quán với minh sát tuệ các pháp dục giới hoặc các thành phần của sơ thiền, thì đạo được tạo ra sẽ khởi lên ở mức so thiền. Y cứ theo thuyết này thì chính thẩm sát thiền (sammasitajjhāna), bậc thiền dùng để thẩm sát, sẽ quyết định tính chất thiền của đạo. Một giới hạn cần được nói thêm ở đây là một hành giả không thể minh sát quán một bậc thiền cao hơn khả năng chứng đắc của vị ấy.

Theo thuyết thứ ba, đạo khởi lên ở bất cứ mức thiền nào mà hành giả muốn, hoặc ở mức thiền vị ấy đã dùng như căn bản cho minh sát hoặc ở mức của bậc thiền nào mà vị ấy lấy làm đối tượng cho sự thẩm quán. Nói cách khác, tính chất thiền của đạo hợp với khuynh hướng cá nhân của vị ấy. Tuy nhiên chỉ đơn thuần muốn không thì chưa đủ. Vì để cho đạo khởi lên ở mức thiền theo ý muốn, thiền hiêp thế chắc chắn phải được dùng làm căn bản cho minh sát hoặc dùng như đối tượng của sự thẩm quán. Sự khác biệt giữa ba thuyết này có thể được hiểu qua một ví dụ.[15]

Nếu một hành giả đạt đến siêu thế đạo bằng cách minh quán sơ thiền sau khi xuất khỏi ngũ thiền, theo thuyết thứ nhất thì đạo của vị ấy sẽ thuộc về ngũ thiền, trong khi theo thuyết thứ hai đạo sẽ thuộc sơ thiền. Như vậy hai thuyết này mâu thuẫn nhau trên cơ sở dị biệt giữa thiền căn bản và thiền thẩm sát. Nhưng theo thuyết thứ ba, đạo hợp với bất cứ thiền nào mà hành giả muốn, hoặc sơ thiền hoặc ngũ thiền. Như vậy thuyết này không nhất thiết va chạm với hai thuyết kia.

Bản thân Luận sư Buddhaghosa không đưa ra một quyết định nào giữa ba thuyết này. Ngài chỉ nêu ra cho thấy trong cả ba thuyết trên, bên dưới những bất đồng của chúng, vẫn có sự công nhận rằng tuệ xuất khởi sẽ quyết định đặc tính thiền của đạo. Vì tuệ này làm cận y duyên (nhân gần và chính) cho sự khởi sanh của đạo. Vì thế cho dù đó là tuệ xuất khởi gần với thiền căn bản hay tuệ ấy đang khởi qua thiền thẩm sát hoặc được ấn định theo ý muốn của hành giả thì trong cả ba trường hợp, chính giai đoạn cuối của tuệ (xuất khởi) này sẽ đưa ra sự xác định cho siêu thế đạo, ấn định các đạo chi và giác chi của nó.[16] Vì lẽ quả khởi lên ngay sau đạo có một cấu trúc giống hệt với đạo nên thiền siêu thế của nó cũng được quyết định bởi đạo. Như vậy, một đạo thuộc sơ thiền sẽ tạo ra một quả thuộc sơ thiền và đối với các thiền còn lại cũng cần hiểu như thế.

THÁNH QUẢ ĐỊNH VÀ DIỆT TẬN ĐỊNH

Truyền thống Phật Giáo thượng tọa bộ (Theravāda) nhìn nhận hai thiền chứng khác vốn chỉ mở ra cho các bậc Thánh đặc biệt. Hai thiền chứng này là Thánh Quả Định (Phalasamāpatti), có nơi gọi là Thiền quả, và Diệt Tận Định (Nirodhasamāpatti), Thiền diệt. Thánh quả định là một bậc thiền đích thực thuộc loại siêu thế. Diệt Tận Định , dù không phải là một bậc thiền, song vẫn đòi hỏi phải có sự tinh thông các thiền hiệp thế như một điều kiện tiên quyết cho sự thành tựu của nó. Bây giờ chúng ta sẽ lần lượt xét đến từng thiền chứng một.

Thánh Quả Định

Chúng ta biết tâm quả (phalacitta) là một trạng thái tâm siêu thế xếp vào loại quả (vipāka) bởi vì nó được tạo ra bởi tâm đạo tương ứng. Cũng như tâm đạo, tâm quả là một bậc thiền vận hành ở mức thiền của đạo vì về nội dung đạo và quả hầu như giống hệt nhau. Tâm quả khởi lên theo hai cách. Sự khởi lên ban đầu của quả, như chúng ta đã đề cập ở trước, xảy ra trong lộ trình tâm đạo, khi nó sanh khởi kế liền theo tâm đạo. Vào lúc đó tâm quả chỉ tồn tại trong hai hoặc ba sát na tâm để cảm nghiệm quả giải thoát rồi diệt, liền theo đó là hữu phần. Tuy nhiên tâm quả cũng có thể khởi lên theo cách khác. Cách khởi lên thứ hai này dưới hình thức của một định chứng đặc biệt gọi là Thánh Quả Định. Loại quả này chỉ có các bậc Thánh thuộc bốn giai đoạn giải thoát mới có thể đạt tới được, và nó được sắp vào bốn bậc tương ứng với bốn giai đoạn ấy: Nhập lai Thánh Quả Định, Nhất lai Thánh Quả Định, Bất lai Thánh Quả Định và Alahán Thánh Quả Định.

Giống như tâm quả sanh liền theo tâm đạo, Thánh quả định này cũng là một thiền siêu thế có Niết Bàn là đối tượng. Nhưng, trong khi quả ở lộ trình đắc đạo chỉ kéo dài hai hoặc ba sát na tâm, thì Thánh quả định mà một bậc Thánh nhập vào sau đó lại có thể kéo dài bao lâu tùy theo vị ấy quyết định, tức là nó có thể liên tục như một chuỗi các tâm quả nối tiếp theo nhau không gián đoạn trong hàng giờ hoặc thậm chí hàng ngày không dứt. Như vậy, thiền quả này cung cấp cho các bậc Thánh một “nơi nghỉ” đặc biệt, ở đó, các Ngài có thể thọ hưởng hạnh phúc của Niết Bàn ngay trong hiện tại cho chính mình.

Thanh Tịnh Đạo luận về Thánh Quả Định này dưới một số các đề mục. Đầu tiên, bộ luận ấy định nghĩa về Thánh Quả Định như “sự an trú của Thánh Quả trong diệt” (absorption of the noble fruition in cessation), sự định nghĩa mà Mahātikā (Chú giải Thanh Tịnh Đạo) diễn giải với nghĩa Thánh Quả Định là “sự khởi lên của thiền thuộc Thánh quả theo phương thức của định an chỉ với Niết bàn làm đối tượng”.[17] sự định nghĩa này cho thấy hai sự kiện quan trọng về Thánh quả định. Thứ nhất, đó là một bậc thiền và thứ hai, thiền này lấy Niết bàn làm đối tượng. Mặc dù tâm quả, vào những lúc thuộc Thánh quả định, không có tâm đạo đi trước – vì mỗi đạo được xem là độc nhất và không thể lập lại – song mức thiền của nó luôn luôn tiếp tục tương ứng với mức thiền của đạo từ đó nó sanh ra lúc ban đầu. Theo đó, nếu hành giả đắc một đạo có sơ thiền thì về sau chỉ nhập vào một Thánh Quả sơ thiền; nếu đắc một đạo nhị thiền sẽ luôn luôn nhập Thánh Quả nhị thiền, v.v…

Thánh quả định vượt ngoài tầm của phàm phu nhưng vẫn dành cho tất cả các bậc Thánh. Mỗi bậc Thánh sẽ nhập Thánh quả tương ứng với mức giải thoát của vị ấy, tức là bậc Nhập Lưu Nhập, Thánh Quả Nhập Lưu, bậc Nhất Lai Nhập Thánh Quả Nhất Lai, bậc Bất Lai Nhập Thánh Quả Bất Lai, v.v… Những vị đã đạt đến môt đạo cao hơn sẽ không đắc một quả thấp hơn, trong khi những vị ở mức thấp cũng không thể đắc một quả cao hơn được.

Các vị Thánh sử dụng thiền quả này với mục đích thọ hưởng hạnh phúc Niết bàn ngay trong hiện tại. Họ nhập vào đó bằng cách không chú tâm đến các đối tượng thế gian và tập trung độc nhất vào Niết bàn. Muốn nhập thiền quả, vị Thánh đệ tử nên đi vào độc cư, nghĩa là vào một chỗ thanh vắng, quyết định nhập thiền quả rồi phát triển minh sát trên các hành, Kinh qua một chuỗi các tuệ minh sát bắt đầu với sanh diệt tuệ. Các tuệ này tiến triển cho đến thuận thứ, tiếp theo bằng chuyển tộc tuệ với các hành làm đối tượng, “kế liền đó tâm trở nên an trú trong diệt cùng với sự chứng quả.”[18] Bởi lẽ sự quyết định trước là để đắc Thánh quả, chứ không phải một đạo cao hơn, nên tuệ giác chỉ đưa đến Thánh quả định mà không phải một đạo cao hơn. Việc chứng đạo đòi hỏi phải có một nguyện vọng dẫn đường riêng và khác hơn trước khi phát triển minh sát.

Thánh Quả Định được làm cho kéo dài bao lâu bằng một tác ý quyết định trước, vì chính nhờ sự quyết định như vậy “ta sẽ xuất vào giờ này” mà Thánh quả định sẽ kéo dài như đã định. Sự xuất định xảy ra khi tâm không chú ý đến Niết Bàn mà lấy một tướng nào đó thuộc các hành (danh – sắc) làm đối tượng. Liền sau khi Thánh quả định chấm dứt tâm sẽ chìm lại vào dòng hữu phần. Thánh quả định cũng khởi lên chớp nhoáng trong tiến trình xuất khỏi Diệt tận định.

Sự chứng Thánh Quả được đặt cho ba tên tùy theo cách thức nổi bật của tuệ trong quá trình minh quán ngay trước sự an chỉ. Nếu tuệ nổi bật là quán vô thường thì quả chứng được là Vô tướng giải thoát (animittavimokkha); nếu tuệ quán khổ là nổi bật thì quả gọi là Vô nguyện giải thoát (appanihitavimokka); và nếu tuệ quán vô ngã nổi bật thì quả gọi là Không tánh giải thoát (suññātavimokkha). Tuy nhiên trong ý nghĩa phóng khoáng thì cả ba tên gọi đều có thể áp dụng cho bất cứ quả nào cũng được vì quả nào cũng có Niết Bàn làm đối tượng, mà Niết bàn là Vô tướng giới, Vô nguyện giới và Không tánh giới. Vả lại, quả nào cũng có bản chất như nhau là vô tham, vô sân, vô si, không có các tướng tham, sân, si và cũng không có những ước muốn bắt nguồn từ tham, sân, si.[19]

Diệt Tận Định

Một chứng đắc nữa trong lãnh vực thiền dành cho các vị Thánh hành giả là chứng diệt hay Diệt Tận Định (nirodhamāsapatti), hoặc cũng gọi là diệt thọ tưởng định (saññāvedayitanirodha). Nét đặc thù của định chứng này là sự diệt của mọi hoạt động tâm lý trong tình trạng vẹn toàn của nó. Chính vì lý do này mà Thanh Tịnh Đạo định nghĩa định chứng ấy như “sự không khởi sanh của tâm và các pháp đồng sanh (tâm sở) do sự diệt không ngừng của chúng”.[20]

Chỉ các bậc Bất Lai và Alahán nào có tám thiền chứng hiệp thế, tức là đã đắc và thuần thục bốn thiền sắc giới và bốn thiền vô sắc mới có thể chứng Diệt Tận Định này. Hàng phàm phu, các bậc Thánh Nhập Lưu và Nhất Lai, kể cả những vị có tám thiền chứng, cũng không thể đắc. Các vị Thánh Bất Lai và Alahán không thuần thục trong tám thiền chứng cũng vậy. Lý do các bậc Thánh Nhập Lưu và Nhất Lai không thể đắc Diệt Tận Định là vì họ thiếu các điều kiện cần thiết. Muốn vậy, đòi hỏi phải có sự thuần thục hoàn toàn cả hai năng lực tịnh chỉ (định) và tuệ giác. Bởi vì những vị ở dưới mức của một bậc Bất Lai chưa hoàn toàn đoạn trừ hết dục ái nên năng lực tịnh chỉ của họ không hoàn hảo cho nên không thể chứng Diệt Tận Định được. Sự chứng diệt cũng chỉ có thể được đạt đến trong “ngũ uẩn hữu”, tức là ở những cõi năm uẩn có mặt đầy đủ. Thiền chứng này ở cõi vô sắc được xem là bất khả đắc vì nó phải được đi trước bởi bốn thiền vô sắc, một điều thiếu ở các cõi vô sắc này.

Các bậc Thánh bất lai và Alahán với những khả năng cần phải có nhập vào Diệt Tận Định vì cảm thấy mệt mỏi với sự sanh khởi và hoại diệt của các hành, các vị nghĩ “ta hãy trú trong lạc bằng cách không tâm trong hiện tại và đạt đến tịch diệt tức là Niết bàn”.[21] Để nhập vào Diệt Tận Định vị Thánh hành giả phải cố gắng tạo ra sự diệt của tâm thức thuộc Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp quân bình của tịnh chỉ và tuệ giác. Một vị sử dụng thuần tịnh chỉ thì chỉ có thể đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ chứ không thể đắc Diệt Tận Định . Trong khi vị sử dụng thuần tuệ giác (minh sát) thì có thể nhập Thánh quả định mà không đắc diệt. Sự chứng diệt đòi hỏi phải có sự áp dụng tịnh chỉ và tuệ giác xen nhau.

Vị hành giả ước nguyện đắc diệt tận định trước hết nhập vào sơ thiền, xuất khỏi thiền ấy và quán các hành của nó với tuệ giác (minh sát) xem như vô thường, khổ, vô ngã. Với mỗi thiền chứng, hành giả lập lại cùng phương thức như trên cho đến “Vô sở hữu xứ”, thiền chứng vô sắc kế Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Sau khi xuất khỏi Vô sở hữu xứ, hành giả phải thực hiện bốn công việc chuẩn bị. Trước hết, hành giả quyết định (khởi lên ý tưởng) rằng những vật dụng hành giả hiện sử dụng nhưng thuộc về người khác[22] sẽ không bị nguy hại bởi lửa cháy, nước trôi, gió cuốn, trộm lấy, chuột gặm, v.v… trong lúc hành giả nhập Diệt Tận Định . Sự quyết định như vậy sẽ có năng lực bảo hộ hiệu quả trong suốt thời gian nhập định, những đồ dùng cá nhân của hành giả được bảo vệ nhờ chính năng lực của sự Diệt Tận Định (chứ không bởi ai khác). Thứ hai, hành giả quyết định rằng nếu Tăng chúng cần đến mình, hành giả sẽ xuất thiền trước khi có một vị Tỳ kheo đến gọi. Thứ ba, hành giả quyết định rằng nếu đức Phật gọi mình, hành giả sẽ xuất thiền trước khi một vị Tỳ kheo được phái đến để gọi hành giả. Và thứ tư, hành giả quyết định rằng thọ mạng của hành giả ít nhất cũng còn kéo dài được bảy ngày nữa kể từ lúc hành giả nhập Diệt Tận Định.

Sau khi đã thực hiện xong bốn công việc chuẩn bị này, hành giả nhập vào Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Môt hoặc hai tiến trình tâm trôi qua rồi sẽ diệt, hành giả trở nên không tâm và đắc Diệt Tận Định . Sự dừng lại của dòng tâm thức xảy ra một cách tự động như kết quả của sự quyết định mà hành giả đã nguyện. Hành giả sẽ ở trong diệt bao lâu tùy theo quyết định trước đó của hành giả (nhưng không quá bảy ngày). Tuy nhiên, nếu hành giả không làm bốn công việc chuẩn bị thì sau khi đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hành giả sẽ trở lại Vô sở hữu xứ chứ không đắc Diệt Tận Định được.[23] 

Cũng giống như lúc nhập, sự xuất khỏi Diệt Tận Định xảy ra một cách tự động, do hết thời hạn đã định, trừ phi bị gián đoạn sớm hơn bởi Tăng chúng đang chờ, đức Phật triệu tập, hoặc chấm dứt thọ mạng. Sự xuất định xảy ra bằng cách chứng Bất lai Thánh quả nếu là một vị Bất lai hoặc Alahán Thánh quả nếu là một vị Alahán. Ngay sau khi xuất Diệt Tận Định , hành giả trải qua một chuỗi các tâm quả tương ứng với mức tu tập của vị ấy. Song đối với hầu hết mọi hành giả thì lúc này, tâm họ đều hướng về Niết bàn. Vì lý do đó mà vị Bất lai, sau khi xuất khỏi Diệt Tận Định , có thể dùng thiền chứng của mình làm căn bản cho việc đắc Alahán quả. Như đức Phật dạy: “Vị Tỳ kheo hoàn toàn vượt qua Phi tưởng phi phi tưởng xứ, chứng và trú trong Diệt Thọ Tưởng Định. Sau khi thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị ấy đã được đoạn tận.”[24]

Diệt Tận Định là tuyệt đỉnh của một tiến trình thăng tiến làm cho dừng lại các hành thuộc thân và tâm. Trưởng lão ni Dhammadinnà giải thích rằng có ba loại hành là thân hành (kāyasankhāra), khẩu hành (vacīsankhāra) và tâm hành (citta sankhāra). Thân hành là hơi thở vô – ra, một tiến trình thuộc sinh lý liên quan đến thân thể. Khẩu hành là tầm và tứ, hai tâm sở hướng dẫn ngữ hành. Tâm hành là thọ và tưởng, tiến trình nhận thức có quan hệ với tâm. Đối với một vị nhập Diệt Tận Định. Trưởng lão ni Dhammadinnā nói, khẩu hành diệt trước (ở nhị thiền), rồi đến thân hành (ở tứ thiền) và sau cùng là tâm hành (với sự nhập Diệt Tận Định ).[25]

Câu hỏi có thể phát sinh là giữa một người chết và một hành giả chứng Diệt Tận Định có gì khác nhau. Vấn đề này được Tôn Giả Xá Lợi Phất giải thích:

“Khi một người chết, này hiền giả, thọ mạng của người ấy đã mãn, thân hành chấm dứt và hoàn toàn dừng lạ, khẩu hành chấm dứt và hoàn toàn dừng lại, ý hành chấm dứt và hoàn toàn dừng lại, mạng căn đã dứt, hơi nóng đã diệt và các căn của người ấy tiêu hoại. Khi một vị Tỳ kheo nhập Diệt Thọ Tưởng Định, thân hành vị ấy chấm dứt và hoàn toàn dừng lại, khẩu hành chấm dứt và hoàn toàn dừng lại, ý hành chấm dứt và hoàn toàn dừng lại. Nhưng mạng căn của vị ấy chưa dứt, hơi nóng không diệt và các căn còn nguyên vẹn.”[26]

Một câu hỏi khác cũng có thể được đặt ra liên quan đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Thánh Quả Định và Diệt Tận Định. Diệt Tận Định khác với Thánh Quả Định và Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ ở chỗ hai loại này là những trạng thái tâm được cấu thành bởi tâm và các tâm sở, trong khi Diệt Tận Định không phải là một trạng thái tâm mà là sự dừng lại của dòng tâm thức cùng với các tâm sở của nó. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ – Vô Sắc Xứ Thứ Tư – là một thiền chứng thuần túy hiệp thế trong lãnh vực tịnh chỉ mà mọi hành giả, nếu đủ định lực cần thiết, đều có thể đắc chứng. Đối tượng của nó cũng thuần hiệp thế, đó là bốn danh uẩn thuộc vô sắc xứ thứ ba hay Vô Sở Hữu Xứ. Phi Tưởng Phi Phi Tưởng Xứ không buộc phải có những thành tựu nào trong tuệ giác hoặc phải chứng một bậc Thánh nào cả. Như vậy, bất cứ ai có đủ điều kiện (định lực) cần thiết đều có thể chứng được bậc thiền này. Ngược lại, Thánh quả định là một pháp siêu thế đưa tịnh chỉ và tuệ giác vào thế quân bình. Đối tượng của nó là Niết bàn – siêu thế. Mỗi quả chứng đều được mở ra cho những vị Thánh nào đã đạt đến mức giải thoát tương ứng và được nhập vào bằng một trình tự thực hành sơ khởi trong việc minh quán trên tam tướng. Sự chứng Diệt Tận Định , khác với hai loại trên, không phải hiệp thế cũng không phải siêu thế, không hữu vi cũng không vô vi. Là sự diệt của tâm nên nó không cần đối tượng. Diệt tận định duy chỉ mở ra cho các bậc Thánh Bất lai và Alahán có tám thiền chứng (bốn sắc giới và bốn vô sắc giới) và được đạt đến qua một trình tự hành xen kẽ giữa tịnh chỉ và minh quán. Hơn nữa, muốn nhập Diệt Tận Định đòi hỏi phải hoàn tất bốn công việc chuẩn bị, trong khi những chuẩn bị này là không cần thiết đối với Phi tưởng phi phi tưởng xứ hoặc Thánh quả định.


[1] Dhs., p. 74-86

[2] “Yasmim samaye lokuttaram jhānam bhāveti niyyānikam apacayagāmim ditthigatānam pahànàya bhùmiyā vivicceva kāmehi pathānam jhānam upasampajja viharati.” Dhs., p. 72

[3] Dhs. A., p.259

[4] Narda, Manual, p. 127 – 129. NB. Đối với tám siêu thế nhị thiền tâm còn ba mươi lăm tâm sở trừ tầm; tám siêu thế tam thiền còn ba mươi bốn trừ tầm, tứ; tám siêu thế tứ thiền còn ba mươi ba trừ tầm, tứ, hỷ; tám siêu thế ngũ thiền cũng còn ba mươi ba tâm sở với xả thay cho lạc.

[5] Đối với hai tâm sở vô lượng khác – từ và xả – chỉ là những cách biểu hiện đặc biệt của các tâm sở “vô sân” và “xả trung tánh” (tatramajjhattatā). Bởi vì các tâm sở gốc của chúng không nhất thiết phải lấy hữu tình chúng sanh làm đối tượng nên chúng có thể có mặt ngay cả với những đối tượng khác và, thực sự, chúng là những biến hành tịnh hảo tâm sở, nghĩa là trong bất cứ tâm thiện nào chúng cũng có mặt.

[6] Dhs. A. p. 264.

[7] Indriya: ở đây đề cập đến 22 quyền (căn).

[8] Dhs. p. 77, 92, 138.

[9] Dhs. A. p. 261

[10] Cần nhớ rằng khi các đạo và quả khởi lên ở mức từ nhị thiền cho đến ngũ thiền, chỉ có bảy đạo chi có mặt. Đó là vì chánh tư duy (sammāsankappa) là một hình thức của tầm (vitakka) vốn đã được tịnh chỉ cùng với sự chứng đắc nhị thiền. Tương tự, trong các tâm đạo và tâm quả thuộc tứ thiền và ngũ thiền chỉ có sáu giác chi có mặt vì hỷ đã được từ bỏ cùng với sự chứng đắc tứ thiền thuộc hệ thống thiền năm bậc.

[11] Xem Pts., p. 288

[12] PP., p. 808. Vism, p. 593

[13] “Phalam pana nirodhasaccam tathalakkhanam upanijjjāyati.” Dhs. A. p. 211.

[14] PP. p. 778 – 780. Vism. p. 572 – 573. Dhs.A., p. 271 - 274

[15] Dhs. A., p. 274 Expositor, 2:310

[16] PP. p. 778 – 779 Vism. p. 573

[17] PP. p. 820. “Yā ariyaphalassa nirodhe appanā”. Vism. p. 602. “Ariyassa phalajhānasa nibbāne ārammana bhūte appanākārena pavatti.” Vism. T.2:515.

[18] PP. p. 822. Vism., p. 603. N.B: Trong khi tuệ chuyển tộc đi trước đạo có Niết bàn làm đối tượng thì ở đây trí chuyển tộc đi trước Thánh quả đối tượng lại là các hành. Lý do được đưa ra trong Chú giải Thanh Tịnh Đạo: “Ở đây, tại sao chuyển tộc không lấy Niết bàn làm đối tượng như nó đã làm khi đi trước tâm đạo? Bởi vì các trạng thái thuộc Thánh quả không liên hợp với một ngõ ra (outlet, như trong trường hợp của đạo), vì điều này được nói ‘các trạng thái nào là một ngõ ra?’ Bốn Thánh đạo không bao hàm (quả) vậy”. Vism. T. 2:518.

[19] Nada, Manual., p. 422 – 423. MN. 1:298

[20] PP., p. 824. “Ya anupubba nirodhavasena cittacetasikānam dhammanam appavatti.” Vism., p. 604.

[21] PP., p. 828. Vism., p. 607. N.B: Chú giải Thanh Tịnh Đạo lưu ý rằng đoạn “tịch diệt tức là Niết Bàn” ở đây có nghĩa tịch diệt đó tương tự như Niết bàn giới vô dư y (anupā disesa nibbānadhātu). Vậy không nên xem đoạn văn ấy đích xác như đang thiết lập sự đồng nhất giữa Diệt Tận Định và Niết Bàn (giới vô dư y). Vism. T. 2: 902

[22] Ở đây nên hiểu là những vật dụng như y, bát, giường chiếu hay chỗ ở, v.v…mà vị ấy đang sử dụng là tài sản của người khác.

[23] PP., p. 831 – 832 Vism., p. 610

[24] MN. 1:175

[25] MN. 1:302. Cũng xem SN. 4 : 317

[26] PP., p. 832 – 833. MN. 1: 296


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn