(Xem: 1506)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1866)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

6.04- Người đàn bà đau khổ

05 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 11221)

Một Cuộc Đời, Một Vầng Nhật Nguyệt

Tập 6

 

6.04- Người đàn bà đau khổ

Do túc duyên nhiều đời, cô gái sanh ra trong một gia đình ông chủ ngân hàng(1a)tại Sāvatthi, cao sang, giàu có; lại được cha mẹ rất cưng chiều, cho cô ở trên tầng bảy của một tòa lầu, có kẻ ăn người ở hầu hạ sớm hôm. 

Năm cô lên mười sáu tuổi, có một gia đình môn đăng hộ đối với lễ vật trọng hậu dạm hỏi nàng cho con trai của họ, cũng là một công tử con nhà quyền quý. Cô gái lặng lẽ không nói gì, vì cô đã âm thầm yêu thương một chàng trai nô lệ đầy tớ trong nhà. Cậu ta chỉ hơn cô vài tuổi, vừa vai u thịt bắp mạnh khỏe vừa có tướng mạo là một mỹ nam tử. Mối tình này diễn ra đã được mấy tháng, như lửa gần rơm, sức cuốn hút của tuổi thanh xuân, họ đã có quan hệ mặn nồng với nhau.

Như đã quyết định, hôm kia cô gái nói với chàng trai:

- Tôi không thể lấy cái anh công tử mặt trắng ẻo lả kia được. Vả lại, tôi đã có “ ri khác” với chàng rồi. Chúng ta hãy bỏ trốn thôi!

- Tôi sợ lắm! Thưa nữ chủ!

Cô gái cau mày:

- “Nữ chủ” cái gì nữa! Vợ chồng rồi đấy! Hãy liệu tính cho mai sau chớ không còn kịp nữa. Mau mau lên!

- Tôi phải làm sao?

- Ối! Đần đần vừa vừa thôi chứ! Hãy liệu chừng cửa ngõ, xem bọn đầy tớ đi lên đi xuống các cổng lầu, vườn hoa, tường Đông, tường Tây, xem vào khoảng canh hai chúng đã ngủ nghỉ hết chưa. Rồi còn tìm cách cuỗm một con voi rồi chúng ta cùng bỏ trốn! Rõ chưa?

- Rõ ạ! Thưa nữ chủ!

- Lại “nữ chủ”!

Chàng trai cười ngỏn ngoẻn rồi đi lo việc của mình.

Thế rồi, đúng ngày, đúng giờ, cô gái gom hết của cải, tư trang, tư dụng vào trong một cái đãy lớn rồi cùng với tên nô lệ đầy tớ cỡi trên một con voi, trốn đi. Lúc ấy vào đầu canh ba, mọi người trong nhà đang no say giấc điệp cả.

Đi được một đỗi, chàng trai hỏi:

- Nếu ông chủ bắt được, ổng có đánh chết không?

- Ổng cho người đánh chàng chết thật đấy!

- Không sợ pháp luật sao?

Cô gái cười rúc rích:

- Chàng không có biết gì cả! Chủ đánh chết nô lệ là chuyện thường. Theo luật pháp, đánh chết một tên nô lệ không có tội gì cả, vì nô lệ không phải là người!

Chàng trai nghe rợn cả tóc gáy, quay lại sau, ngó tả, ngó hữu, lắng tai nghe chừng, thấy chẳng có ai chạy theo bắt, nghe chẳng có tiếng động nào, chàng mới thở một hơi dài nhẹ nhõm!

Đến một vùng nông thôn, quê cũ của chàng thanh niên, cách kinh thành Sāvatthi chừng ba bốn do-tuần thì họ dừng chân lại. Tại đây, cô gái bán con voi, bán tư trang thêm tiền tậu một mảnh vườn, thuê người làm một căn nhà, sắm sanh tiện nghi ăn ở, những vật dụng cần thiết cho mọi sinh hoạt. Thế rồi, một thời gian sau, hai vợ chồng son trẻ đã trở thành một gia đình nông dân thực thụ. Chàng làm vườn, trồng cây ăn trái, rau cải; nàng kiếm củi, bếp núc, chăm sóc quét dọn nhà trong vườn ngoài. Cuộc sống ấy ai cũng tưởng là rất hạnh phúc, nó êm ả, nó đều đặn trôi đi! Được bốn năm tháng, khi cái bụng của nàng ngày càng lớn thì nàng bắt đầu mệt mỏi, chán nản, buồn phiền nên sinh ra cáu gắt, nóng tính vô cớ. Chuyện củi đuốc, bếp núc, quét dọn trong ngoài nàng cũng bỏ phế, chàng trai lại nhẫn nại, lặng lẽ làm hết mọi sự. Bản chất của “cô tiểu thư” ưa sai bảo, ưa chỉ tay năm ngón, nhờ tình yêu mặn nồng ban đầu nó chìm khuất đi, bây giờ nó bắt đầu hiện mặt ra, xáo trộn nếp sống gia đình, đảo lộn cái tôn ty “chồng xướng thì vợ thuận theo”. Chàng trai vốn bản chất trung hậu, quen chịu đựng cũng không lấy thế làm điều khi trở lại vai trò của một tên đầy tớ! Lại còn bị cô chủ chê ỉ ôi, eo sèo nấu cho chó ăn, nấu cho bò ăn chớ có phải cho người ăn đâu!

Cái bụng càng to thì nàng càng khó chịu, càng bướng, càng chướng, thường hay quát tháo chồng, la mắng chồng một cách vô cớ. Nó cũng có lý do chủ quan của nó. Vì càng gần đến ngày sinh, nàng càng cảm thấy bất an và sợ hãi. Sinh làm sao đây? Ai là người có kinh nghiệm chăm sóc, thuốc thang? Nàng có biết gì đâu, và cái ông chồng “con nít” ba cục, ba hòn kia cũng có biết gì đâu! Con người sinh con, cô “tiểu thư” sinh con chớ có phải là con trâu, con bò, con mèo, con chó, con gà, con vịt sinh con đâu! Đến lúc này cô gái mới thật sự thấm thía nhớ đến bàn tay và trái tim của người mẹ. Ở đấy thường là quê hương ấm áp của mọi đứa con ly xứ hướng về! “Mẹ ơi!” con khổ lắm! Cô gái thốt lên nho nhỏ với hai hàng nước mắt tuôn chảy lặng lẽ, dầm dề, trong đêm, khi bên cạnh, chàng trai ngủ ngáy khò khò vô tư, vô lự! Mà cũng phải thôi, chàng đã làm việc cật lực, vất vả suốt ngày lại còn phải lo đảm đang, quán xuyến nội trợ trong nhà nữa.

Hôm kia, như đã quyết định, cô gái nói:

- Tôi phải về nhà cha mẹ để sinh nở thôi! Ông hãy chuẩn bị dẫn tôi đi!

Chàng trai lắc đầu:

- Không thể được!

- Tại sao?

- Tôi mà đâm đầu về đó, ông chủ lớn sẽ đánh chết! Nếu không đánh chết thì cũng cho tay chân tra tấn đến chín chết một sống. Tôi không đi. Tôi chưa muốn chết!

Cô gái đưa ra lý do:

- Không đâu! Dù sao bây giờ tôi là gái đã có chồng! Cha mà đánh chết chồng của con gái để con gái cưng của cha bị ở góa hay sao? Lại nữa, còn có pháp luật mà!

Chàng trai nhẹ, lắc đầu:

- Không! Nhất định là không! Tôi chỉ là một tên nô lệ! Chủ đánh chết nô lệ là chuyện thường. Theo luật pháp, đánh chết một tên nô lệ không có tội gì cả, vì nô lệ không phải là người!

- Chà! Cô gái ngạc nhiên! Ông học ở đâu đó?

Chàng trai chợt cười lạt, trả lời:

- Của “cô tiểu thư” đấy chớ ai. Đó chính là cái câu của cô nói khi rời khỏi nhà chỉ một đỗi đường!

- Nhớ dai dữ!

- Cái mạng sống tôm tép, muỗi lằn chúng cũng muốn sống, không muốn chết. Không muốn nhớ dai thì nó cũng cứ nhớ đấy!

- Chà! Lại lý sự nữa chứ!

- Cũng học của “cô chủ” đó! Cái đầu óc “đần đần” này lần hồi nó cũng sáng ra!

- Lại nói móc nữa!

- Dạ, không dám!

Chịu. Hết cách. Đến lúc, dù nàng có năn nỉ đến khô hơi, chàng trai cứ vẫn cương quyết lắc đầu.

Không biết cách nào hơn, đợi một hôm chàng đội nông sản đi bán ở chợ xa, cô gái chuẩn bị một vài đồ dùng cần thiết, gởi gắm nhà cửa cho một người hàng xóm rồi lên đường. Khi đi, cô nhờ người nhắn lại với chồng là cô đã trở về nhà cha mẹ để sinh con.

Ngày hôm sau, chàng trai về nhà, biết cớ sự, tự nghĩ thầm: “Cũng tội, con nhà tiểu thư khuê các, chân yếu, tay mềm, vì yêu thương ta mà phải chịu đựng muôn vàn gian khổ. Bây giờ lại là thân gái dặm trường, bụng mang dạ chửa, vò võ một mình, nếu có chuyện chi xảy ra thì ai là người chăm sóc, bảo vệ?”

Không chậm một khắc nào, chàng trai đùm vội một bọc củ khoai ăn đường, tay cầm con đao - như cái rựa - rồi hối hả lên đường. Nhờ đi nhanh, đi cả ban đêm nên ba ngày sau thì gặp cô gái bên một bìa rừng. Hóa ra là cô ta đã sinh con rồi, một đứa bé trai bụ bẫm, xinh xắn. Cả hai nhìn nhau, tươi cười rạng rỡ, hạnh phúc; rồi ôm chầm nhau, trao qua đưa lại đứa bé cho nhau để cùng ẵm bồng, hôn hít.

Không tính chuyện lên đường nữa. Họ lại cùng dìu nhau trở lại gia đình, mái ấm.

Chuyện kể rằng, sinh đứa con trai thứ hai cũng tương tự vậy khi đứa con trai thứ nhất đã lững chững biết đi. Cô gái khi bồng, khi dắt đứa trẻ cùng với cái bụng lên đường về nhà cha mẹ. Cũng cỡ chừng nửa đường, cũng tại bìa rừng, cô gái lại sinh con, và chàng cũng tìm đến kịp. Tuy nhiên, lần này không còn trời yên biển lặng mà sóng gió lại nổi ba đào cuốn đi những thân những phận! Ôi! Tử tử sinh sinh! Dâu biển đoạn trường! Mịt mùng đau khổ!

Khi đứa con vừa ra khỏi lòng mẹ, một cục thịt đỏ hỏn thì đột ngột một cơn bão ập tới, cây cối vặn mình quằn quại, cây gãy răng rắc, lá rụng rào rào. Dưới một tàn cây đại thụ rung rinh, cô gái chỉ kịp cởi cái áo khoác ngoài quấn cho con, nằm sấp xuống, chịu trận mưa như trút trên lưng, bảo vệ hài nhi bên dưới. Đứa con bên cạnh lại khóc ré lên, nó cũng ướt và lạnh. Chẳng biết sao hơn, cô gái lại phải đổi tư thế, nằm khum khum để che mưa cho cả hai đứa! Chàng trai vừa tới kịp, chưa nói được một lời nào, chưa kịp nhìn đứa con ra sao thì cô gái đã thều thào mệt mỏi, đứt quãng:

- Hãy kiếm... gấp cho tôi... cái gì đó... để che tạm cái mái ở trên lưng...

Chàng trai gật đầu, đảo mắt lướt quanh một vòng rồi vội cầm rựa lủi nhanh vào rừng. Thấy một lùm cây có lá to, chàng với dao rựa chặt được một đống. Tiện thể, lựa một số cây rừng cỡ bằng cổ tay, chàng chặt dài chừng một sải, một sải rưỡi với dự định để dựng cái chòi nhỏ. Khi thấy tạm đủ, chàng hươi rựa, kéo xuống một chùm cây mây dùng làm dây cột thì một con rắn to núp sẵn đâu đó, lao ra và cắn chết chàng tại chỗ. Có lẽ là một con rắn cực độc.

Cô gái nằm bẹp chịu trận lâu quá bèn đổi tư thế cho đỡ mỏi bằng cách quỳ hai chân, úp sấp hai tay xuống để che mưa cho con. Nhưng đợi hoài, đợi mãi không thấy chồng về, cô tự nhủ: “Một chút nữa thôi! Ông ta sắp về đó!” Lâu quá cũng không thấy, lại tự nhủ: “Sắp về rồi! Thôi nằm yên đi hai con! Ngoan nào!” Đứa trẻ lại gào khóc đến khản giọng.

Trời rạng sáng, bão tạnh, gió tan vẫn không thấy bóng dáng chồng, cô gái khởi sanh ý nghĩ: “Hay là ông ta sợ trách nhiệm, bỏ trốn đi rồi? Đồ hèn hạ!” Nhìn hài nhi nhờ bọc ấm, được che chắn tốt nên sau khi cho bú sữa, nó nằm ngủ yên; riêng đứa trẻ kia thì tái mét, run cầm cập, nàng nghe lòng như muối xát nhưng không biết làm sao. Đãy thức ăn mang theo không còn dùng được vì cái đùm vải đã nằm trong bùn nước.

Hết còn hy vọng ông chồng trở về, và nàng đã quyết chắc chàng trai vô lương tâm kia đã đành đoạn bỏ vợ bỏ con trong cơn hoạn nạn. Hắn đã xa bay cao chạy rồi! Lảo đảo đứng lên rồi thất thểu tay bồng con, tay dắt con theo lối mòn mà ông chồng đã đi, lần từng bước một, vừa bước vừa thở. Vì nàng đã mệt quá, đã kiệt lực chống chọi suốt đêm qua, lại không có cái ăn! Đến lùm cây, nàng khựng lại. Ông chồng của nàng đã chết rồi, sắc mặt tím bầm đang nằm vô tri cạnh một gò mối, một đàn kiến đỏ, kiến đen bắt đầu đánh mùi tìm đến. Thương chồng quá. Càng nghĩ càng thương vì nàng đã nghĩ oan cho chàng! Núi rừng lạnh lùng, đường về nhà còn xa diệu vợi. Xung quanh không một bóng người, không làng mạc, không một làn khói bốc lên. Cọp, beo, thú dữ? Vừa chớm nghĩ đến điều đó, cô gái vội gạt lệ, quay mặt đi, dẫn con bước nhanh.

Đến một khúc sông hẹp, nàng dừng lại. Bình thường đây là khúc sông cạn, lội qua được nhưng trận mưa như trút đêm qua đã biến nó thành một dòng nước dữ, cuồn cuộn cây củi cùng rác bèo. Cả ba không thể cùng qua. Suy nghĩ một lúc, nàng đứng dậy, kiếm một ít cành củi khô và lá rác làm tấm đệm để đặt đứa hài nhi trên đó. Nó đang ngủ say vì vừa cho nó bú. Xong, cô gái bồng đứa trẻ lớn lội qua sông, cũng phải dọ dẫm từng bước một trong dòng nước sâu ngang ngực. Lạnh, đói và kiệt lực nhưng trước sự sống chết cùng bản năng làm mẹ, nàng đã vượt qua được bờ kia. Vừa đặt được đứa trẻ trên một đám đất khô, thở một vài hơi lấy sức rồi cô gái lại vội lội qua sông lượt nữa. Khi đã đến gần bờ thì một con chim ưng to lớn sà xuống, nhanh như cắt, hai cẳng chân thò ra, quặp đứa hài nhi bay lên cao. Cô gái cả kinh, hai tay đưa lên, vừa vẫy vẫy loạn xạ, vừa chạy đuổi, vừa la, vừa hét một cách điên cuồng. Đứa trẻ bên kia bờ, thấy mẹ vẫy vẫy, tưởng là gọi nó nên nó xuống mép sông, bì bõm lội qua. Chỉ chừng hơn mười bước chân thì gặp dòng nước xiết cuốn nó đi, chỉ còn thấy cái đầu nhấp nhô trong làn nước đỏ, xa mãi, xa mãi rồi mất hút.

Cô gái rồi cũng qua được bên kia sông, ngồi phịch xuống, lặng câm như hóa đá! Hết rồi, một chồng và hai con! Hết rồi! Chết cả rồi! Tuyệt vọng cùng cực! Không có một giọt nước mắt nào chảy ra trong cái hốc mắt đã ráo hoảnh!

Nắng đã lên cao. Rồi cũng phải lên đường. Bụng không, lòng trống. Đi, bước như mộng du. Mọi ý thức bây giờ chỉ còn trông cậy vào bản năng. Miệng lẩm bẩm trong vô thức, như điên như dại: “Ông chồng bị rắn cắn chết. Một đứa hài nhi bị chim ưng bắt. Một đứa khác bị nước cuốn trôi! Ha ha! Chết! Chết hết!”

Đến thành phố, đi vào một con đường, nàng không còn nhớ lối nào về nhà, ý thức lóe lên, cô gái bèn hỏi một người đàn ông đi ngược chiều:

- Thưa ông, ông có biết nhà của ông chủ ngân hàng không?

Người đàn ông nhìn nàng có vẻ kinh dị. Vì khi ấy tấm choàng của nàng đã rách tả tơi, dường như chỉ còn dính một vài mảnh trên người. Mặt mũi lại bơ phờ, xanh xao, dính bùn đất trông không ra dáng cô gái hay là phụ nữ, hay một mụ đàn bà điên!?

Nhưng rồi ông cũng thương hại đáp:

- Tôi biết ông chủ ấy, nhưng bà hỏi làm gì?

- Là nhà của tôi, của cha tôi, mẹ tôi!

Người đàn ông khựng lại. Im lặng một lát.

- Thôi! Đừng đến đó nữa!

- Tại sao?

Người đàn ông lại ngập ngừng rồi nói:

- Đêm qua, giông bão dữ dội. Những cái chảo lửa sấm sét tự trên trời cao đã đánh ụp xuống cái lâu đài, trang viện ấy, tan nát cả và cũng cháy tiêu tùng cả. Có lẽ hằng trăm người ở đó ra tro cả rồi! Chẳng còn gì ở đó đâu!

Người đàn ông quày quả bỏ đi.

Cô gái ngồi thụp xuống, không còn biết gì nữa!

Cô đã hóa điên thật sự rồi.

Thế là mấy ngày hôm sau, các đường phố kinh thành Sāvatthi mọi người trông thấy một cô gái điên, dường như không có cái gì che kín thân thể đi lang thang lếch thếch. Tới chỗ nào cũng bị mọi người đuổi như đuổi tà. Người nguyền rủa đồ điên khùng. Kẻ quăng cây, quăng đất, tung rác bẩn, tay xua, miệng chửi. Cô gái thì bước đi lắc lư, cười ha ha, cười hì hì, lâu lâu lại lẩm bẩm: “Chồng chết, hai con chết, cha mẹ chết, anh chị em chết, tôi trai tớ gái chết, chó mèo chết, chết hết rồi, chết hết thật rồi!”

Đức Đạo Sư lúc ấy đang ở tại đại tịnh xá Kỳ Viên, vào sáng sớm, nửa cuối canh ba, quan sát thế gian, ngài thấy biết chuyện cô gái. Họ là bảy chị em thời đức Chánh Đẳng Giác Kassapa đây mà. Trong trầm luân sinh tử, do công hạnh xưa, họ đã có mặt ở đời này rồi, nhưng cô gái này đã chịu đựng nỗi thống khổ nhất trong bảy chị em mà sức người thế là đã cùng cực rồi.

Trong vô thức, buổi chiều, cô gái lang thang bước vào cổng đại tịnh xá Kỳ Viên, sau lưng là một bầy trẻ nít la hét cười giỡn ầm ĩ, quăng đất, quăng rác cùng với những lời mắng chửi đuổi theo.

Lúc ấy, đức Thế Tôn đang thuyết pháp tại đại giảng đường. Một số người tạp dịch thấy cô gái điên lõa lồ đang lần bước đã gần đến chỗ tôn nghiêm, một số hổ thẹn không dám nhìn, một số khác tìm cách đuổi cô đi, đuổi luôn cả đám con nít nữa.

Đức Phật sử dụng năng lực thần thông giúp cô gái tỉnh trí lại rồi cất tiếng nói vọng ra từ giảng đường:

- Hãy để cho Paṭācārā(2a)đi vào chỗ Như Lai!

Ngay lúc ấy, cô gái như tỉnh cơn mê dài, ngoảnh nhìn mình, thấy thân thể không có gì che, sợ hãi ngồi thụp xuống, rồi ngồi úp bụng, úp mặt xuống đất. Người đàn ông làm tạp dịch nghe tiếng nói của đức Phật, ông cởi tấm áo của mình, quăng cho cô gái:

- Này chị! Hãy mặc vào cho kín đáo! Đức Thế Tôn cho gọi chị đấy!

Bây giờ, mọi người mới dám đến gần bên, kẻ đưa khăn lau mặt, kẻ đưa thêm khăn quàng, người đưa thêm dải buộc... để cô ta đi vào giảng đường cho đàng hoàng.

Đã hoàn toàn tỉnh táo, tuy gầy ốm xanh xao nhưng sau khi choàng áo, buộc áo, lau mặt sạch sẽ, cô gái đã hiện ra một phần nào nét vẻ trẻ trung, xinh đẹp cũ, trông chưa đến hai mươi tuổi.

Đến chỗ đức Phật, cô gái nằm sấp năm vóc sát đất, khóc lặng lẽ, khóc như chưa bao giờ được khóc; vừa khóc vừa kể chuyện con chết, chồng chết, cha mẹ chết... với giọng nói rất là bi thương, thê thảm.

Đức Phật cứ để cho cô gái khóc “cho đã”, lát sau, vừa sử dụng năng lực từ bi, vừa sử dụng pháp âm dịu dàng, ấm cúng, nói với cô gái rằng:

- Thôi đủ rồi con, Paṭācārā! Không chỉ có nay con mới khóc con, khóc chồng, khóc cha, khóc mẹ! Thật ít ỏi làm sao là những lượng nước mắt ấy. Trong ba cõi, sáu đường, trầm luân sinh tử, con cũng đã từng khóc triệu triệu người con, triệu triệu người chồng, triệu triệu người cha, triệu triệu người mẹ trong những hoàn cảnh khác nhau như: Bị bệnh tật, ốm đau, bị chặt đầu, treo cổ, bị tán gia bại sản, bị tù tội, bị vu oan, bị động đất, bị nhà tan cửa nát, bị lửa cháy, bị voi chà, bị hổ ăn thịt, bị rắn độc cắn, bị tên bắn, bị đao chém, bị phản bội, bị nước cuốn, bị phanh thây, bị lóc thịt, bị bỏ thây nơi chiến trường... mà những giọt nước mắt ấy cộng lại còn nhiều hơn nước của bốn đại dương nữa kìa!

Cô gái tên là Paṭācārā ấy đã ngưng khóc sau ý nghĩa lời nói của đức Phật, nàng lau ráo lệ, quỳ năm vóc sát đất đảnh lễ ngài một lượt nữa rồi nói:

- Bạch đức Thế Tôn! Hiện con không có chỗ nương tựa, không có chỗ bảo vệ. Xin ngài hãy giúp con!

- Này Paṭācārā! Trên cõi đời này, chẳng ai nương tựa được ai, chẳng ai bảo vệ được ai, chẳng ai có thể giúp ai! Vợ chồng, con cái, cha mẹ, thân thuộc...cuối cùng đều phải bị thần chết mang đi cả thảy!

Và này con! Chỉ có ai ở bờ bên kia của sinh tử, những ai biết vứt bỏ, lìa xa những tham, những sân, những dục vọng tầm cầu, những khát ái, những mê mờ vọng tưởng; lìa xa những thấy biết sai lầm về bản thân, về ngã ái, về ngã chấp, về ngã thủ; thấy rõ tất thảy đều rỗng không, vô thường, vô ngã; kẻ ấy mới thật sự có chỗ nương tựa vững chắc, chỗ bảo vệ an toàn trước thần chết, này Paṭācārā!

Vừa nghe xong lời pháp này của đức Thế Tôn, cô gái đắc quả Nhập Lưu, pháp nhãn phát sanh, thấy rõ lộ trình, đường đi nước bước. Cô quỳ lạy xin được xuất gia. Đức Phật bảo gởi cô sang ni viện để nhờ chư ni chăm sóc sức khỏe; sau đó cô được trưởng lão ni Gotamī cho thọ đại giới, sống đời xuất gia phạm hạnh.

Một ngày kia, tỳ-khưu-ni Paṭācārā lấy nước để rửa chân. Lần thứ nhất, nước chảy được một đoạn ngắn rồi dừng lại, thấm xuống đất. Lần thứ hai, nước chảy được một đoạn dài hơn rồi dừng lại, thấm xuống đất. Lần thứ ba, nước chảy một đoạn xa hơn nữa rồi dừng lại, thấm xuống đất. Cô đăm chiêu suy nghĩ: “Sinh mệnh của con người quả giống như thế này, là ba giai đoạn của cuộc sống. Lần thứ nhất, nước chỉ chảy một đoạn ngắn là cái chết của thời niên thiếu. Lần thứ hai, nước chảy dài hơn một chút, là cái chết của thời trung niên. Và lần thứ ba, nước chảy dài xa hơn một chút nữa, là cái chết của thời lão niên! Rồi ai cũng phải chết cả, trẻ hay già mà thôi! Hóa ra cái gì có sanh thì cái ấy có diệt!”

Lúc ấy, đức Phật đang ở tại hương phòng, ngài sử dụng thần thông, với ánh sáng rực rỡ, với bóng sắc kỳ ảo, hiển hiện ngay trong tầm mắt của cô rồi ngài nói:

- Đúng vậy đó, này Paṭācārā! Tất cả mọi chúng sanh đều phải chết, đấy là điều tất yếu. Vậy quan trọng nhất là phải sống như thế nào cho có ý nghĩa, sống như thế nào để lợi mình, lợi người, đem đến an vui cho mình và cho người. Cao hơn tất thảy những điều ấy, là sống sao để thấy cho rõ sự thật, sống sao để thấy rõ sự sanh diệt của ngũ uẩn trong từng khoảnh khắc, trong từng sát-na.

Để tóm tắt ý nghĩa ấy, đức Phật đọc lên bài kệ:

“- Trăm năm sống có ích gì

Pháp đi, pháp đến vô tri chẳng tường

Một ngày quả thật khó lường

Thấy pháp sanh diệt vô thường ra sao!”(3a)

Lời kệ của đức Thế Tôn vừa chấm dứt, cô đắc quả A-la-hán, có thắng trí và tứ vô ngại giải.

Quá khứ tiền kiếp của tỳ-khưu-ni Paṭācārā như sau này cô kể lại, cũng tương tự như bảy chị em công chúa thời đức Phật Kassapa, và thuở ấy cô là thứ ba, tên là Bhikkhunī.

Từ đó, cô để tâm nghiên cứu, học hỏi về luật, sống theo luật nghi và chu toàn hạnh kiểm rất nghiêm túc, gương mẫu. Cô cũng là người nổi tiếng vì những bài giảng và những câu kệ sâu sắc, thâm thúy về sự khổ trên cuộc đời; và thường ủi an, chia sẻ bằng cả tấm lòng đến với những phụ nữ có hoàn cảnh bi thương, bất hạnh. Đệ tử nữ của cô rất đông, cả tại gia và xuất gia.

Sau này, tỳ-khưu-ni Paṭācārā được đức Phật tán thán, tuyên dương do nhờ đời sống mẫu mực, quy củ; là đệ nhất về thông luật và trì luật bên ni giới tương tự như tôn giả Upāli bên tăng vậy.



(1a)Đây là ghi theo Dictionary of Pāḷi Proper Names, còn những nơi khác là thương gia hoặc triệu phú. Gia tài của vị này chừng khoản 400 triệu đồng tiền vàng (theo chú giải).

(2a)Một số người ngoài phố cũng gọi như thế - vì “Paṭācārā” có nghĩa người lõa lồ, người đi lang thang không mặc gì trên người hoặc kẻ không tự chủ được hành vi, và đạo đức hoàn toàn bị suy sụp.

(3a)Pháp cú 113: “ Yo ca vassasataṃ jīve apassaṃ udayabbayaṃ, ekāhaṃ jīvitaṃ seyyo passato udayabbayaṃ!”

 

6.05- Vị Tỳ Khưu mắt mù

Chuyện kể rằng, tại kinh thành Sāvatthi có ông Mahāsuvaṇṇa là một bậc phú hào, gia tài, của cải không biết để đâu cho hết nhưng lại hiếm muộn con cái.

Một hôm, nhân đi tắm về, bên vệ đường, trông thấy một cây đại thụ, cành nhánh sum suê, ông tự nghĩ: “Nơi xanh tốt, um tùm, mát mẻ như thế này, chắc phải có một vị thần linh nhiều oai lực trấn ngự!” Ông phú hộ bèn thuê người dọn dẹp sạch sẽ quanh gốc cây, cho trải một lớp cát trắng bên trong rồi xây một tường rào bảo vệ. Xong, ông trang trí thêm cờ ngũ sắc, thắp đèn sáng, sắm sanh một mâm lễ vật, dâng lên thọ thần, khấn vái, cầu nguyện rằng: “ Xin ngài hãy ban cho tôi một mụn con, trai hay gái cũng được, tôi sẽ tạ ơn lễ vật hậu hỹ, cúng tế hằng kỳ!”

Quả là có “thần linh cảm ứng” thật, vì không bao lâu, vợ ông phú hộ thọ thai. Mừng quá, ông không tiếc tiền của mua thuốc thang cho bà bảo dưỡng thai nhi. Gần mười tháng sau, bà sinh hạ một cậu con trai. Ông Mahāsuvaṇṇa tự nghĩ: “ Nhờ ta chăm sóc, bảo hộ cây đại thụ, thần linh cảm kích mới cho ta đứa con cầu tự - vậy ta đặt tên nó là Pāla(1b). Thời gian sau, bà lại sinh thêm cho ông một quý tử nữa. Thế là đứa con đầu, ông đặt tên là Mahāpāla (Đại Hộ), đứa con sau được đặt tên là Cullapāla (Tiểu Hộ).

Khi hai trẻ lớn khôn, ông bà Mahāsuvaṇṇa lựa chọn nơi xứng đáng để lập gia thất cho hai người nhưng họ chưa chịu. Tuy nhiên, trước khi mất, hai ông bà phân chia gia sản đồng đều cho cả hai để làm ăn sinh sống. Và họ đã chăm chỉ làm ăn, tài sản càng ngày càng tăng thịnh, tỏ ra xứng đáng con dòng cháu giống kế thế sự nghiệp của cha ông.

Hôm nọ, khi đức Phật an cư ở Kỳ Viên – thì hằng ngày, cận sự hai hàng thường hay đến tịnh xá để cúng dường và nghe pháp. Hôm nọ, trưởng giả Mahāpāla trông thấy từng đoàn, từng đoàn người nam nữ, già trẻ tay cầm vật dụng như trầm hoa, dầu đèn đủ loại tấp nập, đi chung một đường, chẳng rõ họ đi đâu - bèn hỏi:

- Quý vị đi đâu mà trông có vẻ vui tươi vậy?

- Chúng tôi đến Kỳ Viên tịnh xá.

- Để làm gì vậy?

Một người nói:

- Rõ khổ! Hóa ra ông không biết một đức Chánh Đẳng Giác đã ra đời rồi sao?

- Quanh năm buôn bán làm ăn, tôi có biết gì đâu!

- Vậy thì hãy cùng đi, ông bạn. Hãy đến đấy để cúng dường và nghe đức Phật thuyết giảng.

- Vâng! Thế thì hãy cho tôi đi theo với!

Thời pháp hôm ấy, đức Phật thuyết tuần tự từ bố thí, trì giới, nhân quả các cảnh trời, sự cám dỗ của ngũ trần cùng phước báu cao thượng của bậc xuất gia.

Nghe xong, Mahāpāla tự nghĩ: “Khi nhắm mắt lìa bỏ cõi đời này để đến một thế giới nào đó thì vợ con đều chẳng thể đi theo mình; nhà cửa, tài sản, ruộng vườn đều phải bỏ lại; thậm chí cái xác thân này cũng không thể làm bạn đồng hành được nữa. Vậy thì có ích chi cái kiếp sống này cùng với cái gánh nặng gia đình mà ai cũng phải còng lưng mang vác? Như thời pháp mà ta vừa nghe thì đời sống xuất gia nhẹ nhàng và khoảng khoát như mây trời...”

Khi mọi người lần lượt ra về hết, trưởng giả Mahāpāla đến quỳ bên chân Phật và xin xuất gia.

Đức Phật hỏi:

- Ông còn cha mẹ, vợ con, anh em gì không?

- Chỉ còn một người em ruột, bạch đức Thế Tôn.

- Vậy thì hãy báo cho người em biết trước khi xuất gia, này Mahāpāla!

Vâng lời đức Phật, về nhà trưởng giả Mahāpāla nới chuyện với Cullapāla:

- Này em! Tất cả tài sản của nổi, của chìm, vật có tri giác và vật không có tri giác... nghĩa là toàn bộ châu báu, nhà cửa, ruộng vườn, tôi tớ súc vật... từ rày về sau, anh giao hết cho em được trọn quyền làm chủ.

- Tại sao lại nói chuyện kỳ lạ như vậy?

- Không kỳ lạ gì đâu. Em hãy cố gắng mà kế nghiệp tổ tiên.

- Thế còn anh thì sao?

- Anh sẽ xuất gia với đức Thế Tôn.

Trưởng giả Cullapāla không chịu, cố gắng dùng tình cảm để thuyết phục:

- Từ lâu, anh chính là cha, là mẹ của em. Thân mẫu mất, với tình thương, anh đã thay thế mẹ cho em nương tựa. Thân phụ mất, với sự đùm bọc, anh đã thay thế cha che chở cho em. Nếu anh bỏ nhà ra đi thì có khác nào em lại mất cha, mất mẹ một lượt nữa. Anh à, anh là bậc phú gia, tiền bạc tuy không hơn ai nhưng cũng “có máu, có mặt” trong kinh thành; sao anh không ở nhà, lấy vợ, sinh con, đến chùa làm các công đức, bắt chước cận sự hai hàng của đức Phật cũng được vậy.

Thế là hai người nói chuyện rất lâu. Nhưng ông anh không thuyết phục được em mà ông em cũng không thuyết phục được anh. Người em bèn đấu dịu:

- Thôi, anh xuất gia cũng được; nhưng hãy lập gia đình trước đã, đợi đến già hãy đi có lẽ tốt hơn vậy!

Trưởng giả Mahāpāla mỉm cười:

- Em nói vậy là lý sự cùn rồi. Xuất gia thì phải lựa chọn lúc còn trai tráng, thanh xuân khi sinh lực còn mạnh khoẻ mới học pháp, hành pháp được. Nếu lúc tuổi già, sức yếu, đầu óc không còn minh mẫn, lý trí không còn kiểm soát được cái run rẩy, cái quờ quạng của cái chân, của cái tay... thì chỉ có việc ăn hại, làm khổ mọi người mà thôi. Chí anh đã quyết. Đừng lấy những lý lẽ tình thường của thế gian mà ràng buộc, cột trói anh nữa.

Thế là trưởng giả Mahāpāla bỏ đi, quay lưng với những giọt nước mắt của người em, sau đó, ông được thọ giới tỳ-khưu, chăm chuyên học pháp và luật, tinh cần các công việc, bổn phận mà Tăng đã giao phó. Sống tại Kỳ Viên suốt năm năm, bên chân chư vị trưởng lão, tỳ-khưu Mahāpāla được thầy thương, bạn mến về tư cách cũng như tánh hạnh.

Hôm kia, sau an cư mùa mưa, tỳ-khưu Mahāpāla mạnh dạn lên đảnh lễ đức Phật và xin đề mục tu tập. Quán căn cơ, đức Phật giảng nói rất cặn kẽ về tứ niệm xứ và khuyên nên tinh tấn, miên mật hành trì sa-môn hạnh. Vâng lời đức Phật, Mahāpāla rủ thêm sáu mươi người bạn đồng tu, vừa mới xuất gia được một vài năm, rời Kỳ Viên tịnh xá, nhắm hướng bắc, đi mãi. Từ làng này sang làng nọ, từ rừng này sang rừng khác, đoàn sa-môn này sống đời du phương. Mỗi buổi sớm, họ đi khất thực quanh vùng, có gì dùng nấy, sau đó rút về nơi khuất tịch, tĩnh cư, tu tập. Thời gian gần một năm thấm thoắt trôi đi, mặc dầu giới hạnh và thiền định của họ khá tốt nhưng vẫn chưa tìm được sự an lạc cuối cùng. Họ lại ra đi. Hôm kia, cách kinh thành Sāvatthi chừng một trăm hai mươi do tuần, gặp một ngôi làng nhỏ gần biên giới, họ dừng chân nghỉ ngơi, sau đó đi trì bình khất thực. Dân chúng ở đây thấy một đoàn sa-môn tăng tướng trang nghiêm, lục căn thu thúc, họ rất kính trọng nên vật thực được họ cúng dường rất đầy đủ. Một người đàn ông ra dáng một phú hộ, sau khi đặt bát, cất tiếng lễ độ hỏi:

- Thưa chư tôn giả! Chẳng hay các ngài định đi đâu vậy?

Tôn giả Mahāpāla nhiều tuổi nhất, hạ lạp lớn hơn mọi người nên được xem như là trưởng đoàn, trả lời:

- Chúng tôi đang đi tìm một nơi chốn thuận duyên để hành trì sa-môn hạnh, này thí chủ!

- Thưa, một nơi chốn được gọi là thuận duyên ấy, nó gồm những điều kiện như thế nào, thưa tôn giả?

- Thứ nhất, là nơi vắng vẻ, yên tĩnh, không quá gần xóm làng mà cũng không quá xa xóm làng. Thứ hai, nơi ấy có thể có hang động, các tàn cây lớn rộng, có thể làm thêm một số mái che bằng tre lá để có chỗ đỡ mưa, tránh nắng. Thứ ba, là dân chúng quanh vùng có tâm biết bố thí, cúng dường để việc trì bình nuôi mạng không quá khó khăn. Chỉ cần có đủ ba điều kiện ấy thì được xem như là thuận duyên rồi, này thí chủ!

Người đàn ông quỳ xuống, sụp lạy rồi nói:

- Vậy thì xin thỉnh chư tôn giả ở đây với chúng con, là bóng mát nương nhờ cho chúng con. Ba điều kiện ấy, ở nơi này, xem ra là khá thuận lợi.

Tôn giả Mahāpāla sau khi hội ý với chư tăng, gật đầu ưng thuận, rồi nói:

- Cũng sắp đến kỳ an cư mùa mưa. Nói cách khác, chư tăng sẽ trú mưa ở đây ba tháng, không rõ thí chủ có biết bổn phận của mình lúc mời thỉnh chăng?

- Thưa, biết khá rõ! Vì con thường hay lên xuống, buôn bán làm ăn ở Sāvatthi, rất nhiều bạn bè, bằng hữu của con đã là đệ tử của đức Tôn Sư.

- Tốt! Tôn giả Mahāpāla mỉm cười – Đây lại thêm một yếu tố thuận duyên nữa vậy.

Nơi này có một ngôi rừng sầm uất, có nhiều hang động thiên nhiên, có hồ, có suối rất mát mẻ, thuận lợi cho môi trường sống. Càng vi diệu hơn nữa, người đàn ông phú hộ đã vận động mọi người trong làng, hùn góp công đức - nên chỉ non nửa tháng sau thì nơi đây đã có môt ngôi tịnh xá – thay cho giảng đường làm nơi họp tăng, cũng là chỗ hành thiền tập thể - tuy chỉ tranh tre nứa lá nhưng trông khá khang trang, tươm tất, rộng thoáng. Lại còn hàng chục cốc lá lác đác quanh sườn núi, bờ khe để chư tăng có chỗ tránh mưa, đụt nắng, hành trì chỉ quán. Ngoài ra, việc trang trí nội thất như ngoạ cụ, tọa cụ, chum vại, dầu đèn, thảm lót nhà, thảm chùi chân... đâu đâu cũng chu đáo. Những công trình phụ như nhà vệ sinh, hầm đốt rác, nhà tắm có mái che... cũng được dân làng quan tâm đào đắp, ráp dựng trong khả năng của mình. Khi các công trình lớn nhỏ hoàn tất, bà con dân làng với sự dẫn dắt của ông phú hộ, làm một cuộc lễ để dâng cúng tất thảy đến chư tăng. Họ tạo thuận duyên đến nỗi, chư tăng không cần phải làm bất cứ việc gì, chỉ có việc ôm bát đi trì bình, thời gian còn lại chỉ để dành cho sự tu tập. Chưa thôi, mới ở yên được một hôm thì một vị thầy thuốc giỏi tìm đến, nói là do ông phú hộ cắt cử đến để khám, bốc thuốc chữa trị tất cả bệnh cho chư tăng. Thấy không ai bệnh gì, ông thầy thuốc xin để lại tại tịnh xá một số thuốc cảm mạo thông thường, nóng sốt, đau bụng, táo bón, tháo dạ, ngăn độc trùng như rắn, rít, bò cạp... để đề phòng. Khi đi, ông hẹn là cứ khoảng nửa tuần trăng ông sẽ ghé lại một lần, hãy cho ông được chăm sóc sức khoẻ cho chư tăng, đấy là một hạnh phúc.

Cảm kích trước tấm lòng của ông phú hộ và dân làng, tôn giả Mahāpāla họp chư tăng ở tịnh xá, nói rằng:

- Tình hình này xem ra có một tốt, một xấu. Một tốt, là vì ân nghĩa này sẽ giúp ta tu tập tốt, sẽ hoàn thành cứu cánh sa-môn hạnh. Một xấu, cũng vì ân nghĩa này, nếu ta không chịu tu tập thì chắc chắn sẽ đi địa ngục. Chư vị hiền hữu nghĩ sao?

Ai cũng gật đầu nói là đúng rồi, và nên tu tập tốt để đáp trả ân nghĩa.

Tôn giả Mahāpāla nói tiếp:

- Đầu con trăng này chúng ta lại vào mùa an cư rồi. Vậy, ngoài một số pháp hạnh đầu-đà mà chư hiền hữu đã thọ trì, có ai muốn phát nguyện thêm một pháp nào nữa chăng?

Có người đáp:

- Mỗi người với các pháp đầu- đà đã thọ trì, ai cũng cảm giác là chưa trọn vẹn, còn khuyết thủng chỗ này hay chỗ khác, đâu dám phát nguyện thêm, thưa pháp huynh.

- Thấy được vậy là tốt. Còn riêng tôi sẽ phát nguyện thêm pháp đầu-đà thứ mười ba – là ngăn oai nghi nằm! Cầu chúc chư hiền hữu hoàn thành sa-môn hạnh ngay trong mùa an cư này.

Mọi người cất tiếng tán thán “sādhu, sādhu – lành thay”. Tôn giả Mahāpāla sách tấn thêm:

- Sinh tử là việc lớn, chúng ta đừng buông lung, giải đãi nữa. Các cảnh của bốn đường ác sẽ hiện ra. Mà các cảnh giới cao sáng, thanh lương nó cũng hiện ra. Tùy theo tác ý, tư tưởng, sự hành trì, cái tâm dể duôi hay tinh cần của mỗi người. Hãy cố gắng lên, các bạn! Để khỏi hổ thẹn với ân nhân, thí chủ!

Thế rồi, sau cuộc lễ vào hạ, chư tăng đọc tụng, ôn tập một số giới bổn đã được ban hành, mỗi người rút về liêu cốc, hang động riêng lẻ để tu tập. Cứ mỗi nửa tháng, họ gặp nhau tại tịnh xá chung để sám hối, làm lễ uposatha, bàn một một vài việc tăng... Cuộc sống bình lặng và thanh bình như thế trôi qua. Ai cũng có thiền chứng, ai cũng tinh thục trong nội quán. Riêng tôn giả Mahāpāla vì tinh cần quá mức mà cũng vì cả tháng ngồi thiền, ngăn oai nghi nằm, không ngủ nên đôi mắt rất xốn xang, nước mắt chảy hoài, nhức buốt vô cùng. Tuy vậy, ông vẫn không bỏ cuộc, vẫn đi bát, vẫn hành thiền chăm chuyên cần mẫn.

Hôm nọ, sáng sớm, chư tăng tụ hội ở tịnh xá trước giờ đi bát, thấy vắng mặt tôn giả Mahāpāla, có người tìm đến cốc:

- Thưa pháp huynh, đã đến thời đi khất thực.

Bên trong có tiếng vọng ra:

- Vâng, vâng, tôi sẽ đi ngay!

Khi xuống đến tận nơi, ai cũng thấy đôi mắt của tôn giả Mahāpāla đỏ hoe, nước rỉ ra ràn rụa , bèn hỏi – thì được đáp:

- Không sao đâu! Tôi chỉ đau mắt chút đỉnh.

Sau khi đi khất thực quanh làng trở về, chư tăng báo chuyện đau mắt của vị trưởng đoàn đến gia đình phú hộ - nên buổi chiều, người nhà của vị y sĩ tìm đến trao cho một loại thuốc rồi chỉ dẫn cách dùng. Đây là một loại thuốc nước rất công hiệu, chỉ cần rỏ ít giọt vào mũi(2b), nằm yên một lát cho thuốc thấm, ngày vài lần là hết đỏ mắt, hết nhức mắt ngay.

Nhận thuốc quý, nhưng tôn giả Mahāpāla chần chừ, do dự. Nếu muốn rỏ thuốc vào mũi có hiệu quả là phải nằm xuống, mà nằm xuống là phá vỡ “pháp đầu-đà ngăn oai nghi nằm” đã thọ trì. Nghĩ vậy, tôn giả Mahāpāla tự nói với mình: “Ta không thể phá bỏ pháp hạnh đầu-đà đã phát nguyện!” Nên tôn giả không nằm, cứ ngồi nghiêng đầu lui sau một chút mà rỏ thuốc vào mũi.

Hôm sau, lúc đi bát, tôn giả gặp vị y sĩ, ông ta hỏi:

- Thuốc của tôi gởi, tôn giả đã dùng chưa mà trông đôi mắt vẫn còn đỏ hoe vậy?

- Tôi đã dùng rồi, thí chủ!

Vị y sĩ tự nghĩ: “Lạ chưa! Thuốc rỏ mắt của mình là một thần dược nổi tiếng xưa nay, mà tại sao bây giờ không công hiệu kìa!” Bèn hỏi:

- Thế khi rỏ thuốc, tôn giả ngồi hay nằm? 

Hỏi ba lần, thấy vị tôn giả vẫn làm thinh, không đáp, vị y sĩ lại nghĩ: “ Được rồi! Mình sẽ đến tận nơi quan sát là biết liền”. Buổi chiều vị y sĩ tìm đến cốc của tôn giả khi ngài đang đi kinh hành ngoài trời. Đưa mắt nhìn quanh bên trong, vị y sĩ thấy trống trơn, chỉ có môt tấm nệm cỏ vừa vặn chỗ ngồi, không hề thấy giường nằm ở đâu cả.

Biết chuyện gì đã xảy ra, vị y sĩ gặp tôn giả, cất giọng khẩn cầu, tha thiết:

- Tôn giả ơi! Đừng làm như thế, không nên đâu! Hãy thương lấy cái thân mình một chút, tôn giả! Cái thân nó gánh cái tâm đấy! Có sức khoẻ khang kiện, đôi mắt có sáng thì việc hành đạo mới tốt, mới dễ dàng được! Hãy nằm xuống khi rỏ thuốc, lúc ấy thuốc mới ngấm vào bên trong được, tôn giả! Tôi van xin ngài đấy!

- Thôi được rồi, cảm ơn thí chủ! Để tôi suy nghĩ lại xem!

Nói thì nói thế, nhưng vị tôn giả này lại tự phản vấn: “ Này, hiền hữu Pāla ơi! Hiền hữu hãy nói cho ta biết, đôi nhục nhãn này so với pháp hạnh đã phát nguyện, cái nào quý trọng hơn?” Và rồi, vị tôn giả lại tự nói với mình: “Trong mù mịt trầm luân sinh tử, trải qua vô số kiếp giạt trôi vô định trong biển luân hồi, hiền hữu có khác nào ở trong cảnh đui mù tăm tối? Trải qua thời gian ấy, biết bao nhiêu là đức Chánh Đẳng Giác đã ra đời? Biết bao nhiêu là pháp và luật của chư vị - hiền hữu có thấy, dù chỉ chút ít? Rõ là hiền hữu có mắt mà cũng như đui mù mà! Bây giờ, với nhân duyên thù thắng, hiền hữu gặp được giáo pháp của Phật, nguyện hành trì theo con đường ấy; và khi đã phát nguyện rồi, chẳng lẽ nào hiền hữu lại thối thất, ngã lòng? Nếu đôi mắt này có tối tăm vĩnh viễn, nhưng lại có được tuệ nhãn, thấy được pháp vô thường, vô ngã để giác ngộ, giải thoát – há không là sự đánh đổi quá nhiều lợi lạc hay sao? Vậy, dù mắt có bị mù, hiền hữu cũng không nên bỏ pháp”.

Nghĩ thế xong, như đã quyết định, tôn giả mỉm cười, tự ngâm lên một bài kệ để nhắc nhở mình:

“- Mắt đui thì cứ mặc

Thân tàn cũng vậy thôi

Chí ta giờ đã quyết

Pháp hạnh chẳng buông lơi

Giữ tâm, không giữ mắt

Thà chết, ngồi không nằm

Tinh cần tu niệm xứ

Minh sát, tuệ như chân!”

Hôm sau, tôn giả vẫn ngồi như thế để rỏ thuốc vào mũi rồi ôm bát đi vào làng. Vị thầy thuốc có tâm, đã đứng chờ đâu đó sẵn, thoáng nhìn rồi cất tiếng hỏi:

- Lại thế nữa rồi! Tôn giả vẫn ngồi mà rỏ thuốc ư?

- Đúng vậy, thí chủ!

- Như thế thì cứ vẫn đau nhức?

- Đúng vậy, thí chủ!

Vị y sĩ cất tiếng than:

- Thôi rồi, vậy là nghề thầy thuốc có tiếng thơm của tôi từ nay đổ sông, đổ biển. Thiên hạ sẽ nói rằng, thuốc chữa mắt của tôi từ nay không còn tác dụng. Vậy, nếu còn thương tôi, thì nếu có ai hỏi, xin quý ngài nói rằng, tôi chưa từng cho thuốc và ngài cũng chưa từng rỏ thuốc. Chúng ta chưa từng quen biết nhau. Tôi không có cách nào khác hơn.

- Xin thí chủ yên tâm. Tôi sẽ im lặng và tôi sẽ không nói gì hết.

Vị thầy thuốc với sắc mặt buồn bã, quầy quả bỏ đi.

Buổi tối, trước giờ hành thiền, tôn giả lại đọc kệ sách tấn mình:

“- Thầy thuốc bỏ đi rồi

Diêm chúa chẳng chê mồi

Mắt vô phương cứu chữa

Sao còn dám dể duôi!”

Từ đấy, tôn giả tinh cần không mỏi mệt, không còn để ý cái đau, cái nhức của đôi mắt nữa. Mọi thấy biết, quan sát cảm giác, tri giác, tâm hành và nhận thức mỗi ngày thêm tinh tế, sắc bén. Thỉnh thoảng, ngài đi sâu vào thiền, an trú lạc định, chấm dứt tất thảy cảm giác đau để nghỉ ngơi, tịnh dưỡng. Tuy nhiên, đến tháng thứ hai thì ngài thấy đôi mắt mình đã tối đen như mực. Sáng sớm, khi chư sư ở ngoài cất tiếng hỏi:

- Thưa, đã đến giờ khất thực.

Bên trong đáp:

- Chư hiền hữu hãy đi đi!

- Còn pháp huynh thì sao?

- Mắt tôi không thấy gì nữa rồi!

Sau khi biết rõ sự thật, ai cũng đau lòng và thương xót. Ai cũng hứa đi hai bát để chu cấp vật thực hằng ngày. Gia đình ông phú hộ và cả dân làng, ai cũng khởi tâm chăm lo chu đáo cho vị tôn giả mắt mù của mình không thiếu thốn thứ gì. Thỉnh thoảng, tôn giả Mahāpāla vẫn nhắc nhở mọi người đừng buông lơi đề mục, bất cứ ngày hay đêm. Nhờ dân làng hộ độ chu đáo, nhờ tinh cần, nhờ không giải đãi nên qua tháng thứ ba, tôn giả Mahāpāla đắc quả A-la-hán luôn với tuệ phân tích. Sáu mươi vị tỳ-khưu đồng đạo, lần lượt trước sau đều cùng tâm chứng và quả chứng. Chư vị thánh nhân biết tâm của nhau là ai cũng đã thành đạt cứu cánh của sa-môn hạnh.

Sau lễ ra hạ, chư vị đều muốn về Kỳ Viên đảnh lễ đức Đạo Sư. Tôn giả Mahāpāla khuyên mọi người hãy lên đường, còn ngài có thể tự lo liệu được.

- Hãy đi cùng chúng tôi, thưa pháp huynh!

- Không! Tôn giả lắc đầu – Tôi nay yếu đuối, mù loà, đường sá thì xa xôi, gian trở. Tôi mà đi thì vướng bận mọi người, tôi không làm thế được. Hãy cho tôi gởi lời đảnh lễ đức Đạo Sư, và nói rằng, chúng đệ tử nhờ hồng ân của ngài mà đã làm xong những việc cần phải làm!

Thấy họ thành tâm, khẩn thiết quá, tôn giả nói tiếp:

- Thôi, thế này vậy. Tôi có người em, trưởng giả Cullapāla, chắc chư hiền hữu đã biết. Hãy kể rõ tình trạng của tôi hiện nay cho em tôi biết, và nó sẽ tìm cách dẫn tôi về!

Chẳng biết sao hơn, họ đành chào từ giã.

Ông phú hộ và cả dân làng đều bịn rịn lúc tiễn đưa. Và họ biết, họ không thể níu kéo những cánh chim trời.

Ròng rã mấy tháng, đoàn sa-môn mới về đến Kỳ Viên. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, họ kể về tình trạng mù mắt của tôn giả Mahāpāla với tâm bi cảm.

Đức Phật nói:

- Cái gì xảy ra cũng có nhân, có duyên của nó. Khi phải thời, Như Lai sẽ giảng giải trước đại chúng.

Về phần trưởng giả Cullapāla, sau khi biết chuyện, ông rất đau xót. Suy nghĩ, bàn tính kỹ càng, ông trưởng giả gởi một đứa cháu trai trong họ tộc, tên là Tế Hộ, nhờ chư tôn giả cho học kinh luật rồi xuất gia sa-di. Suốt nửa tháng được chư tôn giả tận tình kềm cặp, hướng dẫn - sa-di Tế Hộ đã biết cách đi đứng, ngồi nằm, biết cách mặc y, mang bát, biết cách đi trì bình khất thực. Rồi họ chỉ đường cho sa-di Tế Hộ đến ngôi làng biên giới để đón tôn giả Mahāpāla trở về.

Trong lúc chờ đợi, trưởng giả Cullapāla chu đáo kiếm tìm một mảnh đất không xa nhà quá mà cũng không xa Kỳ Viên tịnh xá, kiến tạo một tịnh thất giản dị, với ý nghĩ: “ Nếu anh ta vào sống ở tịnh xá thì sẽ phiền luỵ đến nhiều người. Vậy nên, ở chỗ này là phải lẽ, ta sẽ cho người kề cận hộ độ chu đáo; khi cần, anh ta có thể nhờ người dẫn đến Kỳ Viên để đảnh lễ đức Thế Tôn!”

Kể chuyện về Tế Hộ. Đến nơi, sau khi cậu cháu nhận biết được nhau, vị sa-di ở lại nửa tháng, chăm lo quán xuyến mọi việc trong ngoài, đi bát trong làng, hết lòng phụng dưỡng người cậu mắt mù. Hôm kia, thấy tiết trời có vẻ tạnh ráo, mát mẻ, quang đãng, Tế Hộ thưa:

- Cậu Cullapāla ở nhà, sốt ruột, mong đợi sư cậu lắm! Vậy, ngày mai, cháu sẽ dẫn sư cậu lên đường về quê.

Tôn giả Mahāpāla im lặng, gật đầu nhẹ.

Thế là sau khi chào từ giã dân làng, Tế Hộ vai mang y bát, tay cầm đầu gậy, dẫn tôn giả Mahāpāla cầm gốc gậy theo sau. Cứ mỗi sáng sớm, thấy đúng giờ, sa-di Tế Hộ đi bát trong vùng, mang về, sớt một nửa vào bát cho sư cậu, còn một nửa mình thọ dụng. Trời chiều tối thì họ tìm một chỗ có mái che, hang động hay tàn cây nào đó để qua đêm. Ngày lại ngày qua đi như thế, hai cậu cháu chậm rãi lên đường, không có sự cố gì xảy ra.

Hôm kia, đến một ngôi làng có tên là Kaṭṭhanagara, họ dừng chân nghỉ ngơi...

Bất chợt giọng hát xuân tình của một sơn nữ từ đâu đó vẳng lại. Sa-di Tế Hộ ngây người ra, tay rời đầu gậy hồi nào không biết. Mê mẩn tâm thần, sa-di Tế Hộ cất giọng run run: “Sư cậu đợi cháu một lát, cháu trở lại ngay”. Nói thế xong, Tế Hộ nhắm hướng chạy đến chỗ cô sơn nữ.

Lát sau, tiếng hát chấm dứt. Không biết họ đã làm gì với nhau. Tôn giả Mahāpāla suy nghĩ: “Ta vừa nghe tiếng hát luyến láy, véo von, lả lơi như gọi tình, rõ ràng là của một cô con gái nào đó tuổi đang còn xuân trẻ. Tại sao khi Tế Hộ bỏ đi một lát thì âm thanh kia lại ngưng lặng một cách khả nghi như thế?” Chợt nghĩ đến lời đức Phật dạy: “Này các tỳ-khưu! Như Lai biết chắc, là trên thế gian này, không có âm thanh nào có năng lực chiếm đoạt trái tim của người nam bằng âm thanh của người nữ”(3b). Thế là Tôn giả đoán chắc, ông sa-di đã phá giới rồi!

Ngay lúc ấy, cái gốc gậy đưa đến tay tôn giả rồi một tiếng nói thoảng bên tai:

- Sư cậu, bây giờ chúng ta lên đường thôi!

Tôn giả không nắm gậy, nghiêm sắc mặt:

- Nãy giờ ông đi đâu?

- Cháu... cháu đi một chốc thôi mà!

- Mắt ta đui nhưng tâm ta sáng! Ông đang mặc y mà vừa làm điều xấu xa, hoen ố, không thể giấu ta được đâu!

- Cháu... cháu...

- Không cậu không cháu gì nữa hết. Con người ông đã dơ uế. Ta không nắm gậy của một kẻ dơ uế như ngươi!

Sa-di Tế Hộ cũng là kẻ không quen nói dối, và ông ta cũng không hề biện bác gì cho mình, lặng lẽ cởi y, chỉ quàng sơ trên mình một tấm vải rồi nói:

- Cậu trách cháu đúng, nhưng chỉ đúng một nửa. Cháu đâu có muốn xuất gia, vì thương cậu nên cháu mới xuất gia. Xuất gia để có tăng tướng chỉ để dẫn cậu về quê mà thôi. Bây giờ cháu đã xả y rồi đó, cậu nên để cháu dẫn đi!

- Không, không bao giờ ta đi cùng ngươi nữa. Cứ để mặc ta.

Tế Hộ năn nỉ:

- Còn nhiều khoảng rừng lắm thú dữ và phi nhơn, sư cậu lại mù loà, nguy hiểm lắm!

- Đừng lo cho ta. Ta sẽ lần mò từng bước một. Phi nhơn và thú dữ có thể xé xác ta, nhưng cái tâm phạm hạnh của ta thì chúng làm gì được!

Nói thế xong, xúc động chánh pháp, tôn giả lại đọc lên liên tiếp hai bài kệ:

“- Dẫu đường xa nguy hiểm

Tối tăm, đôi mắt mù

Thà thân này nằm xuống

Không đi cùng người ngu!

Dẫu đường xa nguy hiểm

Tối tăm, đôi mắt mù

Thà thân này chết gục

Không đi cùng người ngu!”(4b)

Nghe qua hai bài kệ, Tế Hộ vô cùng hoảng sợ, hối hận vô cùng, cất tiếng than dài: “ Ôi! Vì đam mê nhục dục, vì bị quyến rũ nhất thời, trong cái tâm trong sáng của cậu ta, ta là kẻ xấu xa đê tiện đến như thế ư? Ta là người ngu ư?(5b)” Tế Hộ ôm mặt, khóc ròng rã rồi bỏ chạy mất dạng.

Trong lúc ấy, tại cung trời Đao Lợi, Đế Thích thiên chủ thấy bảo tọa của mình nóng ran lên, ông tự nhủ: “A! Có kẻ nào dưới trần thế có dã tâm truất phế ngôi vị thiên chủ để chiếm ngai vàng của ta đây!(6b)” Nghĩ thế xong, Đế Thích dùng thiên nhãn rà soát nhân gian, và câu chuyện của hai cậu cháu tôn giả Mahāpāla hiện ra trong võng lưới của ông. “Ồ, ta phải giúp đỡ vị sa-môn phạm hạnh nầy - Đế Thích nghĩ tiếp - Nếu không, cái đầu của ta sẽ nứt bể thành bảy mảnh đấy!”

Thế rồi, giả dạng một thường nhân, Đế Thích hiện xuống ngay bên cạnh, dẫm mạnh bước chân trên đất nghe thành tiếng.

Tôn giả Mahāpāla hỏi:

- Ai đấy?

- Tôi, tôi đây! Chỉ là một khách lữ hành.

- Ra là một thiện nam. Vậy ông đi đâu đó?

- Tôi trên đường về kinh thành Sāvatthi.

- Vậy thì ông bạn cứ đi đi. Chúc đường xa mạnh giỏi.

- Cảm ơn! Thế tôn giả đi về đâu?

- Ta cũng đến nơi đó, ông bạn!

- Thế thì hay quá, chúng ta cùng chung đường. Ngài hãy đi cùng tôi cho vui.

- Mắt ta bị mù. Ta sẽ gây nhiều khó chịu, phiền phức cho ông bạn lắm, không nên đâu.

- Không sao mà! Tôi cũng là kẻ nhàn hạ, thảnh thơi, chẳng có việc gì phải gấp gáp. Vả lại, ngài biết không, sống giữa cuộc đời, thỉnh thoảng cũng nên làm một vài việc lành để nương tựa cho mai sau! Thôi, không lý sự nữa, hãy đi cùng tôi để tôi còn bòn được chút ít phước báu chứ!

“Hóa ra là một người tốt, một quý nhân rất hiểu biết, có tấm lòng lại còn có đức khiêm tốn nữa!” – Nghĩ thế xong, tôn giả đáp:

- Vậy thì tốt! Ta sẽ làm phiền thiện hữu đó! Hãy cầm lấy đầu gậy của ta.

Đế Thích cầm đầu gậy, dùng phép thâu ngắn đường, nên mới đi chưa được bao lâu, kinh thành Sāvatthi đã hiện ra. Tôn giả Mahāpāla nghiêng tai lắng nghe tiếng người cười nói lao xao, tiếng xe ngựa, xe bò, tiếng rao hàng, tiếng âm nhạc vọng ra từ đền tế... ngạc nhiên, cất tiếng hỏi:

- Những âm thanh này rất quen thuộc, chẳng lẽ chúng ta đã tới một thành phố?

- Đúng vậy, thưa tôn giả! Chúng ta đã về tới kinh thành Sāvatthi rồi đó.

- Lẽ nào như vậy được?

- Vâng, vì tôi biết một con đường tắt, thưa ngài sa-môn.

Tôn giả Mahāpāla tự nghĩ: “ Đây đúng là việc làm của một vị trời nhiều oai lực, nhưng mà người ta muốn ẩn danh!” – bèn nói:

- Vô cùng tri ân thiện hữu!

Đế Thích dẫn Mahāpāla đến tịnh thất mà trưởng giả Cullapāla làm sẵn, vào bên trong, nắm tay dìu tôn giả ngồi xuống trên nệm cỏ rồi biến mất. Đế Thích lại biến hình thành một người bạn thân của trưởng giả Cullapāla, tìm đến nhà, kêu lớn ngoài cửa:

- Cullapāla ơi! Cullapāla ơi!

- Chi vậy, ông bạn?

- Mừng cho bạn. Thế là anh em lại được trùng phùng!

- Chuyện gì?

- Hóa ra bạn chưa biết sao? Tôi vừa thấy ông sư Mahāpāla đang ngồi nơi tịnh thất của bạn đó!

Trưởng giả hay tin như thế, tức tốc bươn bả đi đến tịnh thất, nhưng ngạc nhiên, khi quay lại thì ông bạn kia đã biến đi đâu mất. Đến nơi, thấy tôn giả Mahāpāla gầy ốm, xanh xao, hai con mắt sâu đen mà không kềm chế được cảm xúc, cứ ôm chân ông anh mà khóc ròng rã.

Tôn giả Mahāpāla mỉm cười:

- Ông đã khóc xong chưa?

- Em thương sư anh quá!

- Ngược lại, ta lại thương em còn hơn thế nữa. Mắt ta mù nhưng tâm ta sáng, ta thấy đường đi lối về, còn em thì vẫn đang con mịt mù trong đêm đen sinh tử. Hãy cố gắng sống đời một cận sự hiền thiện em nhé!

- Thưa vâng! Em sẽ không làm sư anh thất vọng đâu.

- Ừ, vậy là tốt!

Im lặng một lát, tôn giả Mahāpāla kể lại chuyện Tế Hộ rồi nói:

- Vì lý do ấy, ta đã đuổi nó đi, em có phiền lòng không?

- Không! Nó đã tỏ ra không xứng đáng. Nó phải được dạy bảo nghiêm khắc hơn nữa kìa!

- Cảm ơn em! 

Sau cuộc nói chuyện ấy, trưởng giả Cullapāla thu xếp cho hai thiếu niên gia nhân được xuất gia sa-di, ở bên cạnh tôn giả để chăm lo mọi sự. Ngày ngày, cả hai đi trì bình khất thực, dành một phần để dâng lên tôn giả, thì giờ còn lại, họ làm mọi việc trong ngoài như những đầy tớ trai cần mẫn nhất. Thương tình thân phận của cả hai, tôn giả Mahāpāla thường nói pháp và luật, giảng dạy nhưng bước sơ cơ cho họ tu tập. Lâu lâu, tôn giả nhờ họ dẫn đường vào Kỳ Viên tịnh xá để đảnh lễ đức Phật và vấn an sức khỏe của ngài.

Sáu mươi vị A-la-hán bạn cũ, thỉnh thoảng ghé thăm, thấy tôn giả Mahāpāla có người em quý báu, chăm lo cho như vậy cũng yên tâm.

Hôm nọ, có một nhóm tỳ-khưu phương xa đến, nghe tiếng tôn giả tu hành tinh tấn quyết đắc quả A-la-hán đến nỗi bị mù mắt nên họ dự định ghé thăm nhân vật có ý chí sắt đá ấy. Tuy nhiên, một trận mưa lớn đã tạo nên trở ngại nên họ hẹn nhau vào sáng hôm sau.

Tôn giả Mahāpāla, theo lệ thường, do tinh tấn đã trở thành thói quên nên sáng sớm tinh sương nào, ngài cũng đi kinh hành trên lối mòn xung quanh cốc. Tuy nhiên, ngài không biết là do trận mưa đêm qua đã làm cho những con mối cả đàn cả lũ rụng cánh đầy trên đất. Lại nữa, có những vũng nước ngập làm cho giun ngộp thở nên chúng cũng bò loằn ngoằn lên những đám đất khô ráo. Tôn giả của chúng ta cứ vô tư lui tới nên dẫm đạp chúng chết la liệt trên đường kinh hành. Những vị tỳ-khưu phương xa đến nhằm lúc hai sư sa-di chưa quét dọn kịp. Họ hỏi vị sa-di:

- Ai vừa đi kinh hành trên con đường này?

- Thưa, thầy của chúng tôi, tôn giả Mahāpāla!

Họ la toáng lên:

- Coi kìa! Chư hiền giả hãy coi hành trạng của ông sư mắt mù này? Ông ta đã giết hại không biết bao nhiêu là chúng hữu tình.

Sự việc, sau đó được chư tăng phản ánh lại với đức Phật, ngài hỏi:

- Các ông có thấy tận mắt ông sư Mahāpāla giết những con mối và những con giun ấy không?

- Thưa, không thấy.

- Các ông không thấy như thế nào thì “con trai” của Như Lai không thấy cũng y như thế. Các bậc lậu tận không bao giờ còn tư tác, còn cố ý, chủ ý giết hại bất kỳ một chúng sanh nào. Ngoài ra, con trai của Như Lai còn để lại một bài học về phạm hạnh, tròn sáng, không tỳ vết như mảnh trăng trong giữa bầu trời quang rạng không mây!

Hội chúng yên lặng như để thấu hiểu sự xác định của đức Tôn Sư rằng, tư tác (cetanā) là nghiệp, không có tư tác không có nghiệp; lát sau có vị hỏi:

- Tôn giả Mahāpāla có nhân duyên sâu dày, có căn lành vi diệu mới đắc được đạo quả A-la-hán, nhưng tại sao còn bị quả mù mắt, bạch đức Thế Tôn?

- Nhân nào thì quả nấy, này chư tỳ-khưu!

Do đại chúng tò mò không biết nghiệp quá khứ của tôn giả Mahāpāla như thế nào nên đức Phật đã vén bức màn sinh tử như sau:

“- Vào một thuở xa xưa, có một ông y sĩ du phương, đi khắp các nơi từ thành thị đến thôn quê để hành nghề nuôi mạng. Hôm nọ, gặp một phụ nữ đau mắt, ông hỏi:

- Có phải mắt của bà chị có vấn đề phải không?

- Thưa phải! Tôi bị xốn xang, đau nhức, ngại rằng đến lúc nào đó tôi sẽ không còn thấy đường nữa.

Sau khi xem xét một hồi, vị y sĩ nói:

- Nếu tôi chữa trị lành mắt cho bà chị - thì vấn đề trả tiền công như thế nào?

Người đàn bà mau mắn nói:

- Ối, trời ơi! Nếu thầy mà chữa lành mắt cho tôi thì tôi tình nguyện đưa cả con gái đến làm tôi mọi cho thầy suốt đời.

- Được lắm! Cứ hứa thế nhé! Đừng thất hứa đó.

Nói thế xong, vị y sĩ liền bào chế tức khắc một loại thuốc nước rỏ mắt trao cho người đàn bà. Kỳ diệu làm sao, về nhà, bà chỉ cần rỏ vào mắt một lần thì mắt liền sáng, không còn xốn xang, đau nhức nữa. Bần thần, bà suy nghĩ: “ Mình đã trót hứa đem cả con gái đến nhà ông ta làm tôi đòi, nhưng e rồi sẽ không tránh khỏi bị hành hạ, ngược đãi. Chi bằng mình kiếm lời tráo trở phủ nhận chuyện ấy là xong!”

Khi vị y sĩ đến nhà thăm bệnh tình, hỏi rằng: “Mắt bà chị hôm nay ra sao?” Người đàn bà đáp: “Lúc trước thì chỉ đau sơ sơ, nhưng khi rỏ thuốc của thầy rồi thì nó đau nhức hơn thế nữa. Thầy báo hại tôi rồi!” Vị y sĩ do biết thuốc mình bào chế là thuốc thần, lại nữa, tinh mắt quan sát thì biết ngay sự tráo trở của mụ ta, bèn nghĩ: “Ta không cần tiền công của mụ, nhưng tâm địa dối láo ấy sẽ bị trổ quả, ta sẽ làm cho đôi mắt của mụ ta đui mù luôn!” Bèn nói:

“- Nếu vậy thì tôi sẽ đổi cho bà chị một loại thuốc thần diệu hơn, loại thuốc này không những mắt sáng mà còn sáng hơn mắt của người bình thường nữa”. Thế rồi, ngay tại chỗ, vị ý sĩ bào chế thuốc mới và trao cho người đàn bà với nụ cười:

“- Chịu khó rỏ vào mắt chỉ một lần thôi cũng phát sanh hiệu quả”.

Và đúng là hiệu quả thật! Sau khi người đàn bà rỏ vào mắt mình loại thuốc mới ấy - thì mắt bà liền bị tối tăm vĩnh viễn.

Này chư tỳ-khưu! Vị y sĩ thuở xưa chính là Mahāpāla hiện nay đó! Cái nghiệp ác xưa làm mù mắt người, nó cứ đeo đẳng, chạy đuổi mãi theo con trai của Như Lai từ kiếp này sang kiếp khác, cho đến tận bây giờ. Nó không chịu buông tha đâu. Nghiệp ác luôn chạy theo người làm ác giống như bánh xe luôn luôn lăn theo sau lưng con bò kéo xe vậy.

Rồi đức Thế Tôn kết thúc bằng bài kệ:

“- Các pháp, tư tác(7b)dẫn đầu

Tư tác, chủ ý bắc cầu đưa duyên

Nói, làm xấu ác, chẳng hiền

Bánh xe bò kéo, khổ liền theo sau!”(8b)



(1b)Nghĩa là bảo vệ, hộ trì, che chở.

(2b)Chỗ nào cĩng nói rỏ vào mũi, không phải vào mắt?!

(3b)Aṅguttara Nikāya I: “Nāhaṃ bhikkhave aññaṃ ekasaddampi samanupassāmi yo evaṃ purisassa cittaṃ pariyādāya tiṭṭhati yathayidaṃ bhikkhave ithīsaddoti”.

(4b)Pāḷi: Handāhaṃ hatacakkhusmi, kantāraddhānamāgato, sayamāno na gacchāmi, natthi bāle sahāyatā. Handānaṃ hatacakkhusmi, kantāraddhānamāgato, marissāmi no gamissāmi, natthi bāle sahāyatā.

(5b)Người “ngu” theo thuật ngữ kinh điển, khác nghĩ với tính từ ngu bây giờ. Phàm cái gì tốt đẹp, lành, hiền thiện được gọi là người trí - ngược lại các đức tính ấy gọi là người ngu!

(6b)Ý nói cái tâm giữ gìn phạm hạnh của vị đại đức Mahāpāla vượt trội phước báu của Đế Thích thiên chủ. Dĩ nhiên, đúng là vậy rồi; nhưng ngay chính quả vị thiên chủ cao quý kia, đối với một bậc vô lậu – thì nó chẳng khác gì đống phân, hầm bệnh!

(7b)Theo Abhidhamma thì ý (mano), thức (viññāṇa), tâm (citta)... đồng nghĩa; nhưng tôi chọn dịch là tư tác (cetanā) – vì tư tác mới là nghiệp. Từ trước đến nay, nhiều nơi bảo tác ý (manasikāra) là nghiệp; không phải vậy, tác ý mới chỉ là hướng tâm, như bánh lái của chiếc thuyền. Trong 7 biến hành tâm sở (Duy Thức chỉ có 5): Xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, nhất tâm, mạng căn – thì chính tư (tư tác-cetanā) mới quan trọng, mới tạo nghiệp; sau đó, các lộ trình tâm mới khởi theo – chúng đồng khởi. Tuy nhiên, nếu dịch là tâm hay ý đều không sai, vì ý, tâm, tư tác - được coi là tâm - và các pháp (dhammā), hai từ đầu trong câu kệ, chính là những tâm sở (theo chú giải).

(8b)Pháp cú I: Manopubbaṅgamā dhammā, manoseṭṭhā manomayā, manasā ce paduṭṭhena, bhāsati vā karoti vā, tato naṃ dukkhamanveti, cakkaṃ’vā vahato padaṃ (Kinh lời vàng).

 

6.06- Con ngỗng oan nghiệt

Suốt trong mấy ngày hôm nay, tại tịnh xá Kỳ Viên và ở trong kinh thành Sāvatthi không ngớt bàn tán xôn xao chuyện người thợ ngọc, một cận sự nam lại tra tấn vị thầy của mình là trưởng lão Tissa cho đến gần chết. Nguyên do là người thợ ngọc nghi ngờ trưởng lão Tissa đánh cắp viên ngọc maṇi. Người ta vô cùng xót thương trưởng lão, và họ cũng mạt sát tên thợ ngọc tàn bạo, nhẫn tâm không hết lời.

Đầu đuôi câu chuyện là như sau:

“- Có một gia đình thợ ngọc, là đệ tử của trưởng lão Tissa, vốn hay đặt bát cho ngài suốt mười hai năm trường với tâm tịnh tín sâu xa. Cứ mỗi buổi sáng, hình bóng của trưởng lão đối với gia đình này đã trở nên thân thuộc; họ phụng dưỡng vật thực và chăm lo tứ sự cho ngài như con cái đối với cha mẹ vậy.

Hôm nọ, sau khi thọ nhận vật thực từ người vợ của gia chủ, trưởng lão không vội đi ngay mà ghé vào nhà nghỉ chân. Người thợ ngọc lúc ấy đang xắt thịt làm món ăn gì đó, thấy trưởng lão đi vào, ông vội vã đứng dậy, định rửa tay, mặc áo để nghinh tiếp.

Trưởng lão xua tay:

- Ông cứ làm việc tự nhiên đi. Tôi chỉ ngồi một lát.

Vừa nói thế xong, thì ngoài cửa một viên quan thân tín của đức vua Pāsenadi bước vào, trao cho người thợ ngọc một viên ngọc maṇi rồi nói:

- Ông hãy mài giũa viên ngọc này cho bóng loáng, sau đó, xoi một lỗ nhỏ dùng để xâu chỉ vàng. Cẩn thận làm cho khéo đó, tội chém đầu như chơi, nhớ nhé!

Ông thợ ngọc thò tay nắm viên ngọc ngắm nghía, nói với viên quan thân quen:

- Đẹp thật! Qua tay tôi thì phải biết! Làm gì mà doạ chém đầu hở ông bạn?

Viên quan cười xoà:

- Nói giỡn vậy mà! Từ khi theo Phật đến giờ, đức vua của chúng ta anh minh và hiền thiện hơn trước nhiều.

Khi từ giã, viên quan cận thần không quên quay lại xá chào trưởng lão Tissa trước khi bước ra cửa.

Người thợ ngọc do tay đang dính máu nên ông ta đặt tạm viên ngọc trên nắp hộp rồi bước vào nhà sau để rửa tay. Trưởng lão Tissa vừa dợm đứng dậy thì một con ngỗng từ đâu đó lao vụt tới. Do máu dính trên viên ngọc, con ngỗng nghe mùi, tưởng là cục thịt nên nó đớp và nuốt vào bụng ngay. Chuyện xảy ra nhanh quá, trưởng lão thấy mà không cản ngăn kịp.

Biết tình hình nghiêm trọng, trưởng lão ngồi ngay ngắn trở lại, định tâm một lát để sẵn sàng nhận chịu cái gì xảy đến cho mình.

Người thợ ngọc trở ra, không trông thấy viên ngọc trên nắp hộp nữa nên lớn tiếng hỏi mọi người trong gia đình:

- Có ai lấy viên ngọc không?

Người vợ, con cái và đám gia nhân chạy ra, ai cũng trả lời là không lấy và cũng không biết.

Sau khi cật vấn người này, người kia một hồi, biết rõ họ chưa hề thấy viên ngọc, huống nữa là lấy cắp nên ông ra sau nói nhỏ vào tai bà vợ:

- Vậy chẳng có ai lấy. Người khả nghi nhất chính là trưởng lão của chúng ta, phải không?

Người vợ sợ hãi nói:

- Không đâu! Chắc chắn là không phải đâu. Suốt mười mấy năm trường, chúng ta hộ độ cho trưởng lão, chúng ta chưa hề thấy ngài phạm một lỗi nhỏ về giới luật cũng như đức hạnh. Ngài sống thiểu dục, tri túc, chưa bao giờ gợi ý tà mạng ham muốn một vật gì!

- Ta cũng biết vậy, nhưng ta phải hỏi cho ra lẽ!

Người thợ bước ra, đến trước mặt trưởng lão, nói:

- Bạch trưởng lão! Viên ngọc hồi nãy con để trên nắp chiếc hộp này, ngài có thấy phải không?

- Đúng vậy, ta có thấy, này ông thiện nam!

- Bây giờ con không thấy nó ở đấy nữa, vậy ngài đã lấy cất đi phải không?

- Không, ta không có lấy cất, này ông thiện nam!

Người thợ bắt đầu nóng, lên giọng:

- Bạch trưởng lão! Rõ ràng ở đây không có ai khác, ngoài con, ngài và viên ngọc. Vậy, ngoài ngài ra thì ai vào đây mà lấy viên ngọc? Xin ngài hãy hoàn trả lại cho!

Trưởng lão Tissa biết là người thợ ngọc nói đúng, nhưng ngài không thể vì bảo vệ mình mà chỉ ra thủ phạm là con ngỗng được. Nói ra thì khác gì mình giết nó. Trưởng lão nghĩ thầm trong tâm thêm nữa rằng: “Đức Chánh Đẳng Giác của chúng ta đã bốn a-tăng-kỳ và một trăm ngàn đại kiếp hành ba-la-mật bậc hạ, bậc trung và bậc thượng. Biết bao nhiêu kiếp ngài đã xả thân, lóc da, xẻ thịt, đôi khi hy sinh cả mạng sống để cứu độ chúng sanh... Còn ta thì sao nào? Một chút nhận chịu sự oan khuất này mà cũng không vượt qua được hay sao?”

Nghĩ thế xong, trưởng lão Tissa ôn tồn nói:

- Một cận sự nam nữ xứng đáng sống trong giáo pháp của đức Thế Tôn, họ không có sát sanh, không trộm cắp, không tà hạnh, không vọng ngữ... huống hồ gì ta là một vị tỳ-khưu, này hỡi ông thiện nam! Ta không nói dối đâu. Ta không hề lấy cắp! Các ngươi biết đấy, dù một cây kim, một sợi chỉ, đệ tử đức Tôn Sư cũng không hề khởi tâm xâm phạm...

Người thợ ngọc ruột rối như tơ vò, cứ đi lui đi tới, gãi đầu gãi tai, phân vân, bất quyết. Ông kính trọng trưởng lão nhưng việc mất viên ngọc lại là một đại họa!

Ông lui ra sau, bàn với vợ:

- Ông ấy không lấy cắp thì ai vào đấy nữa? Chắc ta phải tra khảo ông ta thôi!

Bà vợ lại cản ngăn:

- Đừng làm thế, không nên, tội chết! Hay là mình bán cả gia tài rồi đi ở đợ cho người để bồi hoàn viên ngọc ấy lại cho đức vua?

- Bà tưởng là đền được ư? Viên ngọc ấy là vô giá. Cả gia sản của ta đã là cái thá gì? Đi ở đợ cả trăm năm nữa cũng đừng mong mà trả đủ! Ta đành phải nặng tay thôi!

Rồi người thợ ngọc cắn răng bỏ qua sự cản ngăn tha thiết của người vợ, bước ra ngoài với sợi dây thừng, mạnh tay niềng đầu trưởng lão Tissa đến bảy vòng. Ngài cứ ngồi im chịu trận. Người thợ ngọc lấy cái chày gỗ gõ liên tu bất tận lên đầu trưởng lão, vừa gõ vừa hét lên:

- Có khai ra không? Lấy cắp viên ngọc để đâu?

Từ đầu và hai tai trưởng lão máu xối xả chảy ra thành dòng, hai mắt của ngài gần như là lòi tròng ra ngoài; mặc dầu thọ khổ khốc liệt, ngài vẫn im lặng chịu đựng và khởi niệm tâm từ. Trưởng lão còn nghĩ: “Người thợ ngọc không có lỗi, ta không có lỗi, cho chí con ngỗng cũng không có lỗi; tất cả âu là do nghiệp của chúng sanh!”

Máu chảy lan thấm xuống đất, con ngỗng lại đánh mùi, chạy đến uống máu. Sẵn cơn giận như đang bốc lửa trong đầu, người thợ ngọc lấy chân đá mạnh con ngỗng rồi hét:

- Cả mày nữa! Cũng chết cho luôn thể!

Cái đá quá mạnh của người thợ ngọc làm cho con ngỗng chết tức khắc, nằm sóng soài ra đất.

Khi thấy con ngỗng nằm bất động, trưởng lão Tissa cố gắng huy động toàn bộ sức lực, cất giọng thều thào:

- Này ông thiện nam! Làm phiền ông, xin ông hãy khởi tâm bi nới lỏng mấy vòng dây đang xiết cứng trên đầu ta để ta có thể nghiêng đầu xem con ngỗng kia đã chết thật hay chưa?

Người thợ ngọc nới dây, nói chì chiết:

- Rồi ông cũng chết thê thảm như nó vậy đó!

Sau khi quan sát kỹ, biết con ngỗng đã chết, trưởng lão Tissa mới thở dài nói:

- Chính nó! Chính con ngỗng kia đã nuốt viên ngọc maṇi vào trong bụng đó, này ông thiện nam! Nếu nó mà chưa chết thì ta không thể nói cho ông biết chuyện ấy đâu.

Kinh hoàng, người thợ ngọc hối hả lấy dao mổ bụng con ngỗng, và quả nhiên, viên ngọc được tìm thấy rõ ràng trong bao tử nó. Khi thấy rõ sự thật rồi, tâm thần người thợ ngọc trở nên bấn loạn, hoảng hốt; nghĩ đến cái tội của mình, ông lạnh toát cả người rồi run bần bật, quỳ sụp dưới chân trưởng lão và khóc ròng rã.

- Xin trưởng lão xá tội lỗi cho con! Tội của con là tội địa ngục khi dám xâm phạm đến thân thể của ngài.

Trưởng lão điều hòa hơi thở, mở lời trấn an:

- Đây chẳng qua là nghiệp nhân và nghiệp quả trong vòng sinh tử luân hồi của chúng sanh mà thôi. Ta tha thứ cho ông rồi đó.

Người thiện nam lại năn nỉ:

- Nếu ngài đã tha thứ cho con thì từ rày về sau, ngài cứ đến đây thọ nhận vật thực như lệ thường.

Trưởng lão Tissa lảo đảo đứng dậy, điều hòa hơi thở rồi chậm rãi nói:

- Ta tha thứ cho ông, nhưng từ rày về sau, ta sẽ không bước chân vào nhà của bất cứ một cận sự nam, cận sự nữ nào nữa. Quả thật, ta đã thấy rõ tội lỗi sẽ phát sanh do quen biết, do thân cận, do ở bên trong của từng ngôi nhà. Ta sẽ đi khất thực nếu chân còn khoẻ; và đối với ta, không có một ngôi nhà nào trong kinh thành này để ta phải chọn lựa nữa. Hãy cứ để tùy duyên, ta không hứa một điều gì hết. Rồi trưởng lão đọc lên một bài kệ:

“- Cứ mỗi nhà một ít

Cơm bánh ta xin ăn

Nuôi mạng, không lựa chọn

Sức khỏe, tùy đôi chân!”(1c)

Do bị tra tấn quá sức chịu đựng của con người, do bị chấn thương sọ não, trưởng lão Tissa đi trì bình khất thực được mấy hôm, biết mình thọ và nghiệp đã chấm dứt, ngài an nhiên thị tịch Niết-bàn trước không biết bao nhiêu sự kính trọng, ngưỡng mộ cũng như thương xót của chư tăng và mọi người.

Đức Phật đúc kết câu chuyện tại Kỳ Viên tịnh xá, ngài tán thán hạnh nhẫn nhục ba-la-mật của vị thánh đệ tử, là tấm gương sáng cho các vị hữu học.

Khi đại chúng muốn biết sanh thú mai hậu của những nhân vật trong câu chuyện, đức Phật cho biết thêm:

- Con ngỗng chết, tức khắc tái sanh vào bụng của bà vợ người thợ ngọc (?). Bà vợ, cuối đời sẽ sanh lên thiên giới. Người thợ ngọc, dù đã sám hối nhưng cũng bị trả quả địa ngục theo với tội tương ứng của ông ta.

Đúng như bài kệ sau:

“- Một số sanh thú thai bào

Bốn đường đau khổ đón chào ác nhân

Người lành, thiên giới du nhàn

Còn người vô nhiễm, Niết-bàn tĩnh cư”(2c).



(1c)Dịch thoát từ kệ Pāḷi: “Paccati munino bhattaṃ, thokaṃ thokaṃ kule kule, piṇḍikāya carissāmi, atthi jaṅghabalaṃ mamāti”.

(2c)Pháp cú 126: “Gabbhameke uppajjanti, Nirayaṃ pāpakammino, saggaṃ sugatino yanti, pariNibbanti anāsavā”.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn