(Xem: 1492)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Mục lục - Lời nói đầu

04 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 10473)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển IV (Nghiệp và Quả Của Nghiệp)

Soạn giả: Tỳ Khưu Hộ Pháp

 

Mục Lục


Kệ Lễ Bái Tam Bảo

Lời Nói Đầu

Phần I : Bài Kinh Dạy Về Nghiệp

Kinh Cūlakammavibhangasutta

Tính Chất Của Nghiệp

Phần II : Nghiệp Và Quả Của Nghiệp (Kamma - Kammaphala)

Giải Thích 16 loại Nghiệp

4 Nghiệp Phân Loại Theo Phận Sự

1. Nghiệp Sinh Quả

2. Nghiệp Hỗ Trợ

3. Nghiệp Hãm Hại(Upapīḷakakamma)

4. Nghiệp Sát Hại

4 Loại Nghiệp Theo Tuần Tự Cho Quả Nhất Định(Pākadānapariyāyacatukka)

1. Nghiệp Trọng Yếu

2. Nghiệp Cận Tử

3. Nghiệp Thường Hành

4. Nghiệp Loại Thường

4 Nghiệp Theo Thời Gian Cho Quả(Pākakālacatukka)

1. Nghiệp Cho Quả Ngay Trong Kiếp Hiện Tại

2. Nghiệp Cho Quả Kiếp Sau Kế Tiếp

3. Nghiệp Cho Quả Từ Kiếp Thứ 3 Cho Đến Kiếp Chót

Của Bậc Thánh Arahan Trước Khi Tịch Diệt Niết Bàn

4. Nghiệp Vô Hiệu Quả

4 Loại Nghiệp Theo Cảnh Giới Cho Quả (Pākaṭṭhānacatukka)

1. Bất Thiện Nghiệp – Ác nghiệp

2. Dục Giới Đại Thiện Nghiệp (Kāmāvacarakusalakamma)

3. Sắc Giới Thiện Nghiệp

4. Vô Sắc Giới Thiện Nghiệp

Tóm Lược Các Nghiệp Và Quả Của Các Nghiệp

Đoạn Kết


Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.

Paṇāmagāthā

Tilokekagaruṃ Buddhaṃ, 

Pāyādibhayahiṃsakaṃ,

Āyuno pariyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Ādimajjhantakalyāṇam,

Buddhassa dhammamosadhaṃ,

Nibbānapariyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Tassa sāvakasaṃghañca,

Puññakkhettaṃ anuttaraṃ,

Arahattapriyosānaṃ,

Gacchāmi saraṇaṃ ahaṃ.

Buddhaṃ Dhammañca Saṃghañca,

Abhivandiya sādaraṃ,

Mūlabuddhasāsanan’ ti,

Ayaṃ gantho mayā kato.

Kệ lễ bái Tam Bảo

Đức Thế Tôn cao thượng nhất tam giới,

Dắt dẫn chúng sinh thoát khỏi họa tai,

Nguyện suốt đời con xin quy y Phật,

Mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế.

Pháp của Ngài như linh dược nhiệm mầu,

Hoàn hảo ở phần đầu giữa và cuối,

Nguyện suốt đời con xin quy y Pháp,

Mong được chứng ngộ Niết Bàn thoát khổ.

Tăng bậc Thánh Thanh Văn đệ tử Phật,

Là phước điền cao thượng của chúng sinh,

Nguyện suốt đời con xin quy y Tăng,

Mong được chứng đắc Thánh A-ra-hán.

Đức Phật Đức Pháp Đức Tăng cao thượng,

Con hết lòng thành kính lạy Tam Bảo,

Rồi góp nhặt biên soạn tập sách nhỏ,

Soạn phẩm này gọi “Nền Tảng Phật giáo”

Namo Tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa

Con đem hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, Đức Arahán, Đức Chánh Đẳng Giác ấy.



 

 

NỀN TẢNG PHẬT GIÁO - QUYỂN IV

(MŪLABUDDHASĀSANA)

NGHIỆP VÀ QUẢ CỦA NGHIỆP

(KAMMA – KAMMAPHALA)

Soạn giả: Tỳ khưu Hộ Pháp

(Dhammarakkhita Bhikkhu)

Lời Nói Đầu

Bộ Nền Tảng Phật Giáo gồm có 9 chương, được chia làm 7 quyển.

Quyển I: Tam Bảo (Ratanattaya)

Gồm có 2 chương: Chương thứ nhất và chương thứ nhì.

Chương thứ nhất: Ba Ngôi Cao Cả (Tiyagga)

Đức Phật (Buddha)

Đức Pháp (Dhamma)

Đức Tăng (Saṃgha)

Chương thứ nhì: Tam Bảo (Ratanattaya)

Đức Phật Bảo (Buddharatana)

Đức Pháp Bảo (Dhammaratana)

Đức Tăng Bảo (Saṃgharatana)

Quyển II: Quy Y Tam Bảo (Tisaraṇa)

Gồm có 2 chương: Chương thứ ba và chương thứ tư.

Chương thứ ba: Ân Đức Tam Bảo (Ratanattayaguṇa)

Ân đức Phật (Buddhaguṇa)

Ân đức Pháp (Dhammaguṇa)

Ân đức Tăng (Saṃghaguṇa)

Chương thứ tư: Quy Y Tam Bảo (Tisaraṇa)

Quy y Phật Bảo (Buddhasaraṇa)

Quy y Pháp Bảo (Dhammasaraṇa)

Quy y Tăng Bảo (Saṃghasaraṇa)

Quyển III: Hành Giới (Sīlācāra)

Gồm có một chương: Chương thứ năm, chia làm 2 phần.

Giới của người tại gia cư sĩ (Gahaṭṭhasīla)

Giới của bậc xuất gia tu sĩ (Pabbajitasīla)

Ba quyển này đã ấn hành xong, tiếp đến chương thứ VI nghiệp và quả của nghiệp (kamma - kammaphala) sẽ được trình bày trong quyển IV này.

Quyển IV: Nghiệp và Quả Của Nghiệp

(Kamma - Kammaphala)

Nghiệp và quả của nghiệp là 2 pháp có liên quan với nhau theo nhân và quả:

Nghiệp nhân.

Quả của nghiệpquả.

Đức Phật dạy về nghiệp và quả của nghiệp bằng câu kệ:

“Yādisaṃ vapate bījaṃ,

tādisaṃ harate phalaṃ.

Kalyāṇakārī kalyānaṃ,

pāpakārī ca pāpakaṃ”

Người nào gieo hạt giống thế nào,

 Người ấy gặt quả như thế ấy.

 Người hành thiện thì được quả thiện,

 Người hành ác thì chịu quả ác”.

Quả của nghiệp hiện hữu trong kiếp hiện tại là quả của vô số nghiệp mà người ấy (chúng sinh ấy) đã tạo và đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ, trải qua vô số kiếp trái đất. Và cũng có trường hợp quả của nghiệp hiện hữu trong kiếp hiện tại là quả của nghiệp mà người ấy đã tạo ngay trong kiếp hiện tại này. Chỉ có duy nhất Đức Phật Chánh Đẳng Giác - Bậc Toàn Giác mới có khả năng thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng sinh mà thôi. Ngoài ra, không một ai trong tam giới có khả năng thấu suốt nghiệp và quả của nghiệp, dù là chư Phạm thiên. Thật vậy, nghiệp và quả của nghiệp là 1 trong 4 điều bất khả tư nghì mà Đức Phật đã dạy trong bài kinh Acinteyyasutta có nghĩa như sau:

- “Này chư Tỳ khưu 4 điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.

4 điều bất khả tư nghì là:

1. Những Ân đức của Chư Phật như trí tuệ toàn giác của Chư Phật v.v... đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.

2. Thần thông, thiền định, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.

3. Nghiệp và quả của nghiệp, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.

4. Tạo thiên lập địa, đó là điều bất khả tư nghì không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi.

- “Này chư Tỳ khưu, đó là 4 điều bất khả tư nghì, không nên suy nghĩ, người nào suy nghĩ, người ấy sẽ trở thành người loạn trí cuồng điên, chỉ tự làm khổ tâm mà thôi”.

Nghiệp là gì?

Đức Phật dạy:

“Cetanā’ haṃ, bhikkhave, kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā”.

(Này chư Tỳ khưu, sau khi đã có tác ý, rồi mới tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Do đó Như Lai dạy “Tác ý gọi là nghiệp”).

- Tác ý đó là tác ý tâm sở (cetanācetasika) là 1 trong 52 tâm sở đồng sinh với 89 hoặc 121 tâm.

- “Tác ý gọi là nghiệp” là mỗi khi tác ý tâm sở này đồng sinh với 12 bất thiện tâm (12 ác tâm), và đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện tâm, thì tác ý tâm sở ấy mới gọi là nghiệp.

Tác ý tâm sở khi đồng sinh với 12 bất thiện tâm (12 ác tâm) tạo nên 12 bất thiện nghiệp (12 ác nghiệp) bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Tác ý tâm sở khi đồng sinh với 8 dục giới đại thiện tâm tạo nên 8 dục giới đại thiện nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý.

Tác ý tâm sở khi đồng sinh với 5 sắc giới thiện tâm tạo nên 5 sắc giới thiện nghiệp bằng ý.

Tác ý tâm sở khi đồng sinh với 4 vô sắc giới thiện tâm tạo nên 4 vô sắc giới thiện nghiệp bằng ý.

Tác ý tâm sở khi đồng sinh với 4 hoặc 20 Thánh Đạo Tâm tạo nên 4 hoặc 20 Siêu tam giới thiện nghiệp bằng ý.

Ngoài ra, tác ý tâm sở đồng sinh với 36 hoặc 52 quả tâm và 20 duy tác tâm, thì tác ý tâm sở ấy không gọi là nghiệp.

Quả của nghiệp như thế nào?

Đức Phật dạy:

“Kammassako’mhi kammadāyādo kammayoni kamma-bandhu kammappaṭisaraṇo, yaṃ kammaṃ karissāmi kalyāṇaṃ vā pāpakaṃ vā tassa dāyādo bhavissāmi”.

(Ta có nghiệp là của riêng, ta là người thừa hưởng quả của nghiệp, nghiệp là nhân sinh ra ta, nghiệp là bà con thân quyến của ta, nghiệp là nơi nương nhờ của ta; ta sẽ tạo nghiệp nào ‘thiện nghiệp hoặc ác nghiệp’, ta sẽ là người thừa hưởng ‘quả của thiện nghiệp hoặc quả của ác nghiệp ấy’).

Kammassako’mhi: Ta có nghiệp là của riêng, nghĩa là nếu ta đã tạo thiện nghiệp nào hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào rồi, thì thiện nghiệp ấy hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy là của riêng ta, được tích lũy ở trong tâm từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại này, không phải của chung với ai cả. Nếu khi thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào có cơ hội cho quả của nó, thì chỉ cho quả trực tiếp đến người đã từng tạo nên thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy mà thôi; chắc chắn không bao giờ cho quả trực tiếp đến người khác.

Do đó, ta có thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) là của riêng.

Ngoài thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) là của riêng ta ra, còn tất cả những gì mà ta có đều là của chung giữa ta và một số chúng sinh khác có quan hệ với ta. Đó là cách nói theo sự thật Chế định pháp (Sammuti-sacca).

Theo sự thật Chân nghĩa pháp (Paramatthasacca), ngũ uẩn này không phải của ta, ta không phải là chủ nhân của ngũ uẩn này, nên ta không có quyền điều khiển nó theo ý muốn của ta; ngũ uẩn này có sinh, có già, có bệnh, có chết, chịu khổ, được an lạc v.v… đều tùy thuộc theo nhân duyên của nó. Bởi vì ngũ uẩn này là pháp vô ngã, không phải ta, không phải của ta, cũng không thuộc về một ai cả.

 Nghiệp có phải là pháp vô ngã hay không?

Vâng, thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đó là tác ý tâm sở đồng sinh với thiện tâm, bất thiện tâm (ác tâm) mà thiện tâm, bất thiện tâm (ác tâm) là pháp vô ngã. Cho nên nghiệp cũng là pháp vô ngã.

Thật vậy, chính ta đã tạo nên thiện nghiệp, đã tạo nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp), rồi tích lũy trong tâm, nhưng ta không có quyền điều khiển, bắt buộc, cầu xin thiện nghiệp này cho quả đối với ta như thế này; bất thiện nghiệp (ác nghiệp) kia đừng cho quả đối với ta như thế kia. Sự thật, nếu khi nghiệp nào hội đủ nhân duyên, có cơ hội thì nghiệp ấy sinh quả của nó một cách tự nhiên, hoàn toàn không lệ thuộc vào một ai cả.

Nếu thiện nghiệp nào hội đủ nhân duyên, có cơ hội, thì thiện nghiệp ấy cho quả an lạc của thiện nghiệp ấy.

Nếu bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào hội đủ nhân duyên, có cơ hội, thì bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy cho quả khổ của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy.

Như vậy, thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) khi cho quả hoàn toàn không tùy thuộc vào một ai cả. Cho nên, nghiệp và quả của nghiệp đều là pháp vô ngã.

Quả của nghiệp như thế nào?

Tassa dāyādo bhavissāmi: Ta sẽ là người thừa hưởng quả của thiện nghiệp, quả của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy, nghĩa là ta đã tạo thiện nghiệp nào, rồi chính ta sẽ là người trực tiếp hưởng quả an lạc của thiện nghiệp ấy. Và ta đã tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào, rồi cũng chính ta sẽ là người trực tiếp chịu quả khổ của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy.

Thiện nghiệp nào, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nào mà ta đã tạo, dĩ nhiên thiện nghiệp ấy, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy là của riêng ta; những người thân yêu khác không thể chia xẻ, san sẻ được phần nào cả, họ hoàn toàn không liên quan đến thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) của ta, bởi vì nghiệp là của riêng của mỗi người. Nhưng quả an lạc của thiện nghiệp, quả khổ của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) không chỉ là trực tiếp riêng của mỗi người, mà còn có ảnh hưởng gián tiếp đến những người thân yêu, gần gũi và thân cận với người ấy, tùy theo năng lực quả của thiện nghiệp, quả của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy.

Ví dụ 1: Ảnh hưởng quả tốt của thiện nghiệp

Tích Ngài Đại đức Sīvali được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Đại đức Sīvali là một người cận sự nam trong gia đình giàu có. Một hôm, người cận sự nam đến chùa nghe Đức Phật Padumuttara thuyết pháp. Khi ấy, Đức Phật Padumuttara tuyên dương một vị Thanh Văn đệ tử, Đại đức Sudassana là bậc Đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Ngài.

Người cận sự nam, tiền kiếp của Ngài Đại đức Sīvali nhìn thấy Ngài Đại đức Sudassana, liền phát sinh thiện tâm trong sạch, có nguyện vọng muốn trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong thời vị lai.

Ngay sau đó, người cận sự nam đến hầu đảnh lễ, cung thỉnh Đức Phật Padumuttara cùng 500 chư Đại đức Tỳ khưu Tăng ngự đến nhà để làm phước bố thí suốt 7 ngày.

Đức Phật Padumuttara im lặng nhận lời.

Người cận sự nam ấy đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Đức Phật cùng chư Tỳ khưu Tăng những món vật thực ngon lành suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, người cận sự nam kính dâng cúng dường đến Đức Phật cùng 500 vị Đại đức Tỳ khưu Tăng mỗi vị một bộ tam y (1 tấm y hai lớp, 1 tấm y choàng bên trên và 1 y mặc phía dưới).

Sau khi dâng cúng tam y xong, người cận sự nam đến hầu đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi một nơi hợp lẽ bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, những phước thiện mà con đã tạo suốt 7 ngày qua, con không cầu mong gì khác hơn là muốn trở thành một bậc Thánh Đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của một Đức Phật trong thời vị lai, như ngôi vị cao quý của Ngài Đại đức Sudassana, bậc Thánh Đại Thanh Văn của Đức Thế Tôn hiện nay.

Đức Phật Padumuttara thấy rõ, biết rõ nguyện vọng của người cận sự nam này sẽ thành tựu, nên Ngài thọ ký xác định rằng:

- "Này chư Tỳ khưu, trong thời vị lai, kể từ kiếp trái đất này, rồi sẽ trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất, đến kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa, sẽ có Đức Phật Gotama(1) xuất hiện trên thế gian. Khi ấy người cận sự nam này sinh ra trong gia đình hoàng tộc, từ bỏ nhà đi xuất gia sẽ trở thành bậc Thánh Đại Thanh Văn đệ tử có tài lộc bậc nhất trong các hàng Thanh Văn đệ tử của Đức Phật Gotama, như Sudassana - Bậc Thánh Đại Thanh Văn của Như Lai hiện nay"

Lắng nghe lời thọ ký của Đức Phật Padumuttara, người cận sự nam vô cùng hoan hỷ tạo mọi phước thiện bố thí 4 thứ vật dụng đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng cho đến trọn đời.

Trên con đường tử sinh luân hồi, để đạt đến nguyện vọng của mình, mỗi tiền kiếp của Ngài cố gắng tinh tấn tạo bồi bổ 10 pháp hạnh ba-la-mật, nhất là pháp hạnh bố thí ba-la-mật. Ngài thường tạo phước thiện bố thí mà những người khác không thể làm được. Ngài đã bồi bổ 10 pháp hạnh ba-la-mật cho đầy đủ, suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất,

Trong kiếp trái đất gọi là Bhaddakappa này rất diễm phúc, đã có 3 Đức Phật là Đức Phật Kakusandha, Đức Phật Koṇāgamana, Đức Phật Kassapa đã xuất hiện trên thế gian. Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của người cận sự nam trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara do nhờ thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp chót vào lòng Công chúa Suppavāsā xứ Koliya; từ khi tái sinh nằm trong lòng mẹ, mỗi ngày đêm người mẹ của Ngài thường nhận được những món quà quý giá, đặc biệt trong kho của cải dù xuất nhiều bao nhiêu cũng không thấy vơi bớt chút nào, của cải lúc nào cũng đầy kho. Những người thân yêu trong gia đình và cả dòng dõi hoàng tộc đều được đầy đủ sung túc, hạnh phúc an lạc hơn trước.

Đó là quả báu phước thiện của Ngài ảnh hưởng đến những người thân yêu trong gia đình và trong dòng dõi hoàng tộc của Ngài.

Ngày Ngài sinh ra đời đã làm cho mọi người trong gia đình, trong hoàng tộc Koliya đều hưởng sự mát mẻ an lạc, do đó Ngài được đặt tên là Sīvali.

Cha mẹ của công tử Sīvali kính thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng đến tư thất để làm phước thiện bố thí cúng dường suốt 7 ngày, mừng công tử Sīvali ra đời. Đến ngày thứ 7, Ngài Đại đức Sāriputta hỏi công tử Sīvali có muốn xuất gia Sadi hay không.

Công tử Sīvali bạch với Ngài Đại đức Sāriputta ý nguyện muốn xuất gia Sadi của mình. Cha mẹ cũng hoan hỷ cho phép công tử Sīvali xuất gia.

Khi ấy, Ngài Đại đức Mahāmoggallāna đang cạo tóc cho giới tử. Trong khi đang cạo tóc, giới tử Sīvali thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt tất cả mọi phiền não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán cùng một lúc vừa cạo tóc xong, không trước không sau.

Sau đó, Ngài Đại đức Sāriputta là thầy tế độ làm lễ xuất gia Sadi cho giới tử Sīvali. Sau khi trở thành Sadi, những thứ vật dụng phát sinh không chỉ đến Ngài Sadi Sīvali, mà còn phát sinh đến chư Sadi, chư Tỳ khưu một cách đầy đủ sung túc chưa từng có.

Hằng ngày, không chỉ có loài người, mà còn có chư thiên cũng đem những thứ vật dụng đến dâng lễ cúng dường đến Ngài Sadi Sīvali cùng chư Sadi, chư Tỳ khưu một cách đầy đủ sung túc chưa từng có.

Khi Ngài Sadi Sīvali tròn 20 tuổi, chư Tỳ khưu Tăng làm lễ nâng lên trở thành Tỳ khưu. Những thứ vật dụng được phát sinh càng dồi dào sung túc hơn.

Mỗi khi một đoàn chư Tỳ khưu Tăng rất đông du hành đến một nơi khác, phải đi qua những vùng hẻo lánh, không có người sinh sống. Trong đoàn chư Tỳ khưu rất đông ấy, nếu có Ngài Đại đức Sīvali cùng đi, thì Đức Phật cho phép đi, bởi vì đến vùng hẻo lánh nào đúng giờ chư Tỳ khưu đi khất thực, thì chư thiên liền biến hóa ra xóm làng, thành thị có dân chúng đông đúc trù phú để bát dâng lễ cúng dường đến Ngài Đại đức Sīvali cùng chư Tỳ khưu Tăng. Khi chư Tỳ khưu du hành đến nơi khác thì xóm làng, thành thị ấy biến mất v.v…

Đó là quả báu thiện nghiệp của Ngài Đại đức Sīvali có ảnh hưởng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Một hôm chư Tỳ khưu đang bàn luận về tài lộc đặc biệt của Ngài Đại đức Sīvali, thì Đức Phật ngự đến, nhân dịp ấy Đức Phật tuyên dương Ngài Đại đức Sīvali rằng:

“Etadaggaṃ, bhikkhave mama sāvakānaṃ lābhīnaṃ yadidaṃ Sīvali!”.

(Này chư Tỳ khưu, Sīvali là bậc Thánh Đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng Thanh Văn đệ tử của Như Lai!).

Ngài Sīvali là bậc Thánh Đại Thanh Văn có tài lộc bậc nhất trong hàng đệ tử của Đức Phật Gotama, đó là kết quả thành tựu nguyện vọng của Ngài đã từng phát nguyện từ thời Đức Phật Padumuttara trong quá khứ.

Ví dụ 2: Ảnh hưởng quả xấu của bất thiện nghiệp (ác nghiệp)

Tích Ngài Đại đức Losakatissa được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, tiền kiếp của Ngài Đại đức Losakatissa là vị Tỳ khưu trụ trì chùa. Một hôm, một vị Tăng khách là bậc Thánh Arahán đến vùng ấy, người thí chủ hộ độ ngôi chùa ấy nhìn thấy vị Tăng khách liền phát sinh đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách ấy, cung kính để bát cúng dường vật thực, rồi kính thỉnh vị Tăng khách đến nghỉ tại ngôi chùa ấy.

Nhìn thấy người thí chủ đối xử cung kính đặc biệt với vị Tăng khách, vị Tỳ khưu trụ trì có vẻ không hài lòng với vị Tăng khách.

Chiều hôm ấy, người thí chủ hộ độ chùa đến thăm vị Tăng khách, rồi kính thỉnh Ngài cùng với vị Tỳ khưu trụ trì chùa ngày hôm sau đến tư gia để cúng dường vật thực.

Vị Tỳ khưu trụ trì phát sinh tâm ganh tỵ, nên sáng hôm sau, vị Tỳ khưu trụ trì làm bộ dùng ngón tay đánh chuông, gõ cửa, rồi một mình đi đến nhà người thí chủ.

Người thí chủ bạch hỏi vị Tỳ khưu trụ trì về vị Tăng khách. Vị Tỳ khưu trụ trì nói xấu vị Tăng khách đủ điều, nhưng người thí chủ vốn có đức tin trong sạch nơi vị Tăng khách, nên sau khi cúng dường vật thực đến vị Tỳ khưu trụ trì độ xong, người thí chủ xin cái bát rửa sạch, rồi để một phần vật thực trong bát dâng đến vị Tỳ khưu trụ trì, nhờ Ngài đem về dâng cúng dường đến vị Tăng khách.

Trên đường đi về chùa, vị Tỳ khưu trụ trì nghĩ rằng:

“Nếu ta đem vật thực ngon lành này về cho vị Tăng khách ấy, thì dù ta lôi y ra khỏi chùa, y cũng không dễ gì chịu đi; tốt hơn ta nên đổ bỏ vật thực này”.

Vị Tỳ khưu trụ trì đã thực hiện ý định ấy, khi về đến chùa, không nhìn thấy vị Tăng khách nữa. Vị Tỳ khưu trụ trì ăn năn hối hận việc làm tội lỗi của mình. Sau khi vị Tỳ khưu trụ trì chết, ác nghiệp ấy liền cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, chịu quả khổ cho đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy mới thoát ra khỏi cõi địa ngục; cũng do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong các cõi ác giới khác như ngạ quỷ, súc sinh... Khi mãn quả của ác nghiệp mới được thoát ra khỏi cõi ác giới. Do nhờ thiện nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh làm người, nhưng do quả của ác nghiệp đổ bỏ vật thực ấy, nên người ấy phải chịu cảnh cực khổ, đói khát.

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của vị Tỳ khưu trụ trì trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, do thiện nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp chót vào xóm dân chài gồm có 1.000 (một ngàn) gia đình. Từ khi tái sinh nằm trong lòng mẹ trong xóm 1.000 gia đình dân chài ấy, do quả của ác nghiệp cũ của thai nhi (hậu kiếp của vị Tỳ khưu trụ trì) khiến cho xóm dân chài 1.000 gia đình lâm vào cảnh đói khổ. Ông trưởng xóm dân chài đoán biết có người kālakaṇṇī (người xúi quẩy) sinh trong xóm này, cho nên ông chia xóm dân chài ra thành 2 nhóm. Nhóm 500 (năm trăm) gia đình có người mẹ mang thai Ngài đều phải chịu cảnh đói khổ, còn nhóm 500 gia đình kia vẫn làm ăn bình thường.

Từ đó, nhóm 500 gia đình có người mẹ mang thai Ngài lại chia ra làm 2, mỗi nhóm 250 (hai trăm năm mươi) gia đình; và cứ thế lại chia làm 2, làm 2... Cuối cùng còn 2 gia đình lại chia làm 2. Như vậy, chỉ còn gia đình người mẹ mang thai Ngài chịu cảnh đói khổ. Đến khi đủ tháng ngày, người mẹ sinh ra Ngài, đặt tên Ngài là Losakatissa. Cha mẹ của Ngài phải vất vả khổ cực lắm mới nuôi nấng Ngài lên 7 tuổi.

Một hôm, người mẹ dẫn Ngài đi xin ăn, người mẹ trao cho Ngài một cái bát đi xin, rồi bà trốn đi, bỏ Ngài một mình bơ vơ đói khát.

Khi ấy, Ngài Đại đức Sāriputta nhìn thấy Ngài, phát sinh tâm bi mẫn cứu giúp Ngài, dẫn Ngài về cho làm lễ xuất gia Sadi.

Hằng ngày, vị Sadi Losakatissa đi khất thực không đủ ăn, luôn luôn chịu đói khổ. Đến khi vị Sadi Losakatissa tròn 20 tuổi, chư Tỳ khưu Tăng làm lễ nâng lên trở thành Tỳ khưu. Tuy vị Tỳ khưu Losakatissa chịu cảnh đói khổ, nhưng Ngài cố gắng tinh tấn thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, trở thành bậc Thánh Arahán cao thượng, do nhờ pháp hạnh ba-la-mật đã tích lũy từ nhiều đời, nhiều kiếp trong quá khứ.

Đến khi hết tuổi thọ, Ngài Losakatissa tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, đồng thời mọi ác nghiệp cũng như mọi thiện nghiệp đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

Như vậy, một bậc có đầy đủ trọn vẹn các pháp hạnh ba-la-mật, do thiện nghiệp cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp chót sẽ chứng đắc thành bậc Thánh Arahán, song bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cũng có cơ hội cho quả sau khi đã tái sinh, trong kiếp hiện hữu. Như trường hợp Ngài Đại đức Losakatissa, từ khi tái sinh kiếp chót, khi sinh ra đời cho đến khi trở thành bậc Thánh Arahán, suốt cuộc đời vẫn còn chịu ảnh hưởng quả của ác nghiệp đổ bỏ vật thực của bậc Thánh Arahán trong thời kỳ Đức Phật Kassapa. Quả của ác nghiệp ấy không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến suốt cuộc đời của Ngài, mà còn gây ảnh hưởng gián tiếp đến những người thân yêu gần gũi thân cận với Ngài, cũng phải chịu cảnh khổ như Ngài.

Trong bài kinh Maṅgalasutta (kinh An Lành), Đức Phật thuyết dạy 38 pháp an lành cho chư thiên và nhân loại.

2 pháp đầu tiên là:

Asevanā ca bālānaṃ

Paṇḍitānañca sevanā.

Không nên thân cận với những kẻ ác.

Nên thân cận với những bậc thiện trí.

Đó là điều an lành cao thượng nhất.

Mỗi chúng sinh có nghiệp là của riêng mình, sinh, tử, chịu khổ, hưởng an lạc v.v... đều tùy thuộc vào nghiệp và quả của nghiệp của mỗi chúng sinh ấy.

Tại sao nạn thiên tai làm nhiều người chết cùng một lúc, hoặc tai nạn xảy ra làm nhiều người chết, bị thương cùng một lúc, hoặc nhiều người cùng khổ trong hoàn cảnh giống nhau. Vậy, có phải họ cùng tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) giống nhau hay không?

Thật ra, quả xấu của ác nghiệp thì dễ thấy, còn để biết ác nghiệp nào cho quả xấu, quả khổ như thế này thì không thể biết được dễ dàng, nghĩa là chỉ có thể biết được ác nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, rồi cho quả xấu, quả khổ ngay trong kiếp hiện tại mà thôi; còn các ác nghiệp nào đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, nay kiếp hiện tại các ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác nghiệp ấy, thì chỉ có duy nhất Đức Phật Chánh Đẳng Giác

- Bậc Toàn Giác mới có khả năng biết rõ mà thôi, ngoài ra không một ai có thể biết rõ được.

Ví dụ 3:

Trường hợp những người trong dòng họ Sakya đều bị tàn sát do bởi Đức vua Viṭatūbha xứ Kosala. Đức Phật đã 3 lần ngự đến ngồi dưới gốc cây tại biên giới để cứu dòng họ Sakya. Đức vua Viṭatūbha 3 lần cầm đầu đem quân đến kinh thành Kapilavatthu, khi nhìn thấy Đức Phật, Đức vua ngự đến hầu đảnh lễ Đức Phật xong, rồi kéo quân trở về kinh thành Sāvatthi. Nhưng đến lần thứ tư, Đức Phật thấy rõ, biết rõ tiền kiếp của những người trong dòng họ Sakya đã từng cùng nhau tạo ác nghiệp nặng, bỏ thuốc độc xuống dòng sông sát hại chúng sinh trong thời quá khứ. Đến nay, ác nghiệp ấy đến thời kỳ có cơ hội cho quả khổ của ác nghiệp ấy, cho nên khiến Đức vua Viṭatūbha đem quân đến tàn sát những người trong dòng họ Sakya.

Sở dĩ, Đức vua Viṭatūbha đem quân đến tàn sát những người trong dòng họ Sakya là vì: “Khi Đức vua còn là Thái tử Viṭatūbha đã đến thăm viếng bên dòng họ Sakya, nhưng đã bị những người trong dòng họ Sakya khinh thường, 

Thái tử vốn là người có dòng máu bên cha là Đức vua Mahānāma dòng Sakya, còn bên mẹ là nữ tỳ của dòng họ Sakya. Cho nên, khi Thái tử Viṭatūbha lên ngôi làm Vua liền đem quân đến trả thù giết hại tàn sát những người trong dòng họ Sakya.

Trường hợp bà chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī của Đức vua Udena cùng nhóm 500 nữ tỳ, trong số ấy có một số là bậc Thánh Nhập Lưu, có một số là bậc Thánh Nhất Lai, có một số là bậc Thánh Bất Lai, đều bị chết thiêu do bởi âm mưu thâm độc của bà chánh cung Hoàng hậu Māgandhiyā. Bà chánh cung Hoàng hậu Māgandhiyā đã sai khiến những người bà con thân quyến đến đốt cháy ngôi cung thất của bà chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà, rồi chặn các cửa ra vào và các cửa sổ không để cho một ai thoát thân. Bà chánh cung Hoàng hậu Māgandhiyā thù ghét bà chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà, bởi vì họ là những đệ tử của Đức Phật Gotama.

Sở dĩ, bà chánh cung Hoàng hậu Sāmāvatī và nhóm 500 nữ tỳ đều bị chết thiêu là vì đã từng cùng nhau tạo ác nghiệp trong tiền kiếp quá khứ như sau:

“Trong thời quá khứ, Đức vua Brahmadatta trị vì kinh thành Bārāṇasī. Hằng ngày Đức vua hộ độ cúng dường đến 8 Đức Phật Độc Giác; Đức vua truyền lệnh cho nhóm cung nữ gồm có một người trưởng nhóm cùng với 500 người bộ hạ thân tín lo hộ độ cúng dường đến 8 Đức Phật Độc Giác.

Khi ấy, 7 Đức Phật Độc Giác ngự trở về núi Himavanta, còn một Đức Phật Độc Giác nhập diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm trong đống cỏ gần bên bờ sông. Cho nên nhóm cung nữ được rảnh rỗi.

Một hôm, Đức vua cho phép nhóm cung nữ đi tắm sông, mải ham chơi dưới nước, khi lên bờ cảm thấy lạnh, nhóm cung nữ liền đến đống cỏ đốt lửa sưởi ấm, đến lúc đống cỏ cháy tàn rụi, họ mới nhìn thấy Đức Phật Độc Giác đang ngồi nhập diệt thọ tưởng tại nơi ấy. Vì sợ bị Đức vua trị tội, nên nhóm cung nữ bàn tính cùng nhau đi tìm củi đem đến chất thành đống thiêu rụi Đức Phật Độc Giác, để không còn tang chứng; nhưng do năng lực nhập diệt thọ tưởng của Đức Phật Độc Giác nên lửa không thể thiêu rụi Ngài được, nên đến ngày thứ 7 thì Đức Phật Độc Giác xả diệt thọ tưởng trở lại cuộc sống bình thường.

Như vậy, lúc đầu nhóm cung nữ đốt cỏ để sưởi ấm không có tác ý sát sinh, nhưng sau đó, do có tác ý thiêu rụi Đức Phật Độc Giác, để làm mất tang chứng, thì họ có tác ý sát sinh, cùng nhau tạo ác nghiệp nặng.

Sau khi nhóm cung nữ chết, do ác nghiệp thiêu đốt Đức Phật Độc Giác ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục, bị thiêu đốt suốt nhiều ngàn năm. Sau khi mãn quả của ác nghiệp ấy, nếu thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người, thì thường bị chết thiêu hằng trăm kiếp như vậy.

Nay kiếp hiện tại này, bà chánh cung Hoàng hậu Sāmā-vatī cùng nhóm 500 nữ tỳ của bà là hậu kiếp của nhóm cung nữ trong thời quá khứ ấy, tất cả đều bị chết thiêu, đó là do quả xấu của ác nghiệp thiêu đốt Đức Phật Độc Giác trong thời quá khứ ấy.

Trường hợp những người chết cùng một lúc do bởi thiên tai hoặc tai nạn xảy ra, những người ấy không chắc hẳn là đã từng tạo ác nghiệp giống nhau, mà có thể là đã từng tạo ác nghiệp khác nhau, nhưng do ác nghiệp nặng của một người này có cơ hội cho quả xấu, quả khổ của ác nghiệp ấy có thể làm ảnh hưởng đến những người thân cận gần gũi cùng phải chịu chung quả khổ.

Trong trường hợp này, nếu những người nào bị ảnh hưởng quả xấu, quả khổ của ác nghiệp của người nào đó, thì những người ấy có thể tránh xa người đó, để không còn chịu ảnh hưởng quả xấu, quả khổ của người đó nữa (như tích Ngài Đại đức Losakatissa).

Một số người có quan niệm rằng: “Tạo thiện nghiệp để xóa bỏ ác nghiệp”. Quan niệm như vậy có đúng hay không?

Ác nghiệp nào mà người ấy đã tạo trong kiếp hiện tại, hoặc trong nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ, ác nghiệp ấy đã được tích lũy ở trong tâm rồi. Về sau, người ấy dù có tạo thiện nghiệp nào, có năng lực mạnh như thế nào cũng không thể trở lại ngược thời gian trong quá khứ để xóa bỏ ác nghiệp quá khứ ấy được, còn thiện nghiệp ấy cũng đã được tích lũy ở trong tâm.

Tuy thiện nghiệp không thể xóa bỏ được ác nghiệp trong quá khứ, nhưng nếu cố gắng tạo nhiều thiện nghiệp (dù là dục giới đại thiện nghiệp), thì cũng có khả năng làm giảm tiềm năng cho quả của ác nghiệp.

Thực ra, ác nghiệp nào nếu khi hội đủ điều kiện, thì ác nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả khổ của ác nghiệp ấy; nếu không hội đủ điều kiện, thì ác nghiệp ấy không có cơ hội cho quả của nó.

Và thiện nghiệp nào nếu khi hội đủ điều kiện, thì thiện nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả an lạc của thiện nghiệp ấy; nếu không hội đủ điều kiện, thì thiện nghiệp ấy không có cơ hội cho quả của nó.

Bởi vậy cho nên, không phải tất cả mọi ác nghiệp, tất cả mọi thiện nghiệp đều được cho quả của chúng. Sự thật, ác nghiệp nào, thiện nghiệp nào khi hội đầy đủ điều kiện, thì ác nghiệp ấy, thiện nghiệp ấy mới có cơ hội cho quả của nó.

Nền Tảng Phật Giáo quyển IV, chương VI này trình bày: “Nghiệp và quả của nghiệp”. Nghiệp phân loại có 4 phần chính:

Phần nghiệp được phân loại theo phận sự, có 4 loại nghiệp.

Phần nghiệp được phân loại theo tuần tự cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp.

Phần nghiệp được phân loại theo thời gian cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp.

Phần nghiệp được phân loại theo cảnh giới cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp.

Như vậy, 4 phần nghiệp gồm có 16 loại nghiệp, mỗi loại nghiệp có tên gọi như sau:

Phần nghiệp được phân loại theo phận sự, có 4 loại nghiệp:

Janakakamma: Nghiệp sinh quả trong thời kỳ tái sinh và sinh quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu.

Upathambhakakamma: Nghiệp hỗ trợ cho nghiệp khác sinh quả.

Upapīḷakakamma: Nghiệp hãm hại nghiệp đối nghịch.

Upaghātakakamma: Nghiệp sát hại cắt đứt nghiệp khác.

Phần nghiệp được phân loại theo tuần tự cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp:

Garukakamma: Nghiệp trọng yếu, ưu tiên cho quả tái sinh kiếp sau trước tiên.

Āsannakamma: Nghiệp cận tử, phát sinh lúc lâm chung. Nếu không có nghiệp trọng yếu thì nghiệp cận tử này cho quả tái sinh kiếp sau.

Āciṇṇakamma: Nghiệp thường hành hằng ngày đêm. Nếu không có nghiệp trọng yếu và nghiệp cận tử, thì nghiệp thường hành này cho quả tái sinh kiếp sau.

Kaṭattākamma: Nghiệp loại thường, yếu hơn 3 loại nghiệp trên. Nếu không có 3 loại nghiệp trên, thì nghiệp loại thường này cho quả tái sinh kiếp sau.

Phần nghiệp được phân loại theo thời gian cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp:

Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất).

Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ nhì).

Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả trong những kiếp sau kế tiếp (kể từ kiếp thứ ba cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn).

Ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả (nghiệp không còn có hiệu lực cho quả của nghiệp ấy được nữa).

Phần nghiệp được phân loại theo cảnh giới cho quả của nghiệp, có 4 loại nghiệp:

Akusalakamma: 12 bất thiện nghiệp (12 ác nghiệp) cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh.

Kāmāvacarakusalakamma: 8 dục giới đại thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới: Cõi người, 6 cõi trời dục giới.

Rūpāvacarakusalakamma: 5 sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh trong 16 cõi trời sắc giới phạm thiên.

Arūpāvacarakusalakamma: 4 vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh trong 4 cõi trời vô sắc giới phạm thiên.

Đó là 4 phần nghiệp mà mỗi phần có 4 loại nghiệp thành 16 loại nghiệp.

Nghiệp và quả của nghiệp là một đề tài vô cùng rộng lớn, sâu sắc, vi tế chỉ có duy nhất Đức Phật Chánh Đẳng Giác - Bậc Toàn Giác có trí tuệ đặc biệt thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của tất cả chúng sinh trong ba giới bốn loài mà thôi. Ngoài ra, không một vị nào khác có khả năng thấy rõ, biết rõ nghiệp và quả của nghiệp của tất cả mọi chúng sinh.

Quyển IV “Nghiệp và Quả Của Nghiệp” thuộc về bộ sách “Nền Tảng Phật Giáo” mà bần sư đã dày công biên soạn trích dịch từ Tam Tạng, Chú Giải, các bộ sách giáo khoa chương trình Đại học Abhidhamma tại Bangkok - Thái Lan do Ngài cố Đại Trưởng Lão Saddhammajotika, và gom nhặt những lời giải thích của các bậc tiền bối uyên thâm về pháp học Phật giáo.

Bần sư đã cố gắng hết sức mình để sưu tầm, gom nhặt những tài liệu về nghiệp và quả của nghiệp chỉ được bấy nhiêu thôi!

Tuy bần sư đã cố gắng hết sức mình giải thích để giúp cho độc giả tìm hiểu về nghiệp và quả của nghiệp, nhưng thật ra, nghiệp và quả của nghiệp là một đề tài vô cùng rộng lớn, sâu sắc, vi tế. Do khả năng của bần sư có hạn, nên chắc chắn không sao tránh khỏi những điều sơ sót, thậm chí còn có chỗ sai ngoài khả năng hiểu biết của bần sư.

Để lần sau tái bản được hoàn thiện hơn, kính mong chư bậc thiện trí từ bi chỉ giáo, góp ý chân tình.

Kính xin quý vị xem soạn phẩm này như là của chung mà mỗi người trong chúng ta, ai cũng có bổn phận đóng góp xây dựng để cho soạn phẩm này được hoàn hảo, hầu mong đem lại sự lợi ích chung, sự tiến hóa, sự an lạc cho phần đông chúng ta. Bần sư kính cẩn đón nhận những lời đóng góp phê bình xây dựng ấy của chư bậc thiện trí và kính xin quý Ngài ghi nhận nơi đây lòng chân thành biết ơn sâu sắc của bần sư.

Quyển sách “Nghiệp và Quả Của Nghiệp” này được hoàn thành do nhờ có nhiều người giúp sức như: Dhamma-citta Bhikkhu (Tỳ khưu Tâm Pháp), cô Dhammanandā, cô Sumittā xem bản thảo; đệ tử Sīlācāra (Giới Hạnh) đã tận tình đánh máy vi tính, dàn trang, làm thành quyển; các thí chủ trong nước và ngoài nước có đức tin trong sạch lo ấn hành là: Pháp đệ Tịnh Đức cùng nhóm Phật tử chùa Đạo Quang (Hoa Kỳ), Pháp đệ Bửu Đức cùng nhóm Phật tử chùa Hương Đạo (Hoa Kỳ), sư cô Trí Hạnh, gia đình anh Đinh Vạn Xuân cùng nhóm Phật tử ở Úc, gia đình cô Dhammanandā (Pháp), gia đình cô Thái Ngọc Dung, gia đình Đặng Thị Phương Mai, các nhóm Phật tử ở Mỹ, Pháp, Thụy Sĩ, Canada, Úc..., gia đình Hoàng Quang Chung, và các gia đình... và đã được Nhà xuất bản Tôn Giáo cho phép ấn hành. Bần sư vô cùng hoan hỷ và biết ơn tất cả quý vị.

Nhân dịp này, con là Dhammarakkhita Bhikkhu (Tỳ khưu Hộ Pháp) thành kính dâng phần pháp thí thanh cao này đến Ngài Vaṃsarakkhitamahāthera (Cố Đại Trưởng Lão Hộ Tông) là sư phụ của con, đồng thời đến quý Ngài Cố Đại Trưởng Lão Thiện Luật, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Bửu Chơn, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Giới Nghiêm, Ngài Cố Đại Trưởng Lão Hộ Giác (chùa Từ Quang) cùng chư Đại Trưởng Lão, Đại đức khác đã dày công đem Phật giáo Nguyên Thủy (Theravāda) về truyền bá trên quê hương Việt Nam thân yêu, và xin kính dâng đến chư Đại Trưởng Lão ở nước Thái Lan, nước Myanmar (Miến Điện), đã có công dạy dỗ con về pháp học và pháp hành.

Con kính mong quý Ngài hoan hỷ.

Idaṃ no ñātinaṃ hotu, sukhitā hontu ñātayo.

Phước thiện pháp thí thanh cao này, xin hồi hướng đến tất cả thân quyến của chúng con, từ kiếp hiện tại cho đến vô lượng kiếp trong quá khứ, cầu mong quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện này để thoát khỏi cảnh khổ, được an lạc lâu dài.

Imaṃ puññābhāgaṃ mātāpitu-ācariya-ñāti-mittānañceva sesasabbasattānañca dema, sabbepi te puññapattiṃ laddhāna sukhitā hontu.

Chúng con thành tâm hồi hướng, chia phước đến ông bà, cha mẹ, thầy tổ, thân quyến, bạn hữu cùng tất cả chúng sinh từ cõi địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh, nhân loại, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư Phạm thiên trong các cõi trời sắc giới... Kính xin tất cả quý vị hoan hỷ thọ nhận phần phước thiện pháp thí thanh cao này, cầu mong quý vị thoát khỏi mọi sự khổ, được an lạc lâu dài.

Idaṃ me dhammadānaṃ āsavakkhayāvahaṃ hotu.

Phước thiện pháp thí thanh cao này của mỗi người chúng con, xin làm duyên lành dẫn dắt mỗi người chúng con đến chứng đắc Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Nếu mỗi người trong chúng con chưa diệt đoạn tuyệt được phiền não trầm luân, chưa giải thoát khổ sinh, vẫn còn tiếp tục tử sinh luân hồi, thì do năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này ngăn cản mọi ác nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh trong 4 cõi ác giới: Địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh; và cũng do năng lực pháp thiện này chỉ hỗ trợ thiện nghiệp cho quả tái sinh trong cõi thiện giới... mà thôi. Được sinh kiếp nào, mỗi người trong chúng con là người có chánh kiến, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có duyên lành được gần gũi thân cận với bậc thiện trí, có đức tin trong sạch nơi bậc thiện trí, cố gắng tinh tấn hành theo lời giáo huấn của bậc thiện trí, không ngừng tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật cho sớm được đầy đủ trọn vẹn, để mong sớm chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, mong diệt đoạn tuyệt mọi phiền não trầm luân, trở thành bậc Thánh Arahán.

Trong vòng tử sinh luân hồi, mỗi khi chúng con được nghe tin lành Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng ngự nơi nào, dù gần dù xa, chúng con liền phát sinh tâm hỷ lạc, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật, Đức Pháp, Đức Tăng; quyết tâm tìm đến nơi ấy, để hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, hoặc chư Thánh Thanh Văn đệ tử của Ngài, lắng nghe chánh pháp, cố gắng tinh tấn hành theo chánh pháp của Ngài, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt mọi phiền não, mọi tham ái, mọi ác pháp, trở thành bậc Thánh Arahán sẽ tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Do nhờ năng lực phước thiện pháp thí thanh cao này hỗ trợ, nhắc nhở cho mỗi người chúng con, khi thành tựu quả báu ở cõi người (manussasampatti) như thế nào, cũng không đắm say trong cõi người; hoặc khi thành tựu quả báu ở cõi trời (devasampatti) hưởng được an lạc như thế nào, cũng không đắm say trong cõi trời. Bởi vì mục đích cứu cánh cao cả của mỗi chúng con là cầu mong sớm thành tựu quả báu chứng ngộ Niết Bàn (Nibbānasampatti), giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

Icchitaṃ patthitaṃ amhaṃ,

Khippameva samijjatu.

Điều mong ước, ý nguyện của chúng con,

Cầu mong sớm được thành tựu như ý.

Mùa xuân Đinh Hợi 2007
Thiền viện Viên Không
Tỳ khưu Hộ Pháp
(Dhammarakkhita Bhikkhu)



1. Từ Đức Phật Padumuttara đã xuất hiện trên thế gian cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian có khoảng cách thời gian trải qua 100 ngàn đại kiếp trái đất và trải qua 15 Đức Phật xuất hiện trên thế gian.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn