(Xem: 1754)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2221)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- 4 Loại Nghiệp Theo Thời Gian Cho Quả

08 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 11496)


Nền Tảng Phật Giáo

Quyển 4 (Nghiệp và quả của Nghiệp)

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

 

4 Loại Nghiệp Theo Thời Gian Cho Quả  (Pākakālacatukka)

 

Phần 4 loại nghiệp theo tuần tự cho quả nhất định trước sau xong, tiếp theo phần 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả kiếp hiện tại, kiếp sau v.v...:

1. Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất)

2. Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp kế tiếp (kiếp thứ hai)

3. Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả những kiếp sau, kể từ kiếp thứ ba cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết bàn.

4. Ahosikamma: Nghiệp vô hiệu quả là nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa.

Mỗi loại nghiệp có 2 loại là thiện nghiệp và bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

Đức Phật dạy:

“Cetanā’ haṃ, bhikkhave, kammaṃ vadāmi, cetayitvā kammaṃ karoti kāyena vācāya manasā”.

(Này chư Tỳ khưu, sau khi đã có tác ý, rồi tạo nghiệp bằng thân, bằng khẩu, bằng ý. Do đó, Như Lai dạy “Tác ý gọi là nghiệp).

Cetanā = Tác ý: Là 1 trong 52 tâm sở, gọi là tác ý tâm sở (cetanācetasika) đồng sinh với tất cả các tâm gồm có 84 hoặc 121 tâm.

Tác ý khi nào gọi là nghiệp? Và tác ý khi nào không gọi là nghiệp?

Nếu khi tác ý tâm sở đồng sinh với 12 bất thiện tâm (ác tâm), thì tác ý tâm sở ấy gọi là bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Cho nên, có 12 bất thiện nghiệp (12 ác nghiệp) như sau:

- 8 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 8 tâm tham.

- 2 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 2 tâm sân.

- 2 bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong 2 tâm si.

Nếu khi tác ý tâm sở đồng sinh với 21 hoặc 37 thiện tâm, thì tác ý tâm sở ấy gọi là thiện nghiệp. Cho nên, có 21 hoặc 37 thiện nghiệp như sau:

- 8 dục giới đại thiện nghiệp trong 8 dục giới đại thiện tâm.

- 5 sắc giới thiện nghiệp trong 5 sắc giới thiện tâm.

- 4 vô sắc giới thiện nghiệp trong 4 vô sắc giới thiện tâm.

- 4 hoặc 20 Siêu tam giới thiện nghiệp trong 4 hoặc 20 Thánh Đạo Tâm.

Ngoài ra, tác ý tâm sở đồng sinh với 36 hoặc 52 quả tâm20 duy tác tâm, tác ý tâm sở ấy không gọi là nghiệp.

- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thiện nghiệp nương nhờ nơi 3 môn: Thân, khẩu, ý như sau:

- Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) theo 3 môn: Thân, khẩu, ý đó là:

Thân ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi thân.

Khẩu ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi khẩu.

Ý ác nghiệp là ác nghiệp nương nhờ nơi ý.

- Thiện nghiệp theo 3 môn: Thân, khẩu, ý đó là:

Thân thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi thân.

Khẩu thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi khẩu.

Ý thiện nghiệp là thiện nghiệp nương nhờ nơi ý.

Thực ra, tác ý gọi là nghiệp: Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc thiện nghiệp, khi tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm (ác tâm) hoặc thiện tâm, khi tâm ấy làm phận sự tác hành tâm (javanakicca) trong lộ trình tâm sinh rồi diệt liên tục (vīthicitta).

Lộ trình tâm có 6 loại:

1. Nhãn môn lộ trình tâm.

2. Nhĩ môn lộ trình tâm.

3. Tỷ môn lộ trình tâm.

4. Thiệt môn lộ trình tâm.

5. Thân môn lộ trình tâm.

6. Ý môn lộ trình tâm.

Nếu mỗi loại lộ trình gồm có các loại tâm sinh rồi diệt liên tục và đầy đủ, thì chắc chắn có đủ tác hành tâm (javana-citta).

Tác hành tâm (javanacitta) liên quan trực tiếp đến 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp, và trong những kiếp sau sau nữa v.v... đó là dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) chỉ có 12 bất thiện tâm8 dục giới đại thiện tâm mà thôi (không có 1 tiếu sinh tâm và 8 dục giới đại duy tác tâm).

Mỗi lộ trình tâm có dục giới tác hành tâm đầy đủ 7 sát-na tâm cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục trong một lộ trình ấy, gồm có 3 loại nghiệp theo thời gian cho quả trong kiếp hiện tại, trong kiếp kế tiếp, và trong những kiếp sau sau nữa...

Ví dụ: Đồ biểu lộ trình tâm, 7 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta)

Lộ trình tâm, 7 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta)

http://trungtamhotong.org/NoiDung/ThuVien/NghiepVaQuaCuaNghiep/DoBieu207.jpg

Mỗi lộ trình tâm, nếu có 7 dục giới tác hành tâm (kāma-javanacitta ) thì gồm có 3 loại nghiệp được phân loại như sau:

1. Tác ý tâm sở đồng sinh với tác hành tâm thứ nhất gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất): Diṭṭhadhammavedanīyakamma.

2. Tác ý tâm sở đồng sinh với tác hành tâm thứ 7 gọi là nghiệp cho quả ngay kiếp kế tiếp kiếp hiện tại (kiếp thứ 2): Upapajjavedanīyakamma.

3. Tác ý tâm sở đồng sinh với 5 tác hành tâm từ thứ 2 đến thứ 6 gọi là nghiệp cho quả trong những kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, nếu có cơ hội cho quả: Aparāpariyavedanīyakamma.

Trong 3 loại nghiệp kể trên, khi nghiệp nào không có cơ hội cho quả, thì nghiệp ấy gọi là nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó nữa.

Giải thích 4 loại nghiệp theo thời gian cho quả

1. Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại = Diṭṭhadhammavedanīyakamma:

Thế nào gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất)?

Diṭṭhadhamme vedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Diṭṭha-dhammavedanīyaṃ

Nghiệp nào chỉ cho quả ngay trong kiếp hiện tại mà thôi (không có khả năng cho quả trong kiếp sau), nghiệp ấy gọi là nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kiếp thứ nhất). Đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 12 bất thiện tâm và 8 dục giới đại thiện tâm, khi làm phận sự tác hành tâm thứ nhất của mỗi lộ trình tâm.

- Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại có 2 loại:

Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại.

Thiện nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại .

1.1. Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại

Nếu bất thiện nghiệp (ác nghiệp) có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại, thì cho quả qua 6 môn, có 7 bất thiện quả vô nhân tâm như sau:

- Nhãn thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần không đáng hài lòng.

- Nhĩ thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần không đáng hài lòng.

- Tỷ thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần không đáng hài lòng.

- Thiệt thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần không đáng hài lòng.

Thân thức tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần không đáng hài lòng.

- Tiếp nhận tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc không đáng hài lòng.

- Suy xét tâm thuộc bất thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc không đáng hài lòng.

1.2. Thiện nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại

Nếu thiện nghiệp có cơ hội cho quả ngay trong kiếp hiện tại, thì cho quả qua 6 môn, có 8 thiện quả vô nhân tâm như sau:

Nhãn thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần đáng hài lòng.

Nhĩ thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần đáng hài lòng.

Tỷ thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần đáng hài lòng.

Thiệt thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần đáng hài lòng.

Thân thức tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần đáng hài lòng.

Tiếp nhận tâm thuộc thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Suy xét tâm hợp với hỷ thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Suy xét tâm hợp với xả thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng sắc, thanh, vị, hương, xúc đáng hài lòng.

Diṭṭhadhammavedanīyakamma là nghiệp chỉ có khả năng cho quả ngay trong kiếp hiện tại mà thôi. Cho nên, nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại, thì nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa. Nghiệp này hoàn toàn không có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla) và cũng không thể cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh (pavattikāla) nữa. Vì sao?

Bởi vì diṭṭhadhammavedanīyakamma là nghiệp mà tác ý tâm sở vừa mới đồng sinh với tác hành tâm thứ nhất trong 7 tác hành tâm chưa nhận được sự hỗ trợ của duyên trợ lực (āsevanappaccaya), nên chưa có nhiều năng lực. Do đó, nghiệp này chỉ có khả năng cho quả trong kiếp hiện tại mà thôi. Nếu nghiệp này không có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại, thì nghiệp này trở thành nghiệp vô hiệu quả, nghiệp không còn hiệu lực cho quả của nó được nữa.

Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (diṭṭhadhammavedanīya-kamma) có 2 loại:

a) Paripakka diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày trong kiếp hiện tại ấy.

b) Aparipakka diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp chưa già dặn, có ít năng lực, cho quả sau thời gian sau 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại ấy.

Phần giải thích

a) Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại như thế nào?

Nghiệp già dặn, có nhiều năng lực, cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp xong, nghiệp này có năng lực rất mạnh, chắc chắn trong vòng 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, nghiệp ấy sẽ cho quả của nó.

- Thiện nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại

Ví dụ:

Trường hợp một người nghèo khó tên Mahāduggata làm phước thiện bố thí cúng dường vật thực đến Đức Phật Kassapa. Sau khi Đức Phật ngự đến tế độ thọ thực tại nhà ông xong, ông ôm bát tiễn đưa Đức Phật Kassapa ngự về đến cốc của Ngài. Đảnh lễ Đức Phật xong, ông xin phép trở về nhà, ông nhìn thấy 7 thứ báu vật từ hư không rơi xuống tràn từ trong ra ngoài nhà của mình.

Đức vua tấn phong ông là đại phú hộ ngay trong ngày hôm ấy.

Trường hợp ông bà Puṇṇa nghèo khó làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta vừa mới xả diệt thọ tưởng buổi sáng hôm ấy. Ông Puṇṇa đã cày thửa ruộng từ buổi sáng, đến buổi trưa, những luống đất cày ấy hóa thành những thỏi vàng ròng sáng chói. Ông đem một thỏi vàng đến trình lên Đức vua Bimbisāra, tâu xin Đức vua truyền lệnh đem 1.000 (một ngàn) chiếc xe đến thửa ruộng kia để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Quân lính trong triều khuân toàn bộ số vàng ấy đem về chất giữa sân rồng thành đống vàng cao 80 hắc tay.

Đức vua Bimbisāra tấn phong ông Puṇṇa là vị đại phú hộ có số vàng nhiều nhất v.v…

- Ác nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại

Ví dụ:

Trường hợp tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh Arahán. Sau khi đã tạo ác nghiệp trọng tội xong, tên Nanda vừa đặt hai chân xuống mặt đất, thì mặt đất nứt nẻ làm hai phun lên ngọn lửa hút tên Nanda vào trong lòng đất. Sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp trong cõi đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ suốt thời gian lâu dài.

Trường hợp tên đồ tể Nanda làm nghề giết bò để bán thịt. Một hôm, người nhà bán hết thịt bò, không còn lại miếng thịt nào cho y. Tức giận, y lấy con dao đến chuồng bò cắt cái lưỡi con bò còn sống, đem vào bảo vợ làm món ăn cho y. Khi y ăn món lưỡi bò ấy, thì ngay khi ấy, cái lưỡi của y bị đứt lìa rơi xuống, vô cùng đau đớn khiến y quằn quại, rống lên như con bò bị cắt tiết, rồi y chết tại nơi ấy.

b) Nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại như thế nào?

Nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại, nghĩa là sau khi đã tạo nghiệp xong, nếu có cơ hội cho quả thì nghiệp ấy sẽ chỉ cho quả sau 7 ngày cho đến suốt kiếp hiện tại ấy mà thôi (không cho quả trong thời gian kiếp sau).

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ thiếu niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ thiếu niên, hoặc trong thời kỳ trung niên, hoặc trong thời kỳ lão niên.

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ trung niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy, hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ trung niên, hoặc trong thời kỳ lão niên.

Người nào đã tạo thiện nghiệp nào hoặc ác nghiệp nào trong thời kỳ lão niên, thì người ấy có thể thọ nhận quả của thiện nghiệp ấy hoặc quả của ác nghiệp ấy trong thời kỳ lão niên trong kiếp hiện tại. Nghiệp ấy không có khả năng cho quả trong thời kỳ kiếp sau.

Như vậy, gọi là nghiệp chưa già dặn, ít năng lực, cho quả sau thời gian 7 ngày cho đến trọn kiếp hiện tại ấy.

Như trong bộ Chú giải Uparipaṇṇāsaṭṭhakathā giải thích rằng:

Yaṃ pathamavaye kataṃ pathamavaye vā majjhimavaye vā pacchimavaye vā. Majjhimavaye kataṃ majjhimavaye vā pacchimavaye vā. Pacchimavaye vā kataṃ tattheva vipākaṃ deti taṃ diṭṭhadhammavedanīyaṃ nāma”.

(Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ thiếu niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ thiếu niên hoặc trong thời kỳ trung niên hoặc trong thời kỳ lão niên. Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ trung niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ trung niên hoặc trong thời kỳ lão niên. Nghiệp nào đã được tạo trong thời kỳ lão niên, thì nghiệp ấy có thể cho quả trong thời kỳ lão niên).

Đó gọi là nghiệp diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại.

Tính chất đặc biệt của nghiệp cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày

Nghiệp mà có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày ngay trong kiếp hiện tại, thì chắc chắn người tạo nghiệp ấy và đối tượng để tạo nghiệp ấy phải có tính chất đặc biệt hơn các nghiệp khác. Cho nên, không phải nghiệp nào cũng có khả năng đặc biệt cho quả của nó trong khoảng thời gian 7 ngày được.

a) Thiện nghiệp bố thí có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày

Thiện nghiệp bố thí có khả năng cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày, cần phải hội đầy đủ 4 nhân duyên như sau:

1. Vatthusampadā: Bậc thọ thí là Đức Phật, hoặc bậc Thánh Arahán hoặc bậc Thánh Bất Lai.

2. Paccayasampadā: Vật bố thí được phát sinh một cách hợp pháp và hoàn toàn trong sạch.

3. Cetanāsampadā: Thí chủ là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, có đầy đủ 3 thời tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ là:

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ trước khi làm phước thiện bố thí.

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ đang khi làm phước thiện bố thí.

Tác ý thiện tâm trong sạch và hoan hỷ sau khi đã làm phước thiện bố thí xong.

4. Guṇātirekasampadā: Bậc thọ thí có ân đức đặc biệt như Đức Phật, hoặc bậc Thánh Arahán, hoặc bậc Thánh Bất Lai vừa mới xả diệt thọ tưởng suốt 7 ngày đêm xong, rồi đi khất thực.

Nếu phước thiện bố thí hội đủ 4 nhân duyên này, thì chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả trong khoảng thời gian 7 ngày, có khi ngay trong ngày hôm ấy, như những trường hợp sau:

- Tích người nghèo khó Mahāduggata

Tích người nghèo khó Mahāduggata được tóm lược như sau:

Vào thời kỳ Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian, Đức Phật cùng với 20 ngàn bậc Thánh Arahán ngự đến thành Bārāṇasī. Một hôm, sau khi độ vật thực xong, Đức Phật thuyết pháp dạy rằng:

- Này cận sự nam, cận sự nữ, trong đời này:

Số người tự mình làm phước thiện bố thí, mà không động viên, khuyến khích người khác cùng làm phước thiện bố thí với mình, thì phước thiện bố thí ấy cho quả đối với số người ấy là họ có nhiều của cải, nhưng không có bạn bè, thuộc hạ thân thiết.

Số người động viên, khuyến khích những người khác làm phước thiện bố thí, nhưng chính mình thì không chịu đem của cải ra làm phước thiện bố thí, thì phước thiện của sự động viên, khuyến khích ấy cho quả đối với số người ấy là họ có nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết, nhưng không có nhiều của cải.

Số người tự mình không làm phước thiện bố thí, cũng không động viên, khuyến khích những người khác làm phước thiện bố thí, thì số người ấy sống ở nơi nào cũng là người ít của cải, nghèo khổ, thiếu thốn và cũng không có bạn bè, không có thuộc hạ thân thiết.

Số người tự mình làm phước thiện bố thí, còn động viên, khuyến khích những người khác cùng làm phước thiện bố thí với mình, thì những phước thiện ấy cho quả đối với số người ấy là giàu sang phú quý, có nhiều của cải, tài sản lớn và có nhiều bạn bè, có nhiều thuộc hạ thân thiết,…

Một người cận sự nam có trí tuệ ngồi nghe pháp, suy tư rằng: “Ta muốn có được nhiều của cải và được nhiều bạn bè, thuộc hạ thân thiết”.

Người ấy đảnh lễ Đức Phật, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, ngày mai con kính thỉnh Đức Thế Tôn cùng tất cả 20.000 (hai mươi ngàn) chư Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí vật thực.

Đức Phật nhận lời bằng cách im lặng.

Ông trở về đi thông báo cho toàn thể dân chúng trong thành biết rằng ngày hôm sau sẽ làm phước thiện bố thí đến Đức Phật cùng tất cả 20.000 chư Đại đức Tăng, ai có khả năng làm phước thiện bố thí đến bao nhiêu vị, xin ghi danh. Có gia đình xin thỉnh 10 vị, có gia đình xin thỉnh 20 vị, ... có gia đình xin thỉnh 100 vị, v.v…

Khi gặp cậu Mahāduggata là người nghèo khó nhất trong thành, ông động viên khuyến khích rằng:

- Này cậu Mahāduggata, ngày mai, tôi có thỉnh Đức Phật cùng 20.000 Đại đức Tăng để làm phước thiện bố thí, cậu có khả năng làm phước thiện bố thí được bao nhiêu vị?

- Thưa ông! Gia đình con nghèo khó, vợ chồng con đi làm thuê, làm được ngày nào ăn ngày ấy còn không đủ nữa, thì lấy gì mà làm phước thiện bố thí! Thưa ông.

- Này cậu Mahāduggata, trong thành này, những người giàu sang phú quý, có nhiều của cải, có quyền cao chức trọng… là do nhờ quả của phước thiện bố thí. Còn gia đình cậu, ngày qua ngày làm thuê mà không đủ ăn, đó là do không làm phước thiện bố thí, cậu có hiểu biết rõ như vậy không?

- Thưa ông! Con hiểu rồi, xin ông ngày mai cho gia đình con thỉnh một vị Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí.

Ông cận sự nam hoan hỷ chấp thuận cho gia đình cậu Mahāduggata thỉnh một vị Đại đức Tăng, để làm phước thiện bố thí vào ngày hôm sau, nhưng ông quên ghi vào danh sách, mà tiếp tục đi động viên khuyến khích người khác nhận đủ 20.000 vị Đại đức Tăng.

Sau khi được ông cận sự nam chấp thuận cho thỉnh một vị Đại đức để làm phước thiện bố thí vào ngày hôm sau, cậu Mahāduggata vô cùng hoan hỷ, trở về báo tin cho người vợ hay biết, người vợ cũng vô cùng hoan hỷ, bàn tính nhau làm thuê kiếm gạo, đồ ăn về để ngày hôm sau làm phước thiện bố thí đến vị Đại đức ấy.

Mahāduggata đi tìm việc làm, ông phú hộ nhìn thấy cậu gọi lại thuê chẻ đống củi, để ngày hôm sau nấu đồ ăn dâng cúng đến chư Đại đức Tăng, cậu vô cùng hoan hỷ, lấy búa chẻ trong chốc lát là xong ngay đống củi lớn, ông phú hộ ngạc nhiên hỏi:

- Này Mahāduggata, sao hôm nay cậu làm việc siêng năng và nhanh nhẹn thế?

- Thưa ông! Ngày mai gia đình con sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, nên con cảm thấy hoan hỷ, sung sướng mà làm việc không biết mệt.

Ông phú hộ ca tụng cậu, làm một việc khó làm. Ông trả công cho 4 ô gạo sāli (loại gạo ngon thời xưa).

Về phần vợ của cậu đi giúp việc nhà bếp cho bà phú hộ, cô cũng rất hân hoan làm mọi công việc một cách sạch sẽ, gọn gàng, nhanh nhẹn, nên bà phú hộ vừa rất hài lòng, lại vừa ngạc nhiên hỏi:

- Này con, sao hôm nay con có vẻ vui sướng và làm việc giỏi vậy?

- Thưa bà! Ngày mai gia đình con sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, nên con cảm thấy sung sướng làm việc, để được những món gia vị làm đồ ăn cho ngày mai.

Nghe nói vậy, bà phú hộ ca tụng cô đã làm được một việc khó làm. Bà trả công bằng bơ, dầu, đồ dùng…

Vợ chồng Mahāduggata vô cùng hoan hỷ được gạo ngon, dầu bơ, đồ dùng để làm phước thiện bố thí vào hôm sau.

Sáng sớm hôm sau, người vợ thưa với chồng, đi kiếm một ít rau về nấu một bát canh. Mahāduggata đi ra khỏi nhà, vừa đi vừa ca hát, đi ngang bến ghe chài; đêm hôm trước, người dân chài bắt được nhiều cá vừa cập bến, nghe tiếng ca hát của Mahāduggata bèn gọi:

- Này Mahāduggata cậu đi đâu đó? Sao hôm nay vui sướng quá vậy? Hãy xuống đây giúp tôi đem cá bán, rồi tôi sẽ cho một ít cá.

- Này bạn, hôm nay gia đình tôi sẽ làm phước thiện bố thí đến một vị Đại đức Tăng, tôi đang đi tìm rau về nấu canh; may quá, có được cá lại càng tốt.

Mahāduggata hăng hái đem cá bán, hôm ấy dân chúng trong thành mua cá làm đồ ăn để làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Đại đức Tăng, nên phần cá bán không còn con nào cả. Cậu nóng lòng muốn về nhà cho kịp làm phước thiện bố thí, bèn hỏi người chủ thuyền:

- Này bạn, phần cá của tôi đâu?

- Bạn đừng lo, tôi còn một phần cá đặc biệt ở dưới ghe, để tôi lấy cho bạn.

Người chủ đem cho Mahāduggata 4 con cá hồi (rohita-maccha). Cậu vội vàng đem về nhà.

Canh chót đêm ấy, Đức Thế Tôn nhập đại bi định, khi xả định quán xét chúng sinh nào có duyên lành nên tế độ; Đức Phật nhìn thấy Mahāduggata là người có đức tin trong sạch, nhận lãnh một vị Đại đức Tăng để làm phước thiện bố thí, nhưng người cận sự nam quên ghi vào danh sách, đến khi Mahāduggata gặp người cận sự nam xin nhận lãnh vị Đại đức ấy thỉnh về nhà, thì không còn một vị Đại đức nào cả. Vậy, chính Như Lai sẽ tế độ Mahāduggata mà thôi.

Vua trời Sakka cảm thấy chỗ ngồi phát nóng, quán xét thấy rõ hôm nay Mahāduggata sẽ làm phước thiện bố thí cúng dường Đức Phật, nên hiện xuống giúp đỡ cậu để tạo phước thiện. Vua trời Sakka biến hóa thành một người đầu bếp tài giỏi đến xin giúp việc cho Mahāduggata không lấy tiền công, chỉ bỏ công làm phước thiện mà thôi. Mahāduggata đồng ý chấp thuận, xin mời vào nhà lo giúp việc nấu ăn, Vua trời Sakka nấu cơm, các món ăn đều bỏ đồ gia vị cõi trời, hương trời, Đức vua trời Sakka bảo rằng:

- Này bạn, công việc nấu nướng để tôi lo, bạn hãy đi thỉnh vị Đại đức về nhà cho kịp giờ.

Mahāduggata đi đến tìm người cận sự nam xin thỉnh một vị Đại đức, mà ông đã động viên khuyến khích. Khi đến gặp ông, hởi ôi! Ông đã quên, nên không còn một vị Đại đức nào cả, cậu thất vọng buồn tủi ôm mặt khóc; mọi người nhìn thấy cậu đáng thương và trách người cận sự nam ấy, người cận sự nam ấy an ủi cậu rồi hướng dẫn rằng:

- Còn Đức Phật ở trong cốc chưa mở cửa. Đức vua, các quan, phú hộ đang trông chờ Đức Phật mở cửa để thỉnh bát của Ngài. Chư Phật thường tế độ những người nghèo khó, vậy cậu hãy vào xin Đức Phật tế độ.

Nghe nói vậy, đôi mắt của Mahāduggata sáng lên, niềm hy vọng phát sinh, cậu dũng cảm đến trước cửa cốc, đảnh lễ, đầu va chạm vào cửa, bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, trong thành này người nghèo khó hơn con không có, kính xin Ngài có lòng đại bi tế độ con. Bạch Ngài.

Đức Phật mở cửa trao bình bát trên tay cậu. Cậu được bình bát của Đức Phật mừng hơn được ngai vàng của Đức Chuyển Luân Thánh Vương. Đức vua, các quan, phú hộ xin lại bình bát trên tay cậu hứa sẽ ban cho cậu nhiều tiền của, nhưng cậu không màng đến.

Cậu kính thỉnh Đức Phật về đến nhà, Đức vua trời Sakka hóa thành người đầu bếp đã làm xong vật thực ngon lành, trải chỗ ngồi cao quý, thỉnh Đức Phật vào nhà.

Khi Đức Phật vừa bước vào, thì căn nhà cao hẳn lên, nên Ngài không phải cúi khom người xuống, Ngài ngự trên chỗ ngồi đã trải sẵn. Còn Đức vua trời là người đầu bếp đã làm xong những món vật thực, liền bảo Mahāduggata đem những món vật thực dâng cúng đến Đức Phật. Mùi thơm của các món vật thực toả khắp cả kinh thành Bārāṇasī. Trong khi đó, Đức vua cùng các quan, phú hộ đi theo sau Đức Phật đến nhà của Mahāduggata để biết xem cậu làm phước thiện bố thí cúng dường Đức Phật bằng những món vật thực gì, khi đến nơi tất cả đều được ngửi mùi thơm của những món vật thực, mà trong đời chưa từng được ngửi bao giờ. Đức vua trời Sakka đảnh lễ Đức Phật, rồi ngồi hầu Đức Phật.

Độ vật thực xong, Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình Mahāduggata, rồi Ngài ngự trở về chùa, Mahāduggata ôm bát theo sau tiễn đưa Đức Phật.

Đức vua trời Sakka hoan hỷ phước thiện bố thí xong, cũng trở về cung Tam Thập Tam Thiên.

Khi Mahāduggata trở về đứng trước cửa, nhìn thấy từ hư không rơi xuống 7 thứ báu vật đầy nhà, người vợ phải dắt tay đứa con ra khỏi nhà, vì 7 thứ báu vật tràn từ trong ra ngoài nhà của ông, không còn chỗ nào trống cả.

Cậu nghĩ rằng: “Đó là quả báu của phước thiện bố thí của chúng ta ngày hôm nay”.

Mahāduggata liền đến chầu Đức vua tâu rằng:

- Tâu Hoàng thượng, nhà của tiện dân đầy cả thất báu, xin bệ hạ đem 1.000 chiếc xe đến nhà tiện dân chở tất cả thất báu ấy về cung điện.

Đức vua truyền quân lính trong triều đình đem 1.000 chiếc xe chở tất cả 7 thứ báu vật đem về chất thành đống trước sân rồng.

Đức vua truyền hỏi:

- Trong thành này, người nào có của cải nhiều như thế này không?

Tất cả mọi người đều tâu:

- Tâu Hoàng thượng, không một người nào có nhiều của báu như thế ấy cả.

Do đó, Đức vua tấn phong Mahāduggata địa vị đại phú hộ, rồi truyền rằng:

- “Tất cả của cải này là quả báu phước thiện bố thí của nhà ngươi, vậy nhà ngươi hãy nhận lấy”

Đức vua cấp đất đai, xây cất những căn nhà lớn, cấp nhiều gia nhân. Khi xây cất nhà xong, phú hộ Mahāduggata thỉnh Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng làm phước đại bố thí suốt 7 ngày và từ đó về sau cậu thường bố thí, giữ giới, tạo mọi thiện pháp cho đến hết tuổi thọ, do năng lực mọi phước thiện ấy cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới hưởng mọi sự an lạc.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, hậu kiếp của Mahāduggata trong thời kỳ Đức Phật Kassapa là vị thiên nam, sau khi hết tuổi thọ tại cõi trời, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh đầu thai vào người con gái của ông phú hộ. Đến thời kỳ, người mẹ sinh ra một bé trai đặt tên là “Paṇḍita”. Người mẹ của cậu vốn là người hộ độ Ngài Đại đức Sāriputta.

Khi lớn lên được 7 tuổi, cậu bé Paṇḍita xin mẹ cha chấp thuận cho phép xuất gia trở thành Sadi Paṇḍita, với Ngài Đại đức Sāriputta là thầy tế độ.

Cha mẹ của Ngài đến chùa làm phước thiện bố thí vật thực, đặc biệt có món cá hồi (rohitamaccha) đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tăng suốt 7 ngày. Qua đến ngày thứ 8, Sadi Paṇḍita thực hành thiền tuệ chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc từ Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả cho đến Arahán Thánh Đạo - Arahán Thánh Quả cùng với Tứ tuệ phân tích, trở thành bậc Thánh Arahán, hoàn thành xong phận sự của Samôn.

Ngài Đại đức Sāriputta đi khất thực độ xong, còn đem về cho Sadi Paṇḍita một phần vật thực, trong đó có món cá hồi, theo nguyện vọng của Sadi, người đệ tử có sắc thân bé nhỏ, song tâm là bậc Thánh Arahán cao thượng.

Làm phước thiện bố thí đến Đức Phật với đức tin trong sạch, hoan hỷ trong phước thiện, quả báu của phước thiện bố thí ấy không chỉ được giàu sang phú quý ngay trong kiếp hiện tại, những kiếp vị lai đầy đủ của cải thế gian, mà còn kiếp chót cũng có đầy đủ 9 pháp Siêu tam giới đó là: 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn.

* Tích gia đình ông Puṇṇa

Tích ông Puṇṇa, người làm thuê của ông phú hộ Sumana, được tóm lược như sau:

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama còn tại thế, gia đình ông Puṇṇa nghèo khó làm ruộng thuê của ông phú hộ Sumana, mọi người trong gia đình đều có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo.

Một buổi sáng, ông đi cày ruộng, cũng vào buổi sáng hôm ấy, Ngài Đại đức Sāriputta xả diệt thọ tưởng (sau 7 ngày đêm), đi khất thực để tế độ gia đình ông Puṇṇa, nên Ngài đi thẳng về hướng ông Puṇṇa đang cày ruộng. Nhìn thấy Ngài Đại đức Sāriputta từ xa đến, ông Puṇṇa liền bỏ cày, đến hầu đảnh lễ Ngài, dâng cúng cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống. Ngài Đại đức Sāriputta thọ nhận xong, đi theo đường hướng về nhà ông Puṇṇa, gặp vợ ông Puṇṇa đang đem cơm cho chồng. Bà đảnh lễ Ngài Đại đức Sāriputta xong, bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại đức, kính xin Ngài từ bi thọ nhận phần vật thực nghèo nàn này của gia đình chúng con.

Ngài Đại đức Sāriputta từ bi tế độ thọ nhận tất cả phần vật thực, bà vô cùng hoan hỷ phát nguyện:

- Do nhờ phước thiện bố thí này của chúng con, cầu mong cho gia đình chúng con được một phần pháp mà Ngài đã chứng đắc.

Ngài Đại đức Sāriputta chúc phúc rằng:

- Mong cho gia đình các con được toại nguyện.

Bà vô cùng hoan hỷ quay trở về nhà, nấu lại phần cơm khác đem cho chồng, rồi vội vàng mang cơm ra đồng ruộng, với tâm hoan hỷ phước thiện bố thí đến Ngài Đại đức Sāriputta, làm cho thân tâm của bà nhẹ nhàng, nhu nhuyến không sao giấu được.

Còn phần ông Puṇṇa, trễ giờ đói bụng, thả bò đi ăn cỏ, ông lên bờ ngồi dưới bóng mát cây, chờ đợi vợ. Dù đói bụng, nhưng tâm vẫn hoan hỷ, niệm tưởng lại việc làm phước thiện bố thí tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại đức Sāriputta. nhìn từ xa, ông thấy vợ mình đang đi đến trễ hơn mọi ngày, nhưng bà có vẻ khác thường, chắc chắn bà đang hoan hỷ một điều gì đó. Bà vừa đến nơi liền thưa với chồng rằng:

- Hôm nay, xin anh hoan hỷ thật nhiều! Sáng nay, khi em đem cơm cho anh, giữa đường gặp Ngài Đại đức Sāriputta đang đi khất thực, em phát sinh đức tin trong sạch, đem phần cơm của anh để bát cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, Ngài không chê vật thực nghèo hèn của chúng ta. Ngài Đại đức có tâm từ bi tế độ thọ nhận tất cả vật thực phần của anh, xin anh nên hoan hỷ phần phước thiện bố thí này!

Ông Puṇṇa vừa lắng nghe từng tiếng, từng câu làm cho ông phát sinh thiện tâm hỷ lạc đến cực độ, nên không thể theo dõi liên tục trọn vẹn lời nói của vợ ông. Sực tỉnh lại, ông muốn biết chắc chắn chính mình nghe đúng sự thật là như vậy không, nên ông bảo với vợ rằng:

- Này em, xin em hãy nói lại cho anh nghe một lần nữa!

Bà vợ thưa lại rõ ràng một lần nữa, lần này ông nghe rõ biết chắc chắn đúng sự thật như vậy rồi, ông vô cùng hoan hỷ phước thiện bố thí của vợ, đã đem phần cơm của mình cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta; tiếp theo ông nói cho vợ biết ông cũng vừa làm phước thiện bố thí cúng dường cây tăm xỉa răng và nước đến Ngài Đại đức Sāriputta. nghe xong, bà cũng vô cùng hoan hỷ việc phước thiện bố thí của chồng.

Hai vợ chồng cùng nhau hoan hỷ việc phước thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta. Dùng cơm xong, ông nằm niệm tưởng đến phước thiện bố thí vừa mới làm, mới thiu thiu giấc ngủ, ông bừng tỉnh lại, ngồi nhìn thấy phần đất ruộng vừa cày buổi sáng, đã hóa thành những thỏi vàng y (vàng ròng) làm cho ông hoa cả mắt; và vợ của ông cũng cảm thấy như ông vậy. Ông lấy lại bình tỉnh đi xuống ruộng, lấy lên một thỏi, đúng thật là thỏi vàng ròng; ông đem đến khoe và nói với vợ rằng:

- Này em, vợ chồng chúng ta đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, do phước thiện bố thí ấy, liền cho quả báu đến vợ chồng chúng ta ngày hôm nay, chúng ta không thể nào giấu một số vàng lớn như thế này được!

Ông Puṇṇa lấy một số thỏi vàng bỏ vào khay, đem trình lên Đức vua và tâu rằng:

- Tâu Đức vua, sáng nay tiện dân đi cày ruộng, tất cả đất cày đều hóa thành những thỏi vàng ròng. Kính xin Đức vua truyền lệnh cho binh lính đem xe đến chở số vàng ấy về cất trong kho báu của Đức vua.

Đức vua hỏi:

- Nhà ngươi là ai?

Ông Puṇṇa tâu:

- Tâu Đức vua, tiện dân là Puṇṇa, một nông dân nghèo khó làm thuê.

- Sáng nay, nhà ngươi đã làm được việc gì đặc biệt?

- Tâu Đức vua, tiện dân làm phước cúng dường cây tăm xỉa răng và nước dùng, nước uống đến Ngài Đại đức Sāriputta; còn phần vợ tiện dân làm phước cúng dường phần cơm của tiện dân đến Ngài Đại đức.

Đức vua truyền rằng:

- Này Puṇṇa, vợ chồng ngươi đã làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, cho nên, quả báu phát sinh ngay trong ngày hôm nay. Vậy, ngươi muốn Trẫm làm gì?

Ông Puṇṇa tâu:

- Tâu Đức vua, tiện dân xin Đức vua truyền lệnh đem ngàn chiếc xe đến thửa ruộng kia, để khuân tất cả số vàng ấy về cung điện.

Đức vua truyền lệnh đem hàng ngàn chiếc xe đến chở vàng ròng, quân lính trong triều nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”, tức thì những thỏi vàng trở lại thành đất như cũ. Quân lính trong triều trở về tâu lên Đức vua sự việc xảy ra như vậy. Đức vua sáng suốt bèn truyền rằng:

- Các ngươi nghĩ như thế nào, khi nhặt lấy những thỏi vàng ấy?

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần nghĩ và nói rằng: “Vàng của Đức vua”.

Đức vua phán:

- Số vàng ròng kia không phải của Trẫm. Các người nên trở lại nghĩ và nói rằng: “Vàng của ông bà Puṇṇa” rồi khuân số vàng ấy về đây.

Họ vâng lệnh Đức vua trở lại nơi ấy.

Thật đúng vậy, lần này họ khuân toàn bộ số vàng ấy đem về, chất giữa sân rồng thành một đống vàng cao 80 hắc tay.

Ông Puñña trình thỉnh với Phật

Đức vua cho truyền dân chúng trong thành hội họp tại sân rồng, bèn hỏi rằng:

- Trong kinh thành này, có người nào khác có số vàng lớn như thế này không?

Toàn thể dân chúng trong thành tâu:

- Tâu bệ hạ, không có người nào khác cả.

Đức vua hỏi tiếp:

- Trẫm nên tấn phong ông Puṇṇa như thế nào mới xứng đáng?

- Xin Hoàng thượng tấn phong ông Puṇṇa địa vị đại phú hộ.

Đức vua phán rằng:

- Này Puṇṇa, từ nay ngươi là đại phú hộ, có tên “Bahu-dhanaseṭṭhi: Phú hộ nhiều của cải”.

Sau khi trở thành đại phú hộ Puṇṇa, gia đình ông càng có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng có Đức Phật chủ trì suốt 7 ngày. đến ngày thứ 7 Đức Phật thuyết pháp tế độ gia đình ông Puṇṇa, toàn gia đình ông đại phú hộ Puṇṇa (hai vợ chồng và đứa con gái tên Uttarā) đều chứng đắc thành bậc Thánh Nhập Lưu.

Vợ chồng ông Puṇṇa làm phước thiện bố thí cúng dường đến Ngài Đại đức Sāriputta, sau khi xả diệt thọ tưởng, do năng lực phước thiện bố thí trong sạch và hội đủ nhân duyên ấy, liền cho quả báu trong ngày hôm ấy, trở thành đại phú hộ nhiều của cải thế gian và đặc biệt hơn nữa, toàn gia đình chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu, thuộc pháp Siêu tam giới.

Những trường hợp tương tự trên, có không ít trong Phật giáo.

b) Ác nghiệp nặng có khả năng cho quả trong 7 ngày

Tích nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā

Tích nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā, được tóm lược như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đang ngự tại giảng đường thuyết pháp tế độ tứ chúng đệ tử, thì nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā xinh đẹp giả làm người mang thai hằn học bước vào, đứng chỉ tay về Đức Thế Tôn, buông lời vu khống rằng: “Nàng mang thai với Đức Thế Tôn”, rồi mắng nhiếc Ngài giữa tứ chúng đệ tử, để làm mất uy tín của Ngài theo âm mưu của các nhóm ngoại đạo.

Đức Phật xuất hiện trên thế gian, vào thời kỳ đầu, chánh pháp của Đức Phật được phát triển mạnh mẽ, có nhiều người chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo - Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhân, cho nên, danh thơm tiếng tốt của Đức Phật được lan truyền khắp mọi nơi. Vua chúa, Hoàng tộc, giai cấp Bàlamôn, các phú hộ, phần đông dân chúng phát sinh đức tin nơi Đức Phật, nơi Đức Pháp, nơi Đức Tăng, có số xin xuất gia trở thành Tỳ khưu trong Phật giáo, còn số khác xin thọ phép quy y Tam Bảo trọn đời, càng ngày càng thêm đông. Đại đa số, trước kia đã từng là đệ tử của nhóm ngoại đạo, nay họ đã từ bỏ các nhóm ngoại đạo để trở thành đệ tử của Đức Phật, họ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, thường cúng dường những thứ vật dụng đến Đức Phật cùng chư Đại đức Tỳ khưu Tăng, không cúng dường đến các nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa. Đó là điều mà các tu sĩ ngoại đạo cảm thấy bị tổn thương, những tín đồ cũ không giữ được, tín đồ mới không có, cho nên, những lễ vật cúng dường, lợi lộc càng ngày càng giảm dần.

Các nhóm ngoại đạo tìm mọi cách ngăn cản nhóm đệ tử không cho tìm đến Đức Phật nhưng chúng hoàn toàn bất lực, không thể ngăn cản được. Cho nên, lợi lộc càng ngày càng suy giảm, đời sống không được sung túc như trước nữa. Các nhóm tu sĩ ngoại đạo hội họp với nhau, bày mưu tính kế thâm độc để hạ uy tín của Đức Phật.

Thời ấy, trong thành Sāvatthi có cô kỹ nữ xinh đẹp như thiên nữ tên là Ciñcāmāṇavikā, nàng vốn là đệ tử thuần thành của các nhóm tu sĩ ngoại đạo. Thấy sắc đẹp tuyệt trần của nàng, các tu sĩ nghĩ ra một diệu kế: “Chúng ta dùng nàng kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā giả mang thai rồi vu khống cho Samôn Gotama, gây ra sự hiểu lầm, để làm mất uy tín của Samôn”.

Mưu kế ấy được chúng đều chấp nhận.

Một hôm, như lệ thường nàng Ciñcāmāṇavikā đến tu viện ngoại đạo, đảnh lễ các tu sĩ xong, nàng ngồi một bên. Nàng Ciñcāmāṇavikā rất ngạc nhiên không hiểu sao các tu sĩ ngồi im lặng không nói với nàng một câu nào. Nàng thầm nghĩ: “Mình có lỗi gì đây!”.

Nàng bạch vị Trưởng Lão rằng:

- Kính bạch Ngài, con đã lễ bái quý Ngài ba lần rồi, nhưng con không biết con có lỗi gì mà quý Ngài không nói với con một lời nào?

Vị Trưởng Lão tỏ vẻ nghiêm nghị nói với nàng:

- Không! Này con, con là một đệ tử rất tốt, con không có lỗi gì! Hiện nay đời sống của quý thầy khổ sở, thiếu thốn lắm con à! Vì vậy, quý thầy buồn bực, khổ tâm, không ai buồn nói với ai điều gì cả.

Nàng Ciñcāmāṇavikā ngạc nhiên, nóng lòng hỏi:

- Kính bạch quý Ngài, trước đây đời sống của quý Ngài được đầy đủ lắm, sao hiện nay lại lâm vào hoàn cảnh khổ cực như vậy?

- Này Ciñcāmāṇavikā, con không biết gì hay sao? Chính Samôn Gotama đã làm khổ quý thầy, chính Samôn Gotama đã làm cho quý thầy mất hết cả uy tín, danh vọng và những lợi lộc cúng dường… cho nên, quý thầy phải sống trong cảnh thiếu thốn khổ cực như vậy!

Nàng Ciñcāmāṇavikā cảm thấy rất đau lòng, chân tình thưa:

- Vậy mà con có hay biết gì đâu? Không biết con có thể làm gì, để giúp đỡ cho quý Ngài?

Các vị tu sĩ ngoại đạo giả vờ im lặng một lúc rồi có vị nói:

- Chỉ sợ con ngại khó, mà không giúp quý thầy đó thôi.

Nàng Ciñcāmāṇavikā mau mắn đáp:

- Không, khó khăn gì con cũng có thể làm được, miễn là làm sao cho quý Ngài được sống an lạc, thế là con mãn nguyện lắm rồi!

Vị tu sĩ ngoại đạo nghiêm chỉnh nói:

- Đây là việc rất hệ trọng, đòi hỏi con phải khôn khéo. Nếu con thật tình muốn giúp đỡ quý thầy, thì chỉ có một phương pháp duy nhất là con hãy dùng cái sắc đẹp duyên dáng, đầy quyến rũ của con, làm thế nào đó giả mang thai với Sa môn Gotama. Con làm được như vậy, sẽ làm giảm uy tín của Sa môn Gotama, như thế thì phần đông tín đồ của Samôn Gotama sẽ trở về lại với chúng ta.

Nàng Ciñcāmāṇavikā hớn hở nói:

- Đúng vậy, kế này rất hay! Xin quý Ngài hãy tin tưởng nơi con, con sẽ cố gắng làm tròn bổn phận để đền đáp công ơn của quý Ngài đối với con.

Từ hôm ấy, cứ vào mỗi buổi chiều dân chúng trong thành Sāvatthi sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp tại chùa Jetavana xong, đảnh lễ Đức Phật trở về nhà, họ thường gặp nàng Ciñcāmāṇavikā ăn mặc đẹp đẽ rất quyến rũ, cầm một bó hoa trên tay đang đi trên đường hướng đến chùa Jetavana, có người tò mò dừng lại hỏi:

- Chiều tối rồi, cô đi đâu mà ăn mặc đẹp vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā trả lời cố ý tạo ra một sự nghi ngờ:

- Tôi đi đâu là việc của tôi, quý vị biết phỏng có ích lợi gì!

Nói xong, nàng bước đi theo hướng đến chùa Jetavana, nhưng lại nghỉ qua đêm tại một tu viện ngoại đạo ở gần đó.

Rồi sáng hôm sau, khi có một số cận sự nam, cận sự nữ đem vật dụng đến chùa Jetavana để cúng dường Đức Phật và Tăng chúng, thì lại thấy nàng Ciñcāmāṇavikā từ hướng chùa Jetavana trở lại thành Sāvatthi, người ta lại hỏi nàng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā ỡm ờ đáp:

- Tôi nghỉ ở đâu có nơi có chỗ của tôi, quý vị biết phỏng có lợi ích gì!

Và từ đó, cứ vào mỗi buổi chiều và mỗi buổi sáng, từ tháng này sang tháng khác, nàng Ciñcāmāṇavikā đều làm như vậy. Cho đến một hôm, có số người cận sự nam, cận sự nữ khác hỏi rằng:

- Đêm hôm qua cô nghỉ ở đâu mà sáng nay lại vào thành sớm vậy?

Nàng Ciñcāmāṇavikā thấy đã đến lúc cần phải nói, để bắt đầu gây ra sự ngờ vực.

- Chuyện riêng tư của tôi mà quý vị muốn biết hay sao? Sớm muộn gì quý vị cũng sẽ biết thôi mà! Nếu quý vị muốn biết bây giờ tôi xin khai thật: “Đêm qua tôi nghỉ ở Gandhakuṭi chung với Samôn Gotama để phục vụ Ngài, đó là một niềm vinh dự lớn lao của đời tôi”.

Nói xong, nàng tỏ vẻ đắc ý bỏ vào thành.

Khi nghe nàng Ciñcāmāṇavikā nói vậy, một số cận sự nam, cận sự nữ thiểu trí, sinh tâm bán tín bán nghi. 3 - 4 tháng sau, nàng Ciñcāmāṇavikā lấy vải độn bụng, mặc áo lụng thụng che bên ngoài làm như người đang mang thai. Có một số người không có trí tuệ, không hiểu biết về giáo pháp của Đức Phật nghĩ là cô Ciñcāmāṇavikā thật sự có thai với Samôn Gotama rồi.

Thời gian đã đến 9 tháng, màn kịch hạ uy tín Đức Thế Tôn đến hồi chung cuộc. Nhóm tu sĩ ngoại đạo gọi nàng Ciñcāmāṇavikā đến, họ dùng một miếng gỗ đẽo hình dạng giống như cái thai sắp đến ngày sinh nở, có 4 đầu dây giăng. Nàng Ciñcāmāṇavikā mang vào buộc chặt sau lưng, mặc áo phủ kín lại, nhìn giống như người mang thai thật; sau đó, nhóm tu sĩ ngoại đạo dùng cây đánh vào sống bàn tay, bàn chân của nàng cho sưng lên nhìn đúng là người đàn bà sắp đến thời kỳ sinh nở.

* Đức Phật thắng nàng Ciñcāmāṇavikā

Vào một buổi chiều, khi Đức Phật đang ngự trên pháp tòa, tại giảng đường chùa Jetavana, tứ chúng đệ tử đang ngồi im lặng lắng nghe pháp như thường lệ, thì nàng Ciñcāmāṇavikā từ ngoài xồng xộc đi vào, đến trước Đức Phật, chỉ tay buông lời mắng nhiếc:

- Này ông Đại Samôn Gotama! Ông thuyết pháp thật là hay, thật là giỏi, ông tế độ biết bao nhiêu người, còn tôi sao ông không tế độ? Tôi bụng mang dạ chửa là vì ông, ông nói ngon nói ngọt với tôi, bảo là sẽ giúp tôi thế này, thế nọ… Hôm nay, sắp đến ngày sinh nở, ông lo thuyết pháp tế độ người khác, chẳng đoái hoài gì đến tôi. Dầu ông bận không lo cho tôi được, thì ông bảo những người hộ độ ông như Đức vua Pasenadi, ông phú hộ Anāthapiṇḍika, bà Visākhā… lo cho tôi cũng được. Nhưng đằng này, ông chỉ biết thỏa mãn dục vọng cá nhân, ông không hề biết đến nỗi khổ của tôi phải chịu bụng mang dạ chửa như thế này đây!

Nghe nàng Ciñcāmāṇavikā mắng nhiếc, Đức Phật ngưng thuyết pháp, vẫn ngồi an nhiên tự tại, an tịnh trên pháp tòa rồi từ tốn nói:

“Bhagini, tayā kathitassa tathabhāvaṃ vā vitathabhāvaṃ vā ahameva ca tvañca jānāma”.

(Này cô! Cô nói lời chân thật hay giả dối chỉ có Như Lai và cô biết rõ mà thôi!)

Nàng Ciñcāmāṇavikā liền đáp:

- Đúng vậy, này ông Đại Samôn, chỉ có ông và tôi biết rõ mà thôi!

Ngay giây phút ấy, tại cung trời Tam Thập Tam Thiên, bảo tòa của Vua trời Sakka nóng lên, bằng thiên nhãn quan sát nguyên nhân, vua trời thấy rõ nàng Ciñcāmāṇavikā đang mắng nhiếc Đức Phật trước tứ chúng đệ tử, bởi những chuyện không có thật. Đây là âm mưu thâm độc của nhóm tu sĩ ngoại đạo, dùng cô kỹ nữ Ciñcāmāṇavikā vô liêm sĩ, cố ý làm hạ uy tín của Đức Phật trước tứ chúng đệ tử. Vua trời Sakka quyết định phải làm sáng tỏ chuyện này. Vua trời cùng 4 thiên nam xuất hiện xuống giảng đường chùa Jetavana ngay tức khắc. Theo lệnh của Đức vua trời, 4 vị thiên nam hóa thành 4 con chuột, cùng một lúc bò lên cắn đứt 4 sợi dây dùng để cột tấm gỗ, hình dạng giống bào thai, sau lưng nàng Ciñcāmāṇa-vikā, đồng thời Vua trời hóa một luồng gió thổi cho tấm gỗ kia rơi xuống đất đụng nhằm hai bàn chân của nàng Ciñcā-māṇavikā, làm cho đôi chân của nàng bầm máu.

Sự việc xảy ra trong thời gian ngắn ngủi, mọi sự thật hiển nhiên phơi bày trước mắt tứ chúng đệ tử. Nàng Ciñcāmāṇavikā bị mắng nhiếc không tiếc lời, có người đánh đập, nhổ nước bọt rồi xua đuổi nàng ra khỏi khuôn viên chùa. Nàng Ciñcā-māṇavikā thất vọng, thất tha, thất thểu bước đi ra vừa khuất tầm mắt của mọi người, mặt đất liền nứt ra làm hai, phát lên một tia lửa thiêu cháy nàng rồi hút xác nàng xuống sâu dưới lòng đất. Sau khi nàng Ciñcāmāṇavikā chết, do ác nghiệp ấy cho quả tái sinh vào đại địa ngục Avīci, chịu quả khổ do ác nghiệp đã tạo.

Chuyện nàng Ciñcāmāṇavikā vu khống Đức Phật đã lan truyền khắp mọi nơi, từ xứ này sang xứ khác. Và ai ai cũng đều biết đó là âm mưu thâm độc đê tiện của nhóm tu sĩ ngoại đạo. Một số người trước kia còn hộ độ nhóm tu sĩ ngoại đạo, nay họ nghe thấy như vậy, mất hết đức tin, nên không còn phát sinh tâm cúng dường các thứ vật dụng cho nhóm tu sĩ ngoại đạo nữa, đời sống của nhóm tu sĩ ngoại đạo thiếu thốn khổ cực, nay lại càng tệ hại hơn nữa.

Trái lại, dân chúng khắp mọi nơi phát sinh thiện tâm trong sạch cúng dường Đức Phật và chư Tăng các thứ vật dụng sung túc; số người nào chưa có đức tin thì nay lại có đức tin nơi Tam Bảo; số người nào đã có đức tin nơi Tam Bảo rồi, đức tin lại càng thêm tăng trưởng.

* Tích tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī

Chuyện tên Nanda hãm hiếp Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī là bậc Thánh Arahán, được tóm lược như sau:

Tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī

Trong thời kỳ Đức Phật Padumuttara xuất hiện trên thế gian, tiền kiếp của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇat-therī là một tiểu thư của phú hộ trong thành xứ Haṃsavatī. Một hôm, cô cùng với dân chúng trong thành đến hầu Đức Phật Pamuduttara, lắng nghe Đức Phật thuyết pháp. Nhân dịp ấy, Đức Phật có tuyên dương một vị Đại đức Tỳ khưu ni, là bậc Thánh Nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Ngài. Nhìn thấy như vậy, cô vô cùng hoan hỷ, phát sinh thiện tâm trong sạch, có ý nguyện muốn được địa vị cao quý như vị Đại đức Tỳ khưu ni ấy. Cho nên, cô kính bạch với Đức Phật, kính thỉnh chư Đại đức Tăng có Đức Phật chủ trì, để làm phước thiện đại thí suốt 7 ngày. Đến ngày thứ 7, cô kính bạch với Đức Phật Padumuttara ý nguyện của cô muốn địa vị: “Bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật trong thời vị lai”.

Đức Phật Padumuttara đã thọ ký xác định thời gian còn lại 100 ngàn đại kiếp trái đất nữa, đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, cô sẽ thành tựu được như ý nguyện.

Cô vô cùng hoan hỷ tiếp tục bồi bổ 10 pháp hạnh ba-la-mật từ thời kỳ Đức Phật Padumuttara cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama thời gian suốt 100 ngàn đại kiếp trái đất, tử sinh luân hồi trải qua vô số kiếp, khi thì tái sinh làm thiên nữ cao quý trong cõi trời, khi thì tái sinh làm người trong cõi người. Có một kiếp, cô làm phước kính dâng đến Đức Phật Độc Giác vừa xả diệt thọ tưởng một đóa hoa sen hồng rất xinh đẹp, do nhờ quả báu cúng dường đóa hoa sen ấy, kiếp nào cô cũng là người rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng.

Đến thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, kiếp áp chót của cô là một thiên nữ, chết từ cõi trời, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai làm con của gia đình phú hộ tại kinh thành Sāvatthi. Khi sinh ra đời, cô là một bé gái rất xinh đẹp, có màu da hồng hào như màu cánh sen hồng, nên cô được đặt tên là Uppalavaṇṇā. Khi đến tuổi trưởng thành, cô nổi tiếng là người xinh đẹp trong cõi Nam Thiện Bộ Châu, các công tử, phú hộ đều gởi người đến ông phú hộ xin cầu hôn với tiểu thư của ông, khiến ông phú hộ gặp phải điều khó xử, bởi vì không thể nào làm vừa lòng tất cả những người ấy được. Cho nên, ông chỉ còn có một cách là gọi đứa con gái đến dạy rằng:

- “Amma pabbajituṃ sakkhissasi?”.

(Này con yêu quý! Con có muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni hay không?).

Vốn kiếp này là kiếp chót của cô, khi nghe phụ thân hỏi đến pabbajituṃ (xuất gia), cô vô cùng hoan hỷ thưa với phụ thân rằng:

- “Pabbajissāmi tātā”.

(Kính thưa phụ thân, con muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu ni).

Ông phú hộ đưa cô đến ngôi chùa Tỳ khưu ni, xin cho cô xuất gia trở thành Tỳ khưu ni. Sau khi trở thành Tỳ khưu ni không lâu, một hôm, đốt đèn trong chánh điện, Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa nhìn thấy ánh sáng đèn, liền dùng làm đề mục lửa để thực hành thiền định, chứng đắc các bậc thiền hữu sắc, dùng bậc thiền hữu sắc làm nền tảng đối tượng để thực hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Arahán cùng tứ Tuệ phân tích, đặc biệt chứng đắc Lục thông.

Về sau, Đức Phật tuyên dương Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa là bậc Thánh nữ Tối Thượng Thanh Văn xuất sắc nhất về thần thông trong hàng nữ Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, đúng theo nguyện vọng của Ngài Đại đức Tỳ khưu ni, đã được Đức Phật Padumuttara thọ ký trong quá khứ.

Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇattherī bị hãm hiếp

Một thuở nọ, Ngài Đại đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇa ở trong cốc nhỏ trong rừng, Ngài đi vào kinh thành Sāvatthi để khất thực.

Khi ngài còn sống tại gia, tên Nanda, con của một người cô, say mê sắc đẹp của Ngài, y đã theo dõi biết Ngài đã xuất gia trở thành Tỳ khưu ni ở trong rừng, biết giờ Ngài đã đi khất thực, nên y lén vào cốc của Ngài trong rừng, nằm chờ ở dưới giường. Khi khất thực độ xong, Ngài trở về cốc trong rừng, vừa ngồi lên giường, tên Nanda bò ra từ dưới giường, dùng sức mạnh cưỡng hiếp Ngài, Ngài đã ngăn cấm rằng:

- Này tên si mê ngu muội (bāla) chớ nên làm điều tội lỗi!

- Này tên si mê ngu muội chớ nên làm điều tội lỗi!

Mặc dù Ngài ngăn cấm, tên Nanda vì quá si mê, không còn biết ghê sợ tội lỗi, nên đã dùng sức mạnh hãm hiếp Ngài theo dục vọng của y. Cho nên, sau khi thỏa mãn, y đã tạo ác nghiệp trọng tội, mặt đất nứt nẻ ra, ngọn lửa phun lên hút y vào trong lòng đất. Sau khi chết, ác nghiệp trọng tội cho quả tái sinh trong cõi đại địa ngục Avīci ngay trong ngày hôm ấy, chịu quả khổ thiêu đốt trong cõi địa ngục ấy suốt thời gian lâu dài.

Đó là những trường hợp bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả ngay trong kiếp hiện tại trong khoảng 7 ngày.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn