(Xem: 1764)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2231)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

* 3.3-Nhận Xét Về 3 Hạng Người Trong Đời

08 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 12908)

Vi Diệu Pháp - Hiện thực trong cuộc sống

Phần - 3.3

Nhận Xét Về 3 Hạng Người Trong Đời

 

Trong đời hiện hữu có 3 hạng người là người tam-nhân (tihetukapuggala), người nhị-nhân (dvihetukapuggala), người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) trongkiếp-hiện-tại đều là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm đãtạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý hoặc 10 phước-thiện (puññakiriyavatthu)trong kiếp quá-khứ của mỗi chúng-sinh.

* Tihetukapuggala: hạng người tam-nhân là người khi tái-sinh với dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ, nên có đủ 3 nhân: vô-tham, vô-sân, vô-si từ khi tái sinh đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì có khả năng chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông.

Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo. 

Tiền-Kiếp Của Người Tam-Nhân

Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp trong kiếp quá-khứ như thế nào mà kiếp-hiện-tại này trở thành người tam-nhân như vậy? 

* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy đã từng tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc 10 phước-thiện đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,

2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,

3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.

Mỗi thời-kỳ tác-ý trongdục-giớiđại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp như sau: 

* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy, kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấyđồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâmhợp với trí-tuệkammas-sakatāñāṇa: trí-tuệ hiểu biết đúng nghiệp là của riêng của mình,hoặc trí-tuệ-thiền-tuệ lokiya-vipassanāñāṇa, nên có đủtam-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosahetu), vô-si (amoha-hetu) (trí-tuệ).

* Đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là tihetukakusala-

kamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp.

Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện dục-giới đại thiện-nghiệp ấy xong rồi, tiền-kiếp của người tam-nhân ấy phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.

* Tiền-kiếp của người tam-nhân ấy chết, sau khi chết tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả tái-sinh là tam-nhân dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là tihetukapaṭisandhi: tái-sinh-tâm có đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) làm người bậc cao quý gọi là người tam-nhân (tihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời đến lúc trưởng thành, người ấy là hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) vốn dĩ có trí-tuệ, nên có khả năng đặc biệt chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, bậc thiền vô-sắc-giới, hoặc chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật-giáo. 

Có những hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala) từ khi tái-sinh đầu thai làm người như:

* Kiếp chót của Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala).

Như Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu là tiền-kiếp củaĐức-Phật Gotamađang an hưởng mọi an lạc trên cõi trời Tusita (Đâu-suất-đà-thiên). Khi ấy, các đức-vua trời và toàn thể chư-thiên, chư đức phạm-thiên đến đảnh lễ kính thỉnh Đức-Bồ-tát giáng thế xuống tái-sinh làm người, để trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tế độ chúng-sinh có duyên lành nên tế độ.

Đức-Bồ-tát thiên-nam sau khi xem xét đầy đủ 5 điều([6]) hợp thời đúng lúc, nên Ngài nhận lời thỉnh cầu của chư-thiên, phạm-thiên.

Đức-Bồ-tát thiên-nam Setaketu cuti chuyển kiếp thiên-nam (chết) ở cõi trời Tusita, đồng thời tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả là “dục-giới đại-quả-tâm thứ nhất đồng sinh với thọ hỷ, hợp với trí, không cần tác-động” làm phận-sự tái-sinh đầu thai vào lòng mẫu-hậu Mahāmayādevī, Chánh-cung-hoàng-hậu của Đức vua Suddhodana, vào canh chót đêm rằm tháng 6 (âm-lịch).

Tròn đủ 10 tháng sau, đúng vào ngày rằm tháng 4, Đức-Bồ-tát Siddhattha đản-sinh ra đời tại khu vườn Lumbinī (nay thuộc về nước Nepal).

* Đến năm 35 tuổi Đức-Bồ-tát Siddhattha trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệuĐức-Phật Gotama dưới cội cây Đại-Bồ-đề tại khu rừng Uruvelā. (nay gọi là Bodhgayā nước India).

* Kiếp chót của chư Bồ-tát Độc-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân (tihetuka-puggala), để trở thành Đức-Phật Độc-Giác.

* Kiếp chót của 2 vị Bồ-tát tối-thượng-thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành bậc Thánh-A-ra-hán tối-thượng-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

 

* Kiếp chót của chư vị Bồ-tát đại-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân, để trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đại-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

* Kiếp chót của chư vị Bồ-tát Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác chắc chắn là hạng người tam-nhân để trở thành bậc Thánh-Thanh-văn-giác đệ-tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

Và các hạng người tam-nhân khác cũng chỉ sinh ra từ tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao của kiếp quá-khứ trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ cho quả là dục-giới đại-quả-tâm hợp với trí-tuệ mà thôi.

Các hạng người tam-nhân (tihetukapuggala) có các bậc khác nhau, bởi vì mỗi người tam-nhânđã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật tròn đủ khác nhau, có 4 pháp thành-tựu (adhipati): chanda: nguyện-vọng cao cả, vīriya: sự tinh-tấn, citta: tâm-nguyện cao cả, vīmaṃsā: trí-tuệ suy xét cao thấp khác nhau, cho nên các hạng người tam-nhân có các bậc cao khác nhau.

Kiếp-Hiện-Tại Của Người Tam-Nhân

Kiếp-hiện-tại của hạng người tam-nhân còn là hạng phàm-nhân (chưa phải bậc Thánh-nhân), sau khi chết, nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau:

- Nếu có sắc-giới thiện-nghiệp thì chắc chắn cho quả hoá-sinh trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên, an hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trên cõi trời ấy.

- Nếu có tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao thì cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc chư-thiên bậc cao quý thuộc về hạng tam- nhân trong cõi thiện-giới hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy.

- Nếu có nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao thì cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc chư-thiên bậc trung thuộc về hạng nhị- nhân trong cõi thiện-giới hưởng sự an lạc cho đến hết tuổi thọ trong cõi ấy.

* Nếu người tam-nhân thất-niệm (dể-duôi) có giới-hạnh không trong sạch, bị phạm giới, tạo ác-nghiệp, nếu lúc lâm chung ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.

Ví dụ: * Trường-hợp tỳ-khưu Devadatta vốn là người tam-nhân đã chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chứng đắc các phép thần-thông, nhưng về sau tỳ-khưu Devadatta đã tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội đó là ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng và làm bầm máu bàn chân của Đức-Phật.

Tỳ-khưu Devadatta sau khi chết, chính ác-nghiệp chia rẽ chư tỳ-khưu-tăng được ưu tiên cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi địa-ngục Avīci, bị hành hạ thiêu đốt suốt 100 ngàn đại-kiếp trái đất mới mãn quả của ác-nghiệp ấy.

Từ kiếp trái đất này rồi trải qua 100 ngàn kiếp trái đất nữa, hậu kiếp của tỳ-khưu Devadatta thoát ra khỏi cõi địa-ngục, có tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau đầu thai làm người, khi sinh ra đời, lúc trưởng thành đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Aṭṭhissara.([7])

 

* Trường-hợp Đức-vua Ajātasattu vốn là hạng người tam-nhân,tạo ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết Đức-phụ-vương Bimbisāra.

Về sau, Đức-vua Ajātasattu đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin sám hối về tội lỗi giết vua cha của mình. Đức-Thế-Tôn thuyết bài kinh Sāmaññaphalasutta để tế độ đức-vua.

Nếu đức-vua không phạm ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết vua cha thì sau khi nghe pháp xong, đức-vua có khả năng trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, nhưng đức-vua đã phạm ác-nghiệp vô-gián trọng tội giết vua cha, nên không thể trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

Sau khi nghe pháp xong, đức-vua Ajātasattu kính xin thọ phép quy-y Tam-bảo, trở  thành người cận-sự-nam trong giáo-pháp của Đức-Phật Gotama đến trọn đời trọn kiếp.

Từ đó về sau, đức-vua Ajātasattu có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, hết lòng phụng sự cúng dường Tam-bảo.

Thật vậy, sau khi Đức-Phật Gotama đã tịch diệt Niết-bàn, khoảng 3 tháng 4 ngày, Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì cùng với 500 vị Thánh A-ra-hán tổ chức kỳ kết tập Tam-tạng và Chú-giải lần thứ nhất tại động Sattapaṇṇi gần kinh thành Rājagaha. Đức-vua Ajātasattuđã hộ độ 500 vị Thánh A-ra-hán có Ngài Đại-trưởng-lão Mahākassapa chủ trì trong suốt 7 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam-tạng và Chú-giải.

Đức-vua Ajātasattulà cận-sự-nam phàm-nhân có đức-tin trong sạch đặc biệt nơi Tam-bảo, phụng sự Tam-bảo cho đến trọn đời. 

Cho nên, sau khi đức-vua băng hà, lẽ ra ác-nghiệp vô-gián trọng-tội (giết vua cha) cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa-ngục Avīci chịu khổ suốt nhiều đại kiếp trái đất, nhưng nhờ có dục-giới đại-thiện-nghiệp đặc biệt trong sạch ấy làm giảm bớt tiềm năng cho quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội, nên cho quả tái-sinh kiếp kế tiếp trong cõi địa-ngục nhỏ nồi đồng sôi Lohakumbhī, chịu khổ trong cõi địa-ngục nhỏ nồi đồng sôi suốt 60.000 năm,từ miệng chìm xuống đến đáy nồi suốt 30.000 năm, rồi từ đáy nồi nổi lên đến miệng nồi suốt 30,000 năm mới mãn quả của ác-nghiệp vô-gián trọng-tội ấy. Do nhờ tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả tái-sinh kiếp sau trở lại làm người, hậu kiếp của đức-vua Ajātasattu đi xuất gia, rồi sẽ trở thành Đức-Phật Độc-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Độc-Giác Vịjitāvi.(dựa theo Chú-giải kinh Sāmaññaphalasutta trong Dīghanikāya).

2- * Dvihetukapuggala: hạng người nhị-nhân là người chỉ có 2 nhân: vô-tham và vô-sân mà thôi, không có vô-si (trí-tuệ) từ khi tái-sinh đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, vốn dĩ không có trí-tuệ, nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định thì người ấy không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào cả, 

Nếu người ấy thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì người ấy cũng không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Tiền-Kiếp Của Người Nhị-Nhân

* Tiền-kiếp của hạng người nhị-nhân ấy đã từng tạo 10 dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc 10 phước-thiện đã trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,

2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,

3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.

Mỗi thời-kỳ tác-ý trong dục-giới đại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp:

* Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham (alobhahetu) và vô-sân (adosahetu) mà thôi, không có vô-si (amohahetu) (trí-tuệ).

Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp này trong dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ ấy gọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp. 

Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong ấy, tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy phát sinh dục-giới đại-thiện-tâm trong sạch vô cùng hoan hỷ, không bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành ukkaṭṭhakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao.

* Và tiền-kiếp của người tam-nhân, kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ kammassakatā-ñāṇa: trí-tuệ hiểu biết đúng nghiệp là của riêng của mình, nên có đủ tam-nhân là vô-tham (alobhahetu), vô-sân (adosahetu), vô-si (amoha-hetu) (trí-tuệ).

Dục-giới đại-thiện-nghiệp trong dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ ấy gọi là tihetuka-kusalakamma: tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp. 

Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, tiền-kiếp của người tam-nhân ấy phát sinh bất-thiện-tâm xen lẫn, bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành omakakusalakamma: tam-nhân đại-thiện-nghiệp bậc thấp không có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau trở thành người tam-nhân, mà chỉ có khả năng cho quả tái-sinh kiếp sau trở thành người nhị-nhân mà thôi. Vì vậy, tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao cùng chung cho quả thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.   

Tiền-kiếp của người nhị-nhân ấy chết, sau khi chết tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp và nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao cùng chung cho quả tái-sinh kiếp sau là dục-giới đại-quả-tâm không hợp với trí-tuệ làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là dvihetuka-paṭisandhi: tái-sinh-tâm có nhị-nhân (vô-tham và vô-sân, không có vô-si) làm người bậc trung gọi là người nhị-nhân (dvihetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người ấy là hạng người nhị-nhân (dvihetukapuggala) vốn dĩ không có trí-tuệ, nên người nhị-nhân này dù có thực-hành pháp-hành-thiền-định cũng không có khả năng chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào và dù có thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ cũng không có khả năng chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

Kiếp-Hiện-Tại Của Người Nhị-Nhân

Kiếp-hiện-tại người nhị-nhân có khả năng tạo mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp với dục-giới đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, để tái-sinh kiếp sau trở thành người tam-nhân bậc cao quý.

* Nếu người nhị-nhân thất-niệm (dể-duôi) có giới-hạnh không trong sạch, bị phạm giới, tạo ác-nghiệp, nếu lúc lâm chung ác-nghiệp ấy có cơ hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau 1 trong 4 cõi ác-giới (địa-ngục, a-su-ra, ngạ-quỷ, súc-sinh), chịu khổ trong cõi ác-giới ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy, mới thoát khỏi cõi ác-giới.

3- * Sugati-ahetukapuggala: hạng người vô-nhân cõi thiện-giới là người không có nhân nào trong 3 nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si) là người đui mù, câm điếc,ngu-muội, si-mê, tật nguyền, …. từ khi tái-sinh đầu thai làm người.

Khi sinh ra đời lúc trưởng thành, người ấy vốn dĩ vô-nhân đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, tật nguyền,,… nên không học hành gì được cả, biết tầm thường trong đời sống hằng ngày.

Tiền-Kiếp-Của Người Vô-Nhân Cõi Thiện-Giới

* Tiền-kiếp của hạng người vô-nhân cõi thiện-giới ấy đã từng tạo dục-giới đại-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý, hoặc đã tạo 10 phước-thiện trải qua 3 thời-kỳ tác-ý:

1- Pubbacetanā: Tác-ý phát sinh trước khi tạo phước-thiện ấy,

2- Muñcacetanā: Tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy,

3- Aparacetanā: Tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi.

Mỗi thời-kỳ tác-ý trong dục-giới đại-thiện-tâm tạo phước-thiện có vai trò quan trọng trong mỗi dục-giới đại-thiện-nghiệp:

* Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy kiếp quá-khứ trong thời-kỳ muñcacetanā: tác-ý phát sinh đang khi tạo phước-thiện ấy đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên chỉ có nhị-nhân là vô-tham (alobha-hetu) và vô-sân (adosahetu) mà thôi, không có vô-si (amohahetu). 

Nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp này trong dục-giới đại-thiện-tâm không hợp với trí-tuệ, nên gọi là dvihetukakusalakamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp. 

Và trong thời-kỳ aparacetanā: tác-ý phát sinh sau khi đã tạo phước-thiện ấy xong rồi, tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy phát sinh bất-thiện-tâm xen lẫn, bị tham-ái, ngã-mạn, tà-kiến làm ô nhiễm, nên trở thành omakakusala-kamma: nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp.

Tiền-kiếp của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy chết, sau khi chết nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp cho quả tái-sinh kiếp sau là suy-xét-tâm thiện-quả vô-nhân-tâm (suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là thiện quả vô-nhân-tâm của 8 dục-giới đại-thiện-tâm) làm phận-sự tái-sinh kiếp sau gọi là sugati-ahetuka-paṭisandhi: tái-sinh-tâm với thiện quả vô-nhân-tâm sinh làm người thấp hèn là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) từ khi đầu thai làm người.  

Khi sinh ra đời, lúc trưởng thành, người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) đui mù, câm điếc, ngu-muội, si-mê, tật nguyền ,… như vậy. 

* Thời-kỳ tái-sinh (paṭisandhikāla) tái-sinh- tâm (paṭisandhicitta) chỉ có 1 sát-na-tâm sinh rồi diệt mà thôi, tiếp theo trong thời-kỳ sau khi đã tái-sinh (pavattikāla), nếu thai-nhi bị đui mù, câm điếc, tật nguyền gì do ác-nghiệp nào cho quả thời-kỳ sau khi đã tái-sinh thì không thể gọi người ấy là hạng người vô-nhân cõi thiện-giới

Kiếp-Hiện-Tại Của Người Vô-Nhân

* Tuy kiếp-hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới không tạo được thiện-nghiệp hoặc ác-nghiệp nào đặc biệt, nhưng vô số kiếp quá-khứ đã từng tạo những dục-giới đại-thiện-nghiệp, hoặc ác-nghiệp. Khi kiếp-hiện-tại của người vô-nhân cõi thiện-giới ấy sau khi chết, nếu nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì tái-sinh kiếp sau theo quả của nghiệp ấy như sau: 

- Nếu tam-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao, hoặc nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc cao nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh làm người (hoặc chư-thiên) thuộc về hạng người tam-nhân hoặc hạngngười nhị-nhân tuỳ theo quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy. 

- Nếu nhị-nhân dục-giới đại-thiện-nghiệp bậc thấp nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh làm người (hoặc chư-thiên) thuộc về hạng người vô-nhân cõi thiện-giới (sugati-ahetukapuggala) tuỳ theo quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy. 

- Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) nào của kiếp quá-khứ có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh trong cõi ác-giới (cõi địa-ngục hoặc cõi a-su-ra hoặc cõi ngạ-quỷ hoặc loài súc-sinh) thuộc về hạng chúng-sinh vô-nhân cõi ác-giới (dugati-ahetukapuggala) thuộc về chúng-sinh nào tuỳ theo quả của ác-nghiệp của chúng-sinh ấy.  

Bất-Thiện-Tâm Và Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm

Tóm lược 12 bất-thiện-tâm và 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:

1- Bất-thiện-tâm (akusalacitta) có 12 tâm, tác-ý tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm gọi là 12 bất-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ:  

* Thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), 12 bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) trong 12 bất-thiện-tâm trong thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) chỉ có 11 bất-thiện-nghiệp (trừ si-tâm đồng sinh với thọ-xả, hợp với phóng-tâm) cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau chỉ có 1 bất-thiện-quả vô-nhân-tâmupekkhāsahagataṃ santīraṇacittaṃ: suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả là quả của 11 bất-thiện-nghiệp([8]) gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 4 cõi ác-giới là cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh.

Sau khi suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả nào là quả của bất-thiện-nghiệplàm phận-sự tái-sinh kiếp sau xong, suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy liền tiếp theo làm phận-sự hộ-kiếp(bhavaṅga-kicca) giữ gìn bảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, cuối cùng cũng suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả ấy làm phận-sự chuyển kiếp (cutikicca) (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại của một chúng-sinh trong cõi ác-giới ấy.

* Trongthời-kỳ sau khi đã tái sinh (pavatti-kāla) 12 bất-thiện-nghiệp cho quả có 7bất-thiện-quả vô-nhân-tâm trong kiếp-hiện-hữu.

2- Dục-giới đại-thiện-tâm (kāmavacarakusala-citta hoặc gọi mahākusalacitta) có 8 tâm, tác-ý tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm gọi là 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả trong 2 thời-kỳ: 

* Thời-kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả có 9 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 1 upekkhā-sahagataṃ santīraṇacittaṃ: suy-xét-tâm đồng sinh với thọ-xả là thiện-quả-vô-nhân-tâm của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp gọi là paṭisandhicitta: tái-sinh-tâm làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) trong 7 cõi thiện-giới là cõi người và 6 cõi trời dục-giới. 

Trong 9 tái-sinh-tâm, quả-tâm nào sau khi làm phận-sự tái-sinh kiếp sau (paṭisandhikicca) xong, quả-tâm ấy liền tiếp theo làm phận-sự hộ-kiếp (bhavaṅgakicca) giữ gìn bảo hộ kiếp ấy cho đến mãn kiếp, cuối cùng cũng quả-tâm ấy làm phận-sự chuyển kiếp (cutikicca) (chết) chấm dứt kiếp-hiện-tại của một chúng-sinh trong cõi thiện-giới ấy.

* Trong thời-kỳ sau khi đã tái sinh (pavatti-kāla) 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp cho quả gồm có 16 quả-tâm là 8 dục-giới đại-quả-tâm và 8thiện-quả vô-nhân-tâm trong kiếp-hiện-hữu.


[6]Xem bộ Nền Tảng Phật-giáo, quyển I Tam-Bảo ,trang 51 cùng soạn giả 

[7] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Devadattavatthu

[8]Bất-thiện-nghiệp trong si-tâm hợp với phóng-tâm ấy không có khả năng cho quả trong thời-kỳ tái-sinh kiếp sau.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn