(Xem: 1828)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2283)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Nghiệp hỗ trợ

09 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 10230)

Nền Tảng Phật Giáo

Quyển IV (Nghiệp và quả của Nghiệp)

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

 

Nghiệp hỗ trợ (Upathambhakakamma)

Thế nào gọi là nghiệp hỗ trợ?

Nghiệp nào mà hỗ trợ cho nghiệp khác chưa có cơ hội sinh quả, thì có cơ hội được sinh quả; hoặc hỗ trợ cho nghiệp khác khi đã có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ; và hỗ trợ cho ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp là quả của nghiệp khác được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy; nghiệp ấy gọi là nghiệp hỗ trợ, đó là 12 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) và 8 dục giới đại thiện nghiệp.

* Nghiệp hỗ trợ có 3 phận sự:

2. 1 Nghiệp hỗ trợ phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào chưa có cơ hội sinh quả, thì nghiệp hỗ trợ này giúp cho nghiệp ấy có cơ hội sinh quả.

2. 2 Nghiệp hỗ trợ có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã có cơ hội sinh quả rồi, thì nghiệp hỗ trợ này giúp cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2. 3 Nghiệp hỗ trợ có phận sự hỗ trợ cho quả của nghiệp khác đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy.

2.1 Giải thích 3 trường hợp:

Nghiệp hỗ trợ có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hoặc trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội sinh quả, thì nghiệp hỗ trợ này giúp cho nghiệp ấy có cơ hội sinh quả trong 2 thời kỳ:

– Thời kỳ lúc lâm chung.

– Thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu cho đến trước lúc chết.

Nghiệp hỗ trợ đó là thiện nghiệp, bất thiện nghiệp có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ hoặc trong kiếp hiện tại chưa có cơ hội sinh quả, thì nghiệp hỗ trợ giúp cho nghiệp ấy có cơ hội sinh quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau, có 8 trường hợp là:

1- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

2- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

3- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác giới.

4- Bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

5- Thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

6- Thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

7- Bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

8- Bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

Để giúp hiểu rõ trường hợp thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung hỗ trợ cho thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp đã từng tạo trong những kiếp quá khứ hoặc trong kiếp hiện tại, có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, Đức Phật dạy như sau:

Citte saṅkiliṭṭhe duggatiṃ paṭikaṅkhā…

Citte asaṅkiliṭṭhe sugatiṃ paṭikaṅkhā…

(Lúc lâm chung tâm bị ô nhiễm,

thì bị tái sinh trong cõi ác giới.

Lúc lâm chung tâm không bị ô nhiễm,

thì được tái sinh trong cõi thiện dục giới).

Bởi vậy cho nên, trong lúc lâm chung, tâm bị ô nhiễm do bởi phiền não hoặc tâm không bị ô nhiễm do bởi phiền não, thiện tâm trong sạch thanh tịnh đóng vai trò chính yếu hỗ trợ cho nghiệp sinh quả tái sinh kiếp sau.

Giải thích 8 trường hợp:

1- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới như thế nào?

Ví dụ: Ông A là một cận sự nam, nhưng ông tạo thiện nghiệp thì ít, mà tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) thì nhiều, ông là người giữ gìn giới không được trong sạch và trọn vẹn. Cho nên, đến lúc lâm chung, phiền não phát sinh trong tâm của ông, làm cho tâm của ông bị ô nhiễm, phát sinh tâm kinh hãi. Nếu ông chết trong lúc ấy thì chắc chắn ác nghiệp sẽ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Khi ấy, bên cạnh ông, một người thân có trí tuệ cứu giúp ông A được thoát ra khỏi đối tượng của ác nghiệp, thay thế bằng đối tượng của thiện nghiệp, bằng cách kính thỉnh Ngài Đại đức đến hướng dẫn ông A thọ phép quy y Tam Bảo và thọ trì ngũ giới, thỉnh chư Tỳ khưu tụng kinh Paritta (những bài kinh An Lành), thuyết pháp nhắc nhở, khuyên dạy ông A niệm Ân đức Phật,… Ông A phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch.

Nhờ vậy, đối tượng của ác nghiệp biến mất, tâm không còn bị ô nhiễm, đồng thời đối tượng của thiện nghiệp hiện ra, thiện tâm phát sinh, thiện nghiệp phát sinh lúc lâm chung này hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện dục giới, làm người trong cõi người, hoặc làm chư thiên trong cõi trời dục giới tùy theo thiện nghiệp sinh quả.

Đó là thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

2- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện dục giới như thế nào?

Ví dụ: Ông B là một cận sự nam, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch, thường làm mọi phước thiện như bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng… Nhưng ông B không thường thực hành thiền định, không thực hành thiền tuệ; không theo học môn Vi Diệu Pháp; không hiểu rõ các pháp là vô ngã (không phải là ta, không phải của ta); không hiểu biết rõ về pháp tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh v.v… Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống được nữa, ông B phát sinh tâm sợ chết, phải từ bỏ vợ con, nhà cửa, của cải, tài sản v.v…, do đó làm cho tâm của ông B bị ô nhiễm bởi phiền não, đối tượng của ác nghiệp hiện ra. Ông B phát sinh tâm kinh hãi. Nếu ông B chết trong lúc ấy, thì khó tránh khỏi bất thiện nghiệp sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Khi ấy, bên cạnh ông B, một người thân có trí tuệ hiểu biết giáo pháp của Đức Phật, nhắc nhở hướng dẫn ông B thọ phép quy y Tam Bảo, thọ trì ngũ giới; khuyên ông B nhớ lại những phước thiện mà ông đã từng tạo trong kiếp hiện tại này. Ông B phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch, niệm tưởng lại những phước thiện của mình.

Do đó, sau khi ông B chết, nhờ thiện nghiệp phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại này có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi thiện dục giới, sinh làm người trong cõi người hoặc sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới.

Đó là thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

3- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới như thế nào?

Ví dụ: Ông C là người cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, giữ gìn giới trong sạch, thường làm mọi phước thiện như bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng v.v… Nhưng không thường thực hành thiền định, không thực hành thiền tuệ; không theo học môn Vi Diệu Pháp, không hiểu rõ các pháp là vô ngã (không phải ta, không phải của ta); không hiểu biết về pháp tử sinh luân hồi của mỗi chúng sinh…

Khi bị lâm bệnh nặng trầm trọng, không thể sống được nữa, ông C phát sinh tâm sợ chết, phải từ bỏ vợ con, của cải, tài sản,… làm cho tâm của ông C bị ô nhiễm bởi phiền não; đối tượng của ác nghiệp hiện rõ, ông C phát sinh tâm kinh hãi.

Khi ấy bên cạnh ông C, có người thân không có trí tuệ, không hiểu biết giáo pháp của Đức Phật, không biết cách cứu giúp ông C, không nhắc nhở, không khuyên bảo ông niệm tưởng lại mọi phước thiện mà ông C đã tạo trong kiếp hiện tại này.

Bởi vậy cho nên, sau khi ông C chết, bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp mà ông đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

4- Bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới như thế nào?

Ví dụ: Khi còn trẻ, ông D là người không có giới, thường tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và các chất say… Ông D sống bằng nghề giết các loài gia súc, gia cầm để bán thịt. Đến khi tuổi già sức yếu, thường hay bệnh hoạn ốm đau, ông D mới biết ăn năn hối lỗi, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, nên ông D quyết định xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo.

Về sau, Tỳ khưu D bị lâm bệnh nặng trầm trọng nằm trên giường, những cảnh tượng giết các loài gia súc, gia cầm khi còn trẻ hiện ra trong tâm của Tỳ khưu D, làm cho tâm của Tỳ khưu D bị ô nhiễm do bởi phiền não. Tỳ khưu D phát sinh tâm kinh hãi, bất thiện nghiệp phát sinh, tâm bị ô nhiễm, đau khổ cho đến chết. Sau khi Tỳ khưu D chết, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

5- Thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới như thế nào?

Ví dụ: Ông Đ là người tà kiến, thấy sai hiểu lầm, không tin tội, không tin phước, không tin có địa ngục, không tin có các cõi trời... Ông cho rằng: “Làm tội không bị tái sinh kiếp sau trong cõi địa ngục, làm phước cũng không được tái sinh kiếp sau lên cõi trời…”

Cho nên, hàng ngày ông sinh sống bằng tà nghiệp, giết gia cầm để bán thịt. Công việc làm ăn không được thuận lợi.

Về sau, ông Đ đến giúp việc trong một gia đình giàu sang, theo truyền thống Phật giáo. Hằng ngày, ông Đ thức dậy sớm lo sửa soạn các món vật thực sẵn sàng, mang theo cùng với người chủ đến chùa để cúng dường tới chư Đại đức Tỳ khưu Tăng.

Vào những ngày giới uposathasīla hằng tháng, ông Đ cũng đi theo người chủ đến chùa. Tại nơi chánh điện người chủ ngồi xin thọ phép quy y Tam Bảo và bát giới uposathasīla xong, ngồi lắng nghe Ngài Đại đức Pháp sư thuyết pháp. Ông Đ ngồi chờ đợi người chủ nghe pháp xong trở về nhà. Cho nên, dù muốn dù không, ông Đ cũng ngồi lặng lẽ nghe hết thời pháp.

Hằng ngày, làm những công việc như vậy, dần dần về sau ông Đ đã có chánh kiến, rồi từ bỏ tà kiến, phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin thọ phép quy y Tam Bảo và ngũ giới, rồi giữ gìn giới được trong sạch và trọn vẹn.

Khi ông Đ bị lâm bệnh trầm trọng, vốn đời sống độc thân, nên không lưu luyến đến ai; do không có của cải, nên không luyến tiếc đến của cải; do nhờ sống gần gũi với những người có chánh kiến trong Phật giáo, nên từ bỏ được tà kiến, trở thành người có chánh kiến, thấy đúng hiểu đúng nghiệp là của riêng mình, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, có giới trong sạch và trọn vẹn.

Do đó, sau khi ông Đ chết, thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi trời dục giới tầng cao.

Đó là thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

6- Thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới như thế nào?

Ví dụ: Ông E đã từng xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo. Trong suốt thời gian xuất gia, Tỳ khưu E là người có giới hạnh trong sạch, theo học pháp học Phật giáo, và theo thực hành pháp hành thiền định mà chưa chứng đắc đến bậc thiền nào và thực hành thiền tuệ cũng chưa chứng đắc đến trí tuệ thiền tuệ nào.

Về sau, vị Tỳ khưu E xả giới Tỳ khưu, hoàn tục trở lại gia đình, trở thành một cận sự nam. Hằng ngày, ông E theo cha đi làm nghề đánh cá để nuôi sống gia đình. Tuy ông E biết rằng: “Đó là cách sống tà mạng, nhưng không còn biết làm nghề nào khác”. Vì vậy, ông E cố gắng tinh tấn mỗi ngày làm mọi phước thiện, như bố thí, cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu đi khất thực. Vào những ngày bát giới uposathasīla hằng tháng, ông E cố gắng đi đến chùa xin thọ phép quy y Tam Bảo và bát giới uposathasīla trong ngày hôm ấy.

Đến lúc lâm chung, tâm của ông E không bị ô nhiễm bởi phiền não, tâm vẫn bình tĩnh sáng suốt. Cho nên, sau khi ông E chết, thiện nghiệp phát sinh bình thường trong cuộc đời người tại gia, hỗ trợ cho thiện nghiệp mà ông đã từng tạo khi ông còn là vị Tỳ khưu trước kia cũng trong kiếp hiện tại này có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau làm chư thiên trong cõi trời dục giới tầng cao.

Đó là thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng tạo cũng trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi thiện dục giới.

7- Bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới như thế nào?

Ví dụ: Cậu G được sinh trong một gia đình có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, giữ gìn mọi truyền thống trong Phật giáo. Cho nên, khi còn nhỏ, cậu G thường theo cha mẹ đến chùa làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức Tỳ khưu Tăng. Vào những ngày bát giới uposathasīla hằng tháng, cậu G cũng đi theo cha mẹ đến chùa xin thọ phép quy y Tam Bảo và bát giới uposathasīla, nghe pháp v.v…

Đến lúc trưởng thành, cậu G lập gia đình và có đông con. Cha mẹ của ông G lần lượt qua đời, nên ông không còn nương nhờ vào cha mẹ được nữa. Hằng ngày, ông G tự mình cố gắng làm việc vất vả để nuôi sống gia đình (vợ và các con). Cho nên, cơ hội tạo mọi phước thiện càng ngày càng giảm dần, bởi gánh nặng gia đình càng ngày càng thêm. Ông G không có cơ hội làm mọi phước thiện như trước nữa, giữ gìn giới không được trong sạch và trọn vẹn, nhưng chưa đến nỗi tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nặng. Đến lúc lâm chung, tâm bị mê muội. Do đó, sau khi ông G chết, bất thiện nghiệp bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng tạo trong những kiếp quá khứ có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

8- Bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới như thế nào?

Ví dụ: Cậu H vốn là một đứa trẻ khó dạy, hư đốn, thích gần gũi thân cận với bạn ác, thích làm việc ác như uống rượu, hút thuốc lá, chơi cờ bạc…, y ăn cắp tiền của cha mẹ để ăn chơi lêu lổng. Cha mẹ dạy y không được, nên gởi y vào chùa, nhờ quý Ngài Đại đức, chư Tỳ khưu dạy dỗ y nên người.

Quý Ngài Đại đức dạy dỗ cậu H với tâm từ, tâm bi, cậu H dần dần trở nên thuần tính, biết vâng lời quý Ngài Đại đức, chư Tỳ khưu.

Qua một thời gian, quý Ngài cho phép cậu H được xuất gia trở thành Sadi, Sadi H cố gắng tinh tấn theo học pháp học Phật giáo, và thực hành pháp hành Phật giáo có phần tiến bộ. Do đó, quý Ngài cho làm lễ thọ Tỳ khưu nâng đỡ Sadi H lên trở thành Tỳ khưu.

Tỳ khưu H sống gần gũi thân cận với quý Ngài Đại đức, biết vâng lời dạy dỗ của quý Ngài, cho nên Tỳ khưu H có được một ít kiến thức trong Phật giáo. Nhưng Tỳ khưu H lại thích giao du với một số người tại gia, bạn bè cũ, rồi từ đó đức tin càng ngày càng suy giảm, tâm không còn hoan hỷ thực hành phạm hạnh của bậc xuất gia như trước nữa, mà muốn hoàn tục trở lại làm người tại gia. Do đó, Tỳ khưu H giữ gìn giới của mình không còn được trong sạch, cho nên tâm cảm thấy nóng nảy.

Trong khi chờ đợi bạn bè tìm giúp một việc làm, để có thể làm ăn sinh sống, sau khi hoàn tục, nhưng chưa thực hiện được ý định hoàn tục, thì Tỳ khưu H bị lâm bệnh nặng rồi chết đột ngột. Sau khi Tỳ khưu H chết, bất thiện nghiệp bình thường của Tỳ khưu H, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp mà Tỳ khưu H đã từng tạo trước khi xuất gia trở thành Tỳ khưu có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh).

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh bình thường trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau, trong cõi ác giới.

2.2. Nghiệp hỗ trợ có phận sự hỗ trợ cho nghiệp nào đã có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của nghiệp ấy được phát triển đầy đủ, có 10 trường hợp như sau:

1- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

3- Bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

4- Bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

5- Thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện tại (pavattikāla(1)), hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

6- Thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

7- Bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

8- Bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

9- Thiện nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

10- Bất thiện nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

Giải thích 10 trường hợp:

1- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông A vốn là người hiền lương, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, thường tránh xa mọi tội ác, làm ăn sinh sống lương thiện. Gia đình của ông nghèo, hằng ngày ông phải vất vả làm mọi công việc để nuôi sống gia đình. Cho nên, ông không có khả năng làm phước bố thí lớn lao. Bởi vì, còn bận lo công việc làm ăn, nên ông ít có cơ hội nghe pháp, xem kinh, đọc sách,... Nhưng do nhờ sống lương thiện, cho nên lúc lâm chung tâm của ông được trong sạch, bình tĩnh, sáng suốt.

Sau khi ông A chết, thiện nghiệp làm phận sự sinh quả tái sinh kiếp sau làm người trong một gia đình giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, hoặc tái sinh làm vị thiên nam ở địa vị cao quý trong cõi trời ấy.

Đó là thiện nghiệp phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp mà ông A đã từng tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2- Thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông B là người cận sự nam có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn; thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng. Ông B thường làm phước thiện bố thí đến người khác, cung kính lắng nghe chánh pháp; đôi khi ông cũng thực hành thiền định, nhưng chưa chứng đắc bậc thiền nào, cũng thực hành thiền tuệ, nhưng cũng chưa chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả nào. Cho nên, lúc lâm chung tâm của ông được trong sạch, bình tĩnh, sáng suốt.

Sau khi ông B chết, thiện nghiệp làm phận sự sinh quả tái sinh kiếp sau làm người trong gia đình giàu sang phú quý, có quyền cao chức trọng, hoặc tái sinh làm vị thiên nam ở địa vị cao quý trong cõi trời ấy.

Đó là thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho thiện nghiệp mà ông B đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, thì giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

3- Bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông C vốn là người keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản của mình. Ông rất cần cù làm việc để kiếm cho được nhiều vàng bạc của cải, nên không quan tâm đến việc làm phước bố thí tiếp độ người khác, nhưng ông không làm những việc ác do thân, khẩu và ý. Đến lúc lâm chung, ông sợ chết phải bỏ hết của cải tài sản mà ông đã dành dụm, cho nên, tâm của ông bị ô nhiễm.

Sau khi ông C chết, bất thiện nghiệp sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) chịu khổ lâu dài.

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp mà ông đã từng tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

4- Bất thiện nghiệp phát sinh lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông D vốn là người có tà kiến, không tin nghiệp và quả của nghiệp. Ông thấy sai hiểu lầm rằng: “Làm phước không có phước, làm tội cũng không có tội, không có cõi địa ngục, cũng không có cõi trời nào…” Do đó, ông không chịu lắng nghe lời dạy của các bậc thiện trí. Đến lúc lâm chung, tâm của ông bị ô nhiễm, mê muội.

Sau khi ông D chết, bất thiện nghiệp sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi địa ngục chịu khổ lâu dài.

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong lúc lâm chung, hỗ trợ cho bất thiện nghiệp mà ông đã tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

5- Thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavattikāla), hỗ trợ cho thiện nghiệp đã từng tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu bé Đ được sinh trong gia đình theo truyền thống Phật giáo. Khi cậu bé mới được 2 - 3 tuổi, cha mẹ dạy cậu biết đảnh lễ Đức Phật. Khi cha mẹ dắt cậu lên chùa, cậu biết vào chánh điện đảnh lễ Đức Phật; gặp chư Đại đức, Tỳ khưu, Sadi cậu đều đảnh lễ quý Ngài; biết dâng cúng dường vật thực đến chư Đại đức Tỳ khưu, Sadi, rồi đảnh lễ quý Ngài.

Cậu bé Đ chết lúc 4 tuổi, sau khi chết, thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái sinh lên cõi trời dục giới tầng cao, ở địa vị cao quý, được hưởng mọi sự an lạc cao quý đặc biệt trong cõi trời ấy.

Đó là thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavat-tikāla), hỗ trợ cho thiện nghiệp mà cậu bé Đ đã từng tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ (còn cậu bé Đ chết lúc 4 tuổi là do nghiệp khác).

6- Thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavattikāla), hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu E là con của gia đình theo Phật giáo, cha mẹ của cậu đều là người trí thức, có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, hiểu biết sâu sắc trong Phật giáo. Cho nên, khi cậu E còn nhỏ, cha mẹ đã dạy cậu biết thọ phép quy y Tam Bảo, biết giữ gìn ngũ giới hằng ngày, biết thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng. Cậu biết phân biệt thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Khi lớn lên, cậu E có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, giữ gìn ngũ giới trong sạch, thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thích làm phước bố thí đến những người nghèo khổ. Cậu thường đến chùa nghe pháp, ham học pháp học Phật giáo, ham hành pháp hành thiền định, nhưng chưa chứng đắc được bậc thiền nào, và ham hành pháp hành thiền tuệ, nhưng chưa chứng đạt đến bậc Thánh.

Sau khi cậu E chết, thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau làm người trong gia đình phú hộ, khi sinh ra đời, hậu kiếp của cậu E được mọi người trong gia đình đều thương yêu quý mến nhất, cậu hưởng mọi sự thuận lợi, sự an lạc trong cuộc đời của cậu.

Đó là thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pava-ttikāla), hỗ trợ cho thiện nghiệp mà cậu E đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

7- Bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavatti-kāla), hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Cậu G là con của một gia đình giàu có, nhưng không có đức tin nơi Tam Bảo, cho nên, từ nhỏ đến lớn, cậu không được nghe chánh pháp, không có đức tin nơi Tam Bảo, không giữ giới, không hiểu biết về thiện nghiệp, ác nghiệp… Cậu là đứa con được cha mẹ nuông chiều, nên cậu G chỉ biết ăn chơi lêu lổng, nhưng chưa đến mức tạo bất thiện nghiệp nặng.

Sau khi cậu G chết, bất thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau trong cõi địa ngục, chịu bao nhiêu nỗi khổ.

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavattikāla), hỗ trợ cho bất thiện nghiệp mà cậu G đã từng tạo trong những kiếp quá khứ đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

8- Bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavatti-kāla), hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông H là người có tà kiến, không tin nghiệp và quả của nghiệp, không tin rằng: làm phước thì được phước, làm tội thì có tội. Ông tự cho rằng: “Chết là hết”.

Sau khi ông H chết, bất thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái kiếp sau sinh trong cõi địa ngục, phải chịu bao nhiêu nỗi khổ trong cõi địa ngục.

Đó là bất thiện nghiệp phát sinh trong kiếp hiện hữu (pavattikāla), hỗ trợ cho bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

9- Thiện nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông I là người đã từng tích lũy các pháp hạnh ba-la-mật từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ và đã từng có lời phát nguyện kiếp sau được xuất gia. Kiếp hiện tại, ông I sinh ra đời gặp Phật giáo, lắng nghe pháp sư thuyết pháp, ông liền phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, rồi tư duy rằng: “Đời sống người tại gia bị nhiều ràng buộc, khó thực hành phạm hạnh cho được trong sạch thanh tịnh. Điều tốt nhất ta nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo”. Sau khi đã nhận thức đúng đắn, ông liền thực hiện theo ý nghĩ của mình. Ông I đã xuất gia trở thành Tỳ khưu. Tỳ khưu I cố gắng tinh tấn theo học pháp học Phật giáo và theo thực hành pháp hành Phật giáo. Tỳ khưu I thực hành pháp hành thiền định, nhưng chưa chứng đắc các bậc thiền nào, và thực hành thiền tuệ, chưa chứng đắc bậc Thánh nào. Vị Tỳ khưu I trở thành một vị pháp sư có tài thuyết pháp tế độ nhiều người.

Sau khi vị Tỳ khưu I chết, thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái sinh kiếp sau làm vị thiên nam cao quý trong tầng trời cao cõi dục giới, được hưởng mọi sự an lạc đặc biệt trong tầng trời ấy.

Đó là thiện nghiệp đã từng tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

* Như trường hợp chư Bồ Tát đã từng tích lũy các pháp hạnh ba-la-mật từ vô số kiếp trong quá khứ, hỗ trợ cho mỗi kiếp hiện tại càng cao thượng hơn, nghĩa là kiếp hiện tại cao thượng hơn kiếp quá khứ.

* Như Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, kiếp Đức Bồ Tát Đức vua Vessantara tạo pháp hạnh bố thí ba-la-mật, như bố thí voi báu, bố thí Hoàng tử Jālī, bố thí Công chúa Kaṇhājinā và bố thí chánh cung Hoàng hậu Maddī…

Sau khi Đức vua băng hà, thiện nghiệp làm phận sự sinh quả tái sinh làm vị thiên nam cao thượng nhất trong tầng trời Tusita (Đấu Xuất Đà Thiên), cõi trời thứ tư trong 6 tầng trời dục giới.

Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sau khi chết từ cõi trời Tusita, thiện nghiệp sinh quả tái sinh đầu thai vào lòng mẫu thân Mahāmayādevi - chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Suddhodana kinh thành Kapila-vatthu. Đúng 10 tháng sau, vào ngày rằm tháng tư (âm lịch) Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha đản sinh ra đời, kiếp chót có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại nhân và 80 tướng tốt phụ.

Đó là quả của thiện nghiệp cũng là quả của 30 pháp hạnh ba-la-mật mà Đức Bồ Tát đã tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ. Chính thiện nghiệp 30 pháp hạnh ba-la-mật đã từng được tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ ấy hỗ trợ cho kiếp hiện tại Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Gotama.

10- Bất thiện nghiệp đã được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho những bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ như thế nào?

Ví dụ: Ông K là người ác, không có giới, tạo mọi ác nghiệp như sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu và các chất say…

Sau khi ông K chết, bất thiện nghiệp có cơ hội sinh quả tái sinh trong cõi đại địa ngục, phải chịu bị hành hạ cực hình nặng nề, khổ thân, khổ tâm lâu dài trong cõi địa ngục.

Đó là bất thiện nghiệp đã tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho những bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại đang có cơ hội sinh quả rồi, lại giúp cho quả của bất thiện nghiệp ấy được phát triển đầy đủ.

2.3 Nghiệp hỗ trợ có phận sự hỗ trợ cho quả của nghiệp khác đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp ấy, có 7 trường hợp:

1- Thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

2- Thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển đầy đủ và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

3- Bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

4- Bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

5- Thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

6- Thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

7- Bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

Giải thích 7 trường hợp:

- Trường hợp thứ nhất đến trường hợp thứ tư, giải thích theo Chú giải và bộ Phụ chú giải.

- Trường hợp thứ 5 đến trường hợp thứ 7, giải thích theo bộ Paramatthadīpanīṭīka và bộ Bhāsāṭīkā.

1- Thiện nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót đản sinh ra đời, kim thân của Ngài có đầy đủ 32 tướng tốt của Bậc Đại nhân, và 80 tướng tốt phụ; khi nhãn thức tâm thấy sắc trần, khi nhĩ thức tâm nghe thanh trần, khi tỷ thức tâm ngửi hương trần, khi thiệt thức tâm nếm vị trần, khi thân thức tâm xúc giác xúc trần phần nhiều bằng thiện quả vô nhân tâm phát sinh biết các đối tượng đáng hài lòng…

Đó là thiện nghiệp đã từng được tích lũy trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

2- Thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama của chúng ta, gia đình ông Puṇṇa nghèo khổ, làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, toàn thể mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo:

Ngài Đại đức Sāriputta nhập diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm. Sáng hôm ấy, sau khi xả diệt thọ tưởng, Ngài Đại đức Sāriputta đi khất thực, khi đi ngang qua nơi ông Puṇṇa đang cày ruộng, ông Puṇṇa đón rước đảnh lễ Ngài và dâng cây tăm xỉa răng và nước uống. Ngài Đại đức nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại đức xong bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại đức, kính xin Ngài từ bi tế độ thọ nhận phần vật thực của phận nghèo khó của gia đình con.

Ngài Đại đức từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực. Bà vô cùng hoan hỷ trở về nhà, nấu phần cơm khác đem cho chồng.

Ông Puṇṇa thả bò đi ăn cỏ, ông ngồi dưới bóng cây chờ đợi vợ, tuy đói bụng, nhưng tâm vô cùng hoan hỷ niệm tưởng đến phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước uống đến Ngài Đại đức Sāriputta.

Ông nhìn thấy vợ từ xa đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường. Chắc chắn bà đang hoan hỷ một điều gì đó.

Vừa mới đến nơi, bà liền thưa với chồng rằng:

- Hôm nay, xin anh hãy hoan hỷ thật nhiều! Sáng nay, khi em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại đức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức tin trong sạch đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến ngài Đại đức. Ngài không chê vật thực nghèo khó của chúng ta, mà thọ nhận phần vật thực ấy.

Xin anh nên hoan hỷ phần phước thiện bố thí này!

Ông Puṇṇa phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ và ông cũng nói cho bà biết rằng:

- Chính sáng nay, anh cũng làm phước bố thí tăm xỉa răng và nước uống đến Ngài Đại đức Sāriputta.

Khi hai vợ chồng ông Puṇṇa đang phát sinh thiện tâm hoan hỷ phước thiện bố thí, ông nhìn xuống thửa ruộng, đất vừa mới cày đã hóa thành vàng ròng sáng chói. Ông không tin vào mắt mình, ông xuống thửa ruộng lấy lên một thỏi vàng ròng và đưa cho vợ xem.

Đúng là vàng thật! Ông Puṇṇa đem thỏi vàng ấy đến xin yết kiến Đức vua, xin Đức vua truyền lệnh đem 1000 chiếc xe khuân tất cả số vàng về cất trong kho báu của Đức vua.

Thực ra, số vàng to lớn ấy không phải là của Đức vua, mà là của ông bà Puṇṇa. Số vàng to lớn ấy là quả báu của phước thiện bố thí, mà ông bà Puṇṇa đã dâng cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta ngày hôm ấy.

Thật vậy, lính trong triều đình đem 1000 chiếc xe đến thửa ruộng, để thu nhặt những thỏi vàng của Đức vua, thì những thỏi vàng ấy trở lại thành cục đất như cũ.

Lính về tâu lên Đức vua rõ sự việc. Đức vua truyền lệnh rằng:

- Các người hãy nghĩ rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa”.

Họ vâng lệnh Đức vua. Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 180 gang tay.

Do đó, Đức vua tấn phong ông Puṇṇa là “đại phú hộ”.

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức Tăng có Đức Phật chủ trì suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7 Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa. Toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa: Ông, bà cô con gái Uttarā đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Đó là thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

3- Bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp, sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Chúng sinh trong địa ngục luôn luôn bị hành hạ chịu bao nỗi thống khổ cùng cực, tử rồi lại tái sinh cứ tiếp diễn như vậy trong cõi địa ngục trải qua nhiều đại kiếp trái đất.

Chúng sinh loài ngạ quỷ chịu cảnh đói khát khổ đau trải qua thời gian lâu dài hằng bao nhiêu kiếp trái đất vẫn chưa thoát khỏi.

Loài súc sinh như những con chó bị bệnh ghẻ ngứa khó chịu, nó cứ chạy chỗ này đến chỗ khác, chạy đến nơi nào cũng bị người ta xua đuổi, nó bị đói khát, thân mình ốm gầy… Thế mà chúng vẫn kéo dài sinh mạng qua nhiều tháng v.v…

Đó là bất thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

4- Bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Một số loài súc sinh như con cọp, con beo, con thằn lằn, con mèo… là quả của bất thiện nghiệp, chúng nó sống bằng cách bắt sống các con vật khác làm vật thực để duy trì tồn tại trong kiếp sống hiện tại.

– Hoặc có một số người mang chứng bệnh nan y là quả phát sinh từ bất thiện nghiệp. Nhưng số người ấy không biết giữ gìn sức khoẻ, mà hằng ngày họ hút thuốc lá, uống rượu… làm cho chứng bệnh ngày càng phát triển, sự khổ thân càng ngày càng tăng thêm.

Đó là bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

5- Thiện nghiệp đã từng được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Loài gia súc như con chó quả của bất thiện nghiệp. Nhưng có một số con chó được người chủ chăm nom săn sóc nuôi dưỡng rất tử tế. Thậm chí, hằng ngày chúng nó có người lo phục vụ: Nào tắm rửa, nào lau mình, nào làm vệ sinh chỗ ở...; về mùa lạnh, chúng nó được mặc đồ ấm; khi chúng nó bị bệnh có bác sĩ thú y chăm lo chữa trị. Chúng nó được người chủ hết mực thương yêu, cho nên đời sống của chúng rất đầy đủ.

Đó là thiện nghiệp đã được tạo trong những kiếp quá khứ, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

6- Thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Loài súc sinh như một số con chó rất tinh khôn, biết nghe lời người chủ dạy như: Bảo chúng ngồi đưa 2 chân trước lên chắp lại cúi xuống lạy; sai chúng ngậm tiền chạy mua tờ báo; loại chó cảnh sát biết ngửi mùi tìm kẻ gian, nhận ra kẻ gian,… những con chó ấy được người chủ thương yêu, chăm nom nuôi nấng chúng rất tử tế, cho nên đời sống của chúng được an lạc.

– Hoặc những con chim sáo, con chim vẹt mà người chủ có thể dạy chúng nói được tiếng người như: Chào hỏi khách đến, biết tụng bài kinh ngắn,… làm cho người nghe vui tai, nên chúng được người trong gia đình thương yêu, được nuôi nấng tử tế.

Đó là thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của bất thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

7- Bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại như thế nào?

Một số người làm nghề bán vũ khí giết người, buôn bán rượu và các chất say; buôn bán ma tuý, heroin; làm nghề đánh cá; làm nghề giết gia súc, giết gia cầm, giết trâu, bò, gà, vịt,… để bán thịt; trộm cắp, hối lộ phi pháp v.v… số người ấy sống bằng tà nghiệp, tà mạng, tạo bất thiện nghiệp, hỗ trợ cho họ có nhiều tiền của, giàu có, đời sống đầy đủ sung túc trong kiếp hiện tại.

Đó là bất thiện nghiệp đã được tạo trong kiếp hiện tại, hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

Tóm lại: Cõi người này, trong thời kỳ thiện pháp tăng trưởng, thì mọi thiện nghiệp tăng trưởng (bất thiện nghiệp không tăng trưởng), hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.

Và trong thời kỳ bất thiện pháp (ác pháp) tăng trưởng, thì mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) tăng trưởng (thiện nghiệp không tăng trưởng) hỗ trợ cho quả của thiện nghiệp đó là ngũ uẩn, danh pháp sắc pháp được phát triển và duy trì tồn tại trong kiếp hiện tại.



 (1) Pavattikāla:Thời kỳ sau khi đã tái sinh cho đến trước lúc chết, đó là kiếp sống hiện tại.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn