(Xem: 1759)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2224)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Niệm ân đức Tăng

01 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 19275)

3-3 Saṃghānussati: Đề-Mục Niệm-Niệm

9- Ân-Đức-Tăng

Saṃghānussatilà đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định đề-mục Saṃghānussati: đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng,niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm9 ân-Đức-Tăng làm đối-tượng.  

Thực-Hành Đề-Mục Saṃghānussati 

Hành-giả có ý nguyện thực-hành pháp-hành-thiền-định về đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta([6])về phương-pháp niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng như sau:

 Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujup-paṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha-purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho Āhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhineyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.”

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức-Tăng

1- Suppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn.

2- Ujuppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo Pháp-hành-Trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

3- Ñāyappaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành-bát-chánh-đạo, chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

4- Sāmicippaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành pháp-hành- giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ đúng đắn xứng đáng để chúng-sinh tôn kính, lễ bái, cúng dường đến quý Ngài.

Yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭhapurisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh (tính theo siêu-tam-giới-tâm):

Chư Thánh-Thanh-Văn Có 4 Đôi

* Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả.

* Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả,

* Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả,

* A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả.

Chư Thánh-Thanh-Văn Có 8 Bậc Thánh

* Nhập-lưu-Thánh-đạo (Sotāpattimagga),

* Nhất-lai-Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga),

* Bất-lai-Thánh-đạo (Anāgāmimagga),

* A-ra-hán-Thánh-đạo (Arahattamagga),

* Nhập-lưu-Thánh-quả (Sotāpattiphala),

* Nhất-lai-Thánh-quả (Sakadāgāmiphala),

* Bất-lai-Thánh-quả (Anāgāmiphala),

* A-ra-hán-Thánh-quả (Arahattaphala).

5- Āhuneyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

6- Pāhunēyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

7- Dakkhineyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng quý báu mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được phước-thiện lớn và quả báu nhiều cho mình và những người thân quyến.

8- Añjalīkaraṇīyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính, lễ bái, cúng dường.

9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Chư Thánh- Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

9 ân-Đức-Tăng chia ra làm 2 phần:

1- Ân-Đức-Tăng-Bảo Suppaṭipanno, Ujuppaṭipanno, Ñāyappaṭipanno, Sāmicippaṭipanno gồm có 4 Ân-Đức-Tăng này là nhân đã thực-hành đúng theo Thánh-đạo (Ariyamagga) hợp đủ 8 chánh (chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định), trở thành bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh.

2- Ân-Đức-Tăng-BảoĀhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhi-neyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa gồm có 5 Ân-Đức-Tăng này là quả của 4 Ân-Đức-Tăng nhân ở trên.

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân mới có đủ 9 ân-Đức-Tăng này. Còn chư tỳ-khưu phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, thì chỉ có giới hạn một phần ân-Đức-Tăng-bảo nào mà thôi. 

Giảng Giải Về 9 Ân-Đức-Tăng

Trong bộ Chú Giải giảng giải 9 ân-Đức-Tăng được tóm lược sau đây:

1- Ân-Đức-Tăng Suppaṭipanno

Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xúp-pá-tí păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Suppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành nghiêm chỉnh đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã thực-hành nghiêm chỉnh, đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Thế-Tôn, thực-hành không tự làm khổ mình, không làm khổ người, không tự làm khổ mình lẫn người, thực-hành đúng theo pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ.

- Pháp-hành-giới: Chư Thánh-Thanh-văn có đức tin vững chắc hoàn toàn trong sạch nơi Tam-Bảo, tôn trọng thực-hành các điều-giới, các pháp-hành Tăng-sự mà Đức-Phật đã chế định ban hành, nên quý Ngài nghiêm chỉnh thực-hành đúng đắn hoàn toàn theo lời giáo huấn của Đức-Phật.

Chư tỳ-khưu thực-hành pháp-hành-giới nghiêm chỉnh, thấy lỗi rất nhỏ, xem như lỗi lớn mà tránh xa, thà dám chịu hy sinh sinh-mạng, chứ không để phạm giới.

Như tích vị tỳ-khưu trong bộ Visuddhimagga: Thanh-Tịnh-Đạo, được tóm lược như sau:

Một bọn cướp gặp vị tỳ-khưu ở ven rừng, chúng nghĩ rằng: “Gặp Ngài là điều xui xẻo”. Bọn chúng bắt vị tỳ-khưu ấy trói buộc bằng một sợi dây dài gốc còn dưới đất,

rồi để Ngài nằm tại đó.

Chẳng may, một đám lửa rừng cháy lan đến, nếu Ngài vùng dậy để tránh ngọn lửa, thì làm đứt sợi dây còn tươi. Như vậy, Ngài sẽ bị phạm giới Pācittiya, mà Đức-Phật đã chế định ban hành đến chư tỳ-khưu.

Ngài nghĩ rằng: “Sự chết là điều chắc chắn, nếu ta thoát chết hôm nay, thì sau này cũng phải chết, nhưng giới của ta không trong sạch. Thà hôm nay, ta chịu chết với giới trong sạch, chứ không để phạm giới.

Do nhờ giới trong sạch, Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán. Khi ấy, ngọn lửa rừng lan đến thiêu cháy Ngài. Ngài tịch diệt Niết-bàn tại nơi ấy.

Nếu trường hợp vị tỳ-khưu nào phạm giới nhẹ, thì nên tìm đến một vị tỳ-khưu khác xin sám hối Āpatti. Đó là cách làm cho giới của mình trở lại trong sạch, làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc thực- hành pháp-hành-thiền-tuệ.  

- Pháp-hành-định: Đó là thực-hành pháp-hành-thiền-định, chư tỳ-khưu thanh-văn thực-hành pháp-hành- thiền-định dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

Khi nhập bậc thiền hưởng sự an-lạc trong bậc thiền ấy, hoặc để làm nền tảng cho pháp-hành-thiền-tuệ.

- Pháp-hành-tuệ: Đó là thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, chư tỳ-khưu thanh-văn thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành 4 bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-Tăng.

Nếu các hàng Thanh-văn đệ tử đang thực-hành đúng theo lời giáo huấn của Đức-Phật, mà chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào thì còn là hạng phàm Thanh-văn, gọi là chư phàm-Tăng.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Supaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

2- Ân-Đức-Tăng Ujuppaṭipanno

Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

 (Cách đọc: Ú-chúp pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Ujuppaṭipanno: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành trung thực đúng theo pháp-hành-trung-đạo, không quanh co lầm lạc.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, đã thực-hành trung thực nghĩa là khi mình đã phạm lỗi, thì không giấu lỗi của mình; không hành lừa dối nghĩa là mình không có đức, không có tài, thì không làm ra vẻ như người có đức, có tài, v.v...

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn không thực-hành theo tâm tham đắm trong ngũ dục, cũng không thực-hành theo pháp hành khổ hạnh, tự làm khổ mình, mà Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã thực-hành theo pháp-hành-trung-đạo đó là pháp-hành bát-chánh-đạo, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

* Nếu đã chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả rồi, thì trở thành 4 bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật, gọi là chư Thánh-Tăng.

* Nếu chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, thì vẫn còn là phàm thanh-văn, gọi là chư phàm-Tăng.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

3- Ân-Đức-Tăng Ñāyappaṭipanno

Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Nha-giáp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Ñāyappaṭipanno:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành theo pháp- hành bát-chánh-đạo, chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã nhận thức rằng:“tam giới: dục-giới, sắc-giới, vô-sắc-giới như là ba hầm lửa ngùn ngụt cháy không ngừng thiêu đốt tất cả chúng-sinh.”

Trong tam giới này không có một nơi nào thực sự được mát mẻ an-lạc. Tất cả chúng-sinh phải chịu cảnh nóng nảy do 11 thứ lửa: lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu-não, lửa khóc-than, lửa khổ-thân, lửa khổ-tâm, lửa thống-khổ cùng-cực, cùng với 1.500 loại phiền-não. Chỉ có Niết-bàn là pháp dập tắt được mọi thứ lửa, làm vắng lặng mọi phiền-não, giải thoát mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn đó là pháp- hành bát-chánh-đạo. Hành giả thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định. Đó là pháp-hành dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, đồng thời dập tắt mọi thứ lửa.

Cho nên, chư Thánh-Thanh-văn đã coi trọng phận sự chứng ngộ Niết-bàn lên ưu tiên hàng đầu. Dù lửa cháy trên đầu cũng xem thường, không quan tâm, vì họ nghĩ rằng: “lửa cháy trên đầu chỉ thiêu đốt một kiếp hiện-tại, còn các thứ lửa tham-dục, lửa sân-hận, lửa si-mê,... không chỉ thiêu đốt, làm nóng nảy trong kiếp hiện-tại, mà còn thiêu đốt làm nóng nảy nhiều kiếp trong vị-lai vô cùng, vô tận.”

Vì vậy, chư Thánh-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn đã đặt ưu tiên hàng đầu thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo dẫn đến chứng ngộ Niết-bàn.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

4- Ân-Đức-Tăng Sāmīcippaṭipanno

Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Xa-mi-chíp-pá-tí-păn-nô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Sāmīcippaṭipanno:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc đã thực-hành pháp-hành- giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ đúng đắn, xứng đáng để cho chúng-sinh tôn kính lễ bái cúng dường.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, đã thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ, thực-hành pháp-hành bát-chánh-đạo, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán là bậc xứng đáng được chúng-sinh lễ bái cúng dường.

Những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, cung kính lễ bái cúng dường bốn thứ vật dụng đến chư Thánh-Tăng, để mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài.

Để đáp ứng lại lòng mong ước của thí chủ cho được thành tựu như ý. Chư Tăng phải là bậc Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn có giới-đức hoàn toàn trong sạch, có định-đức hoàn toàn, có tuệ-đức hoàn toàn…

* Như tích Ngài Đại-đức Ayyamitta(1) hành đạo trong động Kassaka gần một xóm nhà. Hằng ngày, Ngài đi khất thực trong xóm nhà ấy, một gia đình nghèo khổ chỉ có hai mẹ con có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Hai mẹ con hằng ngày hộ độ để bát cúng dường đến Ngài Đại-đức Ayyamitta và xem Ngài như là người thân trong gia đình.

Một hôm, người mẹ vào rừng, đi làm sớm, trước khi đi bà căn dặn con gái rằng:

- Này con gái yêu quý! Gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt,... mẹ để ở kia. Khi sư huynh con đến khất thực, con hãy lấy những thứ đó nấu để bát cho sư huynh, phần còn lại, con ăn nhé!

Người con gái hỏi:

- Thưa mẹ! Còn mẹ ăn gì?

Bà mẹ trả lời:

- Con à! Mẹ đã ăn cơm nguội ngày hôm qua còn lại với nước canh chua rồi.

Người con gái hỏi tiếp:

- Thưa mẹ! Còn buổi trưa mẹ ăn gì?

Bà mẹ bảo đứa con gái:

- Này con gái yêu quý! Buổi trưa, con nấu cháo hạt tấm trộn với rau, để mẹ về ăn nghe!

Trong khi hai mẹ con bà thí chủ đang nói chuyện với nhau, khi ấy, Ngài Đại-đức Ayyamittađi khất thực đứng nghe được câu chuyện giữa hai mẹ con.

Ngài tự dạy mình rằng:

- Này Ayyamitta! Ngươi hãy lắng nghe đây! Sáng nay, bà thí chủ ăn cơm nguội còn lại với nước canh chua. Trưa nay, bà ăn cháo hạt tấm với rau. Còn những thứ gạo ngon, sữa bò, bơ, đường thốt nốt, ... bà lại để dành nấu để bát cúng dường cho ngươi.

Làm như vậy, không phải bà mong được những thứ của cải gì nơi ngươi, mà thật ra, bà mong thành tựu được quả báu an-lạc trong cõi người, trong cõi trời và thành tựu được quả báu an-lạc Niết-bàn.

Những quả báu mà bà mong ước, ngươi có thể đáp ứng được hay không?

Vì vậy, nếu ngươi chưa diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não trầm luân, thì người không xứng đáng thọ nhận vật thực của bà thí chủ ấy!

Sau khi tự dạy mình xong, Ngài không đi khất thực, mà trở về động cất bát, ngồi phát nguyện rằng:

 “Arahattaṃ apāpuṇitvā na nikkhamissāmi”

Chưa chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, ta sẽ không rời khỏi nơi này.”

Do nhờ giới-đức trong sạch làm nền tảng, Ngài thực- hành pháp-hành-thiền-tuệ, trong khoảng thời gian không lâu, Ngài đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não-trầm-luân, mọi tham-ái, mọi ác- pháp, không con dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng.

Sau khi trở thành bậc Thánh-A-ra-hán xong, thời gian vẫn còn sớm, nên Ngài đi khất thực. Ngài mặc y, mang bát vào xóm khất thực.

Đang chờ đợi Ngài đến, đứa em gái cung kính để phần vật thực vào bát cúng dường đến Ngài Đại-đức Ayyamitta.

Đứa em gái cảm nhận rằng: “Hôm nay, sư huynh của ta có gương mặt trong sáng lạ thường, thật xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường biết dường nào!”

Buổi chiều, khi người mẹ vừa về đến nhà, cô gái liền chạy ra đón, và thưa với mẹ rằng:

- Thưa mẹ! Hôm nay sư huynh có gương mặt trong sáng lạ thường hơn mọi ngày. Thật là xứng đáng tôn kính lễ bái cúng dường biết dường nào! Mẹ à.

Nghe đứa con gái yêu quý thưa như vậy, bà thí chủ cảm thấy vô cùng sung sướng, hoan hỷ nghĩ rằng:

 “Hôm nay, Ngài Đại-đức, con trai cao quý của ta chắc đã hoàn thành xong phận sự của bậc xuất gia tỳ- khưu rồi thì phải!

Qua tích này hiểu được rằng: Thật ra, hàng phàm-nhân chắc chắn không thể nào biết được tâm của bậc Thánh-nhân, song về sắc diện của bậc Thánh-nhân được biểu hiện trên gương mặt trong sáng lạ thường, hành vi cử chỉ đi, đứng, nằm, ngồi, nói năng,... trang nghiêm phi thường.

Vì vậy, phàm-nhân có trí-tuệ nhận thức tinh tế cũng có thể biết được đó là những Bậc đáng được tôn kính.

Tương tự như trường hợp Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta khi còn là vị đạo-sĩ Upatissa, đệ tử của vị Đạo sư Sañcaya.

Nhìn thấy Ngài Đại-đức Assaji đang đi vào kinh thành Rājagaha để khất thực, với dáng đi nghiêm trang, đôi mắt nhìn xuống,…Vị đạo-sĩ Upatissa phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài Đại-đức Assaji, nên thầm nghĩ rằng:

“Vị tỳ-khưu này chắc là bậc Thánh-A-ra-hán, Bậc xứng đáng tôn kính trong đời này. Vậy, ta nên đến gần gũi thân cận với Ngài, rồi thỉnh Ngài thuyết pháp tế độ ta.”

Đến hầu đảnh lễ Ngài Đại-đức Assaji, sau khi Ngài độ vật thực xong, vị đạo-sĩ Upatissa kính thỉnh Ngài thuyết pháp.

Ngài Đại-đức Assaji thuyết một bài kệ gồm có 4 câu, vị đạo-sĩ Upatissa vừa mới nghe 2 câu đầu, liền chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

Như vậy, hạng thiện-trí phàm-nhân có trí-tuệ tinh tế, có nhận thức sâu sắc cũng có thể suy đoán biết được bậc Thánh-nhân thật xứng đáng tôn kính, qua phần giới-hạnh, do biểu hiện ra bên ngoài nơi thân và khẩu của bậc Thánh-nhân ấy.

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng được tôn kính, để cho chúng-sinh nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên lễ bái cúng dường.

Vì vậy, ân-Đức-Tăng này gọi là Sāmīcippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho.

* Cattāri purisayugāni aṭṭha purisapuggalā, esa Bhagavato sāvakasaṃgho:

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn có 4 đôi thành 8 bậc Thánh. (tính theo siêu-tam-giới-tâm)

Chư Thánh-Thanh-văn có 4 Đôi

* Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả.

* Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả,

* Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả,

* A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả.

Chư Thánh-Thanh-văn có 8 Bậc Thánh

* Nhập-lưu-Thánh-đạo (Sotāpattimagga),

* Nhất-lai-Thánh-đạo (Sakadāgāmimagga),

* Bất-lai-Thánh-đạo (Anāgāmimagga),

* A-ra-hán-Thánh-đạo (Arahattamagga),

* Nhập-lưu-Thánh-quả (Sotāpattiphala),

* Nhất-lai-Thánh-quả (Sakadāgāmiphala),

* Bất-lai-Thánh-quả (Anāgāmiphala),

* A-ra-hán-Thánh-quả (Arahattaphala).

4 Bậc Thánh-Nhân

-Bậc Thánh-Nhập-lưu (Sotāpanna),

- Bậc Thánh-Nhất-lai (Sakadāgāmī),

- Bậc Thánh-Bất-lai (Anāgāmī),

- Bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta). 

5- Ân-Đức-Tăng Āhuneyyo

Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho

(Cách đọc: A-hú-nây-dô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Āhuneyyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được quả báu lớn.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí chủ từ phương xa đem đến cúng dường quý Ngài, để mong được những quả báu sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lớn lao và lâu dài.

Tạo Phước Thiện Trong Phật-Giáo, Ngoài Phật-Giáo

Các hàng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật đã tạo mọi phước-thiện trong thời kỳ Phật-giáo. Sau khi chết, thiện- nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm thiên-nam, thiên-nữ trong các cõi trời dục giới. Những thiên-nam, thiên-nữ ấy có nhiều oai lực hơn các Chư-thiên đã tạo phước thiện ngoài Phật-giáo.

* Như tích vị thiên-nam Indaka trong cõi Tam-thập Tam-thiên được tóm lược như sau:

Tiền kiếp vị thiên-nam Indaka này sinh trong cõi người, trong thời kỳ Phật-giáo, đã từng tạo mọi phước- thiện như làm phước-thiện cúng dường đến Đức-Phật, nghe Pháp, làm phước thiện cúng dường đến chư tỳ- khưu Tăng, giữ giới, v.v…

Sau khi chết, thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau hoá sinh làm vị thiên-nam tên Indaka trong cõi trời Tam-thập-Tam-thiên, có nhiều oai lực hơn các vị Chư-thiên khác.

Mỗi khi đến chầu Đức-vua trời Sakka, vị thiên-nam Indaka phát ra hào quang sáng chói, lấn áp bao trùm hào quang của các Chư-thiên khác, kể cả Đức-vua trời Sakka. Vì vậy, Đức-vua trời Sakka cảm thấy tủi phận, vì mình là Đức-vua mà hào quang lại thua kém Chư-thiên đã tạo phước thiện trong Phật giáo.

* Tích Đức-vua trời Sakka

Một hôm, Đức-vua trời Sakka dùng thiên nhãn thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa nhập-diệt-thọ-tưởng suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 mới xả. Đức-vua trời Sakka biết Ngài có tâm bi tế độ những người nghèo khổ, nên chờ ngày Ngài xả-diệt-thọ-tưởng.

Đức-vua trời Sakka truyền gọi bà Hoàng-hậu Sujātā, cả hai cùng hiện xuống cõi người, hóa làm người già nghèo khổ, sống trong một cái chòi lá nhỏ bên ven đường mà Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa đi khất thực ngang qua.

Đồ ăn đã sửa soạn sẵn, Đức-vua trời Sakka hóa làm một cụ già đáng thương, đứng chờ Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa đi khất thực tế độ người nghèo khổ.

Vừa thấy Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa từ xa đi đến, cụ già (Đức-vua trời Sakka) bèn gọi Hoàng-hậu Sujātā biến hoá thành một bà già rằng:

- Bà ơi! Ngài Đại-Trưởng-Lão đang đến trước cổng chòi mình, bà có gì đem ra làm phước để bát cúng dường đến Ngài không?

Bà già (Hoàng-hậu Sujātā) bèn tâu lại với ông cụ (Đức-vua trời Sakka) rằng:

- Ông à! Ông kính thỉnh Ngài dừng lại tế độ chúng ta.

Ngài đứng lại. Cả hai ông bà già cung kính làm phước-thiện bố-thí để bát cúng dường đến Ngài. Vật thực mà Ngài Đại-Trưởng-Lãovừa thọ nhận phảng phất hương vị lạ thường. Ngài suy xét biết hai vợ chồng già này chính Đức-vua trời Sakka và Hoàng-hậu Sujātā, Ngài liền quở trách Đức-vua trời SakkaHoàng-hậu Sujātā rằng:

- Này Đức-vua trời! Lão Tăng tế độ người nghèo khổ, tại sao Đức-vua trời và Hoàng-hậu hoá làm người già giành của người nghèo như vậy?

Đức-vua trời Sakka bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, kính xin Ngài có tâm bi tế độ chúng con. Tiền-kiếp của chúng con làm mọi phước-thiện trong thời kỳ không có Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng xuất hiện trên thế gian. Chúng con cảm thấy tủi phận nghèo nàn, vì quả báu, oai lực không sánh được với Chư-thiên, mà tiền kiếp đã từng làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến Đức-Phật, đến chư Đại-Đức-Tăng.

Đức-vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ tự thốt lên rằng:

Aho! Dānaṃ paramadānaṃ Kassape suppatiṭṭhitaṃ(1)

Ô! Được làm phước thiện bố thí đến Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa, thật là phước-thiện bố-thí vô cùng cao thượng!

Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc có 5 đức cao quý: giới-đức, định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức đầy đủ, xứng đáng thọ nhận những vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, từ phương xa đem đến làm phước-thiện bố-thí, cúng dường dù ít dù nhiều đến chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, cũng được quả báu của phước-thiện ấy lớn lao vô lượng không sao kể xiết.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

6- Ân-Đức-Tăng Pāhuneyyo

Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Pa-hú-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Pāhuneyyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ dành cho những vị khách quý như quý Ngài.

Khách quý có 2 hạng:

- Khách quý hạng thường đó là bà con thân quyến, bạn bè, những người ân nhân,... của mình trong mỗi kiếp.

- Khách quý hạng đặc biệt đó là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác rất hiếm có trong thế gian, bởi vì Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian là một điều khó có, khi nào có Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác trên thế gian, khi ấy mới có chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng Thanh-văn đệ tử của Đức-Phật.

Thật vậy, có khi 1 a-tăng-kỳ đại-kiếp trái đất trải qua 4 thời kỳ thành-trụ-hoại-không, mà không có một Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian, thì cũng không có chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng trên thế gian.

Thí chủ làm phước-thiện bố-thí đến khách hạng thường sẽ được quả báu trong kiếp hiện-tại và trong kiếp vị-lai có giới hạn. Còn thí chủ làm-phước bố-thí đến khách hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng sẽ được quả báu lớn lao trong kiếp hiện-tại và trong vô lượng kiếp vị-lai, không có giới hạn.

Hơn nữa, phước-thiện ấy lại còn làm phước-duyên cho sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới.

Đối với hạng khách quý là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, người thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, nên tôn kính đón rước, lễ bái cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng sẽ được nhiều quả báu cao quý lớn lao vô lượng.

Trong bài kinh Kulasutta (1) Đức-Phật dạy:

- Này chư tỳ-khưu! Chư tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ được 5 quả báu lớn như sau:

1- Tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, những người trong gia đình nhìn thấy và phát sinh thiện tâm trong sạch. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước- thiện, để được tái sinh lên cõi trời dục giới.

2- Khi họ đón tiếp cung kính lễ bái tỳ-khưu ấy, thỉnh ngồi trên những chỗ cao quý. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước thiện, để được tái sinh vào trong gia đình thuộc dòng dõi cao quý.

3- Sau khi tỳ-khưu ấy ngồi chỗ cao quý, những người trong gia đình tiếp đãi mọi thứ vật dụng cần thiết như dâng cơm nước, thuốc trị bệnh, … với thiện tâm trong sạch, hoan hỷ, không có tâm keo kiệt bỏn xẻn,... Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để được quả báu quyền cao chức trọng.

 4- Khi họ làm phước bố-thí đến tỳ-khưu ấy tùy theo khả năng của mình. Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để có được nhiều của cải tài sản, giàu sang phú quý.

5- Khi họ lắng nghe vị tỳ-khưu thuyết giảng chánh-pháp, hoặc vấn đạo,... Những người trong gia đình ấy đã tạo phước-thiện, để phát sinh trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp...

- Này chư Tỳ-khưu! Khi tỳ-khưu có giới-đức đến gia đình, thì những người trong gia đình sẽ tạo được 5 phước-thiện, và được 5 quả-báu cao quý lớn lao như vậy.

Khách quý hạng thường là bà con thân bằng quyến thuộc, bạn hữu…mỗi kiếp tử sinh luân hồi đều có được, đều gặp được.

Còn khách quý hạng đặc biệt là chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng không phải kiếp nào cũng có thể gặp được, gần gũi, thân cận được.

Những chúng-sinh nào có đầy đủ phước duyên mới có được cơ hội tốt, có duyên lành gặp được chư Thánh- Tăng, chư phàm-Tăng là chư khách quý hạng đặc biệt cao thượng, những chúng-sinh ấy có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo đón tiếp, tôn kính, lễ bái cúng dường dù ít dù nhiều, chắc chắn cũng sẽ tạo được nhiều phước-thiện lớn lao vô lượng, cũng có được quả báu lớn lao vô lượng, đáng hài lòng cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai, và còn tạo được duyên lành để giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Vì vậy, ân-Đức-Tăng này gọi là Pāhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

7- Ân-Đức-Tăng Dakkhiṇeyyo 

Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Đắc-khí-nây-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Dakkhiṇeyyo: Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, đem dâng cúng đến quý Ngài, để mong được quả báu tốt lành cho mình và những người thân quyến.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng mà thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nơi thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp. Người thí chủ tin tưỏng rằng:

 “Khi làm phước-thiện bố-thí cúng dường đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, thì họ đã tạo được mọi phước-thiện thanh cao, chắc chắn sẽ phát sinh những quả báu tốt lành, lớn lao vô lượng đến cho họ trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Và họ còn có thể hồi hướng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con quyến thuộc, những ân nhân của họ và và tất cả chúng-sinh khác đã quá vãng.

Nếu những chúng-sinh ấy hay biết mà phát sinh thiện-tâm hoan hỷ “sādhu” thì phần phước-thiện thanh cao hoan hỷ (pattānumodanā) ấy sẽ cho quả báu an-lạc đến với họ.

Nếu chúng-sinh ấy đang sống trong cảnh khổ thì giải thoát khỏi cảnh khổ ấy, liền tái sinh trong cõi thiện-giới: cõi người hoặc cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an-lạc.

Nếu chúng-sinh đang ở trong cảnh an-lạc, thì sự an-lạc càng thêm tăng trưởng.

Và họ còn có thể kính dâng phần phước-thiện thanh cao ấy đến cho ông bà, cha mẹ, bà con thân quyến, bạn hữu, và tất cả chúng-sinh đang hiện hữu trong cõi người.

Nếu những người ấy phát sinh thiện tâm hoan hỷ “sādhu” thì phần phước-thiện thanh cao hoan hỷ (pattā-numodanā) ấy sẽ cho quả tốt, quả an-lạc trong kiếp hiện-tại, và vô số kiếp vị-lai.

 Muốn thành tựu được những quả báu thật sự, thì thí chủ nên làm phước-thiện bố-thí cúng dường hướng đến chư Thánh-Tăng, chư phàm-Tăng, bởi vì chư Thánh- Tăng có ân-đức Dakkhiṇeyyo.

* Như tích Bố-thí cơm cháy.

Trong bộ Vimānavatthu, tích Ācāmadāyikāvimāna, được tóm lược như sau:

Một bà già nghèo khổ ăn mày, sống nhờ đằng sau hiên nhà người khác, người ta nhìn thấy bà đáng thương, nên thường cho nước cơm, cháo, miếng cơm cháy… để bà ăn sống qua ngày.

Một hôm, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa vừa xả-diệt-thọ-tưởng, rồi xem xét nên đi khất thực, để tế độ người nào. Ngài nhìn thấy một bà già nghèo khổ, gần chết, nếu bà chết, thì có thể đọa địa ngục.

Với tâm bi tế độ bà tránh khỏi cõi địa ngục, do nhờ phước-thiện bố-thí miếng cơm cháy, bà sẽ tái sinh lên cõi trời dục-giới thứ 5 gọi là Hóa-Lạc-thiên.

Xem xét thấy như vậy, buổi sáng hôm ấy, Ngài mặc y mang bát đi đến chỗ ở của bà. Trong khi đó, Đức-vua trời Sakka biến hóa thành người già đem vật thực đến, để cúng dường Ngài. Ngài biết người già đó là Đức-vua trời Sakka, nên bảo rằng:

- Này Đức-vua trời Sakka! Đức-vua không nên giành phước-thiện của người nghèo khổ.

Ngài không chịu mở nắp bát, vẫn đứng yên trước bà già nghèo khổ kia. Bà nghĩ rằng:

 “Ngài Đại-Trưởng-Lão là bậc có giới-đức lớn, được phần đông tôn kính, phận ta nghèo khổ không có gì quý giá để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài.

Hằng ngày, ta chỉ có nước cơm và miếng cơm cháy không ngon lành gì cả. Vả lại, còn đựng trong một đồ dùng không sạch sẽ, ta nào dám làm phước-thiện bố-thí cúng-dường để bát đến Ngài được”. Nên bà bạch rằng:

- Kính thỉnh Ngài đi nơi khác, con không có gì xứng đáng cúng-dường đến Ngài cả. Bạch Ngài.

Ngài vẫn đứng yên không đi nơi khác, những người khác đem vật thực đến để bát dâng cúng, Ngài vẫn không mở nắp bát để nhận.

Bà già nghĩ rằng: “Chắc chắn Ngài Đại-Trưởng-Lão đứng đây để tế độ ta”.

Bà phát sinh thiện-tâm có đức-tin trong sạch muốn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường Ngài, nên bà đem miếng cơm cháy đến, Ngài liền mở nắp bát, bà thành kính cúng-dường, đặt miếng cơm cháy vào trong bát của Ngài một cách tôn kính.

Ngài Đại-Trưởng-Lão tỏ vẻ muốn thọ thực, để cho bà nhìn thấy, làm cho bà càng phát sinh thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trong việc phước-thiện bố-thí của bà.

Mọi người hiểu được ý Ngài, nên sửa soạn trải chỗ ngồi, rồi kính thỉnh Ngài.

Khi ấy, Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa ngồi thọ thực miếng cơm cháy ấy, uống nước xong, rồi Ngài thuyết pháp tế độ bà già nghèo khổ ăn mày.

Ngài cho bà biết rằng: Bà đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp.

Nghe Ngài Đại-Trưởng-Lão Mahākassapa cho bà biết như vậy, bà già nghèo khổ phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ có cơ hội làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài với đức tin trong sạch nơi Ngài. 

Về sau, không lâu bà chết, phước-thiện bố-thí thanh cao ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm vị thiên-nam trong cõi Hóa-Lạc-Thiên (cõi thứ 5 trong 6 cõi trời dục-giới) có nhiều oai lực, hưởng mọi sự an-lạc trong cõi trời ấy.

*Tích Sāriputtattheramātupeta(1):

Ngạ-quỷ thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta được tóm lược như sau:

Nữ ngạ-quỷ mà tiền kiếp của bà đã từng là thân mẫu của tiền kiếp thứ 5 của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta (kể từ kiếp hiện-tại.)

Tiền kiếp của nữ ngạ-quỷ là vợ của ông Bà-la-môn giàu có nhiều của cải. Ông Bà-la-môn có đức tin trong sạch, có tác-ý thiện-tâm, thường làm phước-thiện bố-thí cúng-dường vật thực, đồ uống, y phục… đến Sa-môn, Bà-la-môn; bố-thí, phân phát đến những người nghèo khổ, người qua đường…

Một hôm, ông Bà-la-môn có công việc phải đi nơi khác, ông dạy bảo vợ ở nhà thay ông gìn giữ phong tục truyền thống gia đình, lo công việc làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Sa-môn, Bà-la-môn và phân phát vật thực, đồ dùng đến những người nghèo khổ đói khát…

Người vợ ở nhà không làm theo lời dạy bảo của chồng. Hễ có ai đến nhà, bà ta buông lời mắng nhiếc, ăn phẩn, uống nước tiểu, liếm máu mủ, nước miếng…

Sau khi bà ta chết, ác-nghiệp ấy cho quả tái sinh vào hàng ngạ-quỷ đói khát, ăn uống đồ dơ bẩn, ăn phẩn, uống nước tiểu, mủ, nước miếng… chịu bao nỗi khổ cực đói khát, lạnh lẽo do quả của ác-nghiệp của mình đã tạo trải qua thời gian lâu dài.

Nữ ngạ-quỷ nhớ lại tiền kiếp đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, muốn đến nương nhờ Ngài, Chư-thiên giữ cổng ngăn cản không cho nữ ngạ-quỷ vào. Nữ ngạ-quỷ thưa với vị Chư-thiên rằng:

- Thưa Chư-thiên, tiền kiếp tôi đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, xin Chư-thiên cho tôi được vào hầu Ngài.

Nữ ngạ-quỷ được phép vào đứng khép nép, Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta nhìn thấy nữ ngạ-quỷ, với tâm bi mẫn bèn hỏi:

- Này nữ ngạ-quỷ! Thân trần truồng, hình dáng đáng thương, ốm yếu da bọc xương, thân mình run rẩy. Ngươi là ai, lão Tăng tế độ ngươi thế nào?

Nghe Ngài hỏi, nữ ngạ-quỷ thưa rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, tiền kiếp của con đã từng là thân mẫu của Ngài, do ác-nghiệp cho quả tái sinh làm ngạ-quỷ chịu cảnh đói khát, đành phải ăn uống những đồ dơ như nước miếng, nước mũi, đàm người ta nhổ bỏ, uống nước vàng chảy ra từ xác chết, ăn uống đồ dơ của đàn bà, uống máu mủ của đàn ông bị chặt tay chân, uống máu mủ các loài động vật, sống không có nơi nương tựa, trong các nghĩa địa, bãi tha ma.

- Kính bạch Ngài, kính xin Ngài làm phước-thiện bố- thí, rồi hồi hướng phần phước-thiện ấy đến cho con. Nhờ phước-thiện ấy, may ra con mới thoát khỏi cảnh khổ kiếp ngạ-quỷ như thế này.

Lắng nghe lời than vãn của nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp, Ngài Sāriputta phát sinh tâm bi mẫn, tìm cách cứu khổ nữ ngạ-quỷ ấy.

Ngài Đại-Trưởng-Lão Sāriputta thuật lại chuyện này với Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna, Ngài Đại-đức Anuruddha và Ngài Đại-đức Mahākappina cứu nữ ngạ-quỷ giải thoát khỏi cảnh khổ.

Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna đi khất thực vào cung điện gặp Đức-vua Bimbisāra. Đức-vua thỉnh cầu Ngài cần những thứ vật dụng nào để Đức-vua làm phước-thiện dâng cúng.

Nhân dịp ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahāmoggallāna thưa cho Đức-vua biết chuyện nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, sống trong cảnh đói khổ không có nơi nương nhờ.

Nghe vậy, Đức-vua truyền lệnh xây cất 4 cái cốc chỗ ở của chư Tỳ-khưu-Tăng. Khi xây cất xong, Đức-vua làm lễ dâng đặc biệt đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta 4 cái cốc ấy.

Một lần nữa, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta làm lễ dâng những cốc này đến chư Tỳ-khưu-Tăng từ bốn phương, có Đức-Phật chủ trì, rồi hồi hướng phần phước thiện này đến cho nữ ngạ-quỷ đã từng là thân mẫu của Ngài trong tiền kiếp.

Nữ ngạ-quỷ ấy phát sinh đại-thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí ấy, rồi nói lên lời hoan hỷ  “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!” Ngay khi ấy liền thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, tái sinh làm thiên-nữ có hào quang sáng ngời, có thân hình xinh đẹp, y phục lộng lẫy, có lâu đài nguy nga tráng lệ, có đầy đủ của cải của Chư-thiên, hưởng mọi sự an-lạc cao quý trong cõi trời.

Hôm sau, vị thiên-nữ ấy hiện xuống cõi người cùng lâu đài, đến đảnh lễ Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna.

Ngài Trưởng-lão Mahāmoggallāna hỏi thiên-nữ rằng:

- Này thiên nữ! Ngươi có sắc đẹp tuyệt trần, nhiều oai lực đặc biệt, có hào quang sáng chói khắp mọi nơi như vầng trăng sáng, có lâu đài nguy nga tráng lệ.

Do nhờ phước-thiện gì mà ngươi có được những quả báu trong cõi trời, đáng hài lòng như vậy?

Vị thiên-nữ bạch với Ngài Mahāmoggallāna rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, trong tiền kiếp con từng là thân mẫu của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, do ác-nghiệp cho quả tái sinh làm nữ ngạ-quỷ chịu cảnh khổ đói khát đành phải ăn uống đồ dơ như máu, mủ….

Vừa qua, con đã đến hầu Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cầu xin Ngài có lòng bi mẫn cứu con giải thoát khổ. Ngài đã làm phước-thiện bố-thí xong, rồi hồi hướng đến cho con. Con đã phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phần phước-thiện ấy, nên con giải thoát khỏi kiếp ngạ-quỷ, được hoá sinh làm thiên-nữ trên cõi trời, hưởng được tất cả mọi sự an-lạc như Ngài đã thấy.

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-Lão, con hiện xuống đây để đảnh lễ dưới chân Ngài và Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta là chư bậc Thánh Thiện-trí, có tâm bi mẫn cứu khổ chúng-sinh trong đời.

Những tích như trên có rất nhiều trong Kinh-Tạng và trong bộ Peṭavatthu, bộ Vimānavatthu.

 Nếu chính mình chưa có cơ hội làm phước thiện, mà mình phát sinh đại-thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện của người khác, thì cũng được quả báu không kém, như tích Vihāravimāna được tóm lược như sau:

* Tích Vihāravimāna(1)

Một thuở nọ, Ngài Đại-đức Anuruddha ngự lên cung trời Tam-thập-Tam-thiên nhìn thấy một thiên-nữ xinh đẹp có hào quang sáng ngời chiếu tỏa khắp mọi hướng, có một lâu đài nguy nga tráng lệ... nên Ngài hỏi vị thiên nữ rằng:

- Này thiên-nữ! Ngươi đã từng tạo thiện-nghiệp nào mà nay có được quả báu đáng hài lòng như vậy?

Vị thiên nữ bạch với Ngài Đại-đức Anuruddha rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-đức, tiền kiếp của con là người bạn thân của bà đại-thí-chủ Visākhā trong kinh thành Sāvatthi. Bà Visākhā cho người xây cất một ngôi chùa Pubbārama, sau đó, bà làm lễ kính dâng ngôi chùa ấy đến chư Tỳ-khưu tăng có Đức-Phật chủ trì.

Con đã tham dự buổi lễ đó, con phát sinh đại-thiện- tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy.

 - Kính bạch Ngài Đại-đức, do nhờ đại-thiện-tâm trong sạch hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí cúng-dường kính dâng ngôi chùa Pubbārama ấy, mà sau khi con chết, thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời Tam- thập-Tam-thiên này, trở thành một thiên-nữ có những quả báu như vậy.

Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh. Quý Ngài xứng đáng thọ nhận những thứ vật dụng của thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, tin nơi thiện-nghiệp và quả của thiện-nghiệp.

Thí chủ làm phước thiện bố-thí cúng dường đến quý Ngài, để tạo được phước-thiện thanh cao, mong được quả báu tốt lành đến cho mình và những người thân quyến của mình.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Dakkhiṇeyyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

8- Ân-Đức-Tăng Añjalikaraṇīyo

Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Ánh-chá-lí-cá-rá-ni-giô phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Añjalikaraṇīyo:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là những bậc xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, xứng đáng cho chúng-sinh chắp tay cung kính lễ bái cúng dường, để cầu mong được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

Chư Thánh-Tăng là những bậc có đầy đủ 5 đức-cao-thượnggiới-đức hoàn toàn trong sạch, định-đức vững vàng không lay chuyển, tuệ-đức thấu triệt các pháp, giải-thoát-đức chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả, giải-thoát-tri-kiến-đức quán triệt hoàn toàn, đã diệt-đoạn-tuyệt được mọi phiền-não, nên thân, khẩu, ý của quý Ngài hoàn toàn trong sạch thanh-tịnh, không còn bị ô nhiễm bởi phiền-não. Cho nên, chư Thánh-Tăng xứng đáng cho tất cả chúng-sinh: Nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên tôn kính, chắp tay lễ bái cúng dường.

* Đức Vua trời Sakka đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng trong kinh Saṃghavandanāsutta,(1)được tóm lược như sau:

- Này chư Tỳ-khưu! Khi Đức-vua trời Sakka cõi Tam- thập-Tam-thiên ngự xuống từ lâu đài Vejayanta, hướng tâm đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng.

- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, thiên-nam Mātali đánh xe của Đức-vua Sakka tâu rằng:

- Muôn tâu Đức-Thiên-Vương, loài người sinh từ nơi ô trọc, có sắc thân ô trọc, thường đói khát nghèo hèn, đáng lẽ nên cung kính Đức-Thiên-Vương. Vì sao Hoàng- Thượng lại đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Vậy, kính xin Hoàng-Thượng giảng giải cho hạ thần hiểu rõ phạm-hạnh của chư tỳ-khưu-Tăng ấy như thế nào?

Đức-vua trời Sakka giảng giải cho Mātali rằng:

- Này Mātali! Trẫm thành kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy, bởi vì, quý Ngài sống trong rừng, không có nhà, không cất giữ lúa gạo trong kho.

Quý Ngài sống bằng hạnh đi khất thực, thọ dụng những vật thực đã chín và độ trước giờ ngọ.

Quý Ngài là bậc thiện-trí, thuyết pháp chân thật đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh, quý Ngài sống nơi thanh tịnh với đời sống phạm hạnh cao thượng.

- Này Mātali! Nhóm Chư-thiên có oan trái với nhóm thiên Asura, và ngược lại nhóm thiên Asura cũng có oan trái với nhóm Chư-thiên; nhân loại có oan trái lẫn nhau. còn chư tỳ-khưu-Tăng sống không oan trái, không thù hận. Chư-thiên, nhân-loại còn chấp thủ, còn chư Thánh- Tăng không còn chấp thủ.

- Này Mātali! Vì vậy, Trẫm cung kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Khinghe lời giảng giải của Đức-vua Sakka như vậy, Mātali bèn tâu rằng:

- Muôn tâu Đức-Thiên-Vương, Hoàng-Thượng cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng nào, thì kẻ hạ thần cũng cung kính lễ bái đến chư tỳ-khưu-Tăng ấy.

Đức-vua trời Sakka cao cả nhất trong cõi Tam-thập- Tam-thiên giảng dạy xong, cung kính đảnh lễ chư tỳ-khưu-Tăng, rồi lên xe ngự đi.

Chư Thánh-Tăng là những bậc xứng đáng cho nhân- loại, Chư-thiên, Phạm-thiên, cung kính lễ bái cúng dường, và chư phàm-Tăng là những bậc đang thực-hành pháp-hành-giới, pháp-hành-định, pháp-hành-tuệ, duy trì chánh pháp của Đức-Thế-Tôn cũng xứng đáng được cung kính lễ bái cúng dường.

Những chúng-sinh có đức tin trong sạch nơi Tam- Bảo, thường lễ bái cúng dường đến bậc có giới-đức thanh-tịnh sẽ được 4 pháp lành: sống lâu, sắc đẹp, an-lạc, khỏe mạnh.

Như trong tích Āyuvaḍḍhanakūmāravatthu,(1)Đức-Phật thuyết dạy câu kệ rằng: 

 “Abhivādānasīlissa, niccaṃ vuḍḍhāpacāyino.

Cattāro dhammā vaḍḍhanti, āyu vaṇṇo sukhaṃ balaṃ.

Đối với người thường lễ-bái cúng-dường,

Tỏ lòng tôn kính đến bậc Trưởng-lão,

Người ấy thường tăng trưởng bốn quả báu,

Sống lâu, sắc đẹp, an-lạc, sức mạnh.

Hoặc chúng-sinh có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, hết lòng thành kính lễ bái cúng dường đến Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, thì sẽ được 5 quả báu tốt lành là:

- Āyu: Sống lâu trường thọ.

- Vaṇṇa: Có sắc đẹp khả ái.

- Sukha: Thân tâm thường được an-lạc.

- Bala: Có sức mạnh thân tâm

- Paṭibhāṇa: Có trí-tuệ sắc bén, nhanh trí.

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Añjalikaraṇīyo Bhagavato sāvakasaṃgho.

9- Ân-Đức-Tăng Anuttaraṃ Puññakkhettaṃ

Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.

(Cách đọc: Á-nút-tá-răng pun-nhắc-khết-tăng lô-cắt-xá phá-gá-vóa-tô xa-vóa-cá-xăng-khô)

Anuttaraṃ puññakkhettaṃ:Chư Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn là phước điền cao thượng của chúng-sinh không đâu sánh được.

Chư Thánh-Tăng là bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử của Đức-Thế-Tôn, có đầy đủ 5 đức-cao-thượnggiới-đức (silaguṇa), định-đức (samādhiguṇa), tuệ-đức (paññā-guṇa), giải-thoát-đức (vimuttiguṇa), giải-thoát-tri-kiến- đức (vimuttiñāṇadassanaguṇa) là phước điền cao thượng của chúng-sinh không nơi nào sánh được.

Thật vậy, khi gieo giống phước-thiện dù ít dù nhiều, cũng sẽ được quả báu vô lượng trong kiếp hiện-tại và cả nhiều kiếp vị-lai.

Một ví dụ để so sánh:

- Chư Thánh-Tăng, ví như thửa ruộng màu mỡ.

- Thí-chủ có chánh-kiến, ví như nông dân tài giỏi.

- Tác ý thiện tâm bố-thí, ví như hạt giống tốt.

Người nông dân tài giỏi biết rõ thời vụ mùa màng, gieo hạt giống tốt trên thửa ruộng màu mỡ, chắc chắn khi thu hoạch sẽ được nhiều gấp bội.

Cũng như vậy, thí-chủ có chánh-kiến-sở-nghiệp kammassakatā sammādiṭṭhi: trí-tuệ chánh-kiến thấy đúng nghiệp là của riêng mình biết gieo giống hợp pháp phước-thiện dù ít dù nhiều nơi chư Thánh-Tăng, hoặc chư phàm-Tăng là phước điền cao thượng của chúng-sinh, không nơi nào sánh được, họ chắc chắn được phước-thiện nhiều vô lượng, sẽ được quả báu vô lượng ngay cả trong kiếp hiện-tại lẫn vô số kiếp vị-lai.

Hơn thế nữa, gieo được duyên lành nơi Tam-Bảo, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn siêu-tam-giới, hầu mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

* Tích thiên-nữ Lajādevadhītā (1)

Tích thiên-nữ Lajādevadhītāđược tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức-Phật đang hiện hữu trên thế gian, một cô bé nghèo được thuê giữ ruộng, cô mang theo một gói bắp rang để ăn trong ngày.

Sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa xả-diệt-thọ-tưởng xong, xem xét thấy nên tế độ cô bé nghèo, nên Ngài đã mặc y mang bát đi thẳng đến chỗ cô bé để khất thực.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Mahākassapa từ xa đến, cô bé vô cùng hoan hỷ liền ra đón và đảnh lễ Ngài xong, đem phần bắp rang để ăn trong ngày, cô xin làm phước-thiện bố-thí để bát cúng-dường đến Ngài.

Trong khi cô đang phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ với phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại- Trưởng-lão, trên đường trở lại chỗ ở, cô bị một con rắn độc cắn chết. Do nhờ phước-thiện cúng-dường ấy cho quả tái sinh kiếp sau, làm thiên-nữ có tên là Lajādeva-dhītā trong cõi trời Tam-thập-Tam-thiên.

Sau đó, khi nhớ lại tiền kiếp của mình, thiên-nữ Lajādevadhītā vô cùng biết ơn Ngài Đại-Trưỡng-lão, cô hiện xuống chỗ ở của Ngài, quét dọn, đem nước dùng..., cho Ngài, nhưng Ngài Đại-Trưởng-lão không cho phép cô làm những công việc ấy, cô buồn tủi khóc.

Đức-Thế-Tôn thấy vậy, liền hiện đến thuyết pháp tế độ thiên nữ. Sau khi nghe Đức-Phật thuyết pháp, thiên nữ Lajādevadhītā chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu. Cô vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi xin phép trở về cõi trời.

* Tích ông Puṇṇa

Tích ông Puṇṇa (1) là người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức-Phật Gotama đang hiện hữu trên thế gian, có gia đình ông Puṇṇa nghèo khổ, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Một buổi sáng ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xả-diệt-thọ-tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng.

Nhìn thấy Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta xong, bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Trưởng-lão, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực. Bà vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

Do nhờ phước-thiện bố-thí cúng-dường thanh cao này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần chánh-pháp mà Ngài đã chứng đắc.

Ngài Đại-đức Sāriputta chúc lành rằng:

Mong cho gia đình các con được như ý nguyện.

Bà vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Trưởng-lão Sāriputta, làm cho thân tâm của bà cảm thấy nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ ăn, đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát cây, chờ đợi vợ, tuy đói bụng, nhưng tâm hoan hỷ niệm tưởng lại việc làm phước-thiện bố-thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta. nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà có điều hoan hỷ gì đó.

Thật vậy, vừa đến nơi, Bà liền thưa với chồng rằng:

- Thưa anh kính yêu, hôm nay, xin anh phát sinh thiện-tâm hoan hỷ thật nhiều!

Sáng nay, em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh thiện-tâm có đức tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài.

Không chê vật thực nghèo khó của chúng ta, Ngài Đại-Trưởng-lão có tâm từ bi tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh.

Vậy, xin anh nên phát sinh thiện-tâm hoan hỷ phần phước-thiện bố-thí cúng-dường thanh cao này.

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sinh thiện-tâm hỷ-lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

- Này em! em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước-thiện bố-thí của vợ, bà đã đem phần cơm của mình làm phước-thiện cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Sau đó, ông nói cho vợ biết, cũng sáng nay, ông đã làm phước-thiện bố-thí cúng-dường cây tăm xỉa răng và nước dùng đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

nghe xong, bà cũng phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ việc phước-thiện bố-thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau phát sinh thiện-tâm vô cùng hoan hỷ phước thiện cúng-dường đến Ngài Trưởng-lão.

 Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến phước- thiện bố-thí cúng-dường của mình, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng nay, đã hóa thành những thỏi vàng ròng, làm cho ông hoa cả mắt, và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy.

Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng, ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

- Này em! Vợ chồng chúng ta đã làm phước-thiện bố- thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, phước-thiện bố-thí cúng-dường ấy liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay.

Chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức-vua và tâu rằng:

- Muôn tâu Đức-vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng.

Kính xin Đức-vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đức-vua.

Đức-vua truyền hỏi rằng:

- Nhà ngươi là ai?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.

- Này Puṇṇa! Sáng nay, nhà ngươi đã làm phước-thiện gì đặc biệt?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân làm phước-thiện cúng- dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, còn phần vợ tiện dân làm phước-thiện bố-thí cúng-dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Đức-vua truyền rằng:

- Này Puṇṇa! Vợ chồng ngươi đã làm phước-thiện bố- thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay.

Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

- Muôn tâu Đức-vua, tiện dân kính xin Đức-vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Đức-vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức-vua”, tức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức-vua sự việc xảy ra như vậy.

Đức-vua sáng suốt bèn truyền rằng:

- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức-vua”.

Đức-vua truyền rằng:

- Này các ngươi! Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người hãy trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.

Quân lính vâng lệnh Đức-vua trở lại nơi ấy. Thật vậy, lần này quân lính khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ông Puṇṇa Trở Thành Đại Phú Hộ

Đức-vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn truyền hỏi rằng:

- Này toàn thể dân chúng! Trong kinh thành này, người nào có số vàng lớn như thế này không?

Toàn thể dân chúng trong thành tâu:

- Tâu Hoàng-Thượng, trong kinh thành không có người nào có số vàng lớn như thế này cả.

Đức-vua truyền hỏi tiếp.

- Vậy, Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Tâu Hoàng-Thượng, xin Hoàng-Thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Đức-vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là Đại-phú-hộ, có tên Bahudhanaseṭṭhi: Đại-Phú-hộ nhiều của cải

Sau khi trở thành đại-phú-hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, làm phước- thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng có Đức-Phật chủ trì suốt 7 ngày, đến ngày thứ 7 Đức-Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông bà Puṇṇa và đứa con gái tên Uttarā đều chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, cả 3 đều trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta sau khi xả-diệt-thọ-tưởng, do năng lực phước-thiện bố-thí cúng-dường trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, đã thành tựu đại-phú-hộ nhiều của cải trong cõi người (manussasampatti) và đặc biệt thành tựu Niết-bàn (Nibbānasampatti) là chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả và Niết-bàn toàn gia đình trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu nữa.

Những trường hợp trên, có không ít trong Phật-giáo.

Chư Thánh-Tăng là phước điền cao thượng của tất cả chúng-sinh: Nhân-loại, chư-thiên, phạm-thiên,... làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư Thánh-Tăng với thiện-tâm trong sạch, sẽ được thành tựu quả báu cõi người, thành tựu quả báu cõi trời (devasampatti) và đặc biệt thành tựu quả báu chứng ngộ Niết-bàn.

Quả Báu Bố-Thí Đến Tỳ-Khưu-Tăng

 Thí chủ phát sinh thiện-tâm trong sạch có đức-tin nơi Tam-Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, dù làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư phàm-Tăng vẫn được thành tựu quả báu không kém.

Thật vậy, Đức-Phật dạy Ngài Đại-đức Ānanda rằng:

- Này Ānanda! Trong thời vị-lai, sẽ có hạng người có tên “Bhikkhu: Tỳ-khưu”, chỉ còn mảnh y quấn cổ (hoặc cột ở cổ tay), là người phạm-giới, hành ác-pháp. Song những thí chủ có đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo, có tác-ý thiện-tâm làm phước-thiện bố-thí hướng tâm đến cúng-dường chư tỳ-khưu-Tăng, dù có số tỳ-khưu phạm-giới ấy.

- Này Ānanda! Người thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu-Tăng trong thời vị-lai ấy, Như-Lai dạy rằng:

Thí chủ vẫn có phước-thiện vô-lượng và quả báu vô- lượng không sao kể xiết được.

Như-Lai không hề dạy trực tiếp hoặc gián tiếp rằng:

Thí chủ làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến cá- nhân thọ-thí, sẽ có phước-thiện nhiều hơn và có quả báu nhiều hơn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến chư tỳ-khưu Tăng thọ thí. ([7])

Cho nên, ân-Đức-Tăng này gọi là Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho.

Thực-Hành Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Tăng

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng này, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp đầy đủ 9 ân-Đức-Tăng. Mỗi khi niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy.

 Sau đó, để đại-thiện-tâm dễ phát sinh, hành-giả nên ngồi nghiêm trang trước tượng Đức-Phật hoặc trước cội cây Đại-Bồ-đề, hoặc một nơi thanh vắng, để thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng này.

Phương-pháp thực-hành có nhiều cách:

1- Cách phổ thông: Niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng theo bài kinh Dhajaggasutta như sau:

 Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ujuppaṭi-panno Bhagavato sāvakasaṃgho, Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, yadidaṃ cattāri purisayugāni aṭṭha-purisapuggalā esa Bhagavato sāvakasaṃgho, Āhuneyyo, Pāhunēyyo, Dakkhineyyo, Añjalīkaraṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa.” 

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Tăng-Bảo.

2- Cách phân tách câu: 9 ân-Đức-Tăngphân tách từng câu như sau:

1- Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

2- Ujuppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

3- Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,

4- Sāmicippaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ,

5- Āhuneyyo Bhagavato sāvakasaṃgho,

6- Pāhunēyyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

7- Dakkhineyyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

8- Añjalīkaraṇīyo, Bhagavato sāvakasaṃgho,

9- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa Bhagavato sāvakasaṃgho…

Hành-giả thực-hành niệm mỗi câu ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của mỗi câu ân-Đức-Tăng ấy, định-tâm theo dõi mỗi câu ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Hành-giả cũng có thể chọn 1 hoặc 2 - 3, … câu ân-Đức-Tăng nào trong 9 câu Ân-Đức-Tăng làm đối-tượng, để thực-hành niệm-niệm câu ân-Đức-Tăng ấy. Ví dụ:

* Niệm-niệm ân-Đức-Tăng thứ nhất: “Suppaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho,…”

* Niệm-niệm ân-Đức-Tăng thứ ba: Ñāyappaṭipanno Bhagavato sāvakasaṃgho, ….” hằng trăm lần, hằng ngàn lần, trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm Ân-Đức-Tăng ấy, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Tăng nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Tăng ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Tăng như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng là một đề-mục-thiền-định dễ làm cho phát sinh đức tin nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, mà đức- tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện- pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng là đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên, nên hành-giả không thể định-tâm một nơi nào nhất định. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng  này chỉ có khả năng chứng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

Vì vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với hành-giả là người đã gieo duyên lành, nhân tốt sâu sắc trong giáo pháp của Đức-Phật.

Tuy nhiên, tâm cận-định này có thể làm nền tảng, làm đối tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn được.

Như Đức-Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Pháp-hành ấy là pháp gì?

Pháp-hành ấy là Saṃghānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Tăng.

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”(1)

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng không chỉ là đề-mục của pháp-hành-thiền-định mà còn làm nền tảng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ nữa. 

 (Phần thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ cũng có phương-pháp thực-hành tương tự như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bày ở phần trước.)

Quả Báu Đặc Biệt Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Tăng  

Do năng lực của dục-giới đại-thiện-nghiệp đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng này sẽ cho quả báu hầu hết cũng giống như đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã trình bàyở phần trước. 

 (Xong đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng)

 


[1]Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta.

[1] 15 pháp chướng ngại: Tham dục, thù hận, buồn chán - buồn ngủ, phóng tâm - hối hận, hoài-nghi.

[2] 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm: Ái-dục ngủ ngầm, kiếp-ái ngủ ngầm, sân-hận ngủ ngầm, ngã-mạn ngủ ngầm, tà-kiến ngủ ngầm, hoài-nghi ngủ ngầm và vô-minh ngủ ngầm.

[1] Vāsanā: Tiền khiên tật này, bậc Thánh-Thanh-văn không thể diệt được, Bậc Thánh-Thanh-văn A-ra-hán chỉ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1.500 loại phiền-não và 108 loại tham-ái mà thôi, nhưng không thể diệt được mọi tiền khiên tật đã tích luỹ từ vô số kiếp ở quá-khứ.

[3]Abhidhammapiṭaka Bộ Vibhaṅgapāḷi.

[4] Bhavo: Hữu là Sự sinh có 2 loại: Sự sinh của nghiệp và Sự sinh của quả nghiệp đó là tái sinh kiếp sau.

[1] Saṃyuttanikāya, Mahāvagga, kinh Dhammacakkappavattanasutta.

[1] Chư Phật-Độc-Giác cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán gọi là Đức-Phật Độc Giác, mà Ngài không thuyết pháp tế độ chúng-sinh khác cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, bởi vì, Ngài không chế định được ngôn ngữ để thuyết pháp như Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

Còn bậc Thánh-Thanh-văn, sở dĩ thuyết pháp tế độ chúng-sinh được là do nhờ nghe học hỏi theo lời giáo huấn của Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

[1] Vivaṭṭathāyī asaṅkhyeyyakappa: a-tăng-kỳ kiếp trụ của trái đất.

[2] Đại-kiếp (mahākappa): trải qua 4 a-tăng-kỳ thành-trụ-hoại-không của kiếp trái đất.

[1] Aṅguttaranikāya - Aṭṭhakanipata, kinh Dīghajāṇusutta.

[2] Tránh 5 nghề: Nghề buôn bán vũ khí, nghề buôn bán người hoặc súc vật, nghề buôn bán rượu và các chất say, nghề buôn bán các loại thuốc độc sát hại chúng-sinh, nghề giết gia súc, gia cầm để bán thịt.

[1] Cách làm cho của cải phát triển: Kết bạn với bậc thiện trí, không ăn chơi đàng điếm, không uống rượu, không chơi cờ bạc.

Cách làm cho của cải tiêu hao: Kết bạn với người ác, ăn chơi đàng điếm, uống rượu, chơi cờ bạc.

[1] A-tăng-kỳ dịch âm từ Pāḷi: Asaṅkhyeyya nghĩa là vô số.

[1] Đại kiếp trái đất dịch từ danh từ Pāḷi: mahākappa: Thời gian kiếp trái đất trải qua 4 a tăng kỳ thành-trụ-hoại-không.

[1] Bộ Chú giải Aṅguttaranikāya, phần Ekakanipāta…

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi

[5] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] 11 thứ lửa: Lửa tham, lửa sân, lửa si, lửa sinh, lửa già, lửa chết, lửa sầu não, lửa than khóc, lửa khổ thân, lửa khổ tâm, lửa thống khổ cùng cực.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Tikanipāta, kinh Brahmaṇasutta.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Tikanipāta, kinh Nibbutasutta.

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi

[6] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[1] Bộ chú giải Dīghanikāya, Mahāvagga, kinh Mahāsatipaṭṭhānasutta.

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā tích Mahākassapattherapiṇḍapātadinnavatthu.

[1] Aṅguttaranikāya, kinh Kulasutta.

1 Bộ Petavatthu, tích Sāriputtattheramātupeta.

[1] Bộ Vimānavatthu, tích Vihāravimāna.

[1] Samyuttanikāya, Sagāthavagga, kinh Sanghavandanāsutta

1Dhammapadagāthā, Tích Āyuvaḍḍhanakūmāravatthu 

[1] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Lajādevadhītā.

[1] Chú giải Dhammapadaṭṭhakathā, trong tích Uttarā upāsikā.

[7] Majjhimanikāya, Uparipaṇṇāsa, kinh Dakkhiṇavibhaṅgasutta

[1] Aṅguttaranikāya, phần Ekadhammapāḷi

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn