(Xem: 1493)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

3.18- Chiếc Lá Đắng

13 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 13156)

Một Cuộc Đời, Một Vầng Nhật Nguyệt

Tập_03

Nghe:3.20-Tu hạnh chó hạnh bò blank

Nghe:3.22-Những người bạn cũ blank


3.18- Chiếc Lá Đắng

Rời ni viện, đức Phật trở lại Sảnh Đường Nóc Nhọn ở Mahāvana thì thấy chư tăng trong vùng đã tìm đến và đợi ngài rất đông. Các vị tôn giả ở trú xứ này và các vùng lân cận tìm đến đảnh lễ và vấn an sức khỏe của ngài.

Đức Phật thấy các vị có số đã già yếu như Kondañña, Vappa, Assaji... ngài khuyên không cần thiết phải ta bà khổ hạnh trì bình khất thực nơi này và nơi kia nữa; nên ở một trú xứ, thường là có tứ sự đầy đủ để cho chư tăng nương nhờ, y chỉ. Các vị trưởng lão khác như Gayākassapa, Nadīkassapa... cũng không cần thiết phải thọ trì hết tất cả các pháp đầu-đà, tuổi tác và khí huyết suy nhược sẽ không kham nổi nắng mưa, sương gió - nếu bệnh mà nằm xuống là thiếu mất những bậc giáo thọ uy nghi, gương mẫu và nhiều kinh nghiệm.

Các vị cúi đầu, tuân mệnh.

Buổi chiều, một vị vua trong số ba vua Licchavī dẫn một hoàng tử còn trẻ đến yết kiến đức Phật. Vị vua tâu nhỏ rằng, hoàng tử, con của ông cứng đầu khó dạy bảo quá; nguy hiểm nhất là nó lại rất độc ác. Sự phẫn nộ, hung dữ của nó thật không còn ai chịu đựng nổi. Với tay chân thuộc hạ xung quanh, khi mà nó nổi trận lôi đình lên thì nó đánh nó đập với đùi với gậy, với cả gươm đao nữa. Nó độc hơn cả một con rắn độc! Nó điên cuồng hơn cả một con voi động dục! Cha mẹ, anh em, họ hàng không những không khuyên lơn gì được - mà nó còn coi chúng tôi không ra gì! Nghe đức Tôn Sư đến, chúng tôi rất mừng. Cả hội đồng hoàng gia họp kín, nói rằng, chỉ may ra đức Tôn Sư mới giáo hóa nó nổi mà thôi! Vậy, trăm lạy Tôn Sư, ngàn lạy tôn sư, vạn lạy Tôn Sư hãy mở tâm Đại Từ Bi và Đại Trí Tuệ cứu độ, tiếp độ con của chúng tôi!

Thấy vị vua già sụp lạy với cái trán lộp độp dưới đất, đức Phật đứng dậy, kéo tay ông, chỉ vào một chiếc ghế bên cạnh, nói rằng:

- Hãy bình tĩnh ngồi xuống, thư giãn một chút đi. Chuyện đâu còn có đó. Ừ, Như Lai sẽ giúp đức vua!

Nói xong, đức Phật tản bộ ra ngoài sân, thấy hoàng tử trẻ đang dùng lửa đốt một ổ mối, ngài biết là ác độc đã như là một cái gì bẩm sinh - do nghiệp quá khứ chi phối - đã trở thành quán tính mất rồi! Khởi một làn sóng tâm từ bao trùm “ ông hoàng con” rồi ngài dịu dàng nắm tay chú bé kéo dậy. Thấy vị đại sa-môn với nụ cười tươi rạng, đồng thời cảm nhận một cái gì đó mát mẻ cả châu thân, chú bé vui vẻ... bước theo ngài, không cưỡng được. Rồi từng bước một, từng bước một, họ đi dạo như hai người bạn thân.

- Tiểu hoàng tử thấy dễ chịu khi đi bên Như Lai chứ?

- Dạ thưa vâng, rất dễ chịu!

- Ở trong chỗ hoàng cung cao sang, tiểu hoàng tử thường thấy mình dễ chịu hay khó chịu?

- Thưa, ít lắm - lúc nào con cũng nóng nảy, bực bội, muốn đập một cái gì đó, muốn đánh một cái gì đó... cho đã nư, cho hả dạ!

- Những lúc như vậy chắc trong lòng tiểu hoàng tử “nóng” lắm nhỉ?

- Thưa vâng, nóng lắm, nóng như có lửa đốt bên trong!

- Ừ, vậy thì khi nào nóng nảy quá thì đến đây đi dạo với Như Lai. Không có Như Lai thì đi dạo với các vị trưởng lão, để cho cái lửa ấy nó nguội đi, được chăng?

- Thưa vâng!

Đức Phật mỉm cười, mỉm cười với tâm từ:

- Tiểu hoàng tử đã tỏ ra rất ngoan ngoãn! Vậy thì đi dạo với Như Lai một chút nữa nhé! Như Lai muốn cho tiểu hoàng tử xem cái này!

Dừng lại bên một mầm cây Nimba - có vị đắng kinh khiếp - vừa nhú lên hai lá, đức Phật nói với chú bé:

- Tiểu hoàng tử có thấy cái mầm cây nhỏ bé mà trông rất sung sức ấy không?

- Thưa, thấy ạ!

- Tiểu hoàng tử hãy nhấm chiếc lá của cái cây ấy xem thử mùi vị nó như thế nào?

Chú bé cúi xuống rứt chiếc lá. Trong lúc ấy thì đức Phật trả lại tâm tính tự nhiên cho chú bé, không sử dụng năng lực của tâm từ nữa.

Chú bé đưa vào miệng, vừa cắn một chút từ đầu lưỡi, chú vội vàng nhả ra, vừa nhổ xuống đất vừa phun phì phì - kèm theo lời nguyền rủa:

- Cái lá chết tiệt! Cái lá giết người!

Đức Phật mỉm cười:

- Tiểu hoàng tử cảm nhận chiếc lá ấy ra sao?

Chú bé nhăn mày đáp:

- Thưa đại sa môn! Lá ấy đúng là thuốc độc chết người; nếu mà nó lớn lên, không biết sẽ làm chết bao nhiêu người khác nữa!

Nói xong, chú bực bội nhổ cây Nimba lên, chà nát nó trong hai tay của mình với dáng vẻ vô cùng tức giận. Rồi chú chỉ vào xác lá, đọc lên một câu kệ:

“ - Chỉ chiếc lá tỉ ti!

Cách đất bốn đốt tay

Mà sao lại độc ác

Lớn lên tích sự gì?”

Biết nhận thức đúng đắn trong tâm chú bé đã khởi động, đức Phật dịu dàng nói:

- Cây Nimba nhỏ bé này, vị nó đắng chát chết người, lớn lên sẽ chẳng làm được gì, là đồ ăn hại, có phải thế không, tiểu hoàng tử?

- Thưa, đúng vậy! Là đồ ăn hại, nên con đã hủy diệt nó rồi, thưa đại sa-môn!

Đức Phật lại ân cần nắm tay chú bé, về lại sảnh đường nhưng lại rẽ sang hướng khác.

- Này tiểu hoàng tử! Chiếc lá đắng của cây Nimba vừa giúp cho Như Lai một bài học, không biết tiểu hoàng tử có muốn chia sẻ điều ấy với Như Lai không?

- Dạ, muốn lắm!

- Chiếc lá cũng được ví như người! Trên thế gian này có biết bao nhiêu là người có tâm tính cũng đắng chát như chiếc lá ấy - và nếu lớn lên, không biết họ làm được tích sự gì; hay là cứ nhổ hết, cứ chà nát, vò nát hết trong tay như tiểu hoàng tử đã làm?

- Không nên! Chú bé chợt lắc đầu - Với người thì không nên vò nát hết như chiếc lá kia được!

- Vậy thì phải làm sao - cứ để chúng lớn mạnh, đâm nhánh nẩy cành rồi mọc ra hằng trăm, hàng ngàn chiếc lá độc chết người ấy hay sao?

- Con người thì có lẽ phải giáo dục từ từ, thưa Đại sa-môn! Con nghe những bậc giáo thọ trong hoàng cung thường nói như thế!

Đức Phật khen ngợi:

- Giáo dục! Hay! Giáo dục thì đúng quá rồi! Tiểu hoàng tử giỏi lắm!

Chú bé nở mũi, nhưng lại đáp rất khiêm tốn:

- Không dám ạ!

Thế rồi, đức Phật lại bước đi, nói như tâm sự:

- Tiểu hoàng tử biết không, giáo hội của Như Lai có mặt trên cuộc đời - cũng nhằm vào chỗ giáo dục như tiểu hoàng tử vừa nói đó. Hằng trăm hằng ngàn sa-môn sống đời xuất gia phạm hạnh mà hoàng tử trông thấy nơi này và nơi kia - ngoại trừ những bậc tối thượng, còn đa phần họ đắng lắm, không đắng kiểu này thì đắng kiểu khác. Thế là Như Lai phải chế từng loại thuốc cho họ uống. Đúng như tiểu hoàng tử vừa nói là phải giáo dục từ từ... Vậy nên, rất đông, không phải hằng trăm mà hằng ngàn chiếc lá không còn đắng nữa. Mà lại còn ngon, còn ngọt, còn bùi, còn béo, còn thơm nữa đấy!

- Thật là kỳ diệu - chú bé thốt lên! Nhưng con chưa hiểu là họ đắng như thế nào?

- Có người rất độc ác, bạo tàn, hay đánh mắng người, chửi rủa người. Không những họ hành hạ người mà còn hành hạ vật, giết vật để thỏa tính hung dữ của họ nữa...

Tiểu hoàng tử chợt cau mặt lại, có vẻ trầm ngâm - lát sau, chú hỏi:

- Vậy thì những người rất đắng nọ, sau khi giáo dục từ từ, uống thuốc từ từ - thì họ ngon, ngọt, béo, bùi, thơm - con cũng chưa hiểu ngon, ngọt, béo, bùi, thơm ấy là thế nào!

- Họ trở nên dịu dàng, mát mẻ; sống có tình, có nghĩa; biết tôn kính các bậc tôn trưởng, cha mẹ; biết yêu thương, chia sẻ, cảm thông và đùm bọc những người xung quanh mình... Họ trở nên là người tốt, rất tốt đấy, tiểu hoàng tử ạ!

Đến ngang đây, chú bé chợt quỳ sụp xuống, sụt sùi nước mắt, đảnh lễ đức Phật rất mực tôn kính rồi cất giọng nghẹn ngào!

- Chiếc lá đắng ấy là con, là chính con chứ không ai khác! Thưa Đại sa-môn - con xin cất lời hứa thiêng liêng là từ rày về sau, con sẽ làm chiếc lá ngon ngọt hữu dụng cho cuộc đời!

Đức Phật lại ân cần nắm tay, cất giọng dịu dàng như giọng người mẹ hiền:

- Ừ, Như Lai biết là tiểu hoàng tử làm được mà! Ai cũng muốn sống sao cho người khác kính thương, cảm mến - không ai lại dại gì sống cho người khác kinh sợ, ghét bỏ và xa lánh - phải vậy không nào, chú bé con?

Nghe đức Phật gọi mình là chú bé con – tiểu hoàng tử bây giờ mới cảm nhận mình chỉ là chú bé con thật sự, tâm tính ngây thơ trở về, chú chợt lấy hai tay ôm choàng đức Phật vô cùng thân thiết, có cảm giác như với cha, với mẹ - mà chú đã bỏ quên quá lâu!

Trở lại sảnh đường, các hàng trưởng lão và đức vua Licchavī vô cùng ngạc nhiên - khi thấy hoàng tử đi bên đức Phật hiền lành, ngoan ngoãn như một chú bê con, như một chú nai hiền - không còn tìm thấy đâu là bóng dáng của một hoàng tử nổi tiếng ác độc nữa.

Đức Phật nắm tay hoàng tử trao cho đức vua:

- Như Lai mượn hoàng tử dạo chơi một lát - bây giờ, Như Lai trả lại cho đức vua một hoàng tử - không còn là chiếc lá đắng nữa mà sẽ là chiếc lá ngọt!

Rồi quay sang hoàng tử , đức Phật nói:

- Phải vậy không, chú bé con?

Hoàng tử gật đầu mạnh mẽ:

- Đúng vậy, thưa Đại sa-môn!

Rất nhiều người không hiểu chuyện gì vừa xảy ra? Chẳng rõ đức Phật giáo dục cái kiểu gì mà chỉ trong thời gian đi dạo rất ngắn lại phát sanh điều kỳ diệu như thế chứ!

Khi đức Phật về hương phòng, trưởng lão Kondañña mới nói với chư tỳ-khưu xung quanh:

- Khêu gợi cho trẻ một nhận thức đúng đắn - sau đó, tự nó sẽ tự tri, tự giác - thì sự chuyển đổi, cải hoán mới chắc thật, mới vững bền! Đấy là một trong nhiều phương cách giáo huấn của đức Tôn Sư!

 

3.19- Hạt Giống Hy Hữu

Rời Vesāli, đức Phật và đại chúng ghé thăm Videha, Moriya sau đó qua Malla. Đâu đâu cũng được chư tăng và hai hàng cận sự Nam nữ tiếp đón, cúng dường. Đức Phật chỉ định các vị thượng thủ A-la-hán thay nhau thuyết pháp. Mọi sinh hoạt tu tập, chùa viện, liêu xá ở những xứ sở này đang từng bước đi vào ổn định.

Hôm ấy, do tiết trời nắng nóng, đức Phật và đại chúng dừng chân tại khu rừng Ampiyamba, gần thành Anupiya - trước khi lên đường đến Koliya - thì có một cậu bé trai tìm đến. Nó cứ đưa đôi mắt trong sáng, ngây thơ nhìn đức Phật rồi luẩn quẩn loanh quanh bên các vị trưởng lão chứ không chịu rời đi. Nhìn khuôn mặt sáng sủa, thuần hậu của cậu bé, tôn giả Sāriputta đưa mắt thiện cảm, ân cần hỏi chuyện. Biết cậu bé có thiện cảm đặc biệt khi nhìn tướng hảo của đức Phật, phát tâm trong sạch muốn xuất gia - tôn giả bảo là phải xin phép gia đình đã.

Cậu bé hớn hở vụt chạy đi, lát sau, dẫn một bà già đến - trông còn quắc thước với sắc phục, dáng dấp có vẻ dòng dõi quý phái - rồi rành rõi giới thiệu:

- Đây là bà ngoại cháu - bà ngoại cháu rất vui mừng khi thấy cháu được đi theo quý ngài.

Bà già sụp lạy đức Phật và chư vị trưởng lão rồi với nước mắt nước mũi kể lại rằng:

- Tội quá quý ngài ơi! Nó là dòng dõi hoàng tộc xứ Malla đấy. Khi còn trong thai bào, thì mẹ nó - tức là con gái cưng của già đây - bị chết vì bạo bệnh. Khi đem hỏa thiêu, do sức nóng của lửa làm cho cái bụng người chết nứt ra làm hai. Không biết căn do kỳ lạ nào - mà cái bọc thai lại vọt ra, rơi vào một bụi cây, nằm vắt vẻo giữa mấy cành cây, an bình như một phép lạ. Nên được đặt tên là Dabba. Thấy cháu lại tưởng đến con gái, già xin bên nội cho già được nuôi dưỡng. Bây giờ nó đây, ngoan ngoãn và dễ dạy, thông minh và hiếu thuận. Không có điều gì đáng chê ở nơi tính hạnh của nó cả. Ai cũng thương. Bây giờ nó cứ nằng nặc được xuất gia đi theo quý ngài, già mừng như được chết đi mà sống lại. Thế gian này trăm ngàn sự khổ, ai đi tu được như quý ngài, già cũng mừng...

Bà lão sụt sùi lau nước mắt. Tôn giả đưa tay chỉ đức Phật:

- Đây là đức Thế Tôn! Cậu bé sẽ được nương tựa trong hào quang của đức Tôn Sư vô thượng...

Bà già lại sụp lạy. Lại nói huyên thuyên:

- Già nghe rồi, già biết rồi. Ai không nghe câu chuyện một vị thái tử cao sang kinh thành Kapilavatthu bỏ vương vị, vợ đẹp con xinh để đi xuất gia tầm đạo thì kẻ đó không có tai. Ai không biết vị ấy sáu năm nằm gai nếm mật, khổ hạnh vô thượng - sau đó tìm tới cội bồ-đề, chỉ tịnh và quán minh mới đắc quả Chánh Đẳng Giác thì kẻ ấy không có óc! Hãy cho cháu được xuất gia ngay bây giờ đi - bạch đức Thế Tôn!

Đức Phật mỉm cười:

- Cái hạt giống quý đấy, này Sāriputta! Ông hãy đích thân làm lễ xuất gia sa-di cho Dubba - Mallaputta!

Không biết duyên lành thế nào mà trong hội chúng lại có vị có thừa y bát. Thế là cậu bé được làm lễ xuất gia.

Tôn giả Sāriputta đích thân dẫn Dubba ra bờ suối để cạo tóc. Do túc duyên ba-la-mật sẵn có, khi đường dao cạo thứ nhất vừa lướt qua làn da đầu, Dubba chứng quả Tu-đà-hoàn. Khi đường dao cạo thứ hai vừa kéo theo một chùm tóc, Dubba đắc quả Tư-đà-hàm. Thế rồi, đường dao thứ ba, Dubba đắc quả A-na-hàm. Đường dao thứ tư vừa xong - thì Dubba thành tựu rốt ráo cứu cánh sa-môn hạnh - đắc quả A-la-hán luôn cả các thắng minh.

Khi tôn giả dẫn Dubba đến trình diện đức Phật, ngài nói:

- Này, Sāriputta! Chú bé này đã là “con trai” của Như Lai - vậy ông hãy cho thọ luôn cụ túc giới! Đây là trường hợp đặc biệt trong giáo hội của Như Lai.

Nghe đức Phật tuyên bố như vậy, các vị có Tam minh chỉ mỉm cười nhưng một số phàm tăng thì bàn tán xôn xao:

- Kỳ diệu làm sao - chú bé qua bốn đường dao đã đắc quả A-la-hán rồi?

- Đức Tôn Sư vừa gọi là “ Con trai ” đó!

- Bảy tuổi lại được thọ đại giới sao?

Sau khi Dabba-Mallaputta trở thành tỳ-khưu trẻ nhất của giáo hội, nhìn tăng tướng đẹp đẽ như một ngoan đồng cõi trời, ai cũng trầm trồ, tấm tắc nhìn ngắm. Bà ngoại của cậu cũng thảng thốt nhìn sững.

Đức Phật chợt nói:

- Này Moggallāna! Ông hãy kể chuyện nhân duyên quá khứ của Dubba-Mallaputta cho cả hội chúng được nghe để họ khỏi thắc mắc và hoài nghi.

Rồi lớp mù sương quá khứ, sau đó đã được vị Đệ nhất thắng trí vén mở, như sau:

“- Vào thời đức Thế Tôn Padumuttara, Dabba sinh ra trong một gia đình trưởng giả hữu danh tại kinh đô Haṃsavatī. Ông thường đến chùa để nghe pháp. Hôm đó, đức Phật tán thán, khen ngợi một vị tỳ-khưu đã quán xuyến, giỏi giang về việc sắp đặt chỗ ăn ở cho mấy chục ngàn vị tỳ khưu mà đâu đó đều đàng hoàng, tươm tất. Đức Phật gọi phong tặng phương danh vị tỳ-khưu ấy là “Đệ nhất về hạnh tri xứ ”!

Dabba nghe vậy, thỏa thích, hoan hỷ quá, ông nỗ lực cúng dường lớn, làm các công đức phục vụ Tam Bảo không mệt mỏi - rồi quỳ xin đức Phật Padumuttara chứng minh cho ông, trong một kiếp vị lai nào đó, được xuất gia với một vị Phật và sẽ thành tựu sở nguyện công hạnh giống như vị tỳ-khưu “Đệ nhất về tri xứ ” kia. Đức Phật thọ ký cho ông.

Sau nhiều trăm ngàn năm được luân chuyển thọ hưởng phước báu trời và người - đến thời đức Thế Tôn Kassapa, ông được xuất gia và tu tập cùng với 6 vị tỳ-khưu bạn hữu ở trong một hang núi. Khi đức Phật nhập diệt rồi mà cả 7 vị đều chưa chứng được gì cả. Và tình trạng sinh hoạt và tu tập của giáo đoàn cũng không còn nền nếp, nghiêm túc như xưa. Hôm kia, họ họp bàn, thảo luận:

- Đã có triệu chứng giáo pháp suy đồi, chúng ta phải làm sao? Sống chung với những tỳ-khưu thiếu niệm và thiếu tinh cần, chúng ta sẽ thối thất mất.

- Khi một vị Phật ra đi, một lúc nào đó, trên cõi châu Diêm-phù-đề này sẽ có dấu hiệu phong thịnh, hỏa thịnh, thủy thịnh hay địa thịnh - sẽ tạo nên những biến cố bất toàn cho chúng ta.

Sau khi đi đến nhất trí, họ làm một cái thang cao, cùng leo lên một ngọn núi đá có vách dựng đứng; rồi thốt lời đại nguyện rằng:

- Nếu chưa chứng quả, chúng tôi không rời đỉnh núi này, thà thịt nát xương tan, thà tử thần cướp đi mạng sống - đây là lời hứa thiêng liêng!

Rồi họ xô ngã cái thang.

Thế rồi, chỉ mới ngày thứ năm, một vị tỳ-khưu đã làm xong phận sự của mình, tức là việc cần làm đã làm xong. Lặng lẽ, vị ấy ôm bát sang Bắc Cu-lu châu khất thực, trở về nói với các bạn rằng:

- Hãy thọ dụng vật thực, các bạn! Việc lớn tôi đã làm xong rồi, bây giờ, việc đi khất thực hằng ngày hãy để dành cho tôi.

Tuy nhiên, cả sáu vị thà nhịn đói chứ không chịu thọ dụng. Họ nói:

- Khi xô cái thang xuống, chúng ta không hề nói rằng: “ Là vị nào đắc Tam minh trước, vị ấy phải có bổn phận đi khất thực để hộ độ cho những vị còn lại chưa đắc!” Vì chưa giao ước như thế nên chúng tôi không dám dùng, thà chết cũng không thể dùng được!

Một vị nói:

- Rất cảm ơn lòng tốt của ngài! Tuy nhiên, ngài đắc Tam minh là do duyên phước ba-la-mật đầy đủ. Còn chúng tôi, nếu căn duyên còn thiếu - thì thà chịu đau khổ do đói, khát cũng rèn luyện thêm được ý chí, nghị lực và tinh cần cho mình, cũng là cách bổ túc ba-la-mật vậy.

Thấy không khuyên can được ý chí bất thối của họ - vị A-la-hán đành nói lời phúc chúc rồi quăng bát ra giữa hư không, du hành sang phương khác.

Đến ngày thứ bảy, một vị nữa đắc quả A-na-hàm; nhưng do đói và khát, chấm dứt thọ hành, vị ấy trú thánh định rồi hóa sanh vào cõi Ngũ tịnh cư thiên, Niết-bàn luôn ở đấy, không trở lại nhân gian nữa. Năm vị còn lại, không đắc được gì cả, lần lượt ra đi do đói và khát. Nhưng nhờ tâm tinh cần bất thối chuyển ấy, cả năm vị đều được hưởng phước báu luân phiên cõi người và trời. Đến thời đức Phật Sākya của chúng ta, cả năm vị đều được thác sanh ở châu Diêm-phù-đề, nơi này và nơi khác, như sau:

- Một vị sanh vào hoàng tộc, kinh thành Takkasīla, quốc độ Gandhāra - có tên là Pukkusāti. Một vị sanh vào thai bào nữ du sĩ xứ Majjhantikā - có tên là Sabhiya. Một vị sanh vào gia tộc của vị trưởng giả xứ Bāhiya - có tên là Bāhiya. Một vị sanh vào thai bào của vị tỳ-khưu-ni có tên là Kumārakassapa. Còn Dabba tái sanh trong dòng hoàng tộc tại thành Anupiya xứ Malla! Thế là cả 5 vị tỳ-khưu thuở xưa tu hành tinh cần quá mức cho đến chết, sẽ cùng lần lượt kẻ trước người sau tao ngộ trong giáo pháp đức Tôn sư của chúng ta!”

Chuyện kể xong, đại chúng thở phào. Hóa ra cậu bé này có căn cơ sâu dày đến vậy. Nếu cơ duyên tròn đủ, cậu ta đã đắc quả A-la-hán với thời gian cách đây cả một vị Phật, chứ đâu phải tầm thường!

Tỳ-khưu Dabba-Mallaputta bây giờ đã lấy lại tư cách, tác phong, sự chững chạc, đĩnh đạc của một trưởng lão thánh tăng, quán nhân duyên sau trước, rồi quỳ thưa:

- Bạch đức Thế Tôn! Hãy cho đệ tử về Trúc Lâm tịnh xá để tập sự công việc đúng như lời nguyện thuở trước khi quỳ bên chân đức Chánh Đẳng Giác Padumuttara!

Đức Phật mỉm cười:

- Ừ, đúng vậy, con trai!

Bà ngoại của Dabba đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác. Chưa thôi, đức Phật còn bảo:

- Con trai hãy quăng bát qua hư không rồi vận thần thông lực trở về Jetavana trình diện các vị trưởng lão ở đấy, rồi xin được làm phận sự của mình cho xứng đáng với danh xưng của vị tỳ-khưu “Ưu thắng về tri xứ”!

Tỳ-khưu Dabba-Mallaputta vâng mệnh, đảnh lễ đức Phật và chư tăng rất từ tốn và chậm rãi, xong, như cánh chim ưng vàng bay qua hư không, chỉ mấy sát-na sau là mất dạng. Đại chúng hoan hỷ, tán thán không hết lời.

Bà ngoại của chú bé thấy mình như đang sống trong truyện cổ tích. Vui mừng quá, tâm tịnh tín phát khởi, bà xin quy y, bắt đầu làm một cận sự nữ thuần thành trong giáo hội của đức Tôn Sư.

 

3.20- Tu Hạnh Chó Và Hạnh Bò

Trên đường về quốc độ Koliya, đức Phật và đại chúng dừng chân tại thị trấn Haliddavasana. Ở đây có rất nhiều tu sĩ theo phái lõa thể. Đặc biệt là lõa thể Punna Koliyaputta tu theo hạnh con bò, được gọi là Ngưu hành giả; lõa thể Seniya tu theo hạnh con chó, được gọi là Cẩu hành giả.

Thấy đức Phật và chư tăng - một hội chúng đông đảo đi trì bình khất thực vàng rực các ngã đường; và dân chúng tín mộ chờ chực nơi này nơi kia để đặt bát cúng dường - lòng Ngưu hành giả nôn nao, nói với bạn là Cẩu hành giả:

- Tin truyền, đấy là một vị Chánh Đẳng Giác đang chói sáng khắp thế gian. Ta hãy cùng đến chiêm bái ngài, sau đó xin vài lời chỉ giáo.

Lúc ấy, cả hai đang ở trong một cánh rừng ở ngoại ô. Cẩu hành giả ngần ngại:

- Đức Phật ấy và tăng chúng ấy theo bạch tịnh y, sạch sẽ và cao sang quá - ta xuất hiện như thế này có tiện chăng?

Ngưu hành giả tập tiếng bò cười, rống lên như bò cười rồi nói:

- Chúng ta đều đi bằng bốn chân thì “ vật xấu” ấy nó nằm bên dưới, có ai thấy đâu? Vả lại, đã là chó thì phải tư duy như chó, quan niệm như chó - ông bạn chưa thấy vô ngại được nên còn rơi rớt, chấp thủ tư duy và quan niệm của loài người rồi đấy!

Cẩu hành già cũng tập tru như chó, nên tru một tràng, sủa vài ba tiếng rồi cãi lại:

- Ông bạn cũng thế thôi, đã theo được hạnh “ngưu hành giả” một cách triệt để đâu?

Nói thì nói vậy nhưng cả hai, sau khi rời rừng, mỗi người lấy một bó lá cột quanh thắt lưng - rồi họ cùng đi bằng bốn chân đến yết kiến đức Thế Tôn.

Lúc ấy, đức Phật đã thọ thực xong, đang ngồi tịnh chỉ dưới gốc cây ven lộ.

Lõa thể Punna Koliyaputta, tức là Ngưu hành giả đến đảnh lễ đức Thế tôn rồi ngồi một bên. Lõa thể Seniya, tức Cẩu hành giả không đảnh lễ, chỉ cất lời thăm hỏi rồi ngồi một nơi phải lẽ.

Ngưu hành giả cất tiếng nói trước:

- Bạch đại sa-môn! Tôi được nghe đại sa-môn có nhiều thắng trí, tuệ trí, minh trí biết khắp ba cõi, thấy suốt nghìn đời. Vậy xin đại sa-môn cho biết, là bạn tôi đây - Cẩu hành giả - đang hành trì theo hạnh con chó, là một hạnh khó hành, không phải ai cũng hành được...

Đức Phật gật đầu:

- Ừ, vậy hãy kể cho Như Lai nghe?

- Bạn tôi đây đi bằng bốn chân, bò lết hoặc chạy đều bằng bốn chân. Nếu có ngồi thì cũng chỉ ngồi hai chân sau còn hay tay thì chống dựng phía trước. Lúc nằm thì nằm sấp trên đất, hai tay úp ở phía trước như chó. Đại tiện, tiểu tiện đều được tập tành cam go như kiểu chó. Ăn thì chỉ ăn những vật người ta quăng bỏ trên đất, còn uống thì liếm liếm, táp táp bất cứ vũng nước, hố nước nào có sẵn bên đường. Nói tóm lại, là Cẩu hành giả, bạn tôi, từ tứ oai nghi, ăn uống, đại tiểu tiện đều cố hành trì như chó trong một thời gian dài, rất công phu, rất kiên nhẫn, rất tinh cần. Vậy chẳng hay, trong tương lai, vận mạng của bạn tôi thế nào - tức là sanh thú, cảnh giới trong mai hậu sẽ như thế nào, thưa ngài đại sa-môn?

Đức Phật nhíu mày lại:

- Ông đừng hỏi như vậy nữa, có được không, này Punna Koliyaputta!

- Không, không thể dừng câu hỏi được, xin ngài đại sa-môn cho biết sanh thú, cảnh giới? Tại sao vậy? Tại vì công phu khó khăn, kiên nhẫn và tinh cần bất thối như thế - chắc phước báu sẽ tối thượng chứ?

Đức Phật đã không muốn trả lời, nhưng vì Ngưu hành giả nằn nì lần thứ hai, lần thứ ba - đức Phật đành phải nói ra sự thật:

- Này, Punna Koliyaputta! Vậy thì hãy nghe Như Lai xác chứng sự thật như sau: Người nào hành trì hạnh con chó một cách triệt để, nghĩa là hoàn toàn viên mãn theo hạnh con chó - thì giới, uy nghi, tâm và trí của người ấy cũng phải hoàn toàn viên mãn như thế!

- Vâng, tôi đã hiểu.

Đức Phật tiếp tục:

- Nếu hành trì giới viên mãn như chó, hành trì uy nghi viên mãn như chó, hành trì tâm viên mãn như chó, hành trì trí viên mãn như chó thì sau khi thân hoại mạng chung - người ấy sẽ cộng trú với loài chó, thân hữu với loài chó, dòng chủng của loài chó - không sai, không trật vậy.

Cẩu hành giả đang ngồi một bên, nghe vậy theo thói quen, sủa gâu gâu... rồi khóc rống lên...

Đức Phật cất giọng như tiếng chuông ngân:

- Chưa thôi đâu, này các vị lõa thể. Cõi địa ngục thường dành cho những tâm địa độc ác, bạo tàn do tâm sân, tâm sát. Nhưng ở địa ngục cũng có những cõi tối tăm, đầy đặc ngu si cả triệu triệu năm dành cho những người tà kiến. Nếu người hành trì theo hạnh loài chó, lại chấp chặt quan điểm rằng: Do giới này, do uy nghi này, do tâm này, do trí này, do phạm hạnh này - ta sẽ thành vị chư thiên này hay chư thiên khác! Thì tức khắc, người ấy sẽ đọa xuống cõi địa ngục nêu trên. Nói tóm lại là chỉ có hai cõi: Không địa ngục thì bàng sanh, không bàng sanh thì địa ngục!

Trong lúc Cẩu hành giả nước mắt ròng rã, sụt sùi, giọt ngắn giọt dài cảm thương cho sinh mệnh tương lai của mình thì Ngưu hành giả lại nói:

- Ông bạn sao chưa sáng mắt ra mà còn khóc? Đức đại sa-môn khẳng định rằng: Nếu viên mãn hạnh con chó thì cái quả tựu thành chắc chắn sẽ là loài chó. Nếu không tựu thành, chấp chặt tà kiến thì sanh vào cõi địa ngục tăm tối cả triệu triệu năm đấy!

Lấy tay quệt nước mắt nước mũi cho khô ráo, Cẩu hành giả chợt chấp tay thưa:

- Bạch đại sa-môn! Tôi khóc như vậy không phải là khóc vì những câu nói của ngài, vì những xác chứng như thực của ngài. Tôi khóc, tôi tủi thân là vì tôi tiếc. Tôi tiếc rằng là cái hạnh như con chó này, tôi đã gian lao, vất vả, kiên trì, nỗ lực trong một thời gian rất dài. Bây giờ, tất cả chỉ còn là công cốc. Mọi công phu đã trôi tuột tất cả...

Nghỉ hơi một lúc, Cẩu hành giả nói:

- Còn bạn tôi, Ngưu hành giả sẽ như thế nào, thưa ngài đại sa-môn?

Đức Phật tỏ vẻ bi mẫn:

- Thì cũng tương tợ như ngươi vậy thôi, này Seniya! Nếu giới viên mãn như bò, uy nghi viên mãn như bò, tâm viên mãn như bò, trí viên mãn như bò - thì sẽ cộng trú với loài bò, thân hữu với loài bò, đồng chủng của loài bò. Còn nếu chấp chặt tà kiến mong được sanh thiên - thì sẽ đọa địa ngục tối tăm ngu si - không sai, không khác!

Đến phiên Punna Koliyaputta rống lên như bò rồi khóc lóc, sụt sùi, nước mắt tuôn rơi lã chã. Cũng tương tợ như Seniya, ông khóc là vì tiếc cho công phu Ngưu hành giả quá lâu ngày, bây giờ chợt trống rỗng không còn gì!

Lát sau, lấy lại sự tỉnh táo, cả hai đồng xin đức Phật thuyết pháp một đề tài liên hệ để họ hy vọng từ bỏ được hai cái hạnh bò, hạnh chó ngu si này.

Đức Phật, sau đó đã tùy thuận giảng về các loại nghiệp. Ngài đã rộng rãi nói đến 4 loại nghiệp - đấy là nghiệp đen, nghiệp trắng, nghiệp đen trắng, nghiệp không đen không trắng, chấm dứt các nghiệp[1]. Nghiệp đen là nghiệp xấu ác, tổn hại mình và người sẽ đưa đến đau khổ, thống khổ - là cảnh giới của tứ ác đạo. Nghiệp trắng là nghiệp lành tốt, lợi ích cho mình và người sẽ đưa đến hạnh phúc, an vui - là tất cả các cảnh trời sắc giới và vô sắc giới. Nghiệp đen trắng là nghiệp xấu ác có lẫn lộn lành tốt sẽ đưa đến lẫn lộn đau khổ và an vui - là cõi người. Nghiệp không đen không trắng là nghiệp chấm dứt các nghiệp - hàm chỉ tứ thánh đạo quả và Niết-bàn...

Sau thời pháp, hai lõa thể tà mạng ngoại đao sáng mắt, xin được quy y và xin được sống đời xuất gia phạm hạnh. Đức Phật nói, phải ở bốn tháng biệt trú để chư vị trưởng lão xem xét tánh hạnh và xem có thay đổi được tri kiến lầm lạc cũ hay không, sau đó mới được thọ đại giới. Cả hai thành khẩn và hoan hỷ xin được biệt trú bốn năm để gột rửa, tẩy rửa cho sạch sẽ tư tưởng chó và bò còn tồn đọng trong tâm tưởng...

Đức Phật chấp thuận. Sau đó ngài bảo rằng, hãy tắm rửa, cạo bỏ râu tóc, ăn mặc như người cư sĩ áo trắng đến làm công quả tại Kỳ Viên hoặc Trúc Lâm tịnh xá để tích lũy một ít công đức trong thời gian chờ đợi. Họ vâng mệnh nhưng có vẻ hơi lúng túng, hổ thẹn khi đứng lên... Tôn giả Mục-kiền-liên tâm ý linh thông, ngài đã đến một gia chủ giàu có trong thành, kể lại sự việc và đã xin cho hai người hai bộ áo quần của người cư sĩ - ngài trao cho họ rồi mỉm cười nói:

- Còn biết tàm, quý [2] là tốt rồi đó, hai ông bạn! Hãy đi xuống suối, tắm rửa, mặc áo quần vào rồi hẵng lên đường.

Nhiều tiếng cười xung quanh rộ lên, vui vẻ, hỷ xả.

Cả hai, Ngưu hành giảCẩu hành giả đi rồi mà đại chúng còn bàn tán xôn xao mãi. Sao lại tự hành thân hoại thể và tu hành một cách ngu si như thế? Tu như chó, tu như bò mà lại đòi được sanh thiên?

Tôn giả Sāriputta gật đầu:

- Các bạn nói đúng! Tuy nhiên, nhờ các bạn đang sống trong giáo pháp quang minh, sáng sủa nên mới biết được, mới thấy được như thế - chứ thế gian tối tăm này, phần đông, trong mắt họ nhiều cát bụi lắm, không dễ gì thấy biết được đâu!

Một vị thắc mắc hỏi:

- Hai tà mạng ngoại đạo này, sau này - họ tu tập có được gì không, tôn giả?

Tôn giả cười nhẹ:

- Khi đức Tôn Sư đã tạo duyên rồi, thì nhanh hay chậm, họ cũng đến được bến bờ bình yên thôi, các bạn!

Một vị cất giọng khôi hài:

- Hai vị đại nhân - đại nhân bò và đại nhân chó này, phước đức trăm ngàn đời mới gặp được đức Tôn Sư chúng ta!

 

3.21- Vị Thánh 7 Năm Trong Bình Máu

Từ giã thị trấn Haliddavasana, đức Phật và đại chúng chậm rãi bộ hành về hướng Devadaha, là kinh đô của nước Koliya - là quê ngoại của ngài. Lần này, đi theo đức Phật hầu như có đủ mặt các ông hoàng, công tử cả hai quốc độ thuở trước - đấy là các trưởng lão Ānanda, Kāḷudāyi, Bhaddiya, Devadatta, Kimbila, Anuruddha... cùng vị thợ cạo Upāli mà bây giờ đã là bậc trưởng lão, tuy chưa có danh xưng nhưng được xem như là đệ nhất tri luật!

Bao nhiêu năm qua rồi, khuôn mặt của kinh thành cũng không thay đổi mấy. Xóm phường lao động thì vẫn bụi và rác, vẫn bò và dê bên những ngôi nhà tồi tàn nhiều năm không được tu sửa, chỉnh trang. Họ vẫn an phận thủ thường với cái nghèo của mình. Giới nô lệ thì cứ vẫn là nô lệ - bị đẩy bật ra ngoài mọi sinh hoạt công cộng. Giới lao động chân tay thì cứ vẫn đen đúa, nhem nhuốc với những công việc hạ cấp của mình. Những khu nhà của giới thương gia, quý tộc thì vẫn uy nghi, hiển hách, cứ vẫn là giàu sang và vương giả như thuở nào!

Đến Devadaha thì trời vừa tối, tôn giả Sāriputta thu xếp, phân phối đại chúng tạm thời qua đêm quanh các khu rừng để khỏi phiền đến dân chúng.

Rạng ngày, như một cuộc diễu hành - đức Phật và đại chúng tách ra từng toán nhỏ đi trì bình khất thực khắp các ngã đường. Dân chúng và phố phường có vẻ xôn xao khi hay tin giáo đoàn đang ở trong thành phố. Vả chăng, đây là quê hương của Devadatta và Yasodharā mà ai ai cũng nghe danh. Và ai cũng biết chuyện đức vua Suppabuddha đã thâm thù đức Phật đến tận tủy xương khi đã cướp đi con trai và con gái của ông! Tuy nhiên, mấy giáo đoàn đang hành hóa tại xứ sở này lại rất thành công. Giới quý tộc, chiến sĩ, thương gia cũng như dân chúng phát sanh tâm tín mộ dạt dào. Có nhiều cư sĩ đắc quả thánh. Rất nhiều quý tộc, thương gia đã đứng vào hàng ngũ cư sĩ cận sự hai hàng. Dầu chưa có những tòng lâm lớn rộng - nhưng các sinh hoạt tại những tăng xá, cốc liêu của chư tỳ-khưu đã tạo ra được cơ sở vững chắc. Gần đây, trưởng lão ni Gotamī và Yasodharā đã tạo lập đươc ba ni viện. Một ở Koliya, một ở Kapilavatthu và một ở Savatthī dành cho tỳ-khưu-ni - nghe đâu cũng thành công.

Khi thấy bình bát đã vừa đủ dùng, đức Phật, hai vị đại đệ tử cùng Ānanda tìm đường đến ni viện để ngọ trai. Một khu vườn xanh mát với nhiều liêu cốc tranh tre thanh nhã hiện ra - với nhiều chiếc bóng vàng thấp thoáng. Rất đông tỳ-khưu-ni lạ mặt ra đón tiếp phái đoàn. Bất chợt, tỳ-khưu ni Khemā và Dhammadinnā ra quỳ đảnh lễ và họ cho biết là vừa từ Trúc Lâm sang; còn trưởng lão ni Gotamī và Yasodharā Sundrinandā thì đang ở Savatthī.

Đức Phật an tọa trên bồ đoàn, thăm hỏi công việc hoằng hóa ở Koliya. Lát sau, các vị trưởng lão Bhaddiya, Devadatta, Kimbila... dẫn chư tăng trong vùng đến đảnh lễ, hầu thăm đức Phật và đại chúng. Hóa ra ở nơi này, chư tăng cũng đã kiến lập khá nhiều cơ sở, đặc biệt có một khu lâm viên khá lớn, sức chứa có thể lên đến năm, bảy trăm vị. Công trình này do họ hàng hoàng gia bên nội của Devadatta và công nương Yasodharā dâng cúng. Họ đồng quỳ thỉnh đức Phật về ngụ cư ở tăng viện.

Khi hai hội chúng gặp gỡ, đang thân tình thăm hỏi nhau, thì bên ngoài cổng vườn, một chiếc xe hai ngựa dừng lại, một vị hoàng gia hấp tấp đi vào. Một vị ni cho biết đấy là ông hoàng Mahāli, có vị phu nhân là công nương Suppavāsā mang thai đã 7 năm mà chưa sinh. Công nương Suppavāsā lại có tâm tín đạo rất lớn. Hai ông bà đã cúng dường khu vườn xinh đẹp cùng với mọi công trình tao nhã tại ni viện này.

Thật ra, không cần phải ai thưa trình, đức Phật đã biết tất cả mọi chuyện khi đến Koliya, ngài đã tính đúng giờ phút mà công nương Suppavāsā đang chuyển dạ. Có ai biết rằng, công nương Suppavāsā suốt 7 năm qua đã mang trong lòng mình một thánh thai? Sáu năm trước, trong bụng mẹ, dẫu nằm trong một bình máu, nhưng thai nhi đã không dám động cựa, sợ mẹ đau! Đến năm thứ bảy, nhất là những ngày sau cùng, sự đau đớn khốc liệt xảy ra cho công nương Suppavāsā là chuyện tự nhiên của sinh lý cơ thể lúc sắp sinh. Nhưng do tâm lý, “cái quái thai” 7 năm - nên sự đau đớn kia như tăng gấp bội - làm cho vị công nương tưởng mình sắp chết. Sáng nay, nghe tin đức Phật và đại chúng đang trì bình khất thực trên các ngã đường Devadaha, công nương Suppavāsā mừng quá, những mong được chiêm ngưỡng đức Phật trước khi mạng chung nên đã hối hả nói với chồng:

- Chàng ơi! Hãy tức khắc đi ngay! Hãy vì thiếp và hãy vì cái quái thai trong bụng thiếp; hãy thỉnh cho kỳ được đức Phật và chư tỳ-khưu tăng ni đại chúng - cho thiếp được chiêm bái và bố thí cúng dường lớn - trước khi vĩnh biệt!

Người rành rõi chỉ chỗ đức Phật. Tội nghiệp ông hoàng thân trẻ tuổi, thương vợ, với nước mắt, tức tốc, hối hả lên đường.

Thấy dáng dấp hoàng thân Mahāli với bước đi hấp tấp, vội vã cùng với nét sầu não hiện ra nơi sắc mặt - chưa kịp đảnh lễ, thưa thỉnh - đức Phật đã mở lời trấn an:

- Này Mahāli! Không sao đâu hoàng thân! Phu nhân sẽ an toàn - và cái thai nhi kia cũng sẽ an toàn! Như Lai sẽ chú nguyện cho! Bây giờ, hoàng thân hãy yên tâm mà ra về đi, đừng lo lắng nữa, đứa trẻ sắp chào đời rồi đấy!

Tin tưởng vào đức Thế Tôn, hoàng thân Mahāli thở ra một hơi dài. Và khi ông vừa rời gót, dùng trí sinh tử, đức Phật biết rõ quả nghiệp chịu đựng đau khổ của mẹ con thai nhi đã chấm dứt - nên ngài chú tâm, hướng năng lực tâm đến chỗ sản phụ, đọc lên bài kệ với ý rằng: “ Công nương Suppavāsā xứ Koliya được khỏe mạnh và an lành, hạ sanh một hài nhi cũng khỏe mạnh và an lành như thế!”. Câu phúc chúc của đấng Mười Lực vừa chấm dứt thì tại biệt phủ, công nương Suppavāsā sinh hạ một hài nhi nhẹ nhàng như nước trong bình đổ ra. Nhìn đứa bé khuôn mặt đẹp đẽ, hồng hào, mũm mĩm như con nhà trời, công nương mừng vui bế trẻ vào lòng với hai hàng lệ tuôn chảy. Cả nhà đổ xô lại. Ai cũng muốn nhìn tận mặt “cái quái thai” 7 năm trong bụng mẹ. Khi thấy trẻ rồi, và vì do phước báu của trẻ mà ai cũng nghe trong lòng thơ thới, mát mẻ, an vui một cách lạ kỳ. Do cảm giác ấy mà mọi người đồng thanh gọi là “Sīvali, sīvali...” từ đó thành tên.

Hoàng thân Mahāli vừa đến cổng, chưa xuống xe đã nghe không khí vui tươi, nhộn nhịp của cả đại gia đình, ông cảm kích và càng khởi tâm tịnh tín khi biết rõ oai lực vô song của đức Giác Ngộ. Ông hoàng thấy tâm hồn lâng lâng, đi nhanh vào hậu điện. Một bà vú bế trẻ ra cho ông xem. Ông chiêm ngưỡng con mình như chiêm ngưỡng một tác phẩm kỳ lạ của ông thợ trời. Vào phòng, đặt trẻ trong vòng tay của công nương, sung sướng và hạnh phúc quá làm cho đôi mắt ông cũng đỏ hoe!

Hoàng thân thuật lại lời đức Phật chỉ dạy. Công nương chấp hai tay lên trán, lầm thầm thốt lời tạ ân đức Phật rồi nói:

- Chàng chịu khó trở lại ni viện một lượt nữa, thỉnh mời đức Thế Tôn và tất thảy tăng ni, có đủ 500 vị thì càng quý, bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ đặt bát cúng dường 7 ngày, ý chàng thế nào?

- Vâng, vâng! Ông hoàng hối hả gật đầu! Phải vậy! Để tri tạ ân đức Tam Bảo!

 

Thế rồi, việc đặt bát cúng dường 7 ngày tại biệt điện đến đại chúng có đức Phật cầm đầu đã diễn ra hỷ mãn. Và trong thời gian ấy, ai ai cũng chứng kiến chuyện lạ lùng, là trẻ Sīvali lớn nhanh như thổi. Chỉ trong ngày thứ nhất, vừa qua đêm, trẻ đã đổi khác. Qua ngày thứ hai, vừa cách đêm, trẻ đã lớn bằng đứa bé hai tuổi. Và cứ thế, đến ngày thứ bảy thì trẻ đã hao hao giống đứa bé ba bốn tuổi - nhưng cử chỉ, đi đứng, ăn nói thì đã tỏ ra không thua gì trẻ sáu bảy tuổi. Trẻ đã nói chuyện với cha mẹ với âm giọng khá rõ ràng, nhưng đặc biệt, trong đó lại toát ra sự hiểu biết không phải của con nít! Cậu lại còn biết xin phép cha mẹ cho được tự tay đặt bát cúng dường một vài thứ vật thực đến đức Phật và chư vị trưởng lão! 

Chuyện kỳ lạ này không mấy chốc đã lan nhanh khắp cả thành phố. Không những bà con nội ngoại, thân bằng quyến thuộc tò mò tìm đến thăm viếng mà kẻ lạ, người dưng ngày nào cũng đứng chật sân vườn, cổng ngõ. Trẻ Sīvali tỏ vẻ không được vui, than phiền với mẹ là thiên hạ đến đây ồn ào, huyên náo quá, chẳng yên tịnh được chút nào! Công nương nhìn cậu quý tử, cứ tròn mắt ngạc nhiên từ chuyện này sang chuyện khác; và bà biết rõ trong tâm, con bà không phải là thường nhân!

Cũng ngày thứ 7, sau khi nhận đầy đủ vật thực, Ni trở về ni viện, Tăng trở về tăng viện - đức Phật bảo tôn giả Sāriputta ở lại thuyết pháp cho cả đại gia đình cùng nghe. Thế rồi, tôn giả thuyết về khổ sanh, khổ của sự tái sanh và sự khổ của vòng trầm luân sinh tử. Trẻ Sīvali lắng nghe rất chăm chú. Cậu rất thấm thía thời pháp. Cậu thấu hiểu một cách rất sâu sắc và cụ thể về sự khổ sanh - vì chính cậu đã nằm trong bụng mẹ suốt 7 năm, 7 ngày! Nằm trong bụng mẹ, như nằm trong cái bọc máu, đã nhẫn chịu tối tăm, dơ uế mà mọi động cựa cũng phải cẩn thận vì có thể làm cho bà mẹ bị đau! Mặc dầu bà mẹ rất biết kiêng cử, nhưng tế bào thần kinh của trẻ rất nhạy. Chỉ một chút cay, chút nóng, chút mặn, chút đắng, chút chua... là cậu như bị tra tấn! Khổ nhất là thời tiết của trời đất thất thường chuyển đổi ở bên ngoài - thì bên trong này, trẻ đau đớn cùng cực...

Thời pháp chấm dứt, trẻ Sīvali ăn mặc rất đẹp, bước ra đảnh lễ tôn giả rất mực nghiêm cung và lễ độ. Tôn giả dịu dàng cất tiếng hỏi:

- Mọi việc đều an lành và tốt đẹp cả chứ, này Sīvali?

- Hiện tại, trong không khí phước sự và trong thời gian nghe pháp thì đúng là vậy, thưa tôn giả!

Nghe câu trả lời của trẻ “không đơn giản” chút nào, tôn giả ngạc nhiên, nhăn mày hỏi tiếp:

- Con nói hiện tại? Vậy trước cái hiện tại này thì sao?

Trẻ mỉm cười mà như mếu, rồi đáp:

- Trước cái hiện tại, nghĩa là thời gian suốt 7 năm, 7 ngày con nằm trong một cái bình máu - thì an lành và tốt đẹp sao được, thưa tôn giả!

- Đúng là vậy - tôn giả hoan hỷ nói - Vậy là cái khổ nằm trong bụng mẹ, con là người cảm nhận sâu sắc nhất!

- Không chỉ là cảm nhận - trẻ Sīvali lắc đầu - con còn kinh sợ nữa, thưa tôn giả!

Qua vài câu đối thoại giữa tôn giả và “ hài nhi” mới sanh có 7 ngày - đã lôi cuốn sự chú tâm của mọi người. Công nương Suppavāsā hoan hỷ và hãnh diện quá, bà thốt lên:

- Coi kìa! Coi kìa! Con tôi mới có 7 ngày mà đã thảo luận “về sự khổ” với bậc Tướng quân chánh pháp!

Biết trẻ có căn duyên sâu dày, tôn giả ướm hỏi tiếp:

- Nếu kinh hãi sự khổ thì con phải làm sao, Sīvali?

Trẻ có vẻ suy nghĩ rồi mới trả lời:

- Theo thời pháp của tôn giả, xuất gia mà thấy pháp, chứng pháp, giác ngộ pháp sẽ lần lượt cắt đứt tất thảy sự khổ. Vậy trước sau, con cũng xin được xuất gia thôi!

Tôn giả gật đầu:

- Ừ, thế là đúng! Nhưng bây giờ con còn bé dại quá! Hãy sống ngoan ngoãn, hiếu thảo với cha mẹ, hiếu thuận với mọi người. Khi cơ duyên chín muồi, tự đích thân ta sẽ tìm đến con đấy! Nhớ lời hứa đó nhé?

- Dạ xin vâng!

Quay qua đại gia đình rồi nhìn công nương Suppavāsā, tôn giả hỏi:

- Có một trẻ như vậy, thế gian hiếm có! Này công nương hữu phúc! Công nương có còn muốn những bé trai tương tợ như vậy nữa hay không?

Rạng rỡ khuôn mặt, công nương mau mắn đáp:

- Muốn, rất muốn! Nếu có đau khổ 7 lần, được 7 bé trai như thế, đệ tử cũng muốn như thường!

Câu chuyện của trẻ Sīvali, không mấy chốc đã trở thành câu chuyện nóng sốt được bàn tàn khắp mọi nơi. Không những tại các tăng ni viện mà tại cung đình, hoàng gia, quý tộc, các đạo tràng ngoại giáo, đường phố, công viên, chợ búa... ai cũng muốn chiêm ngưỡng trẻ hoặc suy luận về căn cơ, nghiệp từ kiếp trước. Có một số vị tỳ-khưu đem chuyện kể về trẻ Sīvali và trẻ Dabba-Mallaputta vừa mới xảy ra ở khu rừng Ampiyamba gần thành Anupiya - xem như đều là những việc hiếm có trên đời. Nói chung, họ cứ thắc mắc, thắc mắc mãi là cả hai mẹ con bị cái nghiệp gì kinh khiếp mà cùng chịu đau khổ chung suốt 7 năm, 7 ngày như thế?

Tôn giả Moggallāna thấy tiết lộ điều này - tức là nhân của nghiệp quá khứ - chư tăng sẽ hiểu thêm về sức mạnh của nghiệp báo, lợi ích cho việc tu tập của họ - nên đã không ngần ngại kể cho họ nghe rằng:

“- Trong một kiếp quá khứ, tiền thân Sīvali là một vị thái tử con vua Brahmadatta, kinh thành Bārāṇasī. Thái tử tinh thông các môn học nghệ, đức độ và tài giỏi nên được vua cha nhường ngôi lúc còn rất trẻ.

Đức vua xứ Kosala sẵn binh lực hùng hậu, có dã tâm xâm lược, thấy nước lân bang trù phú, giàu có nên đã khởi một đạo quân lớn, đột ngột tấn công Bārāṇasī, giết đức vua Brahmadatta, lấy hoàng hậu vua làm vợ mình. May mắn thay, lúc ấy thái tử đang ở ngoại thành, đang cùng với toán quân vệ sĩ đang đi tuần thú các nơi - nên thoát khỏi nạn.

Thấy nước mất, nhà tan, thái tử rất căm hận - tụ họp bên mình những chiến sĩ gan dạ, yêu nước - rồi âm thầm đi khắp các trấn thành, thị trấn... kêu gọi đoàn kết, phất cờ khởi nghĩa vệ quốc.

Hôm kia, một đoàn đại quân đằng đằng sát khí - có thủ lãnh là vị vua trẻ - bao vây Bārāṇasī - rồi bắn vào thành một trăm mũi tên viết bằng máu: “ Một là giao thành, hai là giao chiến, ba là các ngươi hãy tự sát!”

Đức vua Kosala và quân đội đang hưởng lạc, say men chiến thắng, nhận được tối hậu thư, mỉm cười khinh bỉ: “Thằng trẻ ranh dám hù dọa ta sao?”, bèn cho bắn tên trả lời: “ Một tuần nữa, ta sẽ chặt đầu ngươi ở dưới chân thành, cho chó ăn! ” Tức giận đến máu trào, thái tử tức tốc cho tấn công, không đợi chờ nữa. Ba lần tấn công cả ba lầm đều bị đẩy ra do binh lực của chúng còn rất mạnh.

Trong thành, bà hoàng hậu hay tin, nhờ cảm tử quân ban đêm vượt thành, đưa tin cho thái tử hay rằng:

“- Quân đội của chúng chưa tổn hao, nhưng lương thực trong thành đã gần cạn. Vậy, không nên đánh thành mà chỉ nên bao vây, cắt đứt các ngã đường tiếp tế. Chỉ cho đến khi nào củi, nước, gạo trong thành khánh kiệt - không cần đánh mà chúng ta vẫn thắng! ”

Nghe lời mẹ, thái tử cho các tướng dẫn quân bao vây, bít chặt mọi lối ra, vào; những ngõ ngách bò dê heo chó gì cũng bịt kín. Thế là đến ngày thứ bảy, dân chúng trong thành do đói khát nên chết rất nhiều. Một số còn đủ sức, họ mang gươm giáo nổi loạn. Quân đội của vua Kosala cũng chết do đói khát, số còn lại thì vật vờ, yếu lả nên không còn đủ sức kháng cự. Dân chúng tràn vào vương cung, chặt đầu vua rồi tự động đem giao nộp cho thái tử. Chàng hiên ngang vào thành, lấy lại vương quốc, mẹ con trùng phùng... Mạng chung, họ đi theo nghiệp của mình”.

Kể xong chuyện quá khứ, tôn giả kết luận:

- Do nhân gieo vây hãm thành 7 ngày làm cho rất nhiều người chết; sau khi bị trả quả khổ ở địa ngục, nghiệp còn dư sót - mẹ mang thai con 7 năm, 7 ngày chịu khổ với nhau để trả cho hết nghiệp xưa! Công nương Suppavāsā bây giờ là hoàng hậu thuở trước, thái tử Bārāṇasī vây thành chính là trẻ Sīvali vậy.

- Trời đất ơi! Một người cất tiếng than - Cái nhân 7 ngày vây hãm thành, cái quả trả dư sót lại lên đến 7 năm, 7 ngày! Xem nào! Một năm vị chi số ngày như thế, chia cho 7 như thế - vị chi gấp 52 lần cộng thêm 7 ngày! Ôi! khiếp thay cái nghiệp báo! 53 lần hơn là cái sự khổ phải chịu!

Có tiếng cười. Rồi có người còn thắc mắc, hỏi:

- Trẻ Sīvali rất thông minh, sáng dạ; không những nắm bắt cái “khổ sanh” trong thời pháp, mà còn thảo luận với bậc Tướng quân chánh pháp vài câu nghe rất có chiều sâu. Như thế, hẳn trẻ phải có căn cơ giáo pháp sâu dày nào từ quá khứ, phải thế không, thưa tôn giả?

Tôn giả gật đầu:

- Ừ, đúng vậy! Sẽ còn có lắm điều kỳ diệu về trẻ Sīvali này. Nhưng phải đợi 7 năm nữa, sau khi cậu bé xuất gia - cái căn cơ cũ ấy mới trọn vẹn mãn khai! Hãy đợi đấy mà xem!

Lại có tiếng cười:

- Xem tôn giả quý kính của chúng ta nói kìa! Cứ ởm ờ, úp mở thế đấy!

- Vậy thì lần này, huynh đệ chúng ta ráng “chộp” cho bằng được cái thiên nhãn sinh tử thông - để tôn giả không còn chơi “khăm” phàm phu chúng mình nữa!

Thấy chư tăng trẻ ăn nói rất dí dỏm, dễ thương, tôn giả chúm chím cười:

- Cũng được! Nhưng nhớ là phải “chộp” cái lậu tận trước đấy nhé!

- Xin tuân mệnh ạ!

 

3.22- Những Người Bạn Cũ

Đây là lần thứ ba sau khi giác ngộ, đức Phật trở lại quê hương. Trời nắng hanh, khô, bụi bặm bám đầy cây lá ven đường do những đoàn xe bộ hành thương mãi ngày ngày ngược Bắc xuôi Nam.

Lúc qua sông Rohini, đức Phật dừng chân lại. Ngài đi theo ven bờ xuống phía hạ lưu. Sông mùa này cạn nước, chảy lờ đờ, vàng đục. Nơi này nơi kia đọng lại từng vũng, từng vũng; thỉnh thoảng có những hố nước lớn. Ở đây, người dân hai bên bờ đã làm những con mương nước để dẫn nước sang hai bên - rồi dùng sức của những chiếc gàu tay, những thùng tre, đưa nước đến cấp cứu cho những đám ruộng, đám ngô, bắp đậu... ở những bãi biền.

Mấy người nông dân thấy đức Phật và tăng chúng đứng lố nhố quá đông - họ sợ hãi nép núp chỗ này chỗ kia. Đức Phật bước lại, cất giọng từ hòa:

- Như Lai đây mà! Như Lai đi thăm hỏi bà con đây mà! Hiện nay, hai bờ con sông này không còn xảy ra tranh chấp nữa chứ?

- Dạ không! Một người đàn ông có vẻ rành rõi bước ra đáp! Chúng tôi vẫn nhớ câu đức Đại Bi đã dạy là “máu quý hơn nước” - nên không dại gì để xảy ra tranh chấp với đùi gậy, với gươm giáo nữa.

- Tốt, rất tốt! Vậy, hiện tại, quý vị làm lụng có đủ ăn, đủ mặc không?

- Dạ, cơm ăn thì cũng bữa đực, bữa cái; áo quần thì cũng đầu thừa chắp nối đuôi thẹo - nói chung cũng qua ngày, chưa đến nổi đói lạnh, thưa đức Tôn Sư!

- Ừ! Thế thì đức vua và các quan tổng trấn - họ có tốt không, họ đã đối xử với nhân dân như thế nào?

- Dà, ông vua này ngó bộ cũng biết lo cho dân! Nhưng quan tống trấn ở đây thì già rồi, có lẽ không còn được mấy hơi, cứ ì ạch, ì ạch ở lì trong trấn phủ, có khi nào đi quan sát dân tình đâu mà biết!

Đức Phật gật đầu:

- Đúng vậy, quan tổng trấn phải trẻ và phải năng động mới được! Một vị quan tốt phải đến tận nhà dân nghèo, phải biết quan sát cái nồi cơm, nhìn xem cái hố xí! Xin lỗi, đôi khi xem dân ỉa ra cái giống gì - mới biết được dân đói hay no, ăn cơm hay chỉ ăn với lá và củ!

- Ôi! Hoàn toàn đúng! Đúng đức Tôn Sư là bậc thấy biết khắp thiên hạ, không có gì là không biết!

Mọi người xung quanh đổ xô lại. Một người thưa:

- Quan tổng trấn ở miệt trên, nghe nói trẻ lắm! Đến các vụ mùa gieo cấy hay gặt hái, ông ta ra ngủ với dân, đôi khi còn ăn chung, ăn thử món này món kia - và tận tình chỉ dạy từng ly, từng tí cách thức trồng trọt giống này, giống kia nữa!

- Vậy là giỏi lắm! Đức Phật khen ngợi - Phải như vậy mới được! Phải như vậy mới được!

Rời Rohini, thế là đức Phật đã biết sơ về tình hình chung của lãnh thổ, quê hương. Và, tương tợ như Devadaha, Kapilavatthu cũng không mấy thay đổi. Đức vua Mahānāma dầu có trẻ trung, tháo vát nhưng sức nặng truyền thống, những tập tục cổ hủ, nạn phân chia giai cấp đã làm thui chột tất thảy mọi năng lực sáng tạo để đưa đất nước đi lên. Thuở xưa, ngài đã bất lực - thì nay Mahānāma cũng bất lực mà thôi.

Ngang qua khu vườn Lumbinī, thấy nơi này xanh mát, đức Phật và đại chúng dừng lại nghỉ ngơi.

Tôn giả Ānanda đi dạo quanh một vòng, dừng lại nơi gốc cây có khắc dấu kỷ niệm hoàng tử Sākya Siddhattha đản sanh, cất giọng bùi ngùi:

- Mới đó mà đã gần 45 năm rồi. Xem kìa, cái gốc cây Sālā này trông đã già đi nhiều lắm.

Tôn giả Sāriputta đang đứng sau lưng, góp lời:

- Sau này, đây sẽ là cái cây thiêng liêng đấy, pháp đệ!

Từ giã Lumbinī, đức Phật nói:

- Đúng vậy! Nhưng mà kỷ niệm để làm gì! Quả đất này chật chội lắm; còn chúng ta thì cứ sanh tới sanh lui mãi, chưa nhàm chán sao? Chưa mệt mỏi hay sao? Cứ quăng một cục đá lên trời, nơi nào nó rơi xuống, đào lên, sẽ bắt gặp xương cốt hoặc vật gì đó của chúng ta từ một quá khứ vô định nào!

Lời của đức Phật nói, tuy nhỏ nhưng mà lại thoảng vào tai của đại chúng, rõ mồn một. Họ nghe như có tiếng lá rơi vèo, xào xạc giữa không gian. Trời nắng nóng mà họ cảm nghe ngọn gió hư vô lạnh buốt vừa thổi qua. Rùng mình. Họ trực thức trở lại với chánh niệm ngay, không dám vọng tưởng và hoài niệm nữa!

Tiếp tục lộ trình, đức Phật và đại chúng thanh thản đưa mắt nhìn ngắm hai bên trên con đường vào thành. Nhà nhà mở cửa, quét dọn sạch sẽ. Nơi những nhà giàu còn xông thơm ngát hương chiên-đàn. Họ như một đoàn quân chiến thắng khải hoàn; một chiến thắng vinh quang nhất là chiến thắng khổ đau, phiền não và buộc ràng! Và đây cũng là đoàn quân của giáo hội độc thân, của vô sản, bần hàn; nhưng cũng là của tự do, bình đẳng và dân chủ nhất trên toàn cõi châu Diêm-phù-đề!

Chư tăng địa phương và cận sự Nam nữ dòng Sākya biết tin đức Phật sẽ về đây từ mấy hôm trước. Khi ngài và đại chúng còn ở Koliya - thì họ đã rủ nhau vào khu Rừng Cây Đa (Nirodhavana) để dọn dẹp vệ sinh toàn bộ các nơi. Cốc liêu chư tăng cũng được sơn quét, làm sạch, làm đẹp các lối đi và cả những công trình phụ. Tại giảng đường, họ dùng nệm sạch mới trải khắp, sắp đặt chỗ ngồi, ghè nước và treo đèn kết hoa. Bảo tọa của đức Thế Tôn được lát thảm nhung sẫm nâu, tẩm hương liệu rồi họ xông chính giữa giảng đường một lò chiên-đàn lớn để xua tạp khí...

Do chư tăng ni đến quá đông nên một số phải di tản. Chư ni được dẫn sang ni viện mới do ni trưởng Gotamī, Yasodharā và dòng Sākya kiến tạo. Nơi này sinh hoạt Phật sự có vẻ tăng thịnh - vì dù sao cũng là quê hương của Phật - lại nữa, dòng Sākya thường hãnh diện, tự hào về đức Chánh Đẳng Giác đã xuất sinh ở đây, cùng chung huyết thống với họ.

Đức Phật vừa ngồi xuống nghỉ ngơi thì đức vua Mahānāma cùng các quan đại thần trẻ tìm đến. Họ đảnh lễ rất thành kính trong cung cách của những đệ tử tại gia.

Nhìn những sợi tóc bạc lấm tấm của Mahānāma, đức Phật muốn dành một chút thời gian “tâm sự với bạn cũ” nên dịu dàng cất tiếng hỏi:

- Thời gian trôi qua nhanh quá, phải không Mahānāma?

- Đúng vậy, thưa Tôn Sư! Không chỉ nhanh như bóng ngựa qua cửa - mà nhanh như từng nháy mắt, từng sát-na!

- Ừ, đúng vậy! Đức Phật gật đầu. Im lặng một lát, ngài hỏi tiếp ra chiều quan tâm:

- Công việc triều chính, kinh tế, ngoại giao cũng như xã hội, dân sinh... lúc này có những biến chuyển gì, dấu hiệu gì, tốt hay xấu hở đại vương?

- Nói chung là triều chính vẫn trì trệ, mặc dầu đệ tử đã lựa chọn những quan đại thần trẻ trung xuất thân từ đại học Takkasīla. Do nhân số không đủ, chỉ một ít ở triều chính và một ít ở vài ba tổng trấn lớn. Họ có tư duy mới, cách làm việc mới nhưng do cỗ xe đã quá cũ kỹ, quá hao mòn nên sức người không thể chuyển đổi được sức mạnh của nghiệp cộng với sức mạnh của thuyết định mạng!

- Ừ, Như Lai hiểu! Cái thuyết định mạng của bà-la-môn giáo thiệt là tệ quá. Nó còn làm trì trệ châu Diêm-phù-đề này mấy ngàn năm nữa đấy, Mahānāma!

Im lặng. Lát sau, Mahānāma trình bày tiếp:

- Kinh tế thì càng ngày càng rơi vào thế lực của các tập đoàn. Họ năng động, tài giỏi, tư duy sắc bén - lại có nhiều tiền bạc nên thế lực mạnh quá, đôi khi triều đình phải lệ thuộc, cần sự tài trợ của đám thương gia ấy.Chúng ta chưa tìm ra một nhà kinh tế học ưu việt, khả dĩ vừa có biện pháp chế tài vừa có chính sách đem đến lợi ích cho muôn dân! Ước gì có một người có trí tuệ khả dĩ bằng một phần mười sáu của đức Thế Tôn!

Đức Phật mỉm cười:

- Rồi để mà làm gì, hở Mahānāma?

Câu hỏi của đức Phật làm ông vua bạn cũ nín lặng. Phải, làm gì đã chứ? Thoáng chốc là phù du cái cuộc đời này! Ông là một vị vua quyền uy hiển hách, phú quý và tài lộc thuộc đệ nhất đẳng - ai cũng tưởng là hạnh phúc; nhưng ông nào có mấy niềm vui? Đêm nằm luôn trăn trở, thao thức - từ lo nghĩ, toan tính này sang nỗi buồn phiền, ưu tư nọ vì việc nước, việc nhà, việc thê thiếp và các con. Chỗ nào cũng bất như ý, chỗ nào cũng khó chịu, bực bội, chỗ nào cũng là cái ổ phiền não...

Đức Phật biết nỗi lòng của Mahānāma. Không những hằng trăm cái buồn phiền - mà chuyện vừa mới xảy ra đã làm cho ông ta không yên tâm. Số là đức vua Kosala muốn kết thân với ngài - nên cho sứ giả sang Kapilavatthu để dạm hỏi một cô công chúa dòng dõi Sākya về làm quý phi. Dòng tộc Sākya vốn kiêu căng, ngã mạn - không chịu cho cưới những cô gái cành vàng lá ngọc - nên họ thuyết phục đức vua Mahānāma gã cô con gái cưng của ông, vốn lai tạp huyết thống của bà mẹ nô lệ. Cô Vāsabha-Khattiya đúng là một công chúa, lại là rất khả ái, nết na, dịu dàng và xinh đẹp - nên rất đúng với tiêu chuẩn yêu cầu. Khi gã cô con gái yêu quý đi rồi, một phần nhớ thương con, một phần thì lo sợ đến lúc nào đó triều đình Kosala phát giác con mình không thuần chủng, như thế là coi khinh họ - thì khó tránh khỏi hiểm họa cho đất nước - vốn mang thân phận nhược tiểu, chư hầu!

Đức Phật biết tất cả mọi chuyện nhân quả, nghiệp báo, không những bây giờ và còn nhiều kiếp về trước nữa, nhưng không thể tiết lộ, ngài chỉ nói:

- Như Lai đã từng thất bại - thì đức vua hãy xem sự thất bại như một bài học cụ thể ở đời để giác ngộ, để thấy rõ bản chất như thực của nội tâm cũng như ngoại cảnh tương giao phát sinh. Ngay chính những lo nghĩ, những buồn phiền cũng thế - bản chất chúng cũng sinh diệt, này Mahānāma!

Đức Phật dẫn dắt câu chuyện thật là khéo, đã đưa đức vua vào với giáo pháp hồi nào mà ông ta cũng chẳng hay! Lời giáo giới ấy cho ông ta một phần nào tỉnh thức, khuôn mặt đã thấy giãn ra!

Câu chuyện vừa ngang đây thì Ānanda, Devadatta, Kimbila, Upāli, Anuruddha, Bhaddiya, Kāḷudāyi... cùng bước vào... Đức vua Mahānāma chưa kịp chào hỏi thì vị này vị kia đến ôm choàng lấy ông làm ông vô cùng mừng tủi. Thấy vị nào cốt cách cũng cao sang, khuôn mặt ngời ngời không hề thấy một nếp nhăn - dù ai cũng đã trên dưới tứ tuần - ông biết họ có nhiều căn lành, nhiều duyên phúc và nhiều trí tuệ hơn ông!

Đức Phật để cho họ tự do hàn huyên, ngài chỉ hỏi Ānanda:

- Sāriputta và Moggallāna đi đâu?

- Thưa, hai sư huynh của đệ tử đang giáo giới tại ni viện!

- Vậy thì tối nay, Như Lai sẽ vào hoàng cung với Mahānāma để thuyết pháp cho những người không đi được - còn ông, hãy thuyết pháp đến cho các Sākya cận sự Nam nữ!

- Thưa vâng, bạch đức Tôn Sư! Nhưng xin đức Tôn Sư cho đề tài phụ hợp với căn cơ.

- Chuyện phước thôi, này Ānandā! Hãy thuyết làm sao cho dòng tộc Sākya biết giữ ngũ giới cho tốt; ngoài ra, giải thích thêm lợi ích của bát quan trai giới!

Ngạc nhiên, tôn giả Ānanda hỏi:

- Dường như đề tài này, đức Tôn Sư, hai vị đại sư huynh và chư trưởng lão đã thuyết nhiều lần tại đây rồi? Sao không cho đệ tử thuyết những pháp cao hơn?

- Hãy cứ thuyết nữa đi! Do một số khá đông trong họ chưa giữ tròn ngũ giới - và họ tỏ ra lơ là bát quan trai giới! Cứ nhắc đi nhắc lại mãi thì rồi họ cũng thấm. Vả lại, nếu biết triển khai - thì những giới sơ cơ ấy cũng có bề rộng và bề sâu vậy!

Ānanda hiểu, tuân mệnh - và tôn giả biết mình làm được, thuyết được. Tuy nhiên, tôn giả cũng chưa hiểu dụng ý của đức Chánh Biến Tri, bậc liễu thông tất cả. Chỉ có đức Phật mới biết rằng, trong tương lai, dòng Sākya sẽ bị diệt vong - do hiểm họa mà trong tâm tư ông vua Mahānāma đang lo nghĩ! Và chỉ có sức mạnh ngũ giới, bát quan giới được hành trì, tu tập tốt - mới là chiếc phao phước báu đưa dòng Sāky

 

3.23- Chiếc Phao Phước Báu

Mấy ngày hôm sau là những cuộc cúng dường đặt bát liên tục từ các gia đình hoàng gia, các quan đại thần cùng các thương gia và gia chủ trong kinh thành. Các buổi chiều, hai vị đại đệ tử và các vị trưởng lão đi giáo giới tại các tăng viện, ni viện. Đức Phật cũng đi thăm một vòng quanh các cơ sở vừa mới thành lập. Đâu đâu không khí cũng có vẻ an lạc và thanh bình. Các vị trưởng lão cho biết là chư tăng ni chưa có những trường hợp nào có vẻ sai phạm lớn về đời sống phạm hạnh. Riêng giới cư sĩ thì có vẻ chưa được thuần thành, nên tổ chức các thời pháp lớn tại Rừng Cây Đa. Và đây cũng là ý của đức Thế Tôn.

Tôn giả Ānanda đã thuyết ba thời pháp liên tục vào ba buổi chiều. Những thời pháp của tôn giả có tác dụng lớn. Do được nghe nhiều lần nội dung về ngũ giới, về bát quan trai giới từ kim khẩu đức Thế Tôn nên tôn giả đã triển khai theo một chiều hướng khác, cách nói khác, bề rộng và bề sâu khác rất ấn tượng.

Tôn giả thuyết rất mới mẻ rằng,

- Giới như ngọn đèn trong đêm tối,

giới như con mắt sáng nhìn xuyên qua lớp sương mù,

giới như người bộ hành lên đường có bản đồ và đầy đủ lương thực,

giới như chiếc thuyền ra khơi có la bàn định hướng,

giới như thương gia làm ăn có sẵn vốn liếng,

giới như vị tướng ra trận có quân cận vệ dũng cảm ở hai bên mình,

giới như người thợ mộc có đầy đủ thước mực cùng lắm mẹo hay,

giới như vị minh quân có sẵn các quan đại thần tài đức gồm đủ,

giới như hạt mầm vừa mọc lên đầy đủ nước, ánh sáng, phân bón và công chăm sóc,

giới như người vừa mới sanh ra trong gia đình có cha mẹ giàu sang và hiền thiện...

Do vậy,

giới là viên ngọc quý, là kho báu, là bảo tàng, là áo giáp thiện hạnh;

là người bạn lành chung thủy,

là đóa hoa tươi thắm sắc hương,

là bài thơ trăng sao giữa nước mây lồng lộng...

Này các vị Sākyaputta - những đứa con của dòng dõi Sākya - hãy xem năm giới như tài sản của mình, vận may của mình, bậc thầy của mình, phước lộc của mình, sức khỏe của mình, sinh mạng của mình - là chiếc chìa khóa có bộ phận cơ cấu chi tiết tỷ lệ vàng có thể mở tất thảy mọi cánh cửa người, trời an lành và hạnh phúc.

Đừng đơn giản nghĩ rằng, không sát sanh chỉ là không giết người, giết vật - mà còn phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Mới khởi một niệm sát, niệm sân, niêm hại là cái tâm ấy đã uế nhiễm, đã là bất thiện rồi.

Liên hệ giới này đối với bậc xuất gia thì lại càng khiếp nữa. Có một vị tỳ-khưu uống nước ao hồ mà quên lọc - thế là đã bị giới phạm tỳ vết! Có một vị tỳ-khưu chỉ bứt một cọng cỏ vô tình cũng phải đi sám hối!

Đừng dễ dãi nghĩ rằng, không trộm cắp là không lấy cắp của người dù một cọng cỏ, một cây kim là giới ấy đã viên mãn rồi! Phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Chỉ khởi một niệm tham, một niệm chiếm hữu, một niệm sở hữu gì đó thì giới ấy ở trong tâm đã bị lẹm khuyết, đã bị vấy bẩn rồi.

Liên hệ giới này đối với sa-môn phạm hạnh lại càng vi tế hơn nhiều. Có một vị tỳ-khưu vào ra nhà người bị dính một cọng tranh trên đầu mà ông ta giả vờ là đã dính mắc nên đem trả lại! Có một vị tỳ-khưu tắm dưới hồ sen đã bị một vị trời cười chê là ăn trộm hương sen!

Đừng hời hợt nghĩ rằng, giữ tròn giới thứ ba là không tà vạy bất chánh với vợ con người - mà còn phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Một niệm dục, một niệm muốn thỏa mãn giác quan và cảm xúc đã làm cho giới này bị rò rỉ, bị mối mọt, bị sâu đục từ trong ruột.

Đối với chư tăng ni lại càng nghiêm túc hơn nữa. Một vị tỳ-khưu nhìn người phụ nữ mà nắm tướng chung, nắm tướng riêng (biết là trẻ, già, mập, ốm) là đã không được rồi! Có một vị tỳ-khưu, lúc tu tập mà nắm bắt tịnh tướng (đẹp, sạch) là đã bị chúng bạn cười chê!

Đừng nông cạn nghĩ rằng, chỉ không nói dối láo là giữ tròn giới thứ tư - mà còn phải học bài học để giác ngộ rằng: Bất cứ tác hành nào về khẩu ngôn, khẩu ngữ mà không y cứ trên sự thật, trên nền tảng cái chân thật - thì giới ấy đã bị cong quẹo, nghiêng lệch rồi.

Các hàng sa-môn quyết đi theo cái như thật, cái như thật đến tận cùng - như một vị tỳ-khưu tu tập tuệ minh sát, một khởi ý lệch hướng, sai hướng (Ayonisomanasikāra) đã có thể đi trệch chánh pháp! Một vị tỳ khưu còn phải tránh xa nói hai lưỡi, nói thêu dệt, nói ác độc, nói phù phiếm, nói hoa mỹ, nói thêm bớt, nói vô ích, nói rỗng không, nói gợi ý, nói ngon ngọt văn chương bóng bẩy... nữa.

Đừng vội vàng nghĩ rằng, không uống rượu và các loại men đã là tốt rồi. Mà còn phải chiêm nghiệm sâu xa hơn về các loại chất say ấy. Phải học cho được bài học để giác ngộ rằng: Say nào cũng là say; có cái say thô thiển, có cái say vi tế; có chất say thuộc về vật, có chất say thuộc về tâm; có loại say thuộc sắc thanh hương vị xúc, có loại say thuộc về mắt tai mũi lưỡi thân! 

Các hàng xuất gia thì công phu miên mật hơn về giới này, ngày đêm bám sát, chánh niệm, tỉnh giác không rời; vì chỉ cần dính ở đâu đó, an trú ở đâu đó hơi lâu - thì phải trực thức, phản tỉnh tức khắc, chiếu soi tức khắc - là mình đã say, đã đắm, đã dính vào đối tượng đó chưa!

Như vậy đấy, nào các hàng cận sự Nam nữ! Quý vị đừng có than phiền với đức Thế Tôn là ngũ giới khó khăn, ngũ giới là cái gì rất khó thọ trì đối với hàng tại gia lúc còn phải buôn bán, làm ăn, giao tiếp với cộng đồng, xã hội. Than phiền là tâm lý thường tình của quý vị - một giãi đãi, một buông xuôi, một tiêu cực, một cầu an - như là một thỏa hiệp với ma vương đấy thôi! Cái đó tùy! Nhưng mai này, địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a-tu-la... là những cánh cửa rộng thênh thang để quý vị đi vào! Quý vị đã thủ chiếc chìa khóa để mở những cánh cửa ấy. Rồi mai này, đừng than nóng, đừng than vạc dầu, đừng than hầm chông, đừng than chặt đầu lột da, đừng than tăm tối, đừng than nhầy nhụa máu mủ, đừng than đói khát, giá lạnh, đừng than tối tăm ngu si, đừng than đần độn, lông lá, đừng than thống khổ, sợ hãi, đọa đày, sầu bi ưu não...

Hãy thức dậy giữa đám người say ngủ! Hãy tỉnh táo giữa đám người mê lú! Hãy tăng tốc lực phi mã giữa đám ngựa què! Hãy vượt lên đồi cao giữa đám nhân loại bạc nhược yếu hèn! Hãy đi bằng con mắt của mình, đôi chân của mình, ngọn đèn của mình! Hãy chiến thắng! Hãy tự do! Này dòng dõi Sākya anh hùng!

Không dừng lại ở đó, bài pháp của tôn giả còn nói thêm về ba giới nữa.

Như một con ngựa dòng giống Sidhu lại còn cho ăn uống sung sức.

Như một căn phòng hương lại sắm sanh vật dụng bằng các loại gỗ hương.

Như chiếc thuyền đi đúng hướng lại có thêm chiếc buồm no gió.

Như cánh diều chắc bền lên cao lại được nới thêm giây. Như lối đến một vườn hoa lại được mở ra một rừng kỳ hoa dị thảo!

Ai tu tập thêm ba giới nữa, một ngày, một đêm là tập sống như một vị tỳ-khưu một ngày một đêm!

Ai giữ thêm được ba giới nữa hai ngày hai đêm là tập sống giải thoát như Phật, như chư vị A-la-hán hai ngày hai đêm! Phải kiên quyết thu xếp tất cả mọi chuyện bận bịu vướng mắc của gia đình để thọ trì 8 giới một tháng 6 ngày, 8 ngày là quý vị đã gieo duyên chánh tâm, chánh trí, chánh kiến... không còn bao giờ bị đi đọa vào các cảnh giới đau khổ, lạc vào tà kiến, ngoại đạo nữa!

Tóm lại, năm giới, tám giới kia - là chiếc phao phước báu kiên cố, vững bền - chư vị phải biết nắm chắc, hãy cố mà leo lên và hãy ráng dùng sức tay, nghị lực, ý chí mà quẫy, mà bơi!

Hãy bỏ bờ khổ đến bờ vui,

Bỏ bờ ngu sang bờ trí,

Bỏ bờ mê sang bờ giác!

Không ai có thể cứu chúng ta, nếu chúng ta không ra sức tự cứu!

Bài pháp của tôn giả Ānanda đã làm cho cử tọa thính chúng như một con bệnh được uống một liều thần dược, khí huyết chuyển động rào rào. Họ như được tiếp thêm niềm tin và ánh sáng cho lối đi, thêm dinh dưỡng sức khỏe cho tâm và trí... họ cất vang lời tán thán “ lành thay! lành thay!” vang động cả rừng cây trầm mặc. Hoa nẩy hương. Cành đơm lá. Đá mọc mầm. Và cận sự Nam nữ Sākya thơ thới, an vui bước đi bên sau gót chân xuất trần của giáo đoàn thanh tịnh. Rất nhiều căn cơ bất thối.

Sau thời pháp, tôn giả Ānanda được đức Phật, hai vị đại đệ tử và các hàng trưởng lão khen ngợi; được hai giáo hội tăng ni quý trọng, tín phục và được cả thiện tín hai hàng, cả kinh thành kính yêu và cảm mến!

 


[1] Do trình độ thấp thỏi của các tà mạng ngoại đạo - đức Phật phải thuyết cái vô tạo tác, vô hành là nghiệp không đen, không trắng cho họ dễ hiểu.

[2] Tàm (hiri), quý (ottapa) - hổ thẹn tội lỗi và ghê sợ tội lỗi.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn