(Xem: 1823)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2279)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

3.04- Hiện Tại Pháp Lạc

13 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 11858)

Một Cuộc Đời, Một Vầng Nhật Nguyệt

Tập_03

←Nghe:3.04-Hiện tại Pháp lạc blank

←Nghe:3.06 Về hơi thở blank


3.04- Hiện Tại Pháp Lạc

Sau hạ thứ tám, chư vị trưởng lão phân bố đi các nơi để tuyên thuyết một số giới điều liên hệ đến mười nhóm thanh quy đã chấn chỉnh tại lâm viên Ghositārāma. Riêng Ni chúng tại khu rừng trầm hương thì chỉ giữ lại chừng 30 người; số còn lại, trưởng lão Ni Gotamī, Yasodharā dẫn họ về Koliya và Sākya để thành lập Ni viện ở quê nội và quê ngoại. Đi theo giúp đỡ có bốn vị trưởng lão cùng bản quán – đó là Bhaddiya, Kimbila, Kāḷudayi, Devadatta. Đức Phật cũng gật đầu mỉm cười cho Rāhula dẫn theo một số sa-di về thăm quê! Riêng ngài thì chỉ giữ lại tôn giả Sāriputta, Ānanda, thị giả Upavāna và có thêm Nanda nữa.

Khi mọi người đã ra đi hết rồi, đức Phật nói chuyện với tôn giả Sāriputta:

- Kỳ Viên, Trúc Lâm, Đại Lâm... là quan trọng nhất vì số lượng Tăng đông nhất nên các vị trưởng lão phải trở về đó. Tại Vamsā này, ba cơ sở ở Kosambī tạm thời đã đặt được nền móng. Các vị giáo thọ ở đây, tuổi đạo, kinh nghiệm cũng như trình độ giáo pháp đều còn non trẻ; sau này, chúng ta sẽ quan tâm nhiều hơn. Gần đây, còn có hai bộ tộc, đó là Kuru và Aṇga – chúng ta phải gieo duyên ở đấy.

Đầu tiên, đức Phật dẫn theo chừng 200 vị tỳ-khưu còn non yếu nhất đến Kuru, một bộ tộc nhỏ, đa phần là bà-la-môn giáo. Là nơi mà đức Phật vừa độ cho vợ chồng gia chủ bà-la-môn Māgaṇḍi chứng quả A-na-hàm rồi xin xuất gia. Khi hai vợ chồng khẳng khái từ bỏ gia sản, tặng không cho người em trai Cūḷamāgaṇḍi rồi theo đoàn sa-môn – đã làm cho thị trấn bàn tán không ngớt. Chuyện cô gái Māgaṇḍiyā xinh đẹp tuyệt trần mà “ông ta” không dám sờ chạm vì ghê tởm, dầu đụng bằng chân - họ cũng đã được nghe và dư luận ấy hiện đang còn nóng hổi. Ông em trai của vợ chồng Māgaṇḍi nghe xốn tai quá - khi quần chúng có vẻ cười nhạo, sỉ nhục cháu mình; tức giận tràn hông, mấy ngày hôm sau, ông cho cô gái phục sức sang trọng, diễm lệ vào triều đình, dâng cho đức vua Udena! Dung nhan cô gái đã làm xiêu lòng đức vua tửu sắc, ông tức khắc phong cho cô ta làm thứ phi. Chuyện này, nhân dân cũng đang bàn tán. Bây giờ, nghe tin “ông Phật ấy” lại đến, làm cho mọi người ai cũng tò mò!

Đức Phật và hội chúng ngụ trong một khu rừng vắng, không gần mà cũng không xa thị trấn Kanumāsadhamma bao nhiêu; buổi sáng, trước lúc xuống xóm làng để khất thực, đức Phật dặn bảo tôn giả Sāriputta, Ānanda:

- Như Lai nhờ hai ông kiểm soát toàn bộ tóc, râu, y và bát của tất cả tỳ-khưu này. Ai không đúng cách, phải chỉnh sửa lại. Toàn bộ phải đi chân đất, không được mang theo dù, dép, gậy, đeo đãy nào trên vai, trên cổ. Phải tập tành, chỉ vẻ cho họ cách đi dọc đường, từng bước đi chánh niệm, tỉnh giác ra sao. Khi đi, không nhìn qua, nhìn lại, mắt hơi cúi xuống, nhìn đằng trước chừng một đòn gánh. Khi đứng trước cửa mọi nhà, xoay nghiêng người và bình bát ra sao, nhận vật thực phải im lặng như thế nào; nếu cần, chỉ đọc một câu kệ phúc chúc là đủ. Người đặt bát dẫu là ai, cũng đừng nhìn ngắm! Nhớ đừng nắm giữ tướng chung - Nam nữ, trẻ già; đừng nắm giữ tướng riêng - những chi tiết về thân thể, tay chân, mặt mũi; lúc nào cũng phải lắng nghe hơi thở của mình - bình hòa, vắng lặng và mát mẻ...

Nhờ được hướng dẫn tốt, nên khi đoàn sa-môn có đức Phật, tôn giả Sāriputta, Ānanda, Nanda, Upavāna dẫn đầu - đều trông đẹp như Phạm thiên; lại trông rất có trật tự, kỹ cương - quần chúng trông, ai cũng thích, ai cũng phát tâm hoan hỷ. Một số ngoại đạo cũng phải phát tâm tín mộ, đặt bát cúng dường...

Buổi chiều, nhân dân quanh vùng, có rất đông đồ chúng bà-la-môn tìm đến khu rừng để chiêm ngưỡng “ông Phạm thiên đẹp đẽ” cùng nghe pháp. Đức Phật biết dân chúng ở đây thật thà, chất phát, tâm và trí họ còn khá trong sáng chưa bị vấy nhiễm nhiều bụi cát như tại các kinh thành lớn – nên ngài phương tiện, ân cần giáo giới dịu dàng với giọng phạm âm như người mẹ hiền. Đồng thời, cũng do đức tin sai lạc nhiều đời, với quá nhiều thần linh bà-la-môn huyễn hoặc, ru ngủ - họ rất sợ thánh thần phạt tội, “không cấp giấy thông hành lên nước trời”- nên đức Phật cũng biểu tỏ một vài uy lực thần thông cho họ thấy, họ tin. Và sau đó, ngài mới nói đến các cảnh trời, nhân và quả, tâm và cảnh từ thấp lên cao... Các ngày hôm sau, người ta kéo đến đông hơn nữa. Thế rồi, ngài lại giao cho tôn giả Sāriputta, Ānanda thuyết pháp. Và rõ ràng, vị nào thuyết cũng dịu dàng, lưu loát, rõ ràng, phân minh, khúc chiết... với những đoản ngôn, ví dụ dễ nghe, dễ hiểu. Những ngày hôm sau nữa, một số bà-la-môn trí thức, một số doanh gia, phú hộ tìm đến. Ai cũng được thỏa mãn. Ai cũng cảm thấy rất hài lòng, rất có đức tin đối với tôn giáo mới này! Người ta quy y rất đông. Một số cư sĩ trí thức chứng quả Tu-đà-hoàn! Một số thanh niên của nhiều giai cấp xin xuất gia. Thế rồi, khu rừng này lại biến thành một khu lâm viên nữa với một số cốc liêu, nhà giảng, các công trình phụ...

Đặc biệt, thời gian ở đây, đức Phật giảng nói cho chư tỳ-khưu về Tứ niệm xứ - là bài kinh quan trọng cho tất thảy mọi người, không kể xuất gia hay tại gia. Đối với các vị tỳ-khưu trẻ, sơ tu - lại càng quan trọng – vì nhờ vậy, họ mới biết chính xác niệm thân, thọ, tâm, pháp ra sao...

Đức Phật giảng rất chi ly, giản dị, dễ hiểu từ thấp lên cao, từ cạn vào sâu. Ngài nói:

- Này các thầy tỳ-khưu! Đây là con đường độc lộ, độc đạo, độc nhất đưa đến an vui, thanh tịnh cho chúng sanh; vượt thoát sầu não, diệt trừ khổ ưu, hướng đến chánh trí, thành tựu tuệ giác, đạt được tự do tối thượng, an vui tuyệt đối, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn niệm xứ.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn chỗ niệm, Bốn lãnh vực cần phải chú tâm, soi chiếu, minh sát, quán niệm? Đấy là thân, thân thể, thân sắc; thọ, cảm giác; tâm, các trạng thái tâm lý; và pháp, đối tượng của tâm.[2]

Bây giờ nói về cái cần phải chú tâm, quán niệm thứ nhất là thân. Là cái thân này, từ lúc sanh ra cho đến lúc bị thiêu xác hoặc bị quăng bỏ nơi nghĩa địa – nó sinh diệt liên tục, biến đổi liên tục từ hài nhi, ấu thơ, thiếu niên, trung niên, già lão rồi tử vong. Thanh xuân thì trẻ trung, đẹp đẽ; già lão thì suy yếu, nhăn nheo, xấu xí. Đấy là sự thật, là tất yếu. Nó lại còn chứa đầy vật bất tịnh. Nhưng chúng sanh thì không biết, không thấy sự thật ấy – nên yêu mến, đam mê, luyến ái cái thân này một cách quá đáng. Muốn nó ăn cho no, cho ngon, cho sướng. Mặc cho nó đẹp, nó sang, nó oai! Trang điểm cho nó kiểu cách, mỹ miều, lộng lẫy! Xoa dầu thơm, tẩm hương liệu, bôi cao dưỡng da cho nó mỡ màng, non tơ, láng lẫy nữa! Chưa thôi - lại còn làm sao cho mắt, tai, mũi, lưỡi, thân được thỏa mãn tất thảy mọi dục lạc ở đời. Thỏa mãn rồi còn muốn thỏa mãn nữa, thỏa mãn nữa... Dục lạc càng thỏa mãn càng thiếu, càng uống càng khát, nên cuộc chạy đuổi, săn tìm ấy không thể dừng lại, suốt đời không thấy dấu hiệu dừng lại! Trên đường tìm kiếm ấy, thức tri của nó bị tham, sân, si, tà vạy, bất chánh chi phối... nên nó tạo tác các nghiệp ác, bất thiện pháp – nói chung là mười nghiệp bất thiện[3]- để rồi bị quả báo đau khổ, đọa sanh vào 4 con đường dữ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la! Vậy, đầu tiên, ta phải để ý đến cái thân vì nó thô thiển, dễ thấy; vì nó phải ăn uống, đi đứng, ngồi nằm, co vào, duỗi ra, hít thở...; vì nó ở bên ta suốt ngày, suốt đêm; vì nó cùng ở chung căn nhà với ta, nó chở mang ta từ lúc sinh đến lúc chết. Và nếu chúng ta không thấy rõ nó, không kiểm soát được nó thì nó sẽ vọng động tạo tác ác nghiệp ngay tức khắc.

Vậy, cái gọi là niệm thân – nghĩa là ghi nhớ cái thân, chú tâm nơi cái thân, chánh niệm nơi cái thân - sẽ có hai lợi ích. Thứ nhất ta sẽ kiểm soát được nó, làm chủ được nó; và khi kiểm soát được nó, làm chủ được nó – thì nó không còn vọng động để tạo tác các ác nghiệp. Đây là lợi ích thuộc về tục đế, tục thể, thế gian – nó là nhân sanh thiện pháp, phước báu của nó là cõi người và cõi trời, không còn đọa vào những cảnh giới đau khổ nữa. Lợi ích thứ hai thuộc về bình diện tuệ giác, xuất thế - là khi thấy thực cái thân, là tổng hợp sắc, nó chỉ là sắc; là sắc sanh, sắc già lão, sắc tàn lụi, sắc hoại diệt; thật sự thấy rõ bản chất vô thường, vô ngã, dukkha của chúng - chẳng còn rơi vào chấp thủ, vào các khái niệm phạm trù nữa, ta sẽ có được cái thấy chân đế, như thực – là cánh cửa mở vào cõi siêu thế, Niết-bàn, chấm dứt tất cả khổ.

Này các thầy tỳ-khưu, hãy tập sự niệm thân! Hãy chăm chú, quan sát, chú tâm, nhìn ngắm nó khi đi đứng nằm ngồi, co tay, duỗi chân, khi mặc y, mang bát, đi trì bình khất thực, khi đang ăn, đang uống, đại, tiểu tiện... Suốt ngày, ba thời, sáu khắc - ý thức, trực thức phải được thắp sáng lên như ngọn đèn để nhìn ngắm tất thảy mọi oai nghi cử động của nó. Phải liên tục, miên mật chánh niệm, tỉnh giác. Còn khi tọa thiền, kinh hành – các thầy phải chú tâm vào hơi thở. Hơi thở nó dài ngắn, thô tế ra sao thì phải được ghi nhận trung thực, như thực. Phải thấy rõ hơi thở cụ thể như thực bằng tuệ tri - chứ không phải thấy hơi thở bằng tưởng tri hay thức tri. Cái thấy bởi tưởng tri, bởi thức tri và tuệ tri giống nhau ra sao và khác nhau ra sao, các thầy cũng phải thấy, phân biệt cho thông tỏ.[4]

Này các thầy tỳ-khưu! Tưởng tri, thức tri, tuệ tri đều là thấy, chức năng thấy giống nhau. Ví dụ như thấy hình tướng, hình dáng, hình sắc, âm thanh, mùi, vị... một cách khái quát, tổng quát, thoáng qua... gọi là tưởng tri (tri giác). Thấy qua kinh nghiệm, kiến thức, hiểu biết; phân biệt rõ ràng màu sắc, hình dáng, các chi tiết... là cái thấy của thức tri (thức, tâm vương). Chỉ có thấy rõ thực tánh, bản chất như thực của các pháp mới sử dụng tuệ tri (thấy như thực thấy). Một đứa trẻ chỉ có tưởng tri còn thức tri thì muội lược, yếu ớt, nhỏ nhiệm. Lớn lên, trưởng thành do học hỏi, do kinh nghiệm - thức tri mới được vun bồi, huân tập. Tất cả mọi trí trên thế gian đều thuộc về thức tri, trí năng – cho dẫu là thắng trí 5] (ngũ trí thần thông) thì vẫn còn là phàm phu, tại thế. Chỉ có ai tu tập tuệ quán, quán chiếu - mới sử dụng tuệ tri để thấy rõ sự vô thường, vô ngã và dukkha của các pháp - nhờ vậy mới mở hé được cánh cửa Niết-bàn, siêu thế, chấm dứt tất cả khổ.

Này các thầy tỳ-khưu! Cũng là cái thân, nhưng với ai quá nhiều tham dục – thì phải biết nhờm gớm cái thân này, nó đầy đủ 32 thể trược. Nói cách khác, chẳng có gì đáng quý, đáng đam mê, đáng ái luyến cái thân này cả; nó chỉ là nước, sức nóng, đất, không khí... kết hợp mà thành; nó gồm có tóc, râu, lông, móng, răng, da, xương, thịt, gân, tủy, ruột non, ruột già, mồ hôi, đàm, mủ, phân, mồ hôi, nước tiểu... mà thôi! Cứ quán tưởng như thế, niệm tưởng như thế để tham dục, ái luyến cái thân một cách quá đáng sẽ yên lặng đi, giảm nhẹ đi! Trường hợp này cũng nên ra tận nghĩa địa lấy cái tử thi mà làm đề mục. Hãy quan sát, nhìn ngắm cái tử thi từ khi mới chết - một cô gái hoặc một chàng trai tuổi đang còn thanh xuân. Qua vài ngày, cái thây sẽ trương phình, hôi thối - những ai tham thích hình dáng, khi thấy cái thây trương phình ấy thì chẳng còn mê gì cái hình dáng nữa! Ngày hôm sau, cái thây sẽ bầm xanh, bầm tím, rỉ nước – ai tham thích màu da sẽ không còn tham thích màu da nữa. Cái thây sẽ dần dần thối rữa, xú uế nồng nặc – ai tham thích xông ướp hương hoa cho cái thân sẽ bắt đầu thấy ghê tởm cái thân. Rồi cái thây sẽ đứt lìa, nối với nhau bởi những sợi gân, bầy nhầy máu thịt - sẽ đối trị với những ai yêu thích sự săn chắc của cơ bắp. Cái thây bị thú vật như kền kền, quạ, diều hâu, chó rừng... mổ, cắn, khới, gặm - để đối trị với những ai yêu thích mông, ngực. Các chi tiết, bộ phận của tử thi rã rời, đứt khúc nằm ngổn ngang - để đối trị với người thích nhìn ngắm tay chân nõn nà, ngọc chuốt! Cái thây bị phân hủy, nát nhừ, vương vãi đây kia – thích hợp với người ưa trang điểm cho thân thể được đẹp đẽ, diễm kiều! Tướng sâu trùng, giòi bọ, kiến ruồi.. đục khoét, bấu rúc.. sẽ đối trị với người thích sở hữu, chấp thủ cái thân của mình. Rồi còn đống xương khô, phơi bày trắng hếu giữa nắng mưa – dành cho ai thích hàm răng đẹp! Như thế, khi hành giả quán sát thực, thấy thực 10 tướng của tử thi như vậy – sẽ quán tưởng rằng: Thật vậy, sự thật là như vậy, thân này cũng y như thế ấy, cũng cùng một bản chất như vậy, cũng trở thành như vậy và sẽ không thể tránh khỏi trạng thái ấy! Nhờ vậy, dần dà tâm đam mê, ái luyến để tìm thỏa mãn cho cái thân sẽ đi đến giảm trừ, muội lược, chấm dứt hẳn; không còn bám víu, chấp thủ vào cái thân, không còn nô lệ cho cái thân nữa!

Này các thầy tỳ-khưu! Cái thứ hai cần phải chú tâm, quan sát, quán niệm là thọ, tức cảm giác. Cảm giác có hai, là cảm giác ở nơi thân và cảm giác ở nơi tâm. Cảm giác ở nơi thân, là cảm giác thuộc về cơ thể vật chất, thuộc sinh lý. Khi một cái gì, một đối tượng nào tác động lên thân để ta có cảm giác dễ chịu, sảng khoái, thích thú - đấy được gọi là lạc! Cái gì đó, một đối tượng nào đó, tác động lên thân để ta bị đau, nhức, tê, ngứa... đưa đến cảm giác khó chịu, bực bội - đấy được gọi là khổ. Còn những khi không có lạc hay khổ mà có cảm giác trung tính, được gọi là xả! Cảm giác ở nơi tâm thì thuộc về tâm lý – tức là một loại cảm giác đã tác động vào tâm. Khi ta thấy sung sướng, an vui, hạnh phúc... có vợ đẹp, con xinh; thành đạt danh vọng, tiền tài, sản nghiệp, địa vị; được may mắn, được khen ngợi... thì ta khoái thích, sung sướng, mãn nguyện - gọi là hỷ. Những khi ta thất bại, thua thiệt, rủi ro, bị chê bai, phỉ báng; vợ chồng, con cái bất hòa, ly tán; sản nghiệp tiêu vong, mất mác; xa người mình thương, ở gần người mình ghét... tất thảy đưa đến đau khổ, buồn chán, sầu não, ưu phiền... đấy được gọi là ưu! Còn những khi không có hỷ hay ưu thì có xả. Hỷ, ưu, xả - đấy là ba cảm thọ của tâm. Vậy, hành giả khi quán niệm, theo dõi, chú tâm vào các cảm thọ, dù ở nơi thân hoặc ở nơi tâm thì đều phải được ghi nhận rõ ràng, vô tư, khách quan, trung thực. Những cảm thọ ở nơi thân như nhức răng, đau mắt.. thì dễ ghi nhận vì nó có đối tượng cụ thể - gọi là thô tháo; những cảm thọ ở nơi tâm thì vi tế hơn, phát sanh nhanh hơn nên cần sự chú tâm nhiều hơn. Một hành giả chú tâm, minh sát các cảm thọ có công phu liên tục, miên mật có thể thấy rõ cả ba giai đoạn lúc cảm giác sanh, lúc cảm giác tồn tại và cả lúc cảm giác diệt mất. Tức là sanh, trụ và diệt. Ở đây, không cần thiết phải tinh tấn, nỗ lực gì một cách cường liệt, căng thẳng; mà cũng chẳng cần khởi dậy một ý niệm tịnh hóa, loại trừ, chối bỏ hay phủ nhận - cứ lắng nghe nó một cách trung thực, định tĩnh, sáng suốt thì nó sẽ tự động sinh, tự động diệt theo đúng bản chất của nó. Nói cách khác, các cảm giác là những ngọn gió hoặc cơn cuồng phong sẽ lay động thân, lay động tâm; và lưu ý, xem chừng là nó sẽ làm cho lửa tham, lửa sân bùng lên, bốc cháy, thiêu đốt thiện pháp. Vậy nên – không chỉ khi đi đứng nằm ngồi, ăn uống, mặc y, mang bát, tắm rửa, đại tiểu tiện, tọa thiền, kinh hành – mà phải công phu suốt ngày, suốt đêm - ngoại trừ lúc có giấc ngủ sâu!

Này các thầy tỳ-khưu! Cũng từ cảm giác, cảm thọ - đi sâu thêm một chút nữa, là quan sát, minh sát, quán niệm tâm. Tâm đây gọi chung là tâm ý hay là các trạng thái tâm lý. Cái tâm thì rất vi tế. Thường thường, chúng sanh không thấy được tâm ý của mình – vì bản chất của tâm nó chập chờn, dao động luôn; nó như chú ngựa ham thích dong ruỗi, như khỉ vượn mải mê níu nhánh, vin cành. Nó khởi quá nhanh mà hành tung thì bất định. Lại mù mờ như khói như sương. Chỉ những hành giả nào niệm thân, niệm thọ lâu ngày mới bước sang được giai đoạn niệm tâm. Không dễ gì ta thấy được ta đang tham hay ta đang sân. Tại sao thế? Vì khi ta đang nhìn ngắm một cô gái đẹp, một đóa hoa đẹp hay một cảnh sắc đẹp - do bị đối tượng thu hút nên ta đã mải mê nhìn ngắm hình dáng, màu sắc, các chi tiết bộ phận... mà không biết tâm ưa thích, tham muốn, ái luyến khởi lên lúc nào! Sân cũng vậy. Khi nghe một tiếng chửi mắng, một lời phỉ báng – thì ta liền tá hỏa tam tinh, nổi sừng, nổi sộ ngay. Nói cách khác, khi một đối tượng là một sắc, một thanh... làm ta khó chịu, ta bị nó cuốn theo không biết lúc nào! Có người nửa chừng mới biết. Có người rời khỏi đối tượng rồi mới biết. Có người, lúc tưởng nhớ lại mới biết. Chỉ hành giả có công phu thâm sâu mới biết rõ nó khi vừa khởi sanh, đang chi phối tâm và cả sau khi nó ra đi! Vậy, niệm tâm đi sau niệm thọ là bước chuẩn bị, là hành trang nội lực cần thiết. Lúc niệm tâm phải cần trang bị chánh niệm, tỉnh giác cao độ. Tâm, khái quát có cả thảy 16 loại tâm - cần phải nhìn ngắm rõ ràng, vô tư, trong sáng và chân thực:

Tâm có tham tức là mọi tham muốn, ưa thích, đam mê, ái luyến - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không có tham - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm có sân tức là các trạng thái tâm nóng nảy, bực bội, giận dữ, sân hận - chúng ra sao thì phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không có sân - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm có si tức là các trạng thái tâm đần độn, mê mờ, tối tăm, si mê - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không có si - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm có thu nhiếp tức là tâm có tập trung, có thu thúc - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm bị tán loạn nghĩa là tâm phóng dật, vọng tưởng, thất niệm, bất giác, hỗn loạn, bối rối...[6] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm quảng đại là tâm rộng lớn [7] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không quảng đại [8]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm hữu hạn là tâm có giới hạn, có biên độ...[9] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm vô thượng [10]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm có định[11] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không có định[12]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm giải thoát là tâm tự do, không dính mắc...[13] - phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Tâm không giải thoát[14]- phải biết rõ, thấy rõ như vậy.

Này các thầy tỳ-khưu! Quán niệm tâm là như thế, những trạng thái tâm có mặt trong hiện tại như thế nào phải được nhìn ngắm đúng như vậy - đừng bao giờ xen dự vào đấy một phản ứng chủ quan nào, chồng lên chúng một tưởng một tư nào. Và các trạng thái tâm ấy cũng phải được nhìn ngắm xuyên suốt cả ba giai đoạn sanh khởi, tồn tại và diệt tận của chúng nữa.

Cuối cùng là niệm pháp. Pháp ở đây là gì? Pháp rất rộng nghĩa, chỉ giới hạn pháp với nghĩa là đối tượng của tâm trên hành trình tu tập.

Này các thầy tỳ-khưu! Đầu tiên là 5 triền cái[15], tức là 5 pháp nó vấn, nó quấn chặt, nó che lấp sự tịnh định và trong sáng của tâm trí: Hôn trầm, thụy miên – hoài nghi – sân – phóng tâm - dục.[16] Bất cứ ai chưa tu tập cũng bị 5 pháp này chi phối; người đang tu tập cũng bị chúng chi phối. Vậy khi nào có những pháp chướng ngại này phát sanh, phải nhìn cho rõ mặt mày của chúng. Phải chú tâm, phải biết rõ, phải thấy rõ (tuệ tri) hôn trầm, thụy miên qua ba giai đoạn sanh, trụ và diệt. Các pháp chướng ngại khác như nghi, sân nhuế, trạo hối, tham dục cũng được nhìn ngắm như thế. Và như vậy, chỉ cần đối trị như vậy, đừng nên gia cố thêm một ý niệm nào khác – vì trong chú tâm và tuệ tri đã có đầy đủ tinh tấn, chánh niệm và tỉnh giác[17]. Đấy là cách loại trừ, diệt tận, bứng nhổ 5 triền cái bởi tuệ quán. Còn nếu sử dụng định để đối trị thì ta phải tự tìm một đề mục thiền định (trong 40 đề mục) thích hợp để gia công tu tập. Nếu đề mục (đối tượng) được chú tâm liên tục, tinh cần thì những thiền chi sẽ tuần tự phát sanh. Lúc tầm thiền chi được nung nóng, chú niệm miên mật - thì nó sẽ đối trị với hôn trầm, thụy miên (giãi đãi, lừ đừ, mệt mỏi, buồn ngủ). Khi tứ thiền chi phát sanh thì hoài nghi, lưỡng lự, bất nhất, bất quyết sẽ không còn. Lúc phỉ thiền chi với 5 hiện tượng[18] xảy ra nơi thân thì nóng nảy, bực bội, khó chịu, sân nhuế... sẽ ra đi. Khi lạc thiền chi hiện khởi thì những buông lung, phóng dật, trạo cử... không tồn tại. Và cuối cùng, khi nhất tâm thiền chi thành tựu thì mọi tham muốn, dục lạc, khát ái, khát vọng... sẽ lặn chìm, mất bóng. Như thế có nghĩa là khi 5 thiền chi phát sanh, được duy trì, được làm cho sung mãn thì nó sẽ tạo ra một năng lực mạnh mẽ, khả dĩ làm cho 5 triền cái không thể nhúc nhích được, chúng sẽ như cáu bợn được lặn chìm dưới đáy bát nước, hoặc như một đám cỏ bị một tảng đá lớn đè lên trên... Nếu định còn yếu, sơ khởi thì gọi là cận định; thuần thục, chín muồi, vững chắc hơn thì gọi là an chỉ định (định sơ thiền - nơi vắng lặng các dục vật chất).

Pháp tiếp theo mà hành giả cần phải chú tâm, thấy rõ, biết rõ - đấy là ngũ thủ uẩn[19], tức là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn - mà chúng sanh thường chấp thủ là ta, là của ta, là tự ngã của ta. Phải tuệ tri, phải thấy rõ như thực rằng, sắc chỉ là sắc; đây là sắc sanh, đây là sắc diệt - chẳng có ta, có ngã nào ở đấy cả. Thọ, cảm giác, cũng vậy, phải tuệ tri, phải thấy rõ như thực rằng, cảm giác chỉ là cảm giác, đây là cảm giác sanh, đây là cảm giác diệt - chẳng có ta, có ngã nào ở đấy cả. Quán sát tưởng, hành và thức cũng phải được nhìn ngắm như chân, như thực như thế. Chúng có mặt, thấy rõ chúng có mặt, chúng ra đi thấy rõ chúng ra đi. Đừng để cho sắc chồng chất lên sắc mà thành sắc uẩn. Đừng để cho thọ chồng chất lên thọ mà thành thọ uẩn. Tưởng, hành và thức cũng vậy. Rỗng không, rỗng rang, vô thường, vô ngã.

Này các thầy tỳ-khưu! Còn nữa, hành giả tu tập cần phải sống quán pháp trên các pháp đối với 6 nội ngoại xứ. Thế nào là sáu nội ngoại xứ?

Ở đây, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý là 6 nội; sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp là 6 ngoại. Trong ngoài mà gặp nhau, xem chừng là chúng sẽ sanh khởi trùng trùng phiền não, kiết sử[20]. Ví dụ mắt thấy sắc, tai nghe âm thanh, duyên hai pháp này, tức khắc tham sân, thương ghét sanh khởi. Vậy, phải tuệ tri như chân, như thực rằng, mắt chỉ là mắt, tai chỉ là tai, sắc chỉ là sắc, thanh chỉ là thanh. Giả dụ kiết sử đã sanh khởi – thì cũng thấy rõ kiết sử đã sanh khởi, đang sanh khởi, đang tồn tại, đang diệt mất. Đối với mũi - hương, lưỡi - vị, thân - xúc, ý - pháp cũng phải được tuệ tri, được nhìn ngắm như chân, như thực như thế, đúng với bản tánh sanh diệt của các pháp. Chúng rỗng không, rỗng rang, vô thường, vô ngã.

Này các thầy tỳ-khưu! Cứ quán niệm như thế, tu tập như thế, hành trì miên mật như thế - chư vị càng ngày càng thấy pháp sanh, pháp diệt rõ ràng, như chân như thực. Cả 7 giác chi, 7 yếu tố giác ngộ, 7 yếu tố đưa đến giác ngộ cũng phải được thường trực quán niệm, tuệ tri. Khi có niệm giác chi, biết rõ, thấy rõ đang có niệm giác chi. Khi không có niệm giác chi cũng phải được biết rõ, thấy rõ không có niệm giác chi. Khi niệm giác chi được củng cố, huân trưởng, cụ túc, viên mãn cũng biết cũng thấy rõ ràng niệm giác chi như thế. Cứ như vậy là trạch pháp, tinh tấn, hỷ, an, định và xả.

Này các thầy tỳ-khưu! Cuối cùng là Tứ diệu đế - thế nào là sống quán pháp trên các pháp đối với Bốn Sự Thật về khổ, tập, diệt và đạo? Đây là khổ, phải như thật tuệ tri. Đây là khổ tập, phải như thật tuệ tri. Đây là khổ diệt, phải như thật tuệ tri. Đây là con đường đưa đến khổ diệt, phải như thật tuệ tri.

Này các thầy tỳ-khưu! Đấy là toàn bộ bốn lãnh vực quán niệm mà các thầy phải nghiêm túc hành trì để chấm dứt sầu bi ưu não ở trên đời – nó có công năng đưa đến an lạc, hạnh phúc, thanh tịnh, chánh trí, giác ngộ, giải thoát... ngay trong hiện tại này! Người nào nhiệt tình, chuyên tâm, tinh cần hành trì rốt ráo có thể đắc đạo quả A-la-hán, không thì cũng A-na-hàm, Bất Lai. Đừng nói là bảy năm, sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm... mà chỉ cần một năm tu tập tinh mật là được như thế. Cũng không nhất định là một năm, mà chỉ cần bảy tháng, sáu tháng, năm tháng, bốn tháng, hai tháng, một tháng, nửa tháng cũng được như ý. Có thể có vị chỉ cần 7 ngày là thành đạt rốt ráo cứu cánh của sa-môn hạnh, xứng đáng là một thiện gia Nam tử xuất gia, từ bỏ gia đình cần cầu vượt thoát mọi khổ ách đa mang trên trần thế!

Đức Thế Tôn chấm dứt thời pháp dài. Rợn ngợp là các pháp cốt lõi, tinh yếu! Đại chúng hoan hỷ. Một số tỳ-khưu đắc quả Nhập Lưu. Một số tăng trưởng đức tin. Một số thấy rõ đường đi. Một số đã biết rõ mình phải tự điều chỉnh thân, khẩu, ý, tứ oai nghi như thế nào cho xứng đáng với phẩm mạo sa-môn. Một số khác nữa, khá đông chưa nắm bắt được, có lẽ phải còn nghe đi nghe lại rất nhiều lần qua các vị trưởng lão.

Tôn giả Ānanda rất hạnh phúc vì ngài đã thuộc nằm lòng không bỏ quên bất cứ một câu nào, một đoạn nào; và rồi đây, hễ có dịp, hễ đức Thế Tôn cho phép thì tôn giả sẽ trùng tuyên lại.

Tôn giả Sāriputta trí nhớ cũng đâu có kém gì. Ngài chăm chú tiếp thu khái quát, tổng hợp... như một thống kê, như một biểu đồ mà các phân đoạn, tiết, mục của thời pháp được tóm thâu, phân chia thứ lớp rất phân minh. Nói cách khác, ngài nắm chắc toàn bộ nội dung và ngữ nghĩa. Gặp lúc giảng thuyết lại – ngài sẽ đi từ cái nguyên lý, cái phổ quát ấy rồi sẽ tự tìm ra phương pháp, cách thức để phân tích và giải nghĩa các chi tiết.

Và quả thật như thế. Những ngày hôm sau, các tỳ-khưu phương xa tìm đến, tôn giả Sāriputta và Ānanda đã phải thuyết lại, được đức Phật khen ngợi vô cùng.

Như tâm đắc về thời pháp Bốn lãnh vực quán niệm vi diệu, hôm kia, tôn giả Sāriputta hỏi Phật:

- Bạch đức Tôn Sư! Bài kinh Tứ niệm xứ tối thượng này dường như bao hàm toàn bộ giáo pháp thoát khổ. Đệ tử an lạc cả từng chân tơ kẽ tóc khi thuyết lại cho chư vị tỳ-khưu phương xa. Đệ tử xin được mạo muội nêu ra một ý nghĩ đã khởi sanh, đang khởi sanh; rằng là pháp môn tu này có thể giảng nói giới hạn hay không giới hạn cho hàng tại gia cư sĩ được chăng?

- Được chứ, này Sāriputta! Được, đối với cư sĩ nào có căn cơ thượng trí! Đây là giới hạn. Được, đối với cư sĩ nào có tâm hồn thuần phác chưa thấm nhiễm quá nhiều kiến thức, danh lợi hoặc những chân lý có sẵn! Đây là giới hạn. Được, cho phần đông sống đời có chánh niệm, tỉnh giác trong hơi thở, lúc đi đứng nằm ngồi... để có được hiện tại pháp lạc. Đây là không giới hạn.

- Vậy là đệ tử hiểu rồi! Bạch đức Thế Tôn! Dân chúng bộ lạc Kuru dễ thương này họ mộc mạc, hiền lương và chân thật. Nếu đức Thế Tôn cho phép, đệ tử sẽ giảng nói một loại Tứ niệm xứ rất dị giản, rất dễ tiếp thu cho họ nghe hiểu và thực hành.

- Ừ! Như Lai để cho ông tùy nghi!

Đúng là trí tuệ của bậc Đệ nhất đại đệ tử. Những thời pháp tiếp theo, tôn giả Sāriputta đã giảng nói đến hai hàng cư sĩ. Và ngạc nhiên xiết bao, họ đã tiếp thu khá dễ dàng rồi sau đó, đã thực hành rất tốt, đã áp dụng được Tứ niệm xứ trong đời sống hằng ngày – mang đến kết quả lợi lạc, an vui, hạnh phúc cho cư dân xứ này thật không kể xiết!

 

3.05- Về Hơi Thở

Ra giêng, thời tiết có nắng nhẹ, dễ chịu - đức Phật và hội chúng tỳ-khưu rời Kuru – hai hàng cư sĩ và quần chúng quyến luyến, sụt sùi tiễn chân dọc hai bên đường. Tôn giả Sāriputta đi sau cùng, dừng lại thuyết cho họ nghe một thời pháp, dạy phải biết áp dụng Tứ niệm xứ trong đời sống để vượt thoát khổ ưu, nhất là chấm dứt được ngay những giọt nước mắt ái niệm - để có được sự an vui trong hiện tại. Hãy trở lại với hơi thở đi thôi! Hãy an trú vào hơi thở đi thôi!

Mọi người đã nghe lời, ra về hết - tôn giả Ānanda hóa ra vẫn chưa chịu rời vị sư huynh khả kính, đáng mến của mình, ngài hỏi:

- Hơi thở! Hơi thở! Thưa tôn huynh! Thế nào an trú hơi thở có hiệu quả để được hiện tại pháp lạc?

- Hay lắm! Này hiền đệ! Câu trả lời này chỉ có đức Tôn Sư mới có đủ thẩm quyền để giảng nói. Tôi là ai mà lại dám đánh trống qua cửa nhà sấm?

Khi dừng chân tại khu rừng cây đa ven đường, độ ngọ xong, đức Phật lựa ngồi một chỗ cao ráo dưới gốc cây; tịnh chỉ một lát rồi ngài nói với đại chúng vây quanh:

- Đáng lý ra, về hơi thở, về an trú hơi thở trong hiện tại, Sāriputta có khả năng, có duệ trí để trả lời cho Ānanda nghe được – nhưng do bản chất khiêm tốn, do tôn kính Như Lai, do không dám qua mặt Như Lai; lại còn muốn cho phần đông được nghe nên ông ta đã thoái thác như vậy đấy!

Tôn giả Ānanda nói:

- Lành thay! Bạch đức Thế Tôn! Chúng đệ tử muốn nghe cho rõ ràng về hơi thở, cách thở, toàn bộ nguyên lý của nó để khả dĩ tu tập Tứ niệm xứ một cách có hiệu quả hơn.

- Vậy thì hãy nghe đây, này chư tỳ-khưu! Như Lai sẽ giảng – Nhưng Như Lai sẽ thuyết tóm tắt, còn Sāriputta sẽ thuyết lại bằng trí tuệ phân tích chi ly, sắc bén của ông ta; và cũng nhờ thế, các thầy có thể đặt câu hỏi, đưa ra câu trả lời giữa nhau như là buổi hội thoại, một cuộc pháp đàm thú vị vậy.

Rồi đức Thế Tôn đã giảng như sau:

- Này chư tỳ-khưu! Phép quán niệm hơi thở nó có lợi ích tối thượng, có hiệu quả và công năng tối thượng. Người sơ cơ khi tu tập sẽ làm cho lắng dịu bất an, rối loạn do nóng nảy, giận hờn, bức xúc, buồn chán... gì gì đó tan biến đi. Kẻ trung căn thì giảm trừ được phóng dật, buông lung, trạo cử, vọng tưởng, thất niệm, bất giác – do đã có chỗ để nương tựa, đã có chỗ để an trú. Bậc thượng căn, nếu muốn định, có định, đi sâu vào các tầng thiền định; muốn tuệ, có tuệ, từ cạn vào sâu để lần lượt chứng đắc các tầng thánh đạo quả!

Này các thầy tỳ-khưu! Thở thì ai cũng phải thở, có thở mới sống được, nhưng mấy ai thấy mình đang thở, biết mình đang thở và thở ra sao? Dường như ai cũng giao phó việc ấy cho sinh lý tự nhiên của cơ thể - thở, dường như là phận việc, chức năng của bộ phổi, ít ai để ý tới! Và quả đúng như thế, tất cả mọi người, tất cả chúng sanh – không ai quan tâm đến hơi thở cả; cái mà họ quan tâm là làm thế nào cho mình được sung sướng; gia đình, vợ con mình được ăn ngon, mặc đẹp, tài sản và kho đụn – còn thế gian, mọi người, dầu cho đói khổ, thiên tai, dịch họa họ cũng không màng quan tâm! Chuyện ấy thì chư vị biết rồi, Như Lai không cần nhắc lại. Chỉ cho đến khi tay đã nhúng chàm, chỉ đến khi tội lỗi đã đắm sâu, chỉ cho đến khi đau khổ, thống khổ, chán chường, tuyệt vọng... họ mới đấm ngực, bức tóc, than cha, oán mẹ, kêu trời, kêu đất. Giáo pháp của Như Lai là giáo pháp chỉ nói đến khổ, nguyên nhân khổ và con đường diệt khổ. Vậy những ai cảm thấy mình đau khổ thì hãy đến với giáo pháp của Như Lai. Và tập thở, lắng nghe hơi thở, theo dõi hơi thở, an trú vào hơi thở là bước đầu tiên của con đường nội quán.

Này các thầy tỳ-khưu! Trong thời pháp hôm trước, khi quán niệm thân, Như Lai có nói đến hơi thở - như dài ngắn, sâu cạn, thô tế - chúng vào ra như thế nào, cần phải chú niệm. Ở đây, Như Lai cũng trở lại đề tài này nhưng sẽ rộng rãi hơn, chi tiết và có hệ thống hơn – không chỉ dành riêng cho lãnh vực thân mà cả thọ, tâm và pháp nữa. Chúng ta sẽ có Bốn cách thở thuộc quán niệm thân, Bốn cách thở thuộc quán niêm thọ, Bốn cách thở về quán niệm tâm và Bốn cách thở về quán niệm pháp. Hãy lắng nghe và Như Lai sẽ giảng nói.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm thân?

Ở đây, vị tỳ-khưu khi thở vô dài, biết rõ, thấy rõ đang thở vô dài. Khi thở ra dài, biết rõ, thấy rõ đang thở ra dài.

Khi thở vô ngắn, biết rõ, thấy rõ đang thở vô ngắn. Khi thở ra ngắn, biết rõ đang thở ra ngắn.

Cảm giác toàn thân khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác toàn thân tôi thở ra, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..

An tịnh thân hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. An tịnh thân hành khi thở ra, vị thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận..

Bốn cách thở thuộc về thân này, Như Lai nhắc nhở các thầy chữ tuệ tri – nghĩa là thấy rõ, biết rõ hơi thở thực, trực tiếp trên hơi thở đang vận hành vào ra, xuống lên chứ không bởi tưởng tri hay thức tri. Cảm giác toàn thân – là ghi nhận trực tiếp, trọn vẹn toàn thân hơi thở; phải học, phải thực tập, phải thực hành bài học hơi thở ấy. Càng thực tập, càng chú niệm thì hơi thở sẽ càng ngày càng nhẹ nhàng, vi tế hơn. Khi mà hơi thở nhẹ nhàng, vi tế thì cái thân sẽ không còn thô cứng, tê ngứa hoặc nhức đau nữa – nó đã được ổn định rồi, đã được điều phục rồi. Hơi thở an tịnh, thân cũng được an tịnh. Chính ở đây là an tịnh thân hành khi thở vô, an tịnh thân hành khi thở ra - phải tuệ tri điều ấy, thực tập điều ấy.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm thọ?

Cảm giác hỷ khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác hỷ khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Cảm giác lạc khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác lạc khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy..

Cảm giác tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

An tịnh tâm hành khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. An tịnh tâm hành khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Đây là lãnh vực của cảm thọ, cảm giác nhưng đã được loại trừ khổ và ưu. Tại sao vậy? Vì khi hơi thở đã nhẹ nhàng, thân đã ổn định, an tịnh – thì khổ và ưu không còn tồn tại – mà chỉ có các cảm thọ hỷ, lạc trên lộ trình tu tập thiền quán. Vậy, khi có hỷ hay có lạc - vị ấy vẫn với tuệ tri, nhìn ngắm chúng như chân, như thực khi thở vô cũng như khi thở ra. Khi mà lạc đã thấm sâu, đến độ sung mãn thì tâm như được thấm ướt, tẩm mát - rồi nó sẽ đưa đến sự an tịnh của tâm. Và đây chính là an tịnh tâm hành, là pháp lạc, là thực phẩm an lạc, nó nuôi dưỡng thân tâm trên lộ trình tu tập của mỗi người.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm tâm?

Cảm giác tâm khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Cảm giác tâm khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Với tâm hân hoan khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm hân hoan khi thở ra, vị ấy cũng làm như vậy.

Với tâm định tĩnh, khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm định tĩnh khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Với tâm giải thoát, khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tâm giải thoát khi thở ra, vị ấy cũng làm như thế.

Tâm ở đây, nó không đơn giản là tâm thức hay tâm ý. Nó gồm cả tưởng, hành và thức. Nó gồm tất thảy tâm vương và tâm sở. Nói cách khác, nó gồm cả 16 loại tâm trong thời pháp quán niệm tâm. Tuy nhiên, ở đây, do thân tâm đã trở thành một khối thuần nhất an tịnh – thì các loại tâm xấu, ác, bất thiện sẽ không còn tồn tại. Nếu hơi thở càng được an trú thì an tịnh càng được kiên trú – theo đó, các loại tâm lành, tốt, thiện sẽ nẩy sinh – nó chi phối, lây lan ảnh hưởng làm cho thọ, tưởng và các tâm sở liên hệ cũng đều được thấm nhuần, thanh lương; và đó là các loại tâm hân hoan, định tĩnh, giải thoát.

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là Bốn cách thở thuộc về quán niệm pháp?

Với vô thường tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với vô thường tùy quán khi thở ra, cũng y như thế..

Với ly ái tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe theo dõi, ghi nhận. Với ly ái tùy quán khi thở ra, cũng y như thế.

Với tịch diệt tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với tịch diệt tùy quán khi thở ra, cũng y như vậy.

Với xả ly tùy quán khi thở vô, vị ấy thực tập, lắng nghe, theo dõi, ghi nhận. Với xả ly tùy quán khi thở ra, cũng y như vậy.

Khi tâm đã có được hân hoan, định tĩnh, giải thoát - nghĩa là giải thoát tạm thời được các triền cái, kiết sử, trần cấu - thầy tỳ-khưu còn cần phải đi sâu vào quán chiếu, minh sát các pháp để phát sanh tuệ giác, tuệ minh. Đến đây, thầy tỳ-khưu quán sát như thực tánh thấy rõ sắc sanh sắc diệt, thọ sanh, thọ diệt, tưởng sanh, tưởng diệt, hành sanh hành diệt, thức sanh, thức diệt. Nói gọn hơn là danh sắc sanh, danh sắc diệt. Chúng sanh diệt rất nhanh, chúng tụ rồi tan, chúng có rồi mất, chúng đến rồi đi. Nói cách khác, chúng sanh khởi, an trú, lụi tàn... tức là thay đổi, biến hoại, vô thường. Nhờ vô thường tùy quán [21] ấy mà thầy tỳ-khưu không còn thấy tướng của các hành - mở được cánh cửa thứ nhất là vô tướng giải thoát [22].

Còn ly ái tùy quán? Ở đây vì thấy tất cả mọi danh sắc, nghĩa là thân hành, tâm hành đều thay đổi, biến hoại, vô thường nên thầy tỳ-khưu sẽ không khởi lên lòng ái dục với các pháp hữu vi, với các hành[23] nữa – nên gọi là ly ái; và cũng nhờ ly ái tùy quán[24] nên thoát khỏi các khổ, mở được cánh cửa giải thoát thứ hai là vô ái giải thoát[25].

Này các thầy tỳ-khưu! Thế nào là tịch diệt tùy quán[26]? Tịch diệt nghĩa là vắng lặng các hành, nghĩa là Niết-bàn. Thật ra, hai cửa trước đã hàm nghĩa Niết-bàn rồi - một, hai phần Niết-bàn; nhưng chỉ có ở đây Niết-bàn mới toàn diện hơn. Ở đây, khi thầy tỳ-khưu thấy được sự vắng lặng các hành, hoặc các hành là rỗng không như thân cây chuối không có lõi - các hành vô ngã - đồng nghĩa thấy được không tánh của các hành trong đạo lộ siêu thế - vị ấy mở được cánh cửa cuối cùng được gọi là tịch diệt giải thoát hoặc không tánh giải thoát [27].

Cuối cùng, này các thầy tỳ-khưu! Là xả ly tùy quán! Khi thấy được vô tướng, vô ái, không tánh, vị ấy đã giải thoát, biết mình đã giải thoát – nhưng không chấp thủ vào giải thoát ấy – nên được gọi là xả ly tùy quán. Nói cách khác là để tâm rỗng rang, không dính mắc bên trong, không dính mắc bên ngoài để tùy duyên rộng độ chúng sanh.

Này các thầy tỳ-khưu! Đấy là nguyên lý thở; nói cách khác là toàn bộ cách thở, phương pháp thở trong bài pháp Tứ niệm xứ! Không có, không còn một cách thở nào khác. Hãy như thế mà thọ trì! Điều gì chưa lãnh hội, chưa khai thông - thì cứ hãy tìm bậc Chưởng giáo của các ông mà học hỏi để tu tập cho có hiệu quả hơn.

 

3.06- Chỉ Việc Thở Thôi

Bài pháp cô đọng quá, súc tích quá – tôn giả Ānanda tuy có thể tuyên thuyết lại được, nhưng về hàm lượng ngữ nghĩa để áp dụng vào đời sống tu tập hằng ngày thì còn nhiều thắc mắc.

Lúc gặp riêng bậc Chưởng giáo, tôn giả Ānanda hỏi:

- Đầu tiên là Bốn lãnh vực quán niệm - nếu nói cạn và sâu, thô và tế thì chúng ta nên đi tuần tự thân, thọ, tâm, pháp, có phải vậy không, hiền huynh?

- Đúng là vậy.

- Bây giờ cho đệ hỏi về thân. Bốn oai nghi đi đứng nằm ngồi, co tay, duỗi chân, mặc y, mang bát, nói cười, tắm rửa, đại tiểu tiện... ta phải thường trực chú niệm mọi cử chỉ, mọi động thái đang diễn ra, đang xảy ra, đang vận hành, đang tương tác với ngoại giới – nghĩa là toàn bộ chúng đều được trực thức nhìn ngắm trong hiện tại, hiện tiền - mà không nên để cho một sát-na thất niệm, buông lung, phóng dật nào?

- Đúng vậy!

- Đối với những người nhiều tham dục, nhiều đam mê thân xác và tình dục - biện pháp đối trị cho căn cơ ấy thì nên quán 32 thể trược và 10 tướng của tử thi?

- Đúng là vậy, hiền đệ đã hiểu rất chính xác.

- Về thân còn có hơi thở. Có cách niệm hơi thở nghiêng vào định, đi sâu vào định. Có cách niệm hơi thở nghiêng về tuệ, phát triển tuệ giác? Tuy nhiên, cả định và tuệ đều phải nhẹ nhàng, thanh thản, tự nhiên - đừng cố gắng thái quá, nỗ lực thái quá; đừng bắt hơi thở phải như thế này, phải như thế kia; nghĩa là hơi thở mình sao thì cứ ghi nhận tự nhiên, trung thực như thế. Và quan trọng nhất, là phải thường trực thắp ở đấy một ngọn đèn!

- Chính xác!

- Tuy nhiên, khi mình nhìn ngắm một ngọn núi, một con suối, một rừng hoa, một dòng sông, một con đường mòn... thì chúng ta không thể nào vừa an trú hơi thở một cách trọn vẹn vừa nhìn ngắm đối tượng ngoại giới một cách trọn vẹn, như thực, như chân được?

- Dĩ nhiên là vậy, hiền đệ! Vòng tròn của một bánh xe chỉ tiếp xúc mặt đất chỉ một điểm – thì tâm ta cũng vậy, chỉ một đối tượng; khi có đối tượng này thì không có đối tượng kia. Tâm ta không thể có hai tư tưởng đồng hiện hữu.

- Thọ, cảm giác nơi thân, nơi tâm cũng phải trong sáng và chân thực như thế, tự nhiên như thế?

- Ừ ! Hiền đệ đã nắm được nguyên lý.

- Tâm sanh khởi do duyên căn trần; nói cách khác – duyên xúc, thọ mới có ái, thủ, hữu. Vậy, nếu cảm giác được nhìn ngắm trong sáng, chân thực – thì tâm, theo đó, cũng trong sáng và chân thực. Từ đấy mà ta quán tâm, và ta sẽ tuệ tri các trạng thái của tâm - phải vậy không hiền huynh?

- Đúng vậy!

- Duyên căn-trần-thức như thế nên có pháp như thế. Rồi trên lộ trình tu tập, đâu là pháp chướng ngại, kiết sử, phiền não, đâu là pháp thanh lương, quang sáng, vô nhiễm... cũng bởi đó mà ta tuệ tri, chứng nghiệm trong lòng mình – có phải vậy không thưa bậc Chưởng giáo?

- Hay lắm! Tuyệt vời lắm! Tôn giả Sāriputta tán thán - Hiền đệ vừa có trí đa văn, bây giờ lại có thêm trí phân tích, cô đọng rất thiện xảo nữa!

Tôn giả Ānanda mỉm cười:

- Và đệ còn biết nữa rằng, chỉ cần thở, chỉ cần an trú trên hơi thở - thì tất cả cái gọi là cảm giác, tâm, pháp gì đó sẽ lần lượt hiện ra để ta tuệ tri như thực; và rồi không chóng thì chầy – cũng nếm thưởng được hương vị của pháp bảo tận đầu nguồn.

- Chỉ việc thở thôi, đúng vậy – Tôn giả Sāriputta cũng mỉm cười đáp lại – Hy vọng bậc đa văn, lợi trí của chúng ta sẽ làm được như thế, sẽ thành tựu được như thế.

 

3.07- Hóa Độ Du Sĩ Magandiya

Hôm kia, đức Phật lại ôm bát một mình đi khất thực ở thị trấn Kammasadhamma, sau đó tìm đến một khu rừng để nghỉ trưa. Ngài có một cuộc hẹn vào buổi chiều ở nhà người bà-la-môn thờ thần lửa thuộc dòng họ Bharadvaja.

Du sĩ Magandiya, một biện sĩ thuộc phái hưởng lạc, trong khi đi bộ ngao du, rong chơi đây đó, ghé nhà người bà-la-môn, thấy đâu đó đã được dọn dẹp, sửa soạn tươm tất; chính giữa phòng khách thấy có một tấm nệm cỏ đẹp được đan bện công phu, tinh xảo như đang chờ đợi, để dành cho ai đó. Ngạc nhiên, y hỏi:

- Cái chỗ ngồi chỉ là cỏ rác mà có vẻ trân trọng thế kia, dường như được soạn sẵn cho một vị sa-môn khổ hạnh nào đó phải chăng?

- Là vậy mà không phải vậy - Người bà-la-môn mỉm cười, dịu dàng nói - tấm tọa cụ là cỏ rác nhưng tâm của tôi không hề cỏ rác chút nào! Còn đức Thế Tôn đâu phải là khổ hạnh sư, ngài là một bậc Chánh Đẳng Giác, một vị đại A-la-hán, là bậc thầy của chư thiên và loài người.

Du sĩ Magandiya chợt cười ha hả:

- Đúng vậy rồi! Đúng là sa-môn Gotama rồi! Ôi, thật là bất hạnh thay, đấy là vị đã phá hoại sự sống!

- Này Magandiya! Ông hãy thận trọng lời nói! Người bà-la-môn trừng mắt - tại sao ông dám bảo sa-môn Gotama là người phá hoại sự sống?

- Đúng vậy chứ, tôi nói khác sao được? Sa-môn Gotama đã tự mình hành thân hoại thể; ăn, ở, mặc đều tiết chế, diệt dục - rồi dạy cho đệ tử từ bỏ gia đình, sống không gia đình làm cho không biết bao nhiêu mầm sống của chúng hữu tình không được mở mắt chào đời! Thế không được gọi là hủy diệt sự sống hay sao?

Người bà-la-môn cất giọng bình tĩnh, ra đòn phản công, không khoan nhượng:

- Thôi được rồi, tôi nói chuyện không lại với ông. Nếu có ngon lành thì ông hãy đến đối thoại với sa-môn Gotama. Và tôi biết chắc chắn một điều rằng, là ông sẽ cúi đầu, thụt lưỡi, im re, run lập cập khi mà sa-môn Gotama chất vấn ông. Tại sao vậy? Ôi! Có biết bao nhiêu là vua chúa trí giả, nhiều vương tộc trí giả, nhiều bà-la-môn trí giả, nhiều danh sĩ trí giả, nhiều đại triệu phú trí giả... đã phải quy y theo sa-môn Gotama? Ôi! Có biết bao nhiêu là du sĩ, biện sĩ, lang thang sĩ, miệng lưỡi trơn tuột, lắc léo, trườn uốn như con lươn; biết bao nhiêu là khổ hạnh sĩ, đạo sĩ, cuồng sĩ, ngu si sĩ... với môi mép hàng tôm, hàng cá, đánh tráo chữ nghĩa lươn lẹo như con buôn... Họ đấy, một phần đã phải co giò, vác cẳng, khòm lưng lủi trốn như chuột chù, chuột hôi; một phần quy giáo sa-môn Gotama hoặc đệ tử của sa-môn Gotama. Và cũng rất đông là ngần ấy trí thức đã xuất gia theo giáo pháp của đức Tôn Sư. Ông là gì? Là một biện sĩ lỗi lạc ư? Là một lang thang sĩ của phái hưởng lạc ư? Hãy giữ cái lưỡi cho cứng, cái lưng cho thẳng mà đối thoại với sa-môn Gotama - một bậc Chẳng Đẳng Giác hằng triệu triệu năm mới xuất hiện một lần. Có xứng không? Hãy chờ đấy!

- Thôi được rồi, đừng có mà tán thán kẻ phá hoại sự sống kia một cách cuồng tín như thế. Chửi rủa và phỉ báng ta như thế là đủ rồi. Kẻ trí không chấp nê miệng lưỡi của bọn ngu ngốc có cái tâm trí đen thui như cột nhà cháy. Được rồi, ta sẽ đợi – và ta sẽ làm cho sa-môn Gotama thụt lưỡi, im re cho mà xem. Hãy chỏng tai mà nghe!

Đức Thế Tôn với thiên nhĩ thuần tịnh siêu nhân, nghe biết cuộc đối thoại vừa rồi, ngài xả thiền đi đến nhà người bà-la-môn thờ thần lửa. Bà-la-môn Bharadvaja tiếp đón đức Phật một cách cung kính, trong lúc du sĩ Magandiya chỉ chào hỏi ngài có vẻ xã giao.

Ngồi trên chỗ đã được chuẩn bị sẵn, đức Phật lướt nhìn bà-la-môn chủ nhà và du sĩ Magandiya rồi vào đề ngay:

- Có phải vừa rồi đã có một cuộc nói chuyện thú vị - cục đất quăng qua, cục bùn ném lại - giữa hai vị từ tấm nệm cỏ này?

Du sĩ Magandiya ớn lạnh xương sống. Bà-la-môn lông tóc dựng ngược, thưa bạch:

- Chính vì con đã không chịu nổi cái ngông nghênh, ngã mạn của ông đạo sĩ này nên đã có những lời khiếm nhã với y – có lẽ đã làm bẩn tai bậc thiên nhĩ thuần tịnh. Chính vì con muốn trình bày chuyện ấy với đức Thế Tôn, nhưng hóa ra ngài đã biết tất cả rồi!

Đức Phật quay sang du sĩ Magandiya:

- Sự sống, theo quan niệm của ngươi – là như thế nào hở Magandiya?

Magandiya thận trọng, giữ sự im lặng cần thiết, xem thử có cái bẫy nào ở đấy không!

- Hay theo học thuyết có vẻ cao siêu và lọc lõi của giáo phái ngươi – là sự trưởng thành, khôn ngoan, kinh nghiệm phải được thực hiện qua sáu giác quan? Và suốt cuộc đời là phải làm cho sáu giác quan ấy được tích lũy kinh nghiệm không hạn chế qua sự thỏa mãn sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp? Và đấy chính là hạnh phúc tối thượng theo như thánh thư của phái hưởng lạc?

- Đúng là vậy! Thánh điển của chúng tôi đã có truyền lại như thế.

- Và vì Như Lai chủ trương sống phòng hộ sáu giác quan, nghịch với quan điểm của phái hưởng lạc nên ngươi cho là Như Lai phá hoại sự sống?

- Đúng là vậy, thưa sa-môn Gotama.

Đức Phật cất giọng ôn nhu, điềm đạm:

- Nhưng nếu có những người hưởng thụ năm món dục lạc - đến một lúc nào đó cảm thấy chán mứa, cảm thấy không chịu nổi; họ muốn tìm một nơi thanh vắng, muốn xa lìa đời sống ngũ dục – thì ngươi nghĩ về họ như thế nào hở Magandiya?

Magandiya lửng thửng:

- Tôi không có ý kiến gì với hạng người ấy.

- Thế có một người khác, sau khi hưởng thụ ngũ dục - thấy nó dường như càng uống thì càng khát, không bao giờ thỏa mãn được dù săn đuổi suốt cuộc đời – nên họ cảm thấy ngũ dục là nguy hiểm – thì ngươi nghĩ về họ như thế nào hở Magandiya?

Magandiya vẫn ơ thờ, dấm dẳng:

- Cũng thế! Hơi đâu! Cứ mặc! Kệ chúng! Tôi vẫn không có ý kiến gì – vì quả thật thế gian có người như vậy.

- Vậy thì năm món dục lạc - Đức Phật vẫn từ hòa, kiên nhẫn - đối với người này thì vị ngọt, đối với người khác thì chán mứa, đối với người khác nữa là nguy hiểm – có phải vậy không, Magandiya?

Magandiya bây giờ mới gật đầu, có vẻ như “Chính ta cũng đồng quan điểm như vậy đó, có gì là lạ lắm đâu!” :

- Đúng thật vậy rồi!

- Như Lai cũng thế đấy, này Magandiya! Thuở còn tại gia, Như Lai hưởng thụ đầy đủ, hưởng thụ sung mãn năm món dục lạc; đến một lúc nào đó, Như Lai cảm thấy không còn chịu nổi, cảm thấy nó nhiệt não, nóng bức, chán ngấy – nên Như Lai đã từ bỏ chúng, xuất ly chúng. Nhờ từ bỏ chúng, xuất ly chúng nên Như Lai được vô khổ, vô phiền, an tịnh, thảnh thơi... Đấy đâu phải là hủy diệt sự sống hở Magandiya? Hay đấy lại là sự sống thanh bình, mát mẻ, êm đềm, hư tĩnh, thanh cao hơn - hơn là sự sống bầy nhầy, bì bọp trong vũng ngũ dục tối tăm, thấp hèn – như dòi bọ no nê trong đống phẩn hôi, xác thối, cá ươn của chúng?

Magandiya nín lặng – chàng chợt toát mồ hôi lạnh và cảm thấy mình đang bị tấn công; và thánh điển của mình đã bắt đầu bị lộ khuôn mặt có nhọ đen và bùn bẩn...

- Dục lạc cõi người hạ liệt, thấp kém lắm, này Magandiya! Một người sinh lên cõi trời Ba mươi ba được chúng thiên nữ hầu hạ, thọ hưởng các thiên dục một cách sung mãn - vị trời kia có khao khát trở lui thọ hưởng năm món dục lạc của cõi người nữa không, này Magandiya?

- Thưa không – vì dục lạc cõi trời thù thắng, vi diệu hơn cõi người.

- Ví như một người bị bệnh cùi với thân thể lở loét, hư thối, nứt chảy, bị các loại trùng đục khoét - đang dùng móng tay cào rách các vết thương rồi đốt chúng bởi lửa nóng - người ấy cảm thấy khoái trá vì dịu cơn ngứa, vì đả ngứa. Nhưng một người lành mạnh hay một người cùi đã khỏi bệnh, khi nhìn cảnh tượng ấy, có ao ước được như người cùi ấy không, này Magandiya?

- Thưa không, không những không ao ước mà còn thấy tình cảnh ấy là đáng sợ.

- Dục lạc thế gian cũng tương tợ như người bị bệnh cùi với tình cảnh như vậy. Lấy móng tay cào rách các vết thương, hơ lửa nóng để tìm sự khoái trá, đả ngứa – nghĩa là tìm vui trong khổ, khổ thọ lại cho là lạc thọ - đấy được gọi là ngu si điên đảo tưởng, là kiến chấp hoang vu tưởng, ngươi có biết không, thầy ngươi có biết không, thánh điển của nhà ngươi có biết không, Magandiya?

Magandiya cúi đầu, tự nghĩ: “Vậy là, giáo thuyết của giáo phái ta đã thật sự không còn chỗ đứng trước ví dụ cụ thể, hiện thực của sa-môn Gotama rồi.

- Dục là lửa nóng, dục là khổ não, dục là đáng sợ - phải biết xa lìa. Dẫu cho lạc cõi trời, lạc của định sắc và vô sắc; chúng vi tế, thanh lương, thù thắng hơn rất nhiều; nhưng đối với bậc trí, họ cũng viễn ly, xa lánh để sống đời an tịnh, giải thoát, vô bệnh – đúng như kệ ngôn:

“ Vô bệnh, lợi tối thắng

Niết-bàn, lạc tối thắng

Bát chánh là độc đạo

An ổn và bất tử”.

Nghe đến đây, du sĩ Magandiya cố gỡ gạc sĩ diện nên hoan hỷ thốt lên:

- Đúng là vậy, sa-môn Gotama đã nói rất đúng: “Vô bệnh, lợi tối thắng. Niết-bàn, lạc tối thắng”. Các vị tôn sư, đại tôn sư của chúng tôi cũng truyền bài kệ ấy.

- Vậy thế nào là không bệnh, thế nào là Niết-bàn, hở Magandiya?

Magandiya lúng túng, giả vờ lấy tay xoa bóp chân tay của mình rồi nói:

- Tôi nay cũng hoàn toàn vô bệnh, chẳng có triệu chứng ốm đau, bệnh tật gì.

- Nói như vậy chứng tỏ ngươi không hiểu gì cả, chứng tỏ ngươi đã bị tôn sư, đại tôn sư của ngươi lừa gạt rồi, ngươi có biết không?

- Bị lừa gạt như thế nào, thưa sa-môn Gotama?

- Câu kệ ngôn ấy không có trong thánh điển của giáo phái ngươi. Đấy là kệ ngôn của bậc Chánh Đẳng Giác quá khứ còn truyền tụng giữa nhân gian, lâu quá, người ta quên mất hai câu sau. Tôn sư, đại tôn sư của nhà ngươi, chỉ biết hai câu trước, đọc lên như vẹt mà không hiểu pháp ngữ của nó – mà chỉ còn hiểu nơi thường ngữ thôi.

- Xin được nghe lời chỉ dạy.

- Này Magandiya! Có một người mù bị lừa gạt về màu sắc – thì ngươi cũng bị lừa gạt về vô bệnh và Niết-bàn – hãy nghe, và Như Lai sẽ có ví dụ cụ thể.

- Thưa vâng.

- Một người sinh ra đã mù, không biết gì về màu sắc, không có khái niệm gì về thế giới xung quanh. Hôm kia, có một kẻ vô công rỗi nghề, lấy chuyện lừa gạt thiên hạ làm thú tiêu khiển; y lấy một tấm vải thô dính nhọ dầu và bùn đất – đem tặng người mù, nói rằng:“Đây là chiếc áo được sản xuất và may thêu tại xứ Kāsī, trắng như bông, lóng lánh những sợi tơ trời, đẹp lắm, bạn hãy mặc vào đi.” Người mù, tin tưởng người sáng mắt, mặc vào, đi tới, đi lui cảm thấy sung sướng, hãnh diện – nhưng đâu có biết rằng, mình bị người sáng mắt chơi xỏ, lường gạt? Cũng vậy là trường hợp của ngươi, này Magandiya. Năm món dục lạc là khổ, là nóng bức, là nhiệt não, là cục bướu, là thấp thỏi... nhưng tôn sư, đại tôn sư của ngươi - lại chủ trương hưởng lạc, coi khổ thọ như lạc thọ - thì chúng đã không chơi xỏ, lường gạt ngươi là gì, này kẻ mù mắt?

Magandiya lạnh người, bàng hoàng. Lát sau, y hỏi:

- Vậy làm thế nào để được sáng mắt, thưa sa-môn Gotama quý kính?

- Đối với những người mù mắt - thì người ta thường làm như thế nào để chữa trị, hở Magandiya?

- Tuỳ theo bệnh mù mắt nặng, nhẹ của từng người – có thể nhờ y khoa xét nghiệm, để biết có người không thể chữa trị được do quá nặng bởi mù mắt tiên thiên, bẩm sinh; có người mù, nhẹ, do từng nguyên nhân bệnh lý khác nhau, thì có thể mổ xẻ hoặc có thể xức thuốc, bôi thuốc - tùy từng trường hợp!

- Cũng tương tợ vậy, này Magandiya! Đối với người mù mắt quá nặng do tiên thiên, bẩm sinh - được ví như người có vô minh, chấp kiến quá sâu dày, Như Lai không thể chữa trị được. Riêng đối với người mù mắt nặng, nhẹ do các trường hợp bệnh lý khác nhau, Như Lai sẽ chữa trị theo nhiều cách. Có người, Như Lai chỉ cho họ thấy các cảnh giới đau khổ của tứ ác đạo và hạnh phúc nơi các cõi trời. Có người, Như Lai hướng dẫn cho họ tu tập bố thí, trì giới. Có người, Như Lai chỉ cho họ các đề mục về thiền định. Có người, do có căn cơ sâu dày, Như Lai sẽ mổ xẻ, phân tích chi ly về khổ, về nguyên nhân khổ, về diệt khổ, về con đường diệt khổ. Có người, do có rất ít bụi cát trong mắt, Như Lai chỉ nói vài câu tinh yếu, cốt lõi của giáo pháp - tương tợ như chỉ cần một tí thuốc để xức, để bôi thì người kia liền lành bệnh... Và khi mắt đã được chữa lành, được sáng tỏ thì người mù mắt mới biết là mình bị lừa gạt. Khi ngươi thân cận với bậc chân nhân, ngươi mới học hiểu được rằng dục lạc thế gian là nhiệt não, là bệnh chướng, là cái đáng kinh sợ, nhờm gớm, xa lìa. Cái thân này chính là bệnh, là cục bướu, là cái mũi tên cần phải nhổ đi. Đến đây, ngươi mới nghĩ được rằng: Hóa ra, từ lâu ta đã bị phỉnh phờ, lường gạt, dối lừa nên đã xem khổ thọ là lạc thọ, sinh ra kiến chấp điên đảo tưởng, sinh ra chấp thủ ngũ uẩn. Bậc chân nhân dạy rằng: Do chấp thủ nên có hữu, có hữu thì có sinh, có sinh nên có già chết. Đấy là tập khởi toàn bộ khổ uẩn. Thấy rõ toàn bộ khổ uẩn ấy là sáng mắt, là vô bệnh. Chấm dứt toàn bộ khổ uẩn ấy là Niết-bàn. Thực hiện con đường đến Niết bàn chỉ có một đạo lộ duy nhất là bát chánh, là lộ trình của an ổn và bất tử vậy.

Nghe xong thời pháp, bà-la-môn thờ thần lửa thuộc dòng họ Bharadvaja mở sáng được con mắt tuệ, có thể tự đi được bằng đôi chân của mình. Còn du sĩ Magandiya thì xin được quy y và xuất gia, thọ đại giới. Đức Phật bảo rằng, vì ông là ngoại đạo, cần phải biệt trú bốn tháng; thứ nhất là để suy gẫm, gột rửa những tri kiến cũ đã đóng khói, mọc rêu trong tâm thức truyền đời của ông; thứ hai là để học hỏi những oai nghi tế hạnh, thực tập những pháp căn bản vào buổi đầu.

Nghe vậy, du sĩ Magandiya xin được biệt trú bốn năm rồi hẳn thọ đại giới sau.

- Điều ấy là rất tốt, này Magandiya!

Đức Phật nói thế xong, và ngài còn biết rõ rằng, vị du sĩ này, sau này sẽ là một vị A-la-hán.

 


[1] Tỳ-khưu, Tỳ-khưu-ni, sa-di, sa-di-ni, sikkkhamanī, ưu-bà-tắc, ưu-bà-di.

[2] Thân (kāya), thọ, cảm giác (Vedanā), tâm (tâm vương - citta và tâm sở-cetasika), pháp(dhamma)..

[3] Thân 3 (Sát sanh, trộm cắp, tà hạnh); khẩu 4 (nói dối, nói hai lưỡi,nói thêu dệt, nói ác độc), ý 3 (tham, sân, tà kiến).

[4] Tức là tưởng (saññā), thức (viññāṇa), tuệ (Pañña).

 

[21] Aniccānupassī - người ta thường dịch là vô thường tùy quán – nhưng thật ra, anupassī đồng nghĩa với anupassaka - người đứng quan sát, là người đứng xem- là người đứng quan sát vô thường thì chính xác hơn.Cũng có từ tương đương là Aniccānupassanā.

[22] Animitta vimokkha: Vô tướng giải thoát. Ý nói- vì chúng thay đổi luôn – nên các pháp vốn không có một tướng nào cả, một thực thể nào cả.

[23 Saṅkhāra: Hành, sự lăng xăng tạo tác - gọi chung là 50 tâm sở - đi liền với các tâm vương để tạo tác các nghiệp bất thiên, thiện, bất động – thành dục hữu, sắc hữu, vô sắc hữu để thọ sanh ba cõi dục, sắc và vô sắc giới.

[24] Virāgānupassī: Ly ái tùy quán. Thật ra rāga ở đây hàm nghĩa cả tham, cả ái, cả dục, cả tình dục. Vì ly ái nên thoát khỏi các khổ - nên còn được gọi là khổ tùy quán (dukkhanupassanā). Cũng có từ tương đương là vô nguyện tùy quán (appaṇihītānupassanā).

[25] Arāgā vimokkha: Vô ái giải thoát – cùng một nghĩa vô nguyện giải thoát (appaṇihīta vimokkha)

[26] Nirodhānupassī: Tịch diệt tùy quán – cùng một nghĩa với không tánh tùy quán (suññātanupassanā)

[27] Suññāta vimokkha: Không tánh giải thoát. Giải thích thêm: Vì thấy mọi danh pháp, sắc pháp đều duyên khởi, vô tự tính, vô ngã – nên thấy được không tánh của các pháp.

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn