(Xem: 1506)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1866)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Tam-Tuệ-Luân (Tiparivaṭṭa)

02 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9859)


Kinh chuyển Pháp Luân

Tỳ Kheo Hộ Pháp.


Tam-Tuệ-Luân (Tiparivaṭṭa)

 

Đức-Phật dạy rằng:  

Yato ca kho me bhikkhave, imesu catūsu ariyasaccesu evaṃ tiparivaṭṭaṃ dvādasākāraṃ yathābhūtaṃ ñāṇadassanaṃ suvisuddhaṃ ahosi, athā’haṃ bhikkhave, sadevake loke samārake sabrahmake sassamaṇabrahmaṇiyā pajāya sadevamanussāya “anuttaraṃ sammā-sambodhiṃ abhisambuddho’ti paccaññāsiṃ…”

“- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí-tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành) thành 12 loại trí-tuệ hoàn toàn trong sáng thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai…”

 - Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai dõng dạc khẳng định truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh nhân-loại, vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, chư-thiên, Ma-vương, Phạm thiên cả thảy”.

Tứ Thánh-đế theo Tam-tuệ-luân là thế nào?

Tam-tuệ-luân đó là 3 loại trí-tuệ luân chuyển theo tuần tự trong tứ Thánh-đế là:

1- Saccañāṇa: Trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế,

2- Kiccañāṇa: Trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế,

3- Katañāṇa: Trí-tuệ-thành hoàn thành xong phận sự trong tứ Thánh-đế.

Giảng Giải

1- Saccañāṇa: Trí-Tuệ-Học Trong Tứ Thánh-Đế


Hành giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, điều trước tiên cần phải học về phần pháp-học của tứ Thánh-đế, đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế cho hiểu rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế như sau:

1.1- Trí-Tuệ-Học Trong Khổ-Thánh-Đế

Trí-tuệ-học trong Khổ-Thánh-đế là học về ngũ-uẩn-chấp-thủ (pañcupadānakkhandha) nghĩa ngũ-uẩn là đối-tượng của 4 pháp-chấp-thủ (tham-dục-chấp-thủ, tà-kiến-chấp-thủ, pháp-thường-hành-chấp-thủ,ngã-kiến-chấp-thủ).

Ngũ-uẩn-chấp-thủ có 5 uẩn là:

1- Sắc-uẩn-chấp-thủ đó là 28 sắc-pháp, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

2- Thọ-uẩn-chấp-thủ đó là thọ tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

3- Tưởng-uẩn-chấp-thủ đó là tưởng tâm-sở đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

4- Hành-uẩn-chấp-thủ đó là 50 tâm-sở (trừ thọ và tưởng tâm-sở) đồng sinh với 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

5- Thức-uẩn-chấp-thủ đó là 81 tam-giới-tâm, là đối-tượng của pháp-chấp-thủ.

* Mỗi tâm phát sinh chắc chắn có một số tâm-sở đồng sinh với tâm ấy, nên có 4 uẩn phát sinh:

- Tâm ấy thuộc về thức-uẩn,

- Thọ tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về thọ-uẩn,

- Tưởng tâm-sở đồng sinh với tâm ấy thuộc về tưởng-uẩn,

- Số tâm-sở còn lại đồng sinh với tâm ấy thuộc về hành-uẩn.

- Và vatthurūpa là nơi nương nhờ của tâm với tâm-sở ấy phát sinh thuộc về sắc-uẩn.

* Đối với tất cả chúng-sinh trú trong 11 cõi dục-giới và chư phạm-thiên trú trong 15 cõi sắc-giới (trừ cõi trời Vô-tưởng-thiên) đều có đủ ngũ-uẩn.

* Đối với tất cả chư phạm-thiên trú trong 4 cõi vô-sắc-giới chỉ có 4 danh-uẩn mà thôi, không có sắc-uẩn.

* Đối với tất cả phạm-thiên trú trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên chỉ có 1 uẩnsắc-uẩn.

Trong ngũ-uẩn-chấp-thủ này:

* Sắc-uẩn-chấp-thủ thuộc về sắc-pháp,

* Thọ-uẩn-chấp-thủ, tưởng-uẩn-chấp-thủ, hành-uẩn-chấp-thủ, thức-uẩn-chấp-thủ thuộc về danh-pháp. 

Như vậy, ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giớiKhổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

1.2-Trí-Tuệ-Học Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế

Trí-tuệ-học trong Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại tham-ái.

Tham-ái có 3 loại, 6 loại, 18 loại, 54 loại,108 loại

* Tham-ái có 3 loại là:

1- Kāmataṇhā: Dục-ái tham-ái trong 6 đối-tượng: sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái. 

2- Bhavataṇhā: Hữu-ái tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với thường-kiến, và tham-ái trong thiền sắc-giới-tâm, thiền vô-sắc-giới-tâm, trong cõi trời sắc-giới, cõi trời-vô-sắc-giới.

3- Vibhavataṇhā: Phi-hữu-ái tham-ái trong 6 đối-tượng (sắc-ái, thanh-ái, hương-ái, vị-ái, xúc-ái, pháp-ái) hợp với đoạn-kiến. 

* Tham-ái có 6 loại là:

1- Rūpataṇhā: Sắc-áitham-ái trong đối-tượng sắc-dục 

2- Saddataṇhā: Thanh-áitham-ái trong đối-tượng thanh-dục, 

3- Gandhataṇhā: Hương-áitham-ái trong đối-tượng hương-dục,

4- Rasataṇhā: Vị-áitham-ái trong đối-tượng vị-dục,

5- Phoṭṭhabbataṇhā: Xúc-áitham-ái trong đối-tượng xúc-dục,

6- Dhammataṇhā: Pháp-áitham-ái trong đối-tượng pháp-dục,

* Tham-ái có 18 loại là 3 loại tham-ái nhân với 6 đối-tượng thành 18 loại tham-ái.

* Tham-ái có 54 loại là 18 loại tham-ái nhân với 3 thời:

- Thời quá-khứ có 18 loại tham-ái,

- Thời hiện-tại có 18 loại tham-ái,

- Thời vị-lai có 18 loại tham-ái,

Trong 3 thời gồm có 54 loại tham-ái.

* Tham-ái có 108 loại là 54 loại tham-ái nhân với 2 bên:

- Bên trong của mình có 54 loại tham-ái,

- Bên ngoài mình, của người khác, vật khác có 54 loại tham-ái.

 Trong 2 bên gồm có 108 loại tham-ái.

 Các loại tham-ái đều thuộc về Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh-nhân đã chứng ngộ.

1.3- Trí-Tuệ-Học Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế

Trí-tuệ-học trong Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về các loại Niết-bàn.

* Niết-bàn có 2 loại:

1- Sa upādisesanibbāna: Hữu-dư-Niết-bàn Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, còn gọi là phiền-não-Niết-bàn (kilesaparinibbāna), nhưng ngũ-uẩn vẫn còn tồn tại cho đến khi hết tuổi thọ.

2- Anupādisesanibbāna: Vô-dư-Niết-bàn Niết-bàn đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán đã diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót; đến lúc hết tuổi thọ, bậc Thánh-A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, còn gọi là ngũ-uẩn-Niết-bàn (khandhaparinibbāna), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới. 

* Niết-bàn có 3 loại:

1-Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-vô-thường (aniccalakkhaṇa) hơn trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, do năng lực của tín-pháp-chủ (sadhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của giới (sīla), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Animittanibbāna: Vô-hiện-tượng-Niết-bàn Niết-bàn không có hiện tượng của các pháp-hữu-vi.

2- Appaṇihitanibbāna: Vô-ái-Niết-bàn Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện rõ trạng-thái-khổ (dukkhalakkhaṇa) hơn trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-vô-ngã, do năng lực của định-pháp-chủ (samādhindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của định (samādhi) dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Appaṇihita-nibbāna: Vô-ái-Niết-bàn Niết-bàn không có tham-ái nương nhờ.

3- Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn Niết-bàn đối với hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp hoặc sắc-pháp, hiện trạng-thái-vô-ngã (anattalakkhaṇa) hơn trạng- thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, do năng lực của tuệ-pháp-chủ (paññindriya) hơn 4 pháp-chủ khác (tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ). Hoặc do năng lực của tuệ (paññā), dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn. Niết-bàn ấy gọi là Suññatanibbāna: Chơn-không-Niết-bàn Niết-bàn hoàn toàn vô-ngã, không phải ta, không phải của ta.

Những Niết-bàn này đều thuộc về Diệt-Khổ-Thánh-đế mà bậc Thánh nhân đã chứng ngộ.

1.4- Trí-Tuệ-Học Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế

Trí-tuệ-học trong Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là học về pháp-hành-Bát-chánh-đạo.

Bát-chánh-đạo có 8 chánh:

1- Sammādiṭṭhi: Chánh-kiến là trí-tuệ chân-chính, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế,

2- Sammāsaṅkappa: Chánh-tư-duy là tư duy chân-chính, có 3 pháp:

- Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị-dục, xúc-dục).

- Tư duy không làm khổ mình, khổ người,

- Tư duy không làm hại mình, hại người.

3- Sammāvācā: Chánh-ngữ là lời nói chân-chính có 4 điều:

- Không nói dối,

- Không nói lời chia rẽ,

- Không nói lời thô tục,

- Không nói lời vô ích.

4- Sammākammanta: Chánh-nghiệp là nghề nghiệp chân-chính có 3 điều:

- Không sát sinh,

- Không trộm cắp,

- Không tà dâm.

5- Sammā-ājīva: Chánh-mạng là nuôi mạng chân-chính, tránh xa cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.

6- Sammāvāyāma: Chánh-tinh-tấn là tinh tấn chân chính có 4 pháp:

- Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh,

- Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh,

- Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh,

- Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

7- Sammāsati: Chánh-niệm là niệm chân chính, có 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:

- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

- Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh- niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

- Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

- Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.

8- Sammāsamādhi: Chánh-địnhđịnh-tâm chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới-tâm, có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

Bát-chánh-đạo đó là 8 loại tâm-sở: 

* Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở ,

* Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở,  

* Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở ,

* Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở,  

* Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở,  

* Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở, 

* Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở,  

* Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở.  

8 loại tâm-sở này gọi là bát-chánh-đạo chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâmđối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi, bởi vì trong bát-chánh-đạo3 tiết-chế tâm-sở (viraticetasika): chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng thuộc về loại niyata ekatocetasika, 3 tâm-sở cố định chỉ cùng đồng sinh với 8 hoặc 40 siêu-tam-giới-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới mà thôi.

* Chánh-ngữ tâm-sở, chánh-nghiệp tâm-sở, chánh-mạng tâm-sở 3 tiết-chế tâm-sở thuộc về loại aniyatayogīcetasika: bất-định tâm-sở còn thuộc loại nānākadāci: mỗi tâm-sở riêng rẽ đồng sinh với 8 dục-giới-đại-thiện-tâm, bởi vì mỗi tâm-sở này có mỗi đối tượng khác nhau.

Bát-Chánh-Đạo TheoTam-Giới Và Siêu-Tam-Giới

Bát-chánh-đạo có 8 chánh mà mỗi chánh có nhiều loại, phân biệt bát-chánh-đạo tam-giớibát-chánh-đạo siêu-tam-giới như sau:

* Chánh-kiến (Sammādiṭṭhi) là trí-tuệ chân chính thấy đúng, biết đúng có 5 loại:

1- Kammassatā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-sở-nghiệptrí-tuệ thấy đúng, biết đúng thiện- nghiệp và ác-nghiệp mà ta đã tạo rồi là thuộc của riêng ta, chỉ có ta là người thừa hưởng quả an lạc của thiện-nghiệp và chịu quả khổ của ác- nghiệp ấy mà thôi.

2- Vipassanā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-thiền-tuệ trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới (lokiyavipassanā)

thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, nên hiện rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp.

3- Maggasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-đạo-

tuệtrí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara- vipassanā) chứng đắc Thánh-đạo-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

4- Phalasammādiṭṭhi: Chánh-kiến-Thánh-quả-tuệtrí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới (lokuttara-vipassanā) chứng đắc Thánh-quả-tuệ có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

5- Paccavekkhaṇā sammādiṭṭhi: Chánh-kiến-quán-triệt là trí-tuệ quán triệt Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, phiền não nào đã bị diệt-đoạn-tuyệt và phiền não nào chưa bị diệt.

Trong 5 loại chánh-kiến này, chánh-kiến-sở-nghiệp, chánh-kiến-thiền-tuệ,chánh-kiến-quán-triệt thuộc về tam-giới.

Chánh-kiến-Thánh-đạo-tuệchánh-kiến-Thánh-quả-tuệ thuộc về siêu-tam-giới.

 Chánh-kiến đó là trí-tuệ tâm-sở (paññindriya-cetasika) đồng sinh với 4 đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ, 4 đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-kiến thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi trí-tuệ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-kiến thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-tư-duy (Sammāsaṅkappa) là tư duy chân-chính có 3 điều:

1- Tư duy thoát ra khỏi ngũ-dục,

2- Tư duy không làm khổ mình, khổ người,

3- Tư duy không làm hại mình, hại người,

Chánh-tư-duy đó là hướng-tâm tâm-sở (vitakkacetasika)  đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-thiện-tâm, đệ nhất thiền sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm.

*Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-tư-duy thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi hướng-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tư-duy thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-ngữ (Sammāvācā) là lời nói chân-chính, có 3 loại:

1- Kathā sammāvācā: Chánh-ngữ lời-nói là lời nói hay, nói thật, lời nói chân-chính đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho người nghe.

2- Cetanā sammāvācā: Chánh-ngữ tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa 4 tà-ngữ:

- Tránh xa lời nói dối, mà nói lời chơn-thật,

- Tránh xa lời nói chia-rẽ, mà nói lời hoà-hợp,

- Tránh xa lời thô-tục, mà nói lời dịu dàng 

- Tránh xa lời vô-ích, mà nói lời hữu-ích.

3- Virati sammāvācā: Chánh-ngữ tiết-chếtiết-chế-tâm-sở tránh xa tà-ngữ, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.

Trong 3 loại chánh-ngữ này, chánh-ngữ lời-nói và chánh-ngữ tác-ý thuộc về tam-giới.

Chánh-ngữ tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-ngữ đó là chánh-ngữ tâm-sở (sammā-vācācetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với tam-giới tâm ấy thì chánh-ngữ thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi chánh-ngữ tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-ngữ thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-nghiệp (Sammākammanta) là nghề nghiệp chân-chính có 3 loại:

1-Kriyā sammākammanta: Chánh-nghiệp hành- động là hành động thiện-nghiệp đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến cho mọi người, mọi chúng-sinh. 

2- Cetanā sammākammanta: Chánh-nghiệp tác-ý là tác-ý thiện-tâm tránh xa tà-nghiệp:

- Tránh xa sự sát-sinh,,

- Tránh xa sự trộm-cắp,

- Tránh xa sự tà-dâm.

3- Virati sammākammanta: Chánh-nghiệp tiết-chếtiết-chế tâm-sở tránh xa tà-nghiệp, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.

Trong 3 loại chánh-nghiệp này, chánh-nghiệp hành-động và chánh-nghiệp tác-ý thuộc về tam giới.

* Chánh-nghiệp tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-nghiệp đó là chánh-nghiệp tâm-sở (sammākammantacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-nghiệp thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi chánh-nghiệp tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-nghiệp thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-mạng (Sammā-ājīva) là nuôi mạng chân-chính có 2 loại:

1- Viriya sammā-ājīva: Chánh-mạng tinh-tấn là tinh tấn nuôi mạng chân-chính, từ bỏ cách sống tà-mạng do thân hành ác-nghiệp, khẩu nói ác-nghiệp.

 2- Virati sammā-ājīva: Chánh-mạng tiết-chếtiết-chế tâm-sở tránh xa cách sống tà-mạng, khi đang thực hành pháp-hành-thiền-tuệ.

Trong 2 loại chánh mạng này, chánh-mạng tinh-tấn thuộc về tam giới.

* Chánh-mạng tiết-chế đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thuộc về siêu-tam-giới.

Chánh-mạng đó là chánh-mạng tâm-sở (sammā-ājīvacetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-mạng thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi chánh-mạng tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-mạng thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-tinh-tấn (Sammāvāyāma) là tinh-tấn chân chính, có 4 điều:

- Tinh tấn ngăn ác pháp không cho sinh,

- Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh,

- Tinh tấn làm cho thiện pháp chưa sinh, được phát sinh,

- Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

Chánh-tinh-tấn đó là tinh-tấn tâm-sở (viriya-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm thì chánh-tinh-tấn ấy thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi tinh-tấn tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-tinh-tấn thuộc về siêu-tam-giới. 

* Chánh-niệm (Sammāsati) là niệm chân-chính trong 4 pháp-hành tứ-niệm-xứ:

1- Thân-niệm-xứ: Thân là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

2- Thọ-niệm-xứ: Thọ là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

3- Tâm-niệm-xứ: Tâm là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác,

4- Pháp-niệm-xứ: Pháp là đối-tượng của chánh-niệm, trí-tuệ-tỉnh-giác.

Chánh-niệm đó là niệm tâm-sở (saticetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 vô-sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-niệm thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi niệm tâm-sở đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâm thì chánh-niệm thuộc về siêu-tam-giới.

* Chánh-định (Sammāsamādhi) là định chân-chính trong 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.  

Chánh-định đó là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā-cetasika) đồng sinh với 8 đại-thiện-tâm, 8 đại-duy-tác-tâm, 5 sắc-giới-thiện-tâm, 5 sắc-giới-duy-tác-tâm, 4 vô-sắc-giới-thiện-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm, 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm. 

* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với tam-giới-tâm ấy thì chánh-định thuộc về tam-giới. 

* Nếu khi nhất-tâm tâm-sở đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh-đạo-tâm và 4 hoặc 20 Thánh-quả-tâm thì chánh-định thuộc về siêu-tam-giới. 

Đó là 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-học-Phật-giáo (Pariyattisāsana).

2- Kiccañāṇa:Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Tứ Thánh-Đế  

Sau khi học hỏi, hiểu rõ trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế xong thuộc về phần Pháp-học-Phật- giáo, luân chuyển sang trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về phần Pháp-hành- Phật-giáo.

Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành-thiền-tuệthực-hành theo trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế.

Trí-tuệ-hành phận-sự trong mỗi Thánh-đế khác nhau như sau: 

 - Trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế,

 - Trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế 

- Trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ Diệt-Khổ-Thánh-đế,

 - Trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến-hành Pháp-hành-Diệt-Khổ-Thánh-đế.


2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Mỗi Thánh-Đế


2.1- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Khổ-Thánh-Đế

Khổ-Thánh-đế (Dukkha ariyasacca) đó là ngũ-uẩn-chấp-thủ hoặc sắc-pháp, danh-pháp trong tam-giới là pháp mà hành giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp, sắc-pháp ấy là khổ-đế. (không phải nên diệt, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.2- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Nhân-Sinh-Khổ-Thánh-Đế

Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế (Dukkhasamudaya ariyasacca) đó là tham-ái là pháp mà hành-giả trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt([1][1])(pahātabbaṃ) nhân-sinh-khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới diệt từng thời tham-ái. (không phải nên biết, nên chứng ngộ, nên tiến hành).

2.3- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Diệt-Khổ-Thánh-Đế

Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodha ariya-sacca) đó là Niết-bàn là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng ngộ (sacchi-kātabbaṃ) Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn([2][2]) (không phải nên biết, nên diệt, nên tiến hành).

2.4- Trí-Tuệ-Hành Phận-Sự Trong Pháp-Hành Dẫn Đến Diệt-Khổ-Thánh-Đế

Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế (Dukkhanirodhagaminī paṭipadā ariyasacca) đó là pháp-hành bát-chánh-đạo là pháp mà hành-giả có trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đang tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo. (không phải nên biết, nên diệt, nên chứng ngộ)

Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-Thánh-đế là chính, đóng vai trò quan trọng trong pháp-hành-thiền-tuệ, như sau:

* Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, nếu có trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới thấy rõ, biết rõ danh-pháp hoặc sắc-pháp là khổ-đế thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế.

* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết khổ-đế ấy, thì tham-ái không thể nương nhờ nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp ấy mà phát sinh, nghĩa là diệt tham-ái, đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế.

* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời (tadaṅgappahāna) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, thì đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời (tadaṅganibbāna) Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế.

* Khi trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Niết-bàn, Diệt-Khổ-đế, đó là trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế.

Như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ đế này, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết Khổ-đế là chính, đồng thời trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt-từng-thời Nhân-sinh-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ-từng-thời Diệt-Khổ-đế, trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành pháp-hành-Diệt-Khổ-đế cũng thành tựu cùng một lúc không trước không sau.

Bốn trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế này thuộc về Pháp-hành Phật-giáo (Paṭipatti-sāsana).


3- Katañāṇa: Trí-Tuệ-Thành Hoàn Thành Xong Phận-Sự Trong Tứ-Thánh-Đế 


Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, khi có 4 trí-tuệ-hành phận-sự tứ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ-đế, thì được luân chuyển đến 4 trí-tuệ-thành phận-sự tứ Thánh-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới đã hoàn thành xong phận-sự tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Khi ấy, Khổ-Thánh-đế đó là sắc-pháp, danh-pháp tam-giớipháp trí-tuệ-hành phận-sự nên biết (pariññeyyaṃ) sắc-pháp danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã biết xong (pariññātaṃ) Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

* Cũng đồng thời, Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế đó là tham-ái là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên diệt (pahātabbaṃ) tham-ái, Nhân-sinh-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã diệt xong (pahīnaṃ) Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

* Cũng đồng thời, Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là Niết-bàn là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên chứng-ngộ (sacchikātabbaṃ) Niết-bàn-từng-thời là Diệt-Khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã chứng-ngộ xong (sacchikataṃ) Niết-bàn, Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới.

* Cũng đồng thời, pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế đó là bát-chánh-đạo là pháp mà trí-tuệ-hành phận-sự nên tiến hành (bhāvetabbaṃ) bát-chánh-đạo, pháp-hành-Diệt-Khổ-đế, với trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giới, rồi được luân chuyển đến trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong (bhāvitaṃ) pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế với Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu tam-giới, đã hoàn thành 4 phận-sự là:

* Khổ-Thánh-đế là pháp nên biết, thì đã biết xong với Thánh-đạo-tuệ,

* Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế là pháp nên diệt, thì đã diệt xong với Thánh-đạo-tuệ,

* Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên chứng ngộ, thì đã chứng ngộ xong với Thánh-đạo-tuệ,

* Pháp-hành dẫn đến Diệt-Khổ-Thánh-đế là pháp nên tiến hành, thì đã tiến hành xong với Thánh-đạo-tuệ.

Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế, thì trí-tuệ-thành phận-sự đã tiến hành xong pháp-hành bát- chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế chính yếu, còn lại 3 trí-tuệ-thành phận-sự trong mỗi Thánh-đế kia cũng đã được hoàn thành xong mỗi phận-sự đồng thời cùng một lúc không trước, không sau. 

4 trí-tuệ-thành hoàn thành xong 4 phận-sự trong tứ Thánh-đế thuộc về Pháp-thành-Phật-giáo (paṭivedhasāsana).

Ví dụ: Một đèn dầu thắp sáng trong đêm tối có 4 sự việc xảy ra cùng một lúc, không trước không sau:

* Ánh sáng toả ra,

* Bóng tối biến mất,

* Dầu hao dần,

* Tim cháy dần,

4 sự việc này xảy ra đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

Cũng như vậy, 4 trí-tuệ-hành phận-sự, 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự trong tứ Thánh-đế được hoàn thành xong đồng thời, cùng một lúc, không trước không sau.

Quan Hệ Nhân Quả Của Tam-Tuệ-Luân

Quan hệ từ quả đến nhân, từ nhân đến quả

4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-hành phận-sự đã hoàn thành xong trong tứ Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã thực-hành đúng theo phận-sự trong mỗi Thánh-đế, đó là kết quả của 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế đã hiểu biết rõ mỗi chi pháp của mỗi Thánh-đế.

Như vậy, 4 trí-tuệ-học trong tứ Thánh-đế hiểu biết rõ các chi pháp của mỗi Thánh-đế làm nền tảng cơ bản, làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đúng theo phận-sự của mỗi Thánh-đế.

4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế đã hoàn thành xong làm nhân phát sinh dẫn đến quả là 4 trí-tuệ-thành trong tứ Thánh-đế chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, phạm hạnh cao thượng đã hoàn thành xong, kiếp này là kiếp chót, không còn tái sinh kiếp nào nữa, chắc chắn sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới.

Vai Trò 4 Trí-Tuệ-Hành Và 4 Trí-Tuệ-Thành 

Trong 4 trí-tuệ-hành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn đầu, thì trí-tuệ-hành phận-sự nên biết sắc-pháp, danh-pháp tam-giới là khổ-đế với trí-tuệ-thiền-tuệ tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-hành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

Trong 4 trí-tuệ-thành đã hoàn thành phận-sự trong tứ Thánh-đế ở giai đoạn cuối, thì trí-tuệ-thành đã hoàn thành xong phận-sự đã tiến hành pháp-hành bát-chánh-đạo Diệt-Khổ-Thánh-đế với 4 Thánh-đạo-tuệ thuộc về trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới, đóng vai trò chính yếu, còn 3 trí-tuệ-thành phận-sự của mỗi Thánh-đế kia cũng được thành tựu đồng thời cùng một lúc, không trước không sau.

Thánh-Đạo-Tuệ Diệt-Đoạn-Tuyệt 3 Loại Tham-Ái

1- Nhập-lưu-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại tham-ái: vibhava-taṇhā: tham-ái hợp với đoạn-kiến, và bhava-taṇhā: tham-ái hợp với thường-kiến, trong 4 tham-tâm hợp với tà-kiến. (còn lại 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, thì chưa diệt được).

2- Nhất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái:  kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục (sắc-dục, thanh-dục, hương-dục, vị- dục, xúc-dục) loại thô ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn 5 đối-tượng ngũ-dục loại vi tế chưa diệt được).

3- Bất-lai-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: kāmataṇhā: tham-ái trong 5 đối-tượng ngũ-dục vi tế ở cõi dục-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến. (còn tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới thì chưa diệt được).

4- A-ra-hán-Thánh-đạo-tuệ có khả năng diệt-đoạn-tuyệt được 1 loại tham-ái: bhava-taṇhā: tham-ái trong các bậc thiền sắc-giới-tâm, các bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, cõi trời sắc-giới, cõi trời vô-sắc-giới, trong 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến không còn dư sót.

Như vậy, bậc Thánh-A-ra-hán có khả năng đặc biệt diệt-đoạn-tuyệt được hoàn toàn mọi tham-ái không còn dư sót nữa.



 [1] Diệt tham-ái có 5 cách:

- Vikkhambhanappahāna: Diệt bằng cách chế ngự tham-ái do năng lực của bậc thiền.

- Tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời tham-ái do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới .

- Samucchedappahāna: Diệt-đoạn-tuyệt tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.

- Paṭippassadhippahāna: Diệt bằng cách làm vắng-lặng tham-ái do năng lực của Thánh-quả-tuệ 

- Nissaraṇappahāna: Diệt khỏi tham-ái do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

 [2] Nirodho nibbānaṃ Niết-bàn có nghĩa là diệt, có 5 loại:

- Vikkhambhananibbāna: Diệt bằng cách chế ngự phiền não do năng lực của bậc thiền.

- Tadaṅganibbāna: Diệt-từng-thời phiền não do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới.

- Samucchedanibbāna: Diệt-đoạn-tuyệt phiền não do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.

- Paṭippassadhinibbāna: Diệt cách làm vắng lặng phiền não do năng lực của Thánh-quả tuệ. 

- Nissaraṇanibbāna: Diệt khỏi phiền não do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

 



[1] Diệt tham-ái có 5 cách:

- Vikkhambhanappahāna: Diệt bằng cách chế ngự tham-ái do năng lực của bậc thiền.

- Tadaṅgappahāna: Diệt-từng-thời tham-ái do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới .

- Samucchedappahāna: Diệt-đoạn-tuyệt tham-ái do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.

- Paṭippassadhippahāna: Diệt bằng cách làm vắng-lặng tham-ái do năng lực của Thánh-quả-tuệ 

- Nissaraṇappahāna: Diệt khỏi tham-ái do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

[2] Nirodho nibbānaṃ Niết-bàn có nghĩa là diệt, có 5 loại:

- Vikkhambhananibbāna: Diệt bằng cách chế ngự phiền não do năng lực của bậc thiền.

- Tadaṅganibbāna: Diệt-từng-thời phiền não do năng lực của trí-tuệ-thiền-tuệ tam giới.

- Samucchedanibbāna: Diệt-đoạn-tuyệt phiền não do năng lực của Thánh-đạo-tuệ.

- Paṭippassadhinibbāna: Diệt cách làm vắng lặng phiền não do năng lực của Thánh-quả tuệ. 

- Nissaraṇanibbāna: Diệt khỏi phiền não do năng lực của đối-tượng Niết-bàn.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn