(Xem: 1805)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2264)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Niệm rải Tâm Từ

02 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 20344)

4- Đề-mục Vô-lượng (Appamaññā)

1- Đề-mục niệm rải tâm-từ (Mettā) đến chúng-sinh vô-lượng,

2- Đề-mục niệm rải tâm-bi (Karuṇā) đến chúng-sinh vô-lượng,

3- Đề-mục niệm rải tâm-hỷ (Muditā) đến chúng-sinh vô-lượng,

4- Đề-mục niệm rải tâm-xả (Upekkhā) đến chúng-sinh vô-lượng.

Đó là 4 đề-mục vô-lượng-tâm (appamaññā) là pháp-hành-thiền-định.

Appamaññā

Định nghĩa: Appamāṇesu sattesu bhavāti: appamaññā.

Thiện-tâm phát triển đến chúng-sinh vô-lượng, không có giới hạn, gọi là appamaññā.

Hành-giả thực-hành đề-mục tứ vô-lượng-tâm:

* Đề-mục niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh vô-lượng,

* Đề-mục niệm rải tâm-bi đến chúng-sinh vô-lượng,   

* Đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh vô-lượng.

* Đề-mục niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh vô-lượng.

Đề-mục tứ vô-lượng-tâm, khi bắt đầu thực-hành, hành-giả chỉ có thể chọn 1 trong 3 đề-mục vô-lượng-tâm đề-mục niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh vô-lượng hoặc đề-mục niệm rải tâm-bi đến chúng-sinh vô-lượng hoặc đề-mục niệm rải tâm-hỷ đến chúng-sinh vô-lượng, dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới xong, rồi tiếp theo thực-hành đề-mục niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh vô-lượng, để chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới.

Nếu khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ, hoặc niệm rải tâm-bi, hoặc niệm rải tâm-hỷ, hoặc niệm rải tâm-xả đến chúng-sinh có giới hạn, đến nơi chốn có giới hạn thì không gọi là thực-hành đề-mục tứ vô-lượng-tâm, không thể chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, chỉ gọi là niệm rải tâm-từ, niệm rải tâm-bi, niệm rải tâm-hỷ, niệm rải tâm-xả bình thường mà thôi.

Mặc dù hành-giả niệm rải tâm-từ, tâm-bi, tâm-hỷ, tâm-xả như vậy cũng có được quả báu lớn lao trong kiếp-hiện-tại, hành-giả thân tâm thường được an-lạc, được các chúng-sinh yêu mến. 

Kiếp vị-lai, hành-giả sau khi chết, dục-giới thiện- nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện- giới, cõi người hoặc cõi trời dục-giới, hưởng mọi sự an-lạc cao quý.

 Appamaññā: Đề-mục tứ vô-lượng-tâm có tên gọi là Brahmavihāra, bởi vì hành-giả nào đang thực-hành đề-mục vô-lượng-tâm nào, hành-giả ấy có thiện-tâm như vị phạm-thiên. Định nghĩa:

  “Brahmānaṃ vihāro’ti Brahmavihāro.”

Thực-hành đề-mục vô-lượng-tâm nào, hành-giả có thiện-tâm như vị phạm-thiên. Vì vậy, đề-mục vô-lượng-tâm ấy gọi là brahmavihāra.

Ý nghĩa khác như:

Brahmavihāra: Sự thực-hành của bậc cao thượng. 

Định nghĩa: “Brahmānaṃ (seṭṭhānaṃ) vihāro (seṭṭhabhūto)’ti Brahmavihāro.”

 Đời sống cao thượng với vô-lượng-tâm của bậc cao thượng, gọi là brahmavihāra.

Giảng Giải 4 Đề-Mục Vô-Lượng-Tâm (Appamaññā)

4-1-  Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ (Mettā)

Đề-mục niệm rải tâm-từ là đề-mục-thiền-định chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới mà thôi, bởi vì đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-từ cần có chi thiền lạc (sukha), nên không có thể chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới,

Mettā: Tâm-từ thương yêu chúng-sinh

Định nghĩa: “Mejjati sinehatī’ti mettā.”

Thiện-tâm nào thương yêu chúng-sinh, mong ước điều an lành đến tất cả chúng-sinh, thiện-tâm ấy gọi là mettā: tâm-từ, có chi pháp là adosacetasika: vô-sân tâm-sở đồng sinh với thiện-tâm có đối-tượng là piyamanāpa-sattapaññatti: chúng-sinh đáng yêu, đáng kính.

Piyamanāpapuggala: Người đáng yêu, đáng kính có 2 nhóm người:

1- Nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường,

2- Nhóm người đáng yêu, đáng kính làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định đề-mục niệm rải tâm-từ.

Ban đầu hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến đối-tượng nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường, khi tiến triển đến tâm-hành cận-định (upacārabhāvanā), rồi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ đến đối-tượng tất cả chúng-sinh không thương không ghét gồm cả những kẻ thù cũng được ghép chung vào nhóm người đáng yêu, đáng kính bình thường ấy, tâm sân không phát sinh, mà chỉ có tâm-từ vô sân (adosacetasika) phát sinh mà thôi.

*Nếu trường hợp vô-sân tâm-sở (adosacetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm trong khi lễ bái Tam-Bảo, tụng kinh, nghe pháp, làm các phước-thiện, v.v… không có đối-tượng piyamanāpasattapaññatti:chúng-sinh đáng yêu, đáng kính thì không gọi là tâm-từ (mettā).

Tâm-từ (mettā): Thương yêu, quý mến mọi người, mong ước những điều an lành đến mọi người, có 2 loại tâm-từ:

1- Mettā adosa: Tâm-từ vô-sân là thương yêu, quý mến, mong ước những điều an lành với thiện-tâm trong sạch không chấp thủ rằng:“Người này là cha tôi, mẹ tôi, thầy, cô giáo, anh chị em, vợ, chồng, con cái, bà con thân quyến, bạn hữu, người thân của tôi, v.v… nào cả.”

Dù người ấy đi nơi khác, hoặc chết, người có tâm-từ vô sân cũng không phát sinh tâm thương tiếc, buồn khổ. 

Đó là tâm-từ thật có chi pháp là vô-sân tâm-sở (adosacetasika).

2- Taṇhāpema: Tham-ái yêu thương là yêu thương, quý mến đến mọi người với tâm tham-ái chấp thủ rằng: “Người này là cha tôi, mẹ tôi, thầy, cô giáo, anh chị em, vợ, chồng, con cái, bà con thân quyến, bạn hữu, người thân của tôi, v.v…”

 Khi người thân ấy đi nơi khác, hoặc chết, người có tham-ái yêu thương phát sinh tâm thương tiếc, buồn khổ, khóc than thảm thiết.

Đó là tâm-từ giả, có chi pháp là tham tâm-sở (lobhacetasika).

Taṇhāpema: Tham-ái yêu thương dùlà tâm-từ giả vẫn có năng lực bảo vệ sinh-mạng khỏi mọi điều nguy hiểm.

Như trong bộ Visuddhimagga, Một con bò mẹ đang cho bê con bú sữa với tâm-từ yêu thương con của mình, ở trong rừng sâu. Một người thợ săn dùng giáo phóng mạnh đến con bò mẹ ấy, lưỡi giáo không bay đến con bò mẹ, mà găm xuống đất, do năng lực tâm-từ của con bò mẹ yêu thương con của mình.

* Hành-giả có ý nguyện muốn giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, nếu có taṇhāpema thìsẽ bị trở ngại trong việc thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, không dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, không thể giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Như trường hợp Ngài Đại-đức Channataṇhā-pema, yêu thươngtha thiết nơi Đức-Thế-Tôn. Khi Đức-Thế-Tôn còn hiện hữu trên thế gian, Ngài Đại-đức Channa thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ không chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, nhưng sau khi Đức-Thế-Tôn tịch diệt Niết-bàn rồi, Ngài không còn có taṇhāpema nơi Đức-Thế-Tôn nữa,nên thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

Sau đó, Ngài tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. 

Như vậy, người có taṇhāpema làm cản trở chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.

Thận Trọng Đến 6 Hạng Người

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, cần phải thận trọng trong 6 hạng người:

A- Không nên niệm rải tâm-từ trước tiên đến 4 hạng người:

1- Appiyapuggala: Hạng người không thương yêu, 

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều,

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét,

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù của mình.

Đó là 4 hạng người mà hành-giả không nên thực-hành niệm rải tâm-từ trước tiên, bởi vì tâm-từ khó phát sinh, chỉ làm cho tâm hành-giả cảm thấy không hài lòng, thậm chí còn làm cho tâm sân dễ phát sinh mà thôi.

* Nếu niệm rải tâm-từ đến appiyapuggala trước tiên thì hành-giả cảm thấy không hài lòng, bởi vì hạng người ấy là người không thương yêu.

* Nếu niệm rải tâm-từ đến atipiyapuggala trước tiên, khi người ấy đang bị đau khổ thì hành-giả phát sinh khổ tâm lo âu, bởi vì hạng người ấy là người thương yêu quý mến nhiều.

* Nếu niệm rải tâm-từ đến majjhattapuggala trước tiên thì hành-giả cảm thấy không hài lòng, bởi vì hạng người ấy là người không thương không ghét.

* Nếu niệm rải tâm-từ đến verīpuggala trước tiên thì hành-giả dễ phát sinh tâm sân, bởi vì hạng người ấy là kẻ thù của mình.

B- Không nên niệm rải tâm-từ đến 1 hạng người:

5- Liṅgavisabhāgapuggala: Hạng người khác phái với hành-giả.

Nếu hành-giả là người nam thì không nên niệm rải tâm-từ đến người nữ nào; hoặc nếu hành-giả là người nữ thì không nên niệm rải tâm-từ đến người nam nào, bởi vì người khác phái tâm-từ không sinh, tâm tham phát sinh.

C- Không nên niệm rải tâm-từ đến người đã chết.

6- Kālaṅkatapuggala: Hạng người đã chết rồi.

Nếu hành-giả niệm rải tâm-từ đến hạng người đã chết thì tâm-từ không phát sinh, cận-định và an-định cũng không thể phát sinh được, bởi vì hạng người đã chết rồi.

Hạng Người Cần Phải Niệm Rải Tâm-Từ Trước Tiên

Muốn thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ (mettā), để mong chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới, hành-giả cần phải niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên, bởi vì tâm-từ thương yêu người khác dù nhiều bao nhiêu đi nữa, chắc chắn cũng không bằng tâm-từ thương yêu mình.

Thật vậy, Đức-Phật dạy rằng:

“Natthi attasamaṃ pemaṃ.([1])” 

 Không có tâm-từ thương yêu ai bằng thương yêu chính mình. 

Niệm Rải Tâm-Từ Cho Mình

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên với 4 pháp như sau:

1- Ahaṃ avero homi: Xin cho tôi không có oan trái với tất cả chúng-sinh.

2- Ahaṃ abyāpajjo homi: Xin cho tôi không có khổ tâm sầu não, 

3- Ahaṃ anīgho homi: Xin cho tôi không có khổ thân, 

4- Ahaṃ sukhī attānaṃ pariharāmi: Xin cho tôi giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

Sau khi tâm-từ phát sinh, tiến triển có nhiều năng lực đối với chính mình, rồi hành-giả nên suy xét rằng:

 “Tâm-từ mong ước những điều an lành đối với chính mình như thế nào, tâm-từ đối với tất cả chúng-sinh khác dù lớn dù nhỏ cũng như thế ấy.”

Đó là tâm-từ cơ bản làm nền tảng hỗ trợ cho tâm-từ dễ dàng phát sinh lên đối với các chúng-sinh khác.

Đức-Phật dạy rằng: 

 Sabbā disā anuparigamma cetasā,

Nevajjhagā piyataramattanā kvaci.

Evaṃ piyo puthu attā paresaṃ,

Tasmā na hiṃse paramattakāmo.”([2])  

Bậc thiện trí xem xét,

Tất cả mọi phương hướng,

Không thấy một ai cả,

Yêu người hơn yêu mình,

Bất cứ trường hợp nào,

Chính mình yêu quý nhất,

Chúng-sinh khác cũng vậy,

Cho nên, tự yêu mình,

chớ nên gây đau khổ,

chúng-sinh lớn nhỏ khác.

Cách Niệm Rải Tâm-Từ Đến Chúng-sinh 

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đến một người (số ít) với 4 pháp như sau:

1- So avero hotu: Xin cho người ấy không có oan trái với tất cả chúng-sinh,

2- So abyāpajjo hotu: Xin cho người ấy không có khổ tâm sầu não, 

3- So anīgho hotu: Xin cho người ấy không có khổ thân,

4- So sukhī attānaṃ pariharatu: Xin cho người ấy giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

* Nếu hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ đến 2 người trở lên (số nhiều) với 4 pháp như sau:

1- Te averā hontu: Xin cho những người ấy không có oan trái với tất cả chúng-sinh.

2- Te abyāpajjā hontu: Xin cho những người ấy không có khổ tâm sầu não. 

3- Te anīghā hontu: Xin cho những người ấy không có khổ thân.

4- Te sukhī attānaṃ pariharantu: Xin cho những người ấy giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

 Niệm Rải Tâm-Từ Đến 4 Hạng Người Theo Tuần Tự

Sau khi thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình, tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực vững vàng, hành-giả có thể tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người theo tuần tự như sau:

1- Piyapuggala: Hạng người thương yêu,

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều,

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét,

4- Verīpuggala: Hạng người là kẻ thù của mình.

1- Piyapuggala: Hạng người thương yêu.

Hạng người thương yêu đó là những người bạn thân, những người thương yêu nhau, những người bạn cùng làm chung công việc với nhau, những người cùng sống chung với nhau,

Đó là những hạng người mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ trước tiên.

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

Tiếp theo, hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người đã từng là những người bạn thân, đã từng là những người thương yêu nhau, đã từng là những người bạn cùng làm chung công việc với nhau, đã từng là những người cùng sống chung với nhau, … với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

2- Atipiyapuggala: Hạng người thương yêu nhiều.

Hạng người thương yêu nhiều đó là cha mẹ, thầy cô giáo, anh chị em, bà con thân quyến, bạn hữu thân thiết, ... đólà những người thương yêu, kính yêu nhiều mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ tiếp theo sau hạng người thương yêu.

Phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

3- Majjhattapuggala: Hạng người không thương không ghét.

Hạng người không thương, không ghét đó là những người quen biết bình thường không ân không oán với nhau, mà hành-giả nên thực-hành niệm rải tâm-từ tiếp theo sau hạng người thương yêu nhiều.

Phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ đến một người hoặc nhiều người với 4 pháp như vậy, được lặp đi lặp lại nhiều lần trở nên thuần thục, tâm-từ phát triển có nhiều năng lực. 

4- Verīpuggala:Hạng người là kẻ thù của mình.

Hạng người là kẻ thù của mình đó là người đã từng làm khổ mình, gây tai hại đến cho mình hoặc đến gia đình bà con thân quyến của mình, đến những thân yêu, kính mến nhất của mình.

Nay hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ, để mong chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, nên cần phải niệm rải tâm-từ đến hạng người là kẻ thù của mình cuối cùng, sau hạng người không thương, không ghét.

Nếu khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người là kẻ thù của mình, tâm-từ không phát sinh, mà tâm sân phát sinh thì hành-giả nên suy xét đến lời giáo huấn trong tích Kāḷayakkhinīvatthu([3]) Đức-Phật dạy: 

 “Na hiverena verāni, sammatī’dha kudācanaṃ.

Averena ca sammanti, esa dhammo sanantano.”

 

Sự thật trong đời này,

Chẳng bao giờ oan trái,

Dập tắt bằng oan trái,

Oan trái dập tắt được,

Bằng sự không oan trái,

Đó thật sự là pháp,

Bậc trí từ ngàn xưa.

* Suy xét rằng: “Chúng-sinh sau khi chết, rồi bị sa vào trong cõi địa ngục không phải do kẻ thù, mà sự thật là do tâm-sân của chúng-sinh ấy. Nếu ta vẫn còn phát sinh tâm sân thù ghét đối với kẻ thù thì sau khi ta chết, tâm-sân có ác-nghiệp cho quả khó tránh khỏi sa vào trong cõi địa ngục.”

Suy xét như vậy, nên hành-giả phát sinh thiện-tâm-biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, hoặc suy ngẫm lời giáo huấn của Đức-Phật về 5 điều tai hại của tâm-sân không nhẫn-nại và 5 quả báu lợi ích của pháp nhẫn-nại vô-sân như sau:

 - Này chư Tỳ-khưu! 5 điều tai hại đối với người không có pháp nhẫn-nại:

1- Là người không được phần đông yêu mến,

2- Là người gây oan trái với người khác,

3- Là người tạo nên nhiều tội ác,

4- Là người mê muội lúc lâm chung,

5- Sau khi chết, ác-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác-giới: địa ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc sinh.

- Này chư Tỳ-khưu! 5 quả báu lợi ích đối với người có pháp nhẫn-nại vô-sân:

1- Là người được phần đông yêu mến,

2- Là người không gây oan trái với người khác,

3- Là người tạo nên nhiều phước-thiện,

4- Là người không mê muội, có tâm sáng suốt minh mẫn lúc lâm chung,

5- Sau khi chết, thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện giới: cõi người, cõi trời dục-giới.  

* Suy xét một cách khác theo Saṃyuttanikāyapāḷi, bộ Nidānavagga, phần Anamataggasaṃyutta,

Đức-Phật dạy rằng:

 “Na so bhikkhave, satto sulabharūpo yo na mātā bhūtapubbo, ….. yo na pitā bhūtapubbo,….. yo na bhātā bhūtapubbo,… yo na bhaginī bhūtapubbā,… yo na putto bhūtapubbo, … yo na dhītā bhūtapubbo, …”

 “- Này chư Tỳ-khưu! Người nào không từng là mẹ, …người nào không từng là cha;… người nào không từng là anh;… người nào không từng là chị;… người nào không từng là con trai; … người nào không từng là con gái của mình; … Chúng-sinh ấy như vậy không dễ có được, bởi vì kiếp tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, từ vô thủy trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này.”

Như vậy, hạng người gọi là kẻ thù của mình cũng có thể vốn là người thân, thậm chí là mẹ, cha, … ân nhân của ta trong những tiền kiếp.

Vậy, ta không nên chấp lỗi, thù hận người ấy nữa.

Sau khi suy xét đúng đắn như vậy, hành-giả phát sinh thiện-tâm thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù ấy một cách tự nhiên, tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực.

* Tuy hành-giả đã cố gắng suy xét bằng nhiều cách như vậy, để thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, nhưng tâm-từ không phát sinh, mà chỉ có tâm sân phát sinh mà thôi. 

Nếu như vậy thì hành-giả nên tạm ngưng thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, nên bắt đầu thực-hành niệm rải tâm-từ lại theo tuần tự đến hạng người thương yêu, đến hạng người thương yêu nhiều, đến hạng người không thương không ghét, để cho tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực, rồi mới tiếp theo thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, một cách tự nhiên, để cho tâm-từ phát triển tốt, có nhiều năng lực.

Sīmāsambheda: Xóa Ranh Giới Tâm-Từ

Sở dĩ hành-giả cần phải cố gắng bằng mọi cách, để thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người gọi là kẻ thù của mình, là vì hành-giả muốn cho tâm-từ của mình đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, đểcho tâm-từđồng đều nhau, không nhiều không ít đối với 4 hạng người, tâm-từ trở nên samacittatā: tâm-từ đồng đều dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới.

Trạng-Thái Của Tâm-Từ Sīmāsambheda

 Ví dụ: Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đang ngồi chung với 3 hạng người: piyapuggala, hạng người thương yêu, majjhattapuggala, hạng người không thương không ghét, verīpuggala, hạng người gọi là kẻ thù của mình. Khi ấy, bọn cướp đến bắt buộc hành-giả phải chỉ cho chúng bắt 1 trong 3 hạng người ấy, để chúng giết chết, lấy máu tế thần lửa.

Gặp trường hợp như vậy, nếu hành-giả còn có tâm thiên vị chỉ cho bọn cướp bắt verīpuggala hoặc majjhatta-puggala hoặc piyapuggala thì tâm-từ của hành-giả chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, thậm chí hành-giả chịu hy sinh sinh-mạng của mình cho bọn cướp bắt giết chết, lấy máu tế thần lửa, để cho 3 hạng người kia được an toàn sinh-mạng.

Như vậy, tâm-từ của hành-giả cũng chưa đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, bởi vì tâm-từ của hành-giả vẫn còn phân biệt ranh giới.

Nếu khi hành-giả có tâm-từ đồng đều với 3 hạng người kia và cả chính mình nữa thì tâm-từ của hành-giả mới đạt đến sīmasāmbheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ.

Trong bộ Visuddhimagga: Thanh-tịnh-đạo trình bày 3 bài kệ rằng:

“Attani hitamajjhatte, ahite ca catubbidhe.

Yadā passati nānattaṃ, hitacittova pāṇinaṃ…” ([4])

* Khi nào hành-giả còn thấy khác biệt 4 hạng người là chính mình, người thương yêu, người không thương không ghét, và kẻ thù,

Hành-giả nói rằng: Chỉ có thiện-tâm mong ước sự lợi ích, sự tiến hoá, đến tất cả chúng-sinh mà thôi. Khi ấy, chưa dám nói rằng: Hành-giả có tâm-từ phát sinh theo ý của mình và thuần thục niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người.

* Khi nào tâm-từ trong 4 hạng người của vị tỳ-khưu hành-giả đồng đều nhau, không còn có ranh giới của tâm-từ, vị tỳ-khưu hành-giả niệm rải tâm-từ đến tất cả chúng-sinh vô-lượng trong toàn thế giới chúng-sinh, gồm cả chư-thiên phạm-thiên cả thảy, không còn có ranh giới tâm-từ nữa. Khi ấy, vị tỳ-khưu hành-giả là người đặc biệt cao thượng hơn vị tỳ-khưu ở trên chưa xóa được ranh giới của tâm-từ.

* Khi nào tâm-từ phát sinh rộng rãi đến piyapuggala, majjhattapuggala đồng đều với chính mình, khi ấy tâm-từ của hành-giả có đối-tượng trung-dung, xóa được ranh giới tâm-từ trong verīpuggala, bởi vì thiện-tâm của hành-giả đặt trung-dung trong hạng người là kẻ thù của mình, nên verīpuggala không còn nữa.”

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến hạng người nào, hạng người ấy hiện rõ trực tiếp đến thiện-tâm của hành-giả, làm cho tâm-từ phát sinh trong đối-tượng hạng người ấy.

Vì vậy, phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ không chỉ niệm rải tâm-từ bằng tâm, mà còn phải định-tâm niệm tưởng biết rõ đối-tượng, rồi hành-giả niệm rải tâm-từ đến hạng người ấy.

Cho nên, hành-giả là người có đầy đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ có nhiều năng lực, mới dễ dàng thực- hành đề-mục niệm rải tâm-từ này được.

Để cho tâm-từ phát sinh và tiến triển tốt, hành-giả cần phải theo phương-pháp thực-hành niệm rải tâm-từ cho chính mình trước tiên làm nền tảng, rồi tiếp theo thực- hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự 3 hạng người: piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala cho đến khi đạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, khi tâm-từ đồng đều đối với 4 hạng người (chính mình và 3 hạng người theo tuần tự).

Niệm Rải Tâm-Từ Theo Paṭisambhidāmagga

Hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng, theo phương-pháp trong bộ Paṭisambhidāmagga.

4 Pháp Rải Tâm-Từ

1- Sabbe sattā averā hontu: Xin cho tất cả chúng-sinh không có oan trái lẫn nhau.

2- Sabbe sattā abyāpajjā hontu: Xin cho tất cả chúng- sinh không có khổ tâm sầu não. 

3- Sabbe sattā anīghā hontu: Xin cho tất cả chúng-sinh không có khổ thân.

4- Sabbe sattā sukhī attānaṃ pariharantu: Xin cho tất cả chúng-sinh giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh. 

12 Loại Chúng-sinh 

12 loại chúng-sinh được chia ra làm 2 nhóm:

A- Anodhisapuggala: Hạng chúng-sinh chung không có chỉ định, có 5 loại chúng-sinh.

Niệm rải tâm-từ đến 5 loại chúng-sinh:

1- Sabbe sattā: Tất cả chúng-sinh,

2- Sabbe paṇā: Tất cả chúng-sinh có sinh-mạng,

3- Sabbe bhūtā: Tất cả chúng-sinh hiện hữu,

4- Sabbe puggalā: Tất cả hạng chúng-sinh,

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā: Tất cả chúng-sinh có sắc thân ngũ uẩn.

5 loại chúng-sinh này có danh từ riêng gọi khác nhau, nhưng ý nghĩa chung giống nhau, bởi vì tất cả đều là chúng-sinh như nhau cả.

Niệm rải tâm-từ đến 7 loại chúng-sinh:

1- Sabbā itthiyo: Tất cả nữ giới,

2- Sabbe purisā: Tất cả nam giới,

3- Sabbe ariyā: Tất cả bậc Thánh-nhân,

4- Sabbe anariyā: Tất cả hạng phàm-nhân,

5- Sabbe devā: Tất cả chư-thiên,

6- Sabbe manussā: Tất cả nhân-loại,

7- Sabbe vinipātikā: Tất cả nhóm ngạ-quỷ, a-tu-la.

10 Phương Hướng

Niệm rải tâm-từ đến chúng-sinh trong 10 phương:

1- Puratthimāya disāya: Hướng Đông,

2- Pacchimāya disāya: Hướng Tây,

3- Dakkhināya disāya: Hướng Nam,

4- Uttarāya disāya: Hướng Bắc,

5- Puratthimāya anudisāya: Hướng Đông Nam,

6- Pacchimāya anudisāya: Hướng Tây Bắc,

7- Dakkhināya anudisāya: Hướng Tây Nam,

8- Uttarāya anudisāya: Hướng Đông Bắc,

9- Heṭṭhimāya disāya: Hướng Dưới,

10- Uparimāya disāya: Hướng Trên.

Phương-pháp Thực-hành Niệm Rải Tâm-Từ Đến 12 Loại Chúng-sinh  

5 Loại Chúng-sinh (Anodhisapuggala)

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

1- Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

2- Sabbe paṇā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

3- Sabbe bhūtā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

4- Sabbe puggalā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

5- Sabbe attabhāvapariyāpannā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

 7 Loại Chúng-sinh (Odhisapuggala)

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến mỗi loại chúng-sinh như sau:

1- Sabbā itthiyo averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

2- Sabbe purisā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

3- Sabbe ariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

4- Sabbe anariyā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

5- Sabbe devā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

6- Sabbe manussā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

7- Sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

10 Phương Hướng

Hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến mỗi loại chúng-sinh trong mỗi phương hướng như sau:

1.1- Puratthimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

1.2-10- Puratthimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

2.1- Pacchimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc…

2.2-10- Pacchimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

3.1- Dakkhināya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

3.2-10- Dakkhināya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

4.1- Uttarāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyā-pajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

4.2-10- Uttarāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā, … sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

5.1- Puratthimāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ parihantu. 

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

5.2-10- Puratthimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāva-pariyāpannā, …sabbā itthiyo, … sabbe purisā, …sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

6.1- Pacchimāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

6.2-10- Pacchimāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

7.1- Dakkhināya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Tây Nam, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

7.2-10- Dakkhināya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

8.1- Uttarāya anudisāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Đông Bắc, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

8.2-10- Uttarāya anudisāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

9.1- Heṭṭhimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Dưới, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

9.2-10- Heṭṭhimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu. 

10.1- Uparimāya disāya, sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Mong cho tất cả chúng-sinh trong hướng Trên, không có oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, giữ gìn thân tâm thường được an-lạc.

10.2-10- Uparimāya disāya, sabbe paṇā,… sabbe bhūtā,… sabbe puggalā,… sabbe attabhāvapariyāpannā, … sabbā itthiyo, … sabbe purisā, … sabbe ariyā, … sabbe anariyā,… sabbe devā,… sabbe manussā,… sabbe vinipātikā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu.

Hành-giả niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 chúng-sinh từ sabbe sattā, v.v… cho đến sabbe vinipātikā trong 10 phương hướng từ hướng Puratthimāya disāya: hướng Đông, v.v… cho đến hướng Uparimāya disāya: hướng Trên.  

Như vậy, niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng tổng cộng như sau: 

* Puggalavārapharaṇāmettā có 4 x 12=48 phương-pháp niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 12 loại chúng-sinh.

* Disāpharaṇāmetttā có 10 x 48 = 480 phương-pháp niệm rải tâm-từ với 4 pháp-từ đến 48 loại chúng-sinh trong 10 phương hướng.

Tổng cộng 2 phương-pháp niệm rải tâm-từ 48 + 480= 528 pharaṇāmettā phương-pháp niệm rải tâm-từ.

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

Đề-mục niệm rải tâm-từ là đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới: từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), cho nên đề-mục niệm rải tâm-từ3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

3 Loại Nimitta

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành niệm rải tâm-từ cho atta: chính mình làm nền tảng, tiếp theo niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến piyapuggala: hạng người thương yêu, majjhattapuggala: hạng người không thương không ghét, verīpuggala: hạng người là kẻ thù của mình gồm có 4 hạng người gọi là đối-tượng parikammanimitta.

* Khi tâm-từ của hành-giả phát triển tốt, có năng lực, trong 4 hạng người: atta, piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala, nhưng chưa đạt đến sīmāsambheda: xoá bỏ ranh giới tâm-từ, gọi là đối-tượng uggahanimitta.

* Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đến 4 hạng người: atta, piyapuggala, majjhattapuggala, verīpuggala,đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, nên tâm-từ đồng đều đối với chính mình và 3 hạng người, gọi là đối-tượng paṭibhāganimitta.

Trong 3 loại đối-tượng nimitta ấy, đối-tượng uggaha-nimittađối-tượng paṭibhāganimitta là đối-tượng nimitta gián tiếp, bởi vì đề-mục niệm rải tâm-từ này là đề-mục-thiền-định mà hành-giả thực-hành chỉ niệm biết bằng tâm mà thôi, không thể dùng mắt để nhìn, hoặc dùng thân tiếp xúc, nên đối-tượng uggahanimittađối-tượng paṭibhāganimitta thuộc đối-tượng nimitta gián tiếp.

3 Loại Bhāvanā 3 Loại Samādhi

* Khi hành-giả ban đầu thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ cho chính mình với dục-giới đại-thiện-tâm niệm rải tâm-từ rằng:

“Ahaṃ avero homi, abyāpajjo homi, anīgho homi, sukhī attānaṃ pariharāmi.” 

* Niệm rải tâm-từ theo tuần tự đến hạng người piyapuggala, hạng người majjhattapuggala, hạng người verīpuggala rằng: 

 “Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā hontu, anīghā hontu, sukhī attānaṃ pariharantu, v.v… ” Như vậy, gọi là parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là parikammasamādhi.

  * Khi hành-giả tiếp tục thực-hành niệm rải tâm-từ với dục-giới đại-thiện-tâmđối-tượng uggahanimitta và đối-tượng paṭibhāganimitta, chưa đạtđến sīmā-sambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm, nên gọi là upacārabhāvanā: tâm-hành cận đến gần bậc thiền sắc-giới, định-tâm đồng sinh vớidục-giới đại-thiện-tâm ấy gọi là upacārasamādhi.

Khi hành-giả thực-hành niệm rải tâm-từ đối-tượng paṭibhāganimitta đãđạt đến sīmāsambheda: xóa bỏ ranh giới tâm-từ, chứng đắc bậc thiền sắc-giới thiện-tâm, nên gọi là appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm định-tâm đồng sinh vớiđệ nhất thiền-sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi.

* Phương pháp thực-hành để chứng đắc từ đệ nhị thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới hầu hết giống như đề-mục-thiền-định đất pathavīkasiṇa đã trình bày phần trước.

Nên Biết 8 Điều Về Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, nên biết 8 điều về đề-mục niệm rải tâm-từ:

1- Lakkhaṇa: Tâm-từ có trạng-thái biểu hiện bằng hành động, lời nói, ý nghĩ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc đến tất cả chúng-sinh.

2- Rasa: Tâm-từ có phận sự làm cho chúng-sinh được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc.

3- Paccupaṭṭhāna: Sự hiện hữu của tâm-từ làm tiêu diệt tâm sân-hận.

4- Padaṭṭhāna: Chỉ thấy những điều tốt, điều thiện của chúng-sinh mà thôi, không quan tâm đến điều xấu của chúng-sinh là nguyên nhân gần của tâm-từ.

5- Sampatti: Sự thành tựu của tâm-từ là sự lắng dịu tâm thù-hận.

6- Vippatti: Sự thất bại của tâm-từ là sự phát sinh tâm tham-ái say mê.

7- Āsannapaccatthika: Thù nghịch gần của tâm-từ là tham-dục.

8- Dūrapaccatthika: Thù nghịch xa của tâm-từ là tâm sân hận.

Quả Báu Của Đề-Mục Niệm Rải Tâm-Từ

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm rải tâm-từ, có được 11 quả báu:

1- Sukhaṃ supati: Ngủ được an-lạc,

2- Sukhaṃ paṭibujjhati: Thức dậy được an-lạc,

3- Na pāpaṃ supinaṃ passati: Không thấy ác mộng,

4-Manussānaṃ piyo hoti: Được mọi người thương yêu 

5- Amanussānaṃ piyo hotu: Được các hàng phi nhân thương yêu, 

6- Devatā rakkhati: Được Chư-thiên hộ trì,

7- Nassa aggi vā visaṃ vā satthaṃ vā kamati: Lửa hoặc chất độc hoặc các loại khí giới không thể làm hại được, 

8- Tuvaṭaṃ cittaṃ samādhiyati: Tâm dễ dàng an-định,

9- Mukhavaṇṇo vippasīdati: Gương mặt tươi sáng,

10- Asammuḷho kālaṃ karoti: Lúc lâm chung không mê muội, tâm sáng suốt.

11- Uttarimappaṭivijjhanto brahmalokupago hoti:

Đề-mục niệm rải tâm-từ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới cho đến đệ tứ thiền sắc-giới (trừ đệ ngũ thiền sắc-giới), nếu chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì sau khi chết, sắc-giới thiện-nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời sắc-giới phạm-thiên, tùy theo sắc-giới quả-tâm của bậc thiền sở đắc của hành-giả. 

 (Xong đề-mục niệm rải tâm-từ)


[1] Saṃ. Bộ Sagāthāvaggapāḷi, Phần Devatāsaṃyutta

[2] Saṃ. Bộ Sagāthāvaggapāḷi, Kosalasaṃyutta, Mallikāsutta

[3] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, tích Kāḷayakkhinīvatthu, câu kệ thứ 5

[4] Bộ Visuddhimagga, phần Mettābhāvanākathā

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn