(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Giới thiệu

06 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 10650)


Nền Tảng Phật Giáo

Quyển 3 (Hành giới)

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

 

CHƯƠNG V

HÀNH GIỚI (SīlācārA)

 

Giới Thiệu

 

Chương IV Quy Y Tam Bảo đã trình bày trong quyển Nền Tảng Phật Giáo II Quy Y Tam Bảo xong, chương V trình bày về Hành Giới.

Hành giới: Sīlācāra nghĩa là hành các điều giới của mình.

Trong pháp hành Phật giáo, pháp hành giới là pháp hành đầu tiên để làm nền tảng cho pháp hành thiền định và pháp hành thiền tuệ được phát triển.

Thế nào gọi là pháp hành giới?

Pháp hành giới là tác ý thiện (kusalacetanā) giữ gìn các điều giới của mình, tránh xa mọi thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp; đồng thời thành tựu thân hành thiện, khẩu hành thiện; và hành 14 pháp hành phận sự [1] đầy đủ đối với bậc xuất gia Sadi, Tỳ khưu... gọi là pháp hành giới.

Pháp nào gọi là giới?

Trong bộ Paṭisambhidāmagga có trình bày 4 pháp gọi là giới:

1- Cetanāsīla: Tác ý gọi là giới.

2- Cetasikasīla: Tâm sở tiết chế (viraticetasika) gọi là giới.

3- Saṃvarasīla: Thu thúc không để tâm ác phát sinh gọi là giới.

4- Avītikkamasīla: Không phạm điều giới gọi là giới.

1- Cetanāsīla: Tác ý gọi là giới như thế nào?

Tác ý thiện (kusalacetanā) tránh xa mọi thân ác nghiệp, khẩu ác nghiệp; và tác ý thiện làm tròn phận sự 14 pháp hành... gọi là tác ý giới.

2- Cetasikasīla: Tâm sở tiết chế gọi là giới như thế nào?

Tâm sở tiết chế (viraticetasika) có 3 loại:

─ Chánh ngữ (sammāvācā): Lời nói chân chánh, đó là tránh xa sự nói dối, tránh xa sự nói lời chia rẽ, tránh xa sự nói lời thô tục (chửi rủa, mắng nhiếc) và tránh xa sự nói lời vô ích.

─ Chánh nghiệp (sammākammanta): Hành nghiệp chân chánh đó là tránh xa sự sát sinh, tránh xa sự trộm cắp, tránh xa sự tà dâm.

─ Chánh mạng (sammāājīva): Nuôi mạng chân chánh đó là tránh xa cách sống tà mạng do thân hành ác, khẩu hành ác.

Tiết chế (virati) gọi là giới có 3 trường hợp:

─ Sampattavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp khi gặp đối tượng đang hiện hữu.

─ Samādānavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp do đã thọ trì giới.

─ Samucchedavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp một cách đoạn tuyệt do năng lực của Thánh Đạo Tuệ của bậc Thánh Nhân.

* Sampattavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp khi gặp đối tượng đang hiện hữu như thế nào?

Trường hợp một người chưa xin thọ trì giới, đến khi gặp phải đối tượng có thể làm cho phạm giới; người ấy vốn là bậc thiện trí học nhiều hiểu rộng, có trí tuệ sáng suốt, biết tự răn dạy mình rằng:

Ta chớ nên tạo ác nghiệp, bởi vì ác nghiệp chỉ làm khổ mình, khổ chúng sinh khác mà thôi”.

Sở dĩ người ấy có sự nhận thức đúng đắn như vậy là nhờ sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống đạo đức, được giáo dục tốt. Đến khi trưởng thành nên người, là người có học thức và đạo đức tốt.

Ví dụ: Tích cậu Cakkana[2] ở đảo Sihaḷa (nước Srilankā), được tóm lược như sau:

Mẹ của cậu Cakkana bị lâm bệnh, người anh sai bảo cậu Cakkana vào rừng săn bắt một con thỏ đem về để làm thuốc chữa bệnh cho mẹ. Cậu Cakkana vâng lời mang lưới vào rừng, giăng lưới bắt thỏ. Thấy một con thỏ đang đi ăn cỏ, cậu liền vây đuổi làm cho con thỏ hoảng sợ cắm đầu chạy về phía trước để lánh nạn, nó bị mắc lưới, kêu: ‘kiri! kiri!’ vùng vẫy sợ chết. Cậu Cakkana nghe tiếng thỏ kêu, chạy đến bắt con thỏ và nghĩ rằng: “Ta đem con thỏ này về làm thuốc chữa bệnh cho mẹ”. Nhìn thấy con thỏ đau khổ, sợ chết, cậu phát sinh tâm bi nghĩ lại rằng:

Chúng sinh đều muốn bảo vệ sinh mạng, sợ chết. Vậy ta không nên sát hại con thỏ này để làm thuốc trị bệnh cho mẹ ta”.

Cậu Cakkana buông thả con thỏ để nó chạy trở lại vào rừng, rồi trở về với tâm thanh thản và nhẹ nhàng. Thấy cậu, người anh liền hỏi:

─ Sao em không bắt được con thỏ nào?

Cậu thuật lại sự việc đã xảy ra, liền bị người anh trách mắng. Cậu đến bên cạnh người mẹ hiền, phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

“Từ khi con sinh ra, trưởng thành, cho đến hôm nay, con chưa từng có tác ý sát hại một chúng sinh nào. Do lời chân thật này, xin cho mẹ hiền hết bệnh”.

Thật là lạ thường! Do năng lực lời phát nguyện chân thật của cậu, bệnh tình của người mẹ chẳng bao lâu đã khỏi hẳn.

Đó là trường hợp tiết chế tránh xa ác nghiệp, khi gặp đối tượng đang hiện hữu.

* Samādānavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp do đã thọ trì giới như thế nào?

Trường hợp một người đã xin thọ trì giới, sau đó, gặp phải đối tượng có thể làm cho bị phạm giới; nhưng người ấy niệm tưởng lại giới mà mình đã thọ trì, quyết tâm giữ gìn giới cho trong sạch trọn vẹn, dù phải hy sinh sinh mạng, chứ không để phạm giới.

Ví dụ: Tích chuyện người cận sự nam tên Uttaravaḍḍha-māna([1]), được tóm lược như sau:

Một buổi sáng, cận sự nam Uttaravaḍḍhamāna đến đảnh lễ Ngài Đại đức Buddharakkhita, xin thọ phép quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới xong, xin phép Ngài trở về nhà, dắt bò ra đồng cày ruộng. Cày xong, ông thả bò cho đi ăn cỏ, chẳng may con bò đi lạc đường. Người cận sự nam đi tìm theo giấu chân bò dọc theo ven núi, chẳng may bị một con trăn lớn siết chặt vào người. Lúc bấy giờ, trong người cận sự nam có mang theo một con dao bén và nhọn, ông bèn nghĩ rằng: “Ta rút con dao này cắt cổ con trăn”. Nhưng ông chợt nhớ lại rằng: “Sáng hôm nay ta đã thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới nơi Ngài Đại đức Buddharakkhita; ta nên giữ gìn ngũ giới cho trong sạch và đầy đủ, không nên phạm điều giới sát sinh”.

Con trăn càng lúc càng xiết mạnh, làm cho thân mình ông vô cùng đau đớn, ông lại nghĩ đến việc rút con dao bén giết hại con trăn, để cứu sinh mạng của mình. Nhưng ông lại nghĩ như lần trước, nên không giết chết con trăn. Mãi cho đến lần thứ ba, lần này ông suy xét rằng: “Sở dĩ, bao nhiêu lần ta định giết hại con trăn này, là vì ta ỷ lại trong mình ta có con dao”.

Nghĩ vậy, người cận sự nam rút con dao ném ra xa, rồi phát nguyện rằng: “Thà rằng ta chịu hy sinh sinh mạng để giữ gìn giới cho được trong sạch và trọn vẹn, quyết tâm không để phạm giới”.

Do năng lực của giới, khiến con trăn từ từ buông ra khỏi mình ông, rồi bò vào rừng.

Đó là trường hợp tiết chế tránh xa ác nghiệp do đã thọ trì ngũ giới.

* Samucchedavirati: Tiết chế tránh xa ác nghiệp một cách đoạn tuyệt như thế nào?

Trường hợp hành giả thực hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ phát sinh theo tuần tự đến trí tuệ thứ 14 gọi là Thánh Đạo Tuệ có Niết Bàn làm đối tượng, nên diệt được phiền não một cách đoạn tuyệt. Loại phiền não nào đã bị diệt đoạn tuyệt do năng lực của Thánh Đạo Tuệ rồi, loại phiền não ấy vĩnh viễn không bao giờ phát sinh trở lại được nữa.

Bậc Thánh Nhập Lưu có giới đức hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn.

3-  Saṃvarasīla: Thu thúc, giữ gìn thân, khẩu, ý không để ác tâm phát sinh gọi là giới như thế nào?

Thu thúc, giữ gìn thân, khẩu, ý không để ác tâm phát sinh có 5 loại:

Pātimokkhasaṃvara: Thu thúc với tác ý giữ gìn 227 điều giới trong giới bổn Tỳ khưu (Bhikkhupātimokkha) bằng đức tin.

Satisaṃvara: Thu thúc, giữ gìn bằng chánh niệm trong 6 môn: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân ý không để phiền não phát sinh (thuộc về giới giữ gìn 6 môn).

Ñāṇasaṃvara: Thu thúc, giữ gìn bằng trí tuệ ngăn chặn phiền não tham, sân, si,… không cho phát sinh trong tâm (thuộc về giới quán tưởng 4 thứ vật dụng hằng ngày đêm).

Khantisaṃvara: Thu thúc, giữ gìn bằng tâm nhẫn nại, khi gặp thời tiết nóng, lạnh, cảnh đói, khát, những đối tượng trái ý nghịch lòng, v.v... mà sân tâm không phát sinh, chỉ có thiện tâm phát sinh mà thôi.

Vīriyasaṃvara: Thu thúc, giữ gìn bằng tinh tấn ngăn ác pháp chưa phát sinh thì không cho phát sinh; tinh tấn diệt ác pháp đã sinh; tinh tấn làm cho thiện pháp chưa phát sinh thì phát sinh; và tinh tấn làm phát triển thiện pháp đã sinh (thuộc về giới nuôi mạng thanh tịnh).

4-  Avītikkamasīla: Không phạm điều giới gọi là giới như thế nào?

Sau khi đã thọ trì giới xong rồi, hành giả có đức tin trong sạch, có tác ý thiện giữ gìn giới của mình cho được trong sạch và trọn vẹn; dù phải hy sinh sinh mạng của mình, quyết tâm giữ gìn, bảo vệ giới cho trong sạch và trọn vẹn, không để phạm giới.

Như vậy, thu thúc, giữ gìn bảo vệ điều giới không để bị phạm gọi là giới.

Trong bộ Paṭisambhidāmagga trình bày giới có 3 loại:

Kusalasīla: Giới thiện đó là tâm sở tác ý đồng sinh với thiện tâm.

Akusalasīla: Giới bất thiện (giới ác) đó là tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm (ác tâm).

Abyākatasīla: Giới không thiện không ác đó là tác ý tâm sở đồng sinh với tâm quả và tâm duy tác.

Trong 3 loại giới này, giới cần giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn thuộc giới thiện, đó là tác ý tâm sở đồng sinh với dục giới đại thiện tâm.

Ý Nghĩa Của Giới (Sīla)

Giới có nhiều ý nghĩa

* Sīla: Giới có ý nghĩa là sīlana: Hành.

─ Sīlana: Hành có 2 ý nghĩa.

1- Samādhāna: Hành giới làm cho thân và khẩu được tự nhiên đàng hoàng. Người hành giới có thân hành thiện, khẩu nói thiện, nên cử chỉ hành động của thân đàng hoàng tự nhiên đáng kính, nói năng nhã nhặn đáng yêu.

2- Upadhāraṇa: Hành giới trong sạch để làm nền tảng cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ.

Pháp hành đầu tiên là pháp hành giới có khả năng diệt phiền não loại thô (vītikkama-kilesa) nơi thân và khẩu, cho nên giới được thanh tịnh.

Giới thanh tịnh làm nền tảng cho pháp hành thiền định được phát triển. Pháp hành thiền định có khả năng diệt phiền não loại trung (pariyuṭṭhānakisela) ở trong tâm, để chứng đắc các bậc thiền hữu sắc và các bậc thiền vô sắc.

Giới thanh tịnh làm nền tảng cho pháp hành thiền tuệ được phát triển từ trí tuệ thiền tuệ tam giới (lokiyavipassanā) cho đến trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới (Lokuttaravipassanā) chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn, có khả năng diệt đoạn tuyệt được phiền não loại vi tế (anusayakilesa) ngấm ngầm trong tâm.

Như vậy ‘giới’ có thể ví như ‘đất’. Đất là nơi nương nhờ của các loại thảo mộc để phát sinh và phát triển.

Địnhtuệ cũng có thể ví như các giống cây ăn trái cần phải nương nhờ nơi đất để phát sinh và phát triển, rồi đơm hoa kết trái.

Sīla: Giới còn có các ý nghĩa khác như:

─ Sīla: Giới có nghĩa là sira: Cái đầu.

Trong thân thể mỗi chúng sinh nói chung, mỗi người nói riêng, cái đầu là phần quan trọng nhất. Thật vậy, trong thân thể con người, dù bị chặt tay, chặt chân,… người ấy vẫn còn sinh mạng (còn sống); nhưng nếu người ấy bị đứt đầu, thì đồng thời mất sinh mạng (chết). Cũng như vậy, giới dẫn đầu, giới là nền tảng cho mọi thiện pháp được phát triển tốt, từ dục giới thiện pháp, sắc giới thiện pháp, vô sắc giới thiện pháp cho đến Siêu tam giới thiện pháp. Nếu không có giới hoặc giới bị đứt, thì tất cả mọi thiện pháp không có nơi nương nhờ để phát triển; cũng như nếu không có đất, thì tất cả cây cối, v.v... không có nơi nương nhờ để sinh trưởng.

─ Sīla: Giới có nghĩa là sītala: Mát mẻ, thanh tịnh.

Phiền não làm cho tâm nóng nảy, rồi làm cho khẩu nóng nảy, thân nóng nảy. Hành giả có tác ý thiện giữ gìn giới, nên chế ngự, đè nén, diệt được phiền não loại thô không thể phát sinh ra nơi thân và khẩu. Do đó, giữ gìn giới làm cho thân và khẩu được mát mẻ, thanh tịnh.

─ Sīla: Giới có ý là pakati([3]): Thường, thói quen.

Chữ sīla ghép vào những danh từ như:

Ayaṃ sukhasīlo: Người này thường được an lạc.

Ayaṃ dukkhasīlo: Người này thường chịu đau khổ.

Ayaṃ kalahasīlo: Người này có thói quen hay cãi cọ.

Ayaṃ maṇḍanasīlo: Người này có thói quen thích trang điểm.

Sīlabbata (sīla + vata): Hành vi cách sống theo thói quen của loài bò, loài chó,...

Sīlabbatupādāna (sīla + vata + upādāna): Tà kiến chấp thủ trong hành vi theo thói quen của loài bò, loài chó,… Nghĩa là một số người bắt chước hành theo thói quen của loài bò, loài chó,... như ăn, uống, đi, đứng, v.v... có tà kiến chấp thủ trong cách sống theo thói quen ấy, rồi cho rằng sẽ được tái sinh lên cõi trời, sẽ giải thoát khổ,...

Sīlabbataparāmāsa (sīla +vata + parāmāsa ): Tà kiến thấy sai, chấp lầm trong hành vi cách sống theo thói quen của loài bò, loài chó,... như ăn, uống, đi, đứng, v.v... có tà kiến thấy sai, chấp lầm trong cách sống theo thói quen ấy, rồi cho rằng sẽ được tái sinh lên cõi trời, sẽ giải thoát khổ... gọi là chấp thủ pháp thường hành.

4 Tính Chất Của Giới

Để nhận thức rõ về giới, cần phải căn cứ vào 4 tính chất của giới:

1- Trạng thái của giới (lakkhaṇa).

2- Phận sự của giới (rasa).

3- Quả hiện hữu của giới (paccupaṭṭhāna).

4- Nhân gần của giới (padaṭṭhāna).

Trạng thái của giới như thế nào?

Giới tuy có nhiều loại, nhưng đều có chung 2 trạng thái:

- Trạng thái giữ gìn thân, khẩu hành thiện đàng hoàng.

- Trạng thái làm nền tảng cho mọi thiện pháp, nhất là pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ được phát triển và tăng trưởng tốt.

Phận sự của giới như thế nào?

Giới có 2 phận sự:

- Có phận sự diệt trừ sự phạm giới.

- Có phận sự giúp làm cho đầy đủ các đức.

Quả hiện hữu của giới như thế nào?

Quả hiện hữu của giới là thân hành thiện, khẩu nói thiện, ý nghĩ thiện; thân, khẩu, ý trong sạch thanh tịnh.

Nhân gần của giới như thế nào?

Giới được phát sinh do 2 nhân gần:

─ Hiri: Biết hổ thẹn tội lỗi: Tự mình biết hổ thẹn tội lỗi, cho nên tránh xa mọi ác nghiệp, tinh tấn hành mọi thiện nghiệp.

─ Ottappa: Biết ghê sợ tội lỗi: Biết sợ các bậc thiện trí chê trách, sợ khổ trong 4 cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh), do đó, nên tránh xa mọi ác nghiệp, tinh tấn hành mọi thiện nghiệp.

Quả Báu Của Người Có Giới (Sīlavanta ānisaṃsa)([4])

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại làng Pāṭaligāma, dân làng Pāṭali đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn xong, ngồi một nơi hợp lẽ. Khi ấy, Đức Thế Tôn bèn gọi dân làng Pāṭali mà dạy rằng:

─ Này các gia chủ, có 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn. 5 quả báu ấy là:

1- Này các gia chủ, trong đời này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn, có được nhiều của cải lớn lao, do nhờ nhân không dể duôi.

Đó là quả báu thứ nhất của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.

2- Này các gia chủ, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn, có được danh thơm tiếng tốt lan truyền khắp mọi nơi.

Đó là quả báu thứ nhì của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.

3- Này các gia chủ, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn, tâm dũng cảm, không rụt rè e thẹn khi đi vào nơi hội đoàn Hoàng gia, hội đoàn gia chủ, hội đoàn Samôn, hội đoàn Bàlamôn…

Đó là quả báu thứ ba của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.

4- Này các gia chủ, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn, phát sinh tâm không mê muội, tâm trí sáng suốt lúc lâm chung.

Đó là quả báu thứ tư của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.

5- Này các gia chủ, còn điều này, người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn, sau khi chết, thiện nghiệp giữ giới cho quả tái sinh cõi thiện dục giới (cõi người, cõi trời dục giới).

Đó là quả báu thứ năm của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn.

─ Này các gia chủ, đó là 5 quả báu của người có giới, người giữ gìn giới đầy đủ trọn vẹn như vậy.

Các Loại Giới

Giới của 2 hạng người:

1- Gahaṭṭhasīla: Giới của người tại gia.

2- Pabbajitasīla: Giới của bậc xuất gia.

1- Giới của người tại gia: Có nhiều loại

- Ngũ giới.

- Bát giới.

- Cửu giới.

- Thập giới…

2- Giới của bậc xuất gia: Giới của Sadi và giới của Tỳ khưu

Giới của Sadi: Sadi có các giới như:

- 10 giới Sadi.

- 10 giới hoại phạm hạnh Sadi.

- 10 giới hành phạt Sadi.

- 75 điều giới hành của Sadi.

- 14 pháp hành của Sadi, Tỳ khưu.

Giới của Tỳ khưu: Tỳ khưu có 4 giới thanh tịnh:

- Thu thúc trong giới bổn Tỳ khưu bằng đức tin giữ gìn 227 điều giới.

- Giới thu thúc lục căn thanh tịnh bằng chánh niệm trong 6 căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý).

- Giới nuôi mạng chân chính bằng tinh tấn đi khất thực.

- Giới suy xét các thứ vật dụng bằng trí tuệ thấy rõ thực chất của nó khi dùng.



 [3] Chú giải bộ Paṭisambhidāmagga, phần Sīlamayañāṇaniddesa.

[4] Dī. Mahāvagga, kinh Mahāparinibbānasutta, đoạn Sīlavanta ānisaṃsa.

[1] Bộ Chú giải Dī. Mahāvaggaṭṭhakathā, kinh Sakkapañhasutta.

[1] Vinayapiṭaka, Parivārapāḷi, Cūḷasaṅgāma (288).

 

 



 

 

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn