(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp Hạnh Bố Thí Ba La Mật (Bậc Hạ)

11 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 11059)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 1)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

 

Pháp Hạnh Bố Thí Ba-La-Mật Bậc Hạ

30 Pháp Hạnh Ba La Mật

 

30 TÍCH ĐỨC BỒ TÁT TIỀN KIẾP CỦA ĐỨC PHẬT GOTAMA

 Tiền kiếp của Đức Phật Gotama từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp quá khứ cho đến kiếp chót là Đức Bồ Tát Siddhattha trở thành Đức Phật Gotama thì không thể nào kể bằng số được. Tuy nhiên trong bộ Chú giải Jātaka (Jātakaṭṭhakathāpāḷi ) gồm có 547 tích Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, bắt đầu tích Apaṇṇakajātaka và tích cuối cùng Vessantarajātaka. 

Những tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama này được Đức Phật thuyết trong trường hợp nếu gặp sự kiện nào, hoặc nguyên nhân nào xảy ra trong kiếp hiện tại có liên quan đến tiền kiếp của Ngài với sự kiện ấy hoặc với các nhân vật ấy.

Nhân cơ hội ấy, Đức Phật thuyết về tiền kiếp của Ngài, để tế độ các chúng sinh ấy, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.

Có 547 trường hợp như vậy, nên Đức Phật thuyết về tích của Ngài có 547 tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, được ghi trong Tam Tạng bộ Jātakapāḷi gồm có 2 quyển bằng những câu kệ (gāthā) và được ghi trong 7 bộ chú giải Jātakaṭṭhakathāpāḷi chi tiết rõ ràng   gồm có 547 tích, bắt đầu tích Apaṇṇakajātaka và tích cuối cùng Vessantarajātaka.

Trong bộ sách “Nền Tảng Phật Giáo” gồm có 9 chương, chia ra làm 7 quyển. Chương thứ VIII, Pháp Hạnh Ba-La-Mật, thuộc quyển VI có 3 tập.

Pháp hạnh Ba-la-mật có 10 pháp, mỗi pháp hạnh Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng, nên gồm có 30 pháp hạnh Ba-la-mật:

- 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ,

- 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung,

Quyển VI này trình bày 30 pháp hạnh Ba-la-mật, mỗi bậc pháp hạnh Ba-la-mật được trích ra một tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama thực hành pháp hạnh Ba-la-mật ấy, nên có 30 tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Bộ Chú giải Jātakaṭṭhakathāpāḷi gồm có 547 tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, quyển VI này được trích dịch tóm lược 30 tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama.

Quyển VI có 3 tập:

1- Tập 1: Trình bày phần I, 10 pháp hạnh Ba-la-mật và phần II, Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật, Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật gồm có 9 tích.

2- Tập 2: Pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật gồm có 3 tích.

3- Tập 3: Pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật, Pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật, Pháp hạnh chân thật Ba-la-mật, Pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật, Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật, Pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật gồm có 18 tích.

Tên Mỗi Tích Jātaka

Tên mỗi tích Jātaka, phần nhiều được lấy tên Đức Bồ Tát đặt tên tích Jātaka. Ví dụ tích Vessantarajātaka, tích Vidhurajātaka, tích Bhūridattajātaka…

Khi thì lấy tên đầu đề pháp đặt tên tích Jātaka. Ví dụ tích Devadhammajātaka, tích Garudhammajātaka, tích Asātamantajātaka, …

Khi thì lấy tên nơi chốn, đồ vật đặt tên tích Jātaka. Ví dụ tích Araññajātaka, tích Sāketajātaka, tích Sattubhastajātaka, tích Bhisajātaka, Ummaṅgajātaka, v.v….

30 Pháp Hạnh Ba-la-mật

- 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ có 10 tích,

- 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung có 10 tích,

- 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc thượng có 10 tích.

Mỗi pháp hạnh Ba-la-mật có 3 bâc:

1-  Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

2-  Pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

3-  Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

4-  Pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

5-  Pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

6-  Pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

7-  Pháp hạnh chân thật Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

8-  Pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

9-  Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

10- Pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật có 3 bậc: bậc hạ, bậc trung, bậc thượng,

Mỗi bậc Ba-la-mật có trích dẫn mỗi tích Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama thực hành pháp hạnh Ba-la-mật ấy. 

1- Pháp Hạnh Bố Thí Ba-La-Mật có 3 bậc:

1.1- Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ (Dāna pāramī), 

1.2- Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung (Dāna- upapāramī),

1.3- Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc thượng (Dāna- paramatthapāramī).

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ như thế nào?

Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ là Đức Bồ Tát bố thí những gì thuộc về bên ngoài thân thể của Đức Bồ Tát như của cải tài sản, vàng bạc, châu báu, ngai vàng, … đến người khác, chúng sinh khác, thậm chí đem cả vợ và con của mình đem bố thí đến người khác, không liên quan đến các bộ phận trong thân thể và sinh mạng của Đức Bồ Tát.

Như vậy, gọi là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ. (Dāna pāramī).

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung như thế nào?

Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung là Đức Bồ Tát không những bố thí những của cải tài sản bên ngoài, mà còn bố thí các bộ phận nào bên trong thân thể của mình như đôi mắt… đến người khác, nhưng không liên quan đến sinh mạng của Đức Bồ Tát.

Như vậy, gọi là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc trung. (Dāna upapāramī).

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc thượng như thế nào?

Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc thượng là Đức Bồ Tát không những bố thí những của cải tài sản bên ngoài và bố thí các bộ phận bên trong thân thể của mình như đôi mắt, … mà còn bố thí sinh mạng của mình đến cho chúng sinh khác.

Như vậy, gọi là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc thượng (Dāna paramatthapāramī).

1. Pháp Hạnh Bố Thí Ba-La-Mật Có 3 Bậc (Dānapāramī):


Pháp Hạnh Bố Thí Ba-La-Mật Bậc Hạ 
(Dānapāramī) 

1- Tích Đức vua Bồ Tát Vessantara (wêt-xăn-tá-rá)

Tích Vessantarajātaka [1] Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức vua Vessantara thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ (dānapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

 Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Nigrodhārāma gần kinh thành Kapilavatthu. Nhóm bô lão dòng tộc Sakya tự cho mình lớn tuổi hơn Đức Phật, nên họ không đảnh lễ Đức Phật. Đó là nguyên nhân Đức Thế Tôn thuyết tích Vessantarajātaka  để tế độ dòng tộc Sakya được tóm lược như sau:

Đức vua Suddhodana, Phụ Vương của Thái tử Siddhattha ngự tại kinh thành Kapilavatthu, nghe tin Thái tử Siddhattha đã trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), rồi thuyết pháp tế độ chúng sinh trong khắp mọi nơi.

Nay, Đức Phật Gotama hiện đang ngự tại kinh thành Rājagaha. Từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Rājagaha cách xa khoảng 60 do tuần. Đức vua Suddhodana có nguyện vọng muốn đảnh lễ Đức Phật Gotama, và muốn dòng tộc Sakya được nghe Đức Phật thuyết pháp tế độ họ, nên Đức vua truyền lệnh một vị quan lớn dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đến hầu đảnh lễ Đức Phật Gotama, rồi kính thỉnh Ngài ngự trở về kinh thành Kapilavatthu, để Đức vua Suddhodana đảnh lễ, và thỉnh Ngài thuyết pháp tế độ dòng tộc Sakya.

Vị quan lớn dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng lên đường từ kinh thành Kapilavatthu đến kinh thành Rājagaha cách xa khoảng 60 do tuần. Khi vi quan lớn cùng 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đến ngôi chùa Veḷuvana, trong khi Đức Phật đang thuyết pháp, họ đứng sau hội chúng nghe pháp, sau khi nghe pháp xong, vị quan lớn cùng với 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đều chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo- 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy, nên xem nhẹ lệnh truyền của Đức vua Suddhodana. Tất cả đều kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức vua Suddhodana trông ngóng từng ngày vẫn không nghe tin tức, nên truyền lệnh một vị quan lớn dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng khác đi thỉnh Đức Phật Gotama. Cũng như lần trước, 1001 vị quan sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp cũng đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức vua Suddhodana lại truyền lệnh một vị quan lớn dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng khác. Như vậy, đến lần thứ 9, gồm có 9009 vị quan đều chứng đắc thành bậc Thánh A-ra-hán cả thảy, rồi kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức vua Suddhodana cảm thấy nóng lòng muốn chiêm bái, đảnh lễ Đức Phật Gotama. Đã gởi 9 phái đoàn gồm 9009 vị quan mà vẫn không có tin tức gì cả.

Xét thấy một vị quan lớn thân tín nhất trong triều đình, đó là vị quan Kāḷudāyī, người sinh cùng một ngày với Thái tử Siddhattha năm xưa, Đức vua truyền lệnh vị quan lớn Kāḷudāyī dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đến hầu đảnh lễ Đức Phật Gotama, rồi bằng mọi cách kính thỉnh cho được Đức Phật Gotama ngự trở về kinh thành Kapilavatthu, để cho Đức vua đảnh lễ, và thiết tha muốn được nghe pháp của Đức Phật Gotama.

Tuân lệnh Đức vua Suddhodana, vị quan lớn Kāḷudāyī dẫn đầu 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đến kinh thành Rājagaha, vào ngôi chùa Veḷuvana, trong khi Đức Phật đang thuyết pháp, họ đứng sau hội chúng nghe pháp, sau khi nghe pháp xong, vị quan lớn cùng với 1000 vị quan thuộc hạ tùy tùng đều chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán, rồi kính xin Đức Phật cho phép xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức Phật Ngự Trở Về Kinh Thành Kapilavatthu

Khi ấy, Ngài Đại Đức Kāḷudāyī đảnh lễ Đức Phật, tán dương ân đức của Đức Phật với 64 câu kệ. Nay, đúng lúc hợp thời xin kính thỉnh Đức Phật ngự trở về kinh thành Kapilavatthu, để Đức vua Suddhodana, Đức Phụ Vương của Ngài chiêm bái, đảnh lễ Ngài, tha thiết muốn nghe Ngài thuyết pháp tế độ dòng tộc Sakya.

Nhận lời thỉnh mời của Ngài Đại Đức Kāḷudāyī, từ ngày 16 tháng 2, Đức Phật Gotama bắt đầu khởi hành từ ngôi chùa Veḷuvana, kinh thành Rājagaha ngự trở về kinh thành Kapilavatthu, cùng với đoàn chư Đại Đức Tăng 20.000 vị, cứ mỗi ngày đi được một do tuần, từ kinh thành Rājagaha đến kinh thành Kapilavatthu cách xa khoảng 60 do tuần. Như vậy, thời gian 2 tháng mới đến kinh thành Kapilavatthu.

Ngài Đại Đức Kāḷudāyī, bậc Thánh A-ra-hán sử dụng thần thông bay trở về kinh thành Kapilavatthu trước, để báo cho Đức vua Suddhodana biết Đức Phật Gotama đang trên đường ngự trở về kinh thành Kapilavatthu.

Nghe tin lành như vậy, Đức vua Suddhodana vô cùng vui mừng hoan hỷ truyền lệnh cho các quan sửa soạn trang hoàng khu vườn Nigrodhārāma của dòng tộc Sakya cho thật trang nghiêm, để chuẩn bị đón tiếp Đức Phật Gotama cùng 20.000 chư Đại Đức Tăng.

 Vào ngày 16 tháng 4 (âm lịch), sau khi đã chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có danh hiệu là Đức Phật Gotama (được 1 năm lẻ 1 ngày), Đức Phật cùng với 20.000 chư Đại Đức Tăng ngự trở về kinh thành Kapilavatthu. Sau 6 năm 10 tháng lẻ 1 ngày xa cách, kể từ khi Ngài còn là Thái tử siddhattha rời bỏ kinh thành Kapilavatthu trốn đi xuất gia vào đêm rằm tháng 6 năm xưa cho đến nay.

Đức vua Suddhodana cùng tất cả hoàng tộc Sakya, dân chúng đón rước Đức Phật Gotama cùng chư Đại Đức Tăng rất trọng thể. Đức Phật cùng 20.000 chư Đại Đức Tăng ngự đến khu vườn Nigrodhārāma. Một số bậc bô lão trong dòng tộc Sakya có tính ngã mạn nên suy nghĩ rằng: Đức Phật còn trẻ tuổi cũng như hàng con cháu, còn chúng ta là những bậc bô lão trong dòng tộc Sakya, không Ngài ên đảnh lễ Đức Phật.

 Biết rõ ý nghĩ của họ, nên Đức Phật nhập đệ tứ thiền, rồi hoá phép thần thông hóa ra một con đường bằng thất báu trên hư không, Đức Phật đi kinh hành qua lại, cho bụi dưới chân của Ngài rơi rớt xuống đầu những người thân quyến dòng tộc Sakya của Ngài, rồi Ngài hoá phép thần thông Yamakapāṭihāriya đặc biệt, để tế độ tất cả mọi người thân quyến lớn nhỏ trong dòng tộc Sakya đều phát sinh đức tin trong sạch, một lòng tôn kính và thành kính đảnh lễ Ngài.

Yamakapāṭihāriya là phép thần thông như thế nào?

Yamakapāṭihāriya là phép thần thông đặc biệt có hai dòng nước và lửa song song cùng phát ra từ hai con mắt bên trái và bên phải, từ hai lỗ tai bên trái và bên phải, từ hai lỗ mũi bên trái và bên phải, từ hai bên vai phải và vai trái, từ hai tay phải và tay trái, từ hai chân phải và chân trái v.v…

Hai dòng nước và lửa có thể thay đổi vị trí nhau. Phép thần thông Yamakapāṭihāriya này chỉ Đức Phật mới có mà thôi, còn chư Thánh Thanh văn không có khả năng hoá phép thần thông này được.

Khi ấy, Đức vua Suddhodana chắp hai tay bạch rằng: 

- Kính bạch Đức Thế Tôn, sau khi đản sinh ra đời, Ngài trở về cung điện, con truyền lệnh cho bà nhũ mẫu ẵm Ngài đến để đảnh lễ vị đạo sư Kāḷadevila, thì Ngài hiện lên đứng trên đầu vị đạo sư. Đó là việc phi thường chưa từng có! Lần đầu tiên con đã đảnh lễ Ngài.

Vào ngày lễ Vappamaṅgala: Lễ hạ điền, che lều để Ngài ngồi ngự dưới cội cây trâm mà bóng mát cây trâm đứng yên một chỗ không hề di chuyển. Đó cũng là điều phi thường chưa từng có! Lần thứ nhì con đã thành kính đảnh lễ Ngài.

Hôm nay, nhìn thấy Ngài hoá phép thần thông Yamaka-pāṭihāriya thật phi thường mà con chưa từng thấy! Lần thứ ba con thành kính đảnh lễ Ngài.

Nhìn thấy Đức vua Suddhodana đảnh lễ Đức Phật, cho nên tất cả mọi người thân quyến, các bô lão lớn và nhỏ trong dòng tộc Sakya đều phát sinh đức tin trong sạch, một lòng tôn kính và thành kính đảnh lễ Đức Phật

Đức Phật từ trên hư không hiện xuống ngự trên pháp toà, tất cả thân quyến lớn nhỏ trong dòng tộc Sakya ngồi tụ hội tại khu vườn Nigrodhārāma, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật. Khi ấy, một trận mưa lớn như nước đổ xuống mặt đất, nhưng đặc biệt những người nào muốn ướt, thì nước mưa thấm ướt những người ấy, còn những người nào không muốn ướt thì nước mưa không thấm ướt người ấy.

Tất cả các hàng thanh văn đệ tử đều chứng kiến một sự kiện phi thường chưa từng có, chư tỳ khưu tán dương ca tụng rằng:

Thật là một điều kỳ diệu!

Thật một điều phi thường chưa từng có!

Do oai lực của Đức Phật, một trận mưa lớn rơi xuống những người thân quyến dòng tộc Sakya.

Nghe chư tỳ khưu đang đàm đạo với nhau như vậy, Đức Phật bèn truyền hỏi rằng:

- Này chư tỳ khưu! các con đang đàm đạo về chuyện gì vậy?

Chư tỳ khưu bạch Đức Thế Tôn về chuyện ấy, nên Đức Thế Tôn bèn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Một trận mưa lớn như vậy, không những xảy ra trong thời hiện tại này, mà khi Như Lai còn là Đức Bồ Tát cũng đã từng làm một trận mưa lớn rơi xuống những người thân quyến của Đức Bố Tát, tiền kiếp của Như Lai cũng như vậy.

Nghe Đức Phật truyền dạy như vậy, chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết giảng về tích Đức Bồ Tát ấy tiền kiếp của Ngài.

Tích Đức Bồ Tát Vessantara

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn đang ngự tại khu vườn Nigrodhārāma, gần kinh thành Kapilavatthu. Nhân dịp Ngài cùng 20.000 chư Đại Đức Tăng lần đầu tiên trở về kinh thành Kapilavatthu, sau 6 năm 10 tháng lẻ 1 ngày xa cách, Đức Phật thuyết giảng tích Vessantarajātaka, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Ngài là Đức vua Bồ Tát Vessantara, để tế độ toàn thể thân quyến trong dòng tộc Sakya, được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức vua Sañjaya ngự tại kinh thành Jetuttara trị vì đất nước Sivi, có Chánh cung Hoàng hậu Phussatī được Đức vua Sañjaya sũng ái nhất.

Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama đang hưởng mọi sự an lạc tại cõi trời Tam thập Tam Thiên, Đức vua trời Sakka ngự đến thỉnh Đức Bồ Tát xuống cõi người tái sinh đầu thai vào lòng Chánh cung Hoàng hậu Phussatī của Đức vua Sañjaya tại kinh thành Jetuttara, đất nước Sivi, để bồi bổ cho đầy đủ các pháp hạnh Ba-la-mật.

Đức Bồ Tát Tái Sinh

Chấp nhận theo lời thỉnh mời của Đức vua Trời Sakka, Đức Bồ Tát đã chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tam Thập Tam Thiên. Sau khi Đức Bồ Tát chuyển kiếp (chết), thiện nghiệp cho quả tái sinh vào lòng bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī của Đức vua Sañjaya đất nước Sivi, đồng thời có 60.000 thiên nam cũng chuyển kiếp (chết) từ cõi Tam Thập Tam Thiên, thiện nghiệp cho quả tái sinh vào lòng 60.000 phu nhân của 60.000 vị quan trong triều đình của Đức vua Sañjaya.

Khi bà Chánh cung Hoàng hậu Phusatī có thai, thì thai nhi Đức Bồ Tát khiến mẫu hậu phát sinh đại thiện tâm muốn làm phước thiện bố thí. Bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī tâu trình Đức vua Sañjaya biết Bà đã có thai, và muốn làm phước thiện bố thí. Bà xin Đức vua cho phép lập ra 6 trại bố thí: 4 trại tại 4 cửa thành, 1 trại giữa kinh thành và 1 trại trước cung điện.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu tâu cho biết đã có thai, Đức vua rất vui mừng, chuẩn theo lời tâu của Bà. Mỗi ngày Đức vua cấp 60.000 đồng Kahāpaṇa cho Bà làm phước thiện bố thí tại 6 trại theo ý muốn của bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī.

Đức vua truyền lệnh cho mời các vị quân sư Bà-la-môn vào cung điện, hỏi về bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī mang thai có ý muốn làm phước thiện bố thí như vậy có ý nghĩa gì?

Các quân sư Bà-la-môn tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī mang thai mà thai nhi là một Thái Tử hoan hỷ làm phước thiện bố thí bao nhiêu cũng không biết đủ.

Nghe tâu như vậy, Đức vua cảm thấy vô cùng hoan hỷ.

Do oai lực các pháp hạnh Ba-la-mật của Đức Bồ Tát, từ khi mang thai Đức Bồ Tát, bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī thường được nhận những lễ vật quý giá, có nhiều người hầu hạ, và Đức vua Sañjaya cũng thường nhận những cống vật quý giá từ các nước lân bang, còn trong hoàng tộc mọi người đều được hạnh phúc an lạc, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp, dân giàu nước mạnh.

Khi thai nhi Đức Bồ Tát tròn đủ mười tháng, bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī muốn du ngoạn quanh kinh thành, nên tâu xin Đức vua Sañjaya.

Đức vua chuẩn y theo lời tâu của Bà, rồi truyền lệnh cho các quan và dân chúng trang hoàng kinh thành cho đẹp đẽ. Bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī ngự trên xa giá sang trọng lộng lẫy cùng với các quan quân theo hộ giá, du ngoạn quanh kinh thành. Khi xa giá đến giữa con đường của những người lái buôn, Bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī phát sinh triệu chứng sắp lâm bồn (sắp sinh). Đức vua truyền lệnh cho các quan làm phòng hộ sinh để cho Bà Chánh cung Hoàng hậu hạ sinh Thái Tử.

Đức Bồ Tát Thái Tử được đản sinh ra khỏi lòng mẫu hậu rất sạch sẽ, không giống như những đứa trẻ khác, Đức Bồ Tát Thái Tử vừa mới mở mắt, ngửa lòng bàn tay phải ra, liền tâu lời đầu tiên với mẫu hậu rằng:

Amma dānaṃ dassāmi, atthi kiñci te dhanaṃ

- Muôn tâu Mẫu Hậu, Mẫu Hậu có của cải gì, cho con, con sẽ làm phước thiện bố thí.

Nghe Thái Tử tâu như vậy, Bà Chánh cung Hoàng hậu Phussatī vô cùng hoan hỷ truyền dạy rằng:

Tāta yathā ajjhāsayena dānaṃ dehi

- Này hoàng nhi yêu quý! Của cải của Mẫu Hậu, con hãy đem làm phước thiện bố thí, tuỳ theo sở nguyện của con.”

Bà liền cho một gói tiền 1000 kahāpana đặt trên tay Thái Tử.

Lễ Đặt Tên Thái Tử

Đức Vua Sañjaya làm lễ đặt tên Thái Tử là Vessantara, nghĩa là Thái Tử đản sinh giữa con đường người lái buôn.

Ngày Đức Bồ Tát Thái Tử Vessantara đản sinh, một con voi lớn dẫn một voi con toàn thân đều màu trắng (bạch tượng) gọi là con Bạch tượng An Lành (maṇgala-hatthi) được dâng lên Đức vua Sañjaya. Con bạch tượng con này được đặt tên Paccaya bởi con bạch tượng này sinh ra do năng lực pháp hạnh Ba-la-mật của Đức Bồ Tát Thái Tử Vessantara.

Đức Bồ Tát Thái Tử Vessantara trưởng thành cùng với 60.000 công tử của 60.000 vị quan trong triều đình của Đức vua Sañjaya. Đức Bồ Tát Thái Tử vốn có tính hoan hỷ trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

Thật vậy, Đức vua Sañjaya truyền lệnh làm đồ trang sức cho Thái Tử với giá trị 100 ngàn kahāpana, khi ấy mới lên 4-5 tuổi, Đức Bồ Tát Thái Tử đã biết cởi đồ trang sức làm phước bố thí cho người nhũ mẫu, mà Thái Tử không chịu nhận đồ trang sức ấy từ người nhũ mẫu dâng trở lại nên người nhũ mẫu tâu sự việc ấy lên Đức vua.

Đức vua truyền bảo rằng:

“Đồ trang sức mà hoàng nhi của Trẫm ban cho ngươi,

đồ trang sức ấy thuộc về của ngươi.”

Đức vua truyền lệnh làm lại đồ trang sức khác cho Thái Tử. Cũng như lần trước Đức Bồ Tát Thái Tử lại cởi đồ trang sức ra làm phước bố thí ban cho những người nhũ mẫu khác, qua chín lần như vậy.

Đức Bồ Tát Thái Tử Phát Nguyện

Khi Bồ Tát Thái Tử lên 8 tuổi, ngự trên lâu đài tư duy rằng: Ta đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bên ngoài thân thể, pháp hạnh bố thí ấy chưa đủ làm cho ta phát sinh thiện tâm hoan hỷ nhiều. Vậy, ta nên phát nguyện muốn thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bên trong thân thể của ta rằng:

*Nếu có người nào đến xin trái tim của ta thì ta cho phép mổ ngực của ta, lấy trái tim cho người ấy.

*Nếu có người nào đến xin đôi mắt của ta thì ta sẽ đem đôi mắt cho người ấy.

*Nếu có người nào đến xin thịt trong thân thể của ta thì ta sẽ cắt, lẻo miếng thịt cho người ấy.

*Nếu có người nào đến xin máu trong thân ta thì ta sẽ cắt đứt mạch máu để lấy máu cho người ấy.

*Nếu có người nào nói với ta rằng: “Ngươi hãy làm người tôi tớ của ta”- Thì ta cũng hoan hỷ làm một người tôi tớ trung thành, ngoan ngoãn vâng lời người chủ ấy.

Khi ta phát nguyện thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật đúng sự thật như vậy, thiện tâm của ta vững chắc không hề lay động. 

Khi ấy, do oai lực lời phát nguyện ấy khiến cho trái đất rung chuyển, đại dương nổi sóng, Đức vua trời Sakka phát sinh thiện tâm hoan hỷ, Đức phạm Thiên cũng tán dương ca tụng sādhu: lành thay! Chư Thiên

Phạm Thiên đều phát sinh thiện tâm hoan hỷ.

 Đức Bồ Tát Thái Tử Lên Ngôi Báu

Khi Đức Bồ Tát thái tử Vessantara trưởng thành lên 16 tuổi, có tài đức vẹn toàn, Đức vua Sañjaya truyền ngôi báu cho Thái tử Vessantara, đồng thời thành hôn với công chúa Maddi là con gái của Đức vua Madda (Đức vua Madda là em trai của Mẫu Hậu Phussatī).

Đức vua Bồ Tát Vessantara tấn phong công chúa Maddi lên ngôi Chánh cung Hoàng hậu của Đức vua Bồ Tát Vessantara. Đức vua Bồ Tát Vessantara lên ngôi ngự tại kinh thành Jetuttara, trị vì đất nước Sivi, mỗi ngày Đức vua Bồ Tát chi 600 ngàn đồng kahāpana, để thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật trong 6 trại bố thí mà Mẫu Hậu đã từng tạo phước thiện bố thí.

Đức vua Bồ Tát Vessantara ngự trên con Bạch tượng báu được trang sức bằng những sợi dây vàng bạc châu báu quý giá, đến 6 trại bố thí mỗi tháng 6 lần.

Hoàng Tử Jāli Và Công Chúa Kaṇhājinā

Về sau Chánh cung Hoàng hậu Maddī sinh hạ hoàng tử đặt tên là Hoàng Tử Jāli và mấy năm sau, Chánh cung Hoàng hậu lại sinh hạ một công chúa, đặt tên là công chúa Kaṇhājinā.

Hoàng Tử Jāli là đứa bé rất thông minh dĩnh ngộ và công chúa Kaṇhājinā là đứa bé rất xinh đẹp dễ thương. Hoàng Tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā được Phụ Hoàng là Đức Bồ Tát Vassantara và Mẫu Hậu là Chánh cung Hoàng hậu Maddi rất mực thương yêu và được Đức vua nội là Thái Thượng Hoàng Sañjaya và bà nội là Hoàng Thái Hậu Phussatī cũng rất mực yêu thương.

Đất Nước Kāliṅga Bị Nạn Hạn Hán 

Vào thời kỳ ấy, đất nước Kāliṅga bị nạn hạn hán kéo dài, mùa màng cày cấy không được, dân chúng bị cảnh đói khổ. Dân chúng từ các nơi kéo về trước cung điện của Đức vua, cầu xin Đức vua cứu giúp, làm cho trong nước mưa thuận gió hoà, để dân chúng làm mùa màng, cày cấy.

Thương cảm với nỗi khổ của dân chúng, Đức vua hứa sẽ cố gắng hết mình để làm cho mưa thuận gió hoà. Đức vua đã thọ trì bát giới uposathasīla suốt bảy ngày mà vẫn không có mưa. Đức vua bèn truyền lệnh hội các quan văn võ trong triều và dân chúng trong kinh thành, để tìm cách cứu giúp dân chúng.

Dân chúng tâu lên Đức vua rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, Đức vua Vessantara ngự tại kinh thành Jetuttara trị vì đất nước Sivi, Đức vua có con Bạch tượng báu là con Voi Maṅgahatthi (Bạch tượng hạnh phúc an lành). Con Bạch tượng báu ấy ở nước nào thì nước ấy được mưa thuận gió hoà, mùa màng cày cấy thuận lợi, dân chúng được cuộc sống an cư lạc nghiệp.

Đức vua Vessantara là bậc hoan hỷ làm phước thiện bố thí. Vậy, xin Bệ hạ truyền lệnh gởi các vị Bà-la-môn đến kinh thành Jetuttara, chầu Đức vua Vessantara, xin Đức vua ban cho con Bạch tượng báu ấy đem về nước ta.

Chuẩn y lời tâu của dân chúng, Đức vua truyền tuyển chọn 8 vị Bà-la-môn gửi đi đến kinh thành Jetuttara, chầu Đức vua Vessantara, xin Đức vua ban cho con Bạch tượng báu ấy đem về nước.

Theo lệnh của Đức vua, 8 vị Bà-la-môn lên đường đến kinh thành Jetuttara, hỏi thăm dân chúng trong kinh thành để biết Đức vua Vessantara ngày nào ngự đến trại bố thí. Được dân chúng cho biết, vào sáng ngày hôm sau Đức vua Vessantara sẽ ngự đến trại bố thí tại cửa thành phía đông, sau đó đến trại bố thí tại cửa thành phía nam v.v….

Đức Vua Bồ Tát Bố Thí Bạch Tượng Báu

Vào sáng hôm ấy, con Bạch tượng báu được trang sức bằng những dây vàng bạc, châu báu quý giá, Đức vua Bồ Tát Vessantara ngồi trên con Bạch tượng báu ấy cùng với đoàn quân theo hộ giá, ngự đến trại bố thí tại cửa thành phía đông, Đức vua Bồ Tát tự tay thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật đôi ba người, rồi sau đó giao cho các quan làm phận sự bố thí tiếp tục. Đức vua Bồ Tát có đoàn quân hộ giá đông đảo, nên 8 vị Bà-la-môn không thể tiếp cận với Đức vua Bồ Tát Vessantara được.

Do đó, 8 vị Bà-la-môn đến trại bố thí tại cửa thành phía nam, đứng chờ sẵn. Khi Đức vua Bồ Tát Vessantara vừa mới đến, thì 8 vị Bà-la-môn quỳ gối chắp tay nói lời tán dương ca tụng ân đức của Đức vua Vessantara, rồi tự giới thiệu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, bậc có tâm đại bi vô lượng cứu khổ chúng sinh. Chúng tiện dân từ đất nước Kāliṅga nơi ấy không có mưa, nạn hạn hán kéo dài, dân chúng trong nước không thể làm mùa màng cày cấy được, nên dân chúng lâm vào cảnh đói khổ lầm than bởi thiên tai. Cho nên Đức vua Kāliṅga phái chúng thần đến cầu xin Bệ hạ ban cho phước lành bố thí con Bạch tượng báu đem về nước, để cho được mưa thuận gió hoà, dân chúng trong nước được sinh sống an cư lạc nghiệp.

Nghe tâu như vậy, Đức vua Vessantara tư duy rằng: 

“Ta đã phát nguyện thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật thuộc bên trong thân thể, mà những vị Bà-la-môn này xin ta bố thí những của cải bên ngoài thân thể. Dù như vậy, ta vẫn hoan hỷ thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, ban con Bạch tượng báu này cho nhóm Bà-la-môn từ đất nước Kāliṅga được toại nguyện như ý.

Đức vua Bồ Tát Vessantara đang ngự trên con Bạch tượng báu mà truyền bảo rằng:

- Này các vị Bà-la-môn! Trẫm sẽ ban con Bạch tượng báu này cho các ngươi. Các ngươi sẽ được toại nguyện.

Đức vua Bồ Tát Vessantara ngự xuống con Bạch tượng báu, đi xung quanh ba vòng xem xét các đồ trang sức của con Bạch tượng báu, không thiếu một món đồ trang sức nào, rồi Đức vua Bồ Tát Vessantara cầm bình vàng đựng nước hoa thơm truyền gọi các vị Bà-la-môn rằng: 

- Này các vị Bà-la-môn! Các ngươi hãy đến đây!

Đức vua Bồ Tát Vessantara cầm cái vòi con Bạch tượng báu đặt lên hai bàn tay của vị Bà-la-môn rồi rót nước hoa thơm từ cái vòi con Bạch tượng báu chảy rơi xuống hai bàn tay của vị Bà-la-môn.

Con Bạch Tượng Báu Và Đồ Trang Sức

Đó gọi là lễ Đức vua Bồ Tát Vessantara ban con Bạch tượng báu được trang sức bằng những đồ quý giá nơi bốn chân Bạch tượng có giá 400 ngàn kahāpana; hai bên hông Bạch tượng có giá 200 ngàn kahāpana; ba tấm lưới kết bằng loại ngọc muddā, ngọc maṇi và vàng có giá 300 ngàn kahāpana; ghế ngồi đặt trên lưng Bạch tượng có giá 200 ngàn kahāpana; tấm vải kambala kết bằng ngọc phủ trên lưng Bạch tượng có giá 100 ngàn kahāpana; đồ trang sức trang điểm chỗ mô trên đầu Bạch tượng có giá 100 ngàn kahāpana; ba sợi dây choàng có giá 300 ngàn kahāpana; đồ trang sức trang điểm hai lỗ tai Bạch tượng có giá 200 ngàn kahāpana; đồ trang sức trang điểm hai chiếc ngà Bạch tượng có giá 200 ngàn kahāpana; đồ trang sức cái vòi Bạch tượng có giá trị 100 ngàn kahāpana; đồ trang sức cái đuôi Bạch tượng có giá trị 100 ngàn kahāpana; v.v…Những đồ trang sức bên trên thân thể con Bạch tượng báu gồm có giá trị 2200 ngàn kahāpana, Và những đồ dụng cụ bên ngoài dùng cho Bạch tượng báu có giá 200 ngàn kahāpana, gồm cả thảy 2400 ngàn kahāpana. 

 Đức vua Bồ Tát Vessantara không những ban con Bạch tượng báu ấy cho 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga, mà còn ban vị quan nài con Bạch tượng báu và 500 gia đình chăm nom săn sóc nuôi dưỡng con Bạch tượng báu ấy nữa. 

Đức vua Bồ Tát Vessantara vô cùng hoan hỷ bố thí con Bạch tượng báu ấy gọi là thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, làm cho trái đất rung chuyển.

Sau khi nhận con Bạch tượng báu, 8 vị Bà-la-môn vô cùng hoan hỷ được thoả nguyện như ý, rồi cùng với đoàn người tuỳ tùng rước con Bạch tượng báu ra khỏi kinh thành theo cửa hướng bắc, bị dân chúng trong kinh thành chận lại hỏi rằng: 

- Này quý vị Bà-la-môn! Quý vị rước con Bạch tượng báu của chúng tôi đi đâu?

Quý vị có được con Bạch tượng báu này như thế nào?

Tám vị Bà-la-môn thưa rằng:

- Thưa quý vị, chúng tôi được Đức vua Vessantara ban cho con Bạch tượng báu này.

Nghe quý vị Bà-la-môn nói như vậy, dân chúng trong thành Jetuttana bực tức Đức vua Vessantara, bởi vì Đức vua đem con Bạch tượng báu của đất nước Sivi ban cho các vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga.

Dân Chúng Tỏ Thái Độ Bất Bình

Tin tức Đức vua Bồ Tát Vessantara ban con Bạch tượng báu cho các vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga được lan rộng trong kinh thành Jetuttara. Một số người không hài lòng việc bố thí của Đức vua Bồ Tát Vessantara, cho nên các người trong hoàng tộc, các hàng Bà-la-môn, các quan, quân lính, các thương gia, dân chúng trong kinh thành, các tỉnh thành v.v… tụ hội vào chầu Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, bèn tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Thái Thượng Hoàng, Đức vua Vessantara đã đem con Bạch tượng báu của đất nước Sivi ban cho 8 vị Bà-la-môn của đất nước Kāliṅga, việc làm này đã gây thiệt hại lớn cho đất nước Sivi này. Con Bạch tượng báu ấy là quốc bảo của đất nước Sivi, mà triều đình cùng thần dân thiên hạ nương nhờ vào con Bạch tượng báu ấy, nên đất nước được phồn vinh, toàn thể dân chúng được sinh sống an cư lạc nghiệp.

Vậy, tại sao Đức vua Vessantara đem con Bạch tượng báu ấy ban cho 8 vị Bà-la-môn của đất nước Kāliṅga?

 - Muôn tâu Đức Thái Thượng Hoàng, con Bạch tượng báu ấy vốn là phương tiện cao quý nhất để Đức vua ngự đi làm quốc sự, hoặc nếu mỗi khi có quân thù kéo đến xâm lăng đất nước của chúng ta, thì con Bạch tượng báu ấy sẽ là phương tiện để Đức vua thân chinh ngự ra trận địa. Quân thù nhìn thấy con Bạch tượng báu dũng cảm làm cho quân thù khiếp đảm lui quân hoặc bỏ chạy thoát thân.

Vậy, tại sao Đức vua Vessantara lại đem con Bạch tượng báu và quan giữ ngựa cùng với 500 gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng con Bạch tượng báu ấy ban cho 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga?

Đáng lẽ Đức vua Vessantara chỉ nên đem các thứ của cải khác ban cho các vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga mà thôi. không nên đem con Bạch tượng báu ban cho họ, nhưng tại sao Đức vua Vessantara lại đem con Bạch tượng báu là quốc bảo của đất nước Sivi ban cho 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga ?

- Muôn tâu Đức Thái Thượng Hoàng, Đức vua Vessantara là hoàng Thái tử của Đức Thái Thượng Hoàng, nên dân chúng trong đất nước Sivi xin Đức Thái Thượng Hoàng không nên xử tội Đức vua Vessantara, cũng không nên giam Đức vua Vessantara trong tù, mà chỉ xin Đức Thái Thượng Hoàng nên truyền lệnh mời Đức vua Vessantara ra khỏi đất nước Sivi, đến rừng núi Himavanta, ở tại núi Vaṅka vậy.

Nghe lời yêu cầu của dân chúng đất nước Sivi như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo rằng:

- Này thần dân thiên hạ đất nước Sivi! Dù cho đất nước Sivi sẽ thiệt hại như thế nào đi nữa, Trẫm cũng không thể mời Đức vua Vessantara là Hoàng Thái Tử của Trẫm ra khỏi đất nước Sivi này, bởi vì Hoàng Thái Tử là đứa con mà Trẫm yêu quý nhất. Vả lại Hoàng Thái Tử có giới hạnh trong sạch, có các pháp hành thiện cao thượng, cho nên Trẫm không thể nào làm khổ Hoàng Thái Tử của Trẫm được.

Nghe Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo như vậy, dân chúng Sivi hăm doạ rằng:

- Muôn tâu Đức Thái Thượng Hoàng, nếu Đức Thái Thượng Hoàng không chiều theo lời yêu cầu của dân chúng Sivi, thì không chỉ Đức vua Vessantara ở trong tay của chúng tôi mà còn Đức Thái Thượng Hoàng cũng ở trong tay của chúng tôi nữa.

Nghe dân chúng Sivi hăm doạ như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng suy nghĩ rằng: “Dân chúng Sivi này sẽ hại Hoàng Thái Tử của ta hay sao, mà dám nói lời hăm doạ như vậy, ta nên truyền lời hoà hoãn thì hơn.” 

Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo rằng: 

- Này thần dân thiên hạ đất nước Sivi! Nếu dân chúng nước Sivi muốn mời Hoàng Thái Tử của Trẫm ra khỏi nước Sivi này, thì Trẫm cũng chiều theo ý muốn của dân chúng Sivi, nhưng Trẫm xin Hoàng Thái Tử của Trẫm lưu lại đêm nay tại cung điện, sáng ngày mai khi mặt trời mọc, thì Hoàng Thái Tử sẽ rời khỏi đất nước Sivi này.

Nghe Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo như vậy, dân chúng Sivi đồng ý để cho Đức vua Vessantara lưu lại một đêm. Đức Thái Thượng Hoàng liền truyền lệnh vị quan thân tín khẩn cấp đến tâu lại Đức vua Vessantara tường tận mọi sự việc đã xảy ra như vậy.

Đức Vua Bồ Tát Vessantara Hoan Hỷ

Sau khi đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật ban con Bạch tượng báu, cùng đoàn tuỳ tùng đến 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga, Đức vua Vessantara phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật ấy tại cung điện của Đức vua.

Khi ấy, tuân theo lệnh truyền của Thái Thượng Hoàng, một vị quan cận thần thân tín, khẩn cấp đến tâu lên Đức vua Vessantara rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, kính xin Bệ hạ tha tội, hạ thần đã được Bệ hạ cưu mang nuôi dưỡng, ân đức của Bệ hạ lớn lao. Nay, hạ thần đành tâu tin không lành lên Bệ hạ rằng: 

- Muôn tâu Bệ hạ, thừa theo lệnh truyền của Đức Thái Thượng Hoàng, hạ thần xin tâu lên Bệ hạ rõ:

Dân chúng Sivi gồm có người trong hoàng tộc, các Bà-la-môn, các nhà thương gia, các binh đội: đội tượng binh, đội mã binh, đội chiến binh, dân chúng trong kinh thành Jetuttara, các dân chúng Sivi kéo đến tụ hội trước cung điện vào yết kiến Đức Thái Thượng Hoàng, thỉnh cầu Đức Thái Thượng Hoàng mời Bệ hạ ra khỏi nước Sivi.

- Muôn tâu Bệ hạ, Bệ hạ chỉ còn có đêm nay nữa mà thôi, ngày mai khi mặt trời mọc, Bệ hạ sẽ phải rời khỏi đất nước Sivi này.

Nghe vị quan tâu như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền hỏi ý:

- Này khanh! Trẫm đã làm điều gì sai mà dân chúng Sivi bực tức Trẫm? Khanh có thể tâu rõ cho Trẫm biết việc sai ấy được không? Do nguyên nhân nào mà dân chúng Sivi mời Trẫm rời khỏi nước Sivi ?

Vị quan cận thần tâu lên Đức vua Vessantara rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, dân chúng Sivi gồm có nhiều thành phần bực tức Bệ hạ đã đem con Bạch tượng báu là quốc bảo của đất nước Sivi ban cho 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga. Đó là nguyên nhân mà dân chúng Sivi bực tức, nên họ mời Bệ hạ rời khỏi nước Sivi này.

Nghe vị quan cận thần thân tín tâu như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara hoan hỷ truyền dạy rằng:

- Này khanh! Trái tim hoặc đôi mắt của Trẫm, nếu có người nào đến xin thì Trẫm hoan hỷ đem bố thí ban cho người ấy được, huống hồ gì của cải bên ngoài thân thể của Trẫm, như bạc vàng, châu báu, ngọc Muddā, ngọc Maṇi, con Bạch tượng báu v.v… Nếu có người nào đến tâu xin Trẫm, thì Trẫm hoan hỷ sẽ ban cho người ấy. Trẫm không hề có ác tâm keo kiệt bủn xỉn trong của cải, bởi vì thiện tâm của Trẫm luôn luôn hoan hỷ bố thí đến người xin.

Dù dân chúng Sivi mời Trẫm rời khỏi nước Sivi này hoặc giết Trẫm, hoặc chặt Trẫm ra làm 7 đoạn, Trẫm cũng không bao giờ từ bỏ thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của Trẫm.

Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền bảo vị quan cận thần thông báo với dân chúng Sivi và tâu lên Đức Thái Thượng Hoàng rằng:

Đức vua Vessantara chấp thuận sẽ rời khỏi đất nước Sivi này, nhưng không phải sáng ngày hôm mai lúc mặt trời mọc, mà Đức vua Vessantara xin ở lại thêm một ngày và một đêm nữa.

Ngày mai, Đức vua Vessantara sẽ làm lễ đại thí xong, rồi mới rời khỏi nước Sivi này, sau ngày đại thí. 

Thi hành theo lệnh của Đức vua Vessantara, vị quan cận thần thân tín đến hầu Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và thông báo cho dân chúng đến nhận những vật thí của Đức Vua Bồ Tát Vessantara.

Lễ Đại Thí Đầy Đủ Mọi Vật Thí

Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền gọi các vị quan trong triều đình và truyền rằng:

- Này các khanh! Ngày mai Trẫm làm lễ đại thí, mỗi thứ 700. Vậy các khanh hãy sửa soạn 700 con voi, 700 con ngựa, 700 cổ xe, 700 cô gái xinh đẹp, 700 con bò sữa, 700 tớ gái, 700 tớ trai. Còn các thứ khác như đồ ăn, đồ uống, đồ dùng đều chuẩn bị thật đầy đủ không thiếu một thứ gì, thậm chí có cả thứ rượu đối với những người nghiện rượu nữa.

Sau khi truyền bãi triều, các quan trở về lo thi hành phận sự, Đức vua Bồ Tát Vessantara ngự một mình đến cung điện của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, ngự trên chỗ cao quý, rồi truyền bảo với Chánh Cung Hoàng Hậu Maddi rằng:

- Này Ái khanh Maddī! Những của cải nào, như vàng bạc châu báu, ngọc muttā, ngọc maṇi v.v… Và những thứ của cải mà ái khanh đã nhận từ Đức Phụ Hoàng và Mẫu Hậu, thì ái khanh nên cất giữ những thứ của cải ấy thật an toàn và chắc chắn.

Nghe lời ân cần truyền dạy của Đức vua Bồ Tát Vessantara, Đức phu quân, Chánh cung Hoàng hậu Maddī vô cùng ngạc nhiên, bởi vì từ trước cho đến nay chưa từng nghe lời lẽ có ý nghĩa như thế này bao giờ, nên Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng truyền dạy thần thiếp cất giữ những thứ của cải thật an toàn và chắc chắn như thế để làm gì?

Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền dạy rằng:

- Này ái khanh Maddī! Ái khanh nên đem những thứ của cải ấy làm phước thiện bố thí Ba-la-mật tuỳ thời đến cho những người có giới đức trong sạch, thực hành pháp hạnh cao thượng. Đó gọi là cách cất giữ những thứ của cải an toàn và chắc chắn, luôn luôn mang theo bên mình ngay trong kiếp hiện tại, và vô lượng kiếp trong vị lai. Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật ấy làm nơi nương nhờ, hỗ trợ cho các pháp hạnh Ba-la-mật khác được thành tựu.

Nghe lời truyền dạy của Đức Phu quân, Chánh Cung Hoành Hậu Maddī cung kính vâng lời. 

Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền dạy tiếp rằng:

 - Này ái khanh Maddī! Ái khanh nên nuôi dưỡng hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājina cho nên người, và chăm nom săn sóc, phụng dưỡng Đức Thái Thượng Hoàng

Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī thật chu đáo.

- Này ái khanh Maddī! Khi Trẫm không còn ở trong cung điện này nữa. Nếu có hoàng tử nào trong hoàng tộc xin được làm vị phu quân của ái khanh, thì ái khanh nên phục vụ vị phu quân ấy một cách cung kính, hoặc ái khanh có thể tự chọn vị phu quân khác đáng yêu mến, rồi sống chung với vị phu quân ấy. Ái khanh chớ nên nhớ đến Trẫm nữa.

Lắng nghe lời ân cần truyền dạy của Đức vua Bồ Tát Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī vô cùng sửng sốt nên tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, tại sao hôm nay Hoàng Thượng lại truyền dạy những lời bất hạnh như vậy?

Đức vua Bồ Tát Vessantara giải đáp rằng:

- Này ái khanh Maddī! Dân chúng Sivi bực tức Trẫm, bởi vì Trẫm đã đem con Bạch tượng báu ban cho 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga. Do đó, nên dân chúng Sivi mời Trẫm phải rời khỏi đất nước Sivi này.

Ngày mai, Trẫm sẽ làm phước thiện đại bố thí mỗi thứ 700 xong, rồi vào sáng ngày thứ ba (kể từ ngày hôm nay), Trẫm một mình sẽ rời khỏi kinh thành Jetuttara, ngự đi vào trong rừng núi Himavanta, sẽ gặp rất nhiều thú dữ, cho nên sinh mạng của Trẫm thật là vô cùng nguy hiểm, khó tránh khỏi sự chết.

Lắng nghe lời giải đáp của Đức vua Bồ Tát Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, như vậy, thần thiếp xin cùng đi theo Hoàng Thượng. Chết theo Hoàng Thượng hoặc xa cách Hoàng Thượng, trong hai điều này, thần thiếp xin chọn chết theo Hoàng Thượng, còn sống mà xa

cách Hoàng Thượng thì chẳng cao quý gì!

Như con voi cái và đàn voi con đi theo sau con voi đực cao thượng qua các khúc đường rừng núi lồi lõm như thế nào, thì thần thiếp cũng dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā cùng đi theo Hoàng Thượng như thế ấy.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, xin hứa chắc chắn với Hoàng Thượng, thần thiếp sẽ là người dễ dạy, dễ nuôi, biết vâng lời, hoàn toàn chiều theo ý của Hoàng Thượng.

Để thuyết phục Đức vua Bồ Tát Vessantara, Chánh cung hoàng hậu Maddī tâu những điều mà bà tưởng tượng cảnh rừng núi Himavanta (Hi mã lạp sơn) như tận mặt thấy rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, khi Hoàng Thượng nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā có giọng nói trong trẻo đáng yêu, ngồi đùa giỡn nhau dưới bóng cây trong rừng, Hoàng Thượng sẽ không còn nhớ tưởng đến ngai vàng nữa.

Khi Bệ hạ nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā có giọng nói hay ngọt ngào đáng yêu đang chơi đùa quanh cốc lá nhỏ trong rừng, Hoàng Thượng sẽ không còn tưởng nhớ đến ngai vàng.

Khi Hoàng Thượng nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā có giọng nói hay, lảnh lót đáng yêu, đi tìm những cánh hoa rừng đem về trang điểm cho Hoàng Thượng, rồi Hoàng Thượng cùng với chúng đùa giỡn chạy đuổi bắt quanh cốc lá nhỏ, Hoàng Thượng sẽ không còn nhớ tưởng đến ngai vàng…

 Chánh cung Hoàng hậu Maddī tưởng tượng, rồi diễn tả mọi cảnh trí hấp dẫn để thuyết phục Đức vua Bồ Tát Vessantara cho phép bà cùng hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đi theo Đức vua Bồ Tát vào rừng núi Himavanta, bà và hai con chắc chắn sẽ không làm bận tâm, mà chỉ theo hỗ trợ Đức vua Bồ Tát Vessantara cho được an lạc mà thôi.

Bà Hoàng thái hậu Phussatī hay tin dân chúng Sivi yêu cầu Đức Thái Thượng Hoàng mời Đức vua Vessantara thái tử của bà ra khỏi nước Sivi này và Chánh cung Hoàng hậu Maddī cùng hai cháu đích tôn yêu quí của bà cùng đi theo Đức vua Vessantara, Bà hoàng thái hậu Phussatī ngự đến yết kiến Đức Thái Thượng Hoàng khóc than, van xin Đức Thái Thượng Hoàng đừng chiều theo ý dân chúng Sivi mà mời Thái tử của bà vô tội ra khỏi đất nước Sivi này.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền bảo rằng:

- Này Ái khanh Phussatī! Đức vua Vessantara, Thái tử yêu quí nhất của Trẫm, như ngọn cờ của đất nước Sivi, nhưng Trẫm bắt buộc phải mời Đức vua Vessantara, bởi vì Trẫm phải thi hành theo luật lệ của triều đình xưa, mặc dù Thái tử là người con yêu quí nhất của Trẫm. 

Đức Bồ Tát Làm Lễ Đại Thí Đầy Đủ Mọi Vật Thí

Sau khi sửa soạn xong các vật thí trong buổi đại thí, các quan đến tâu với Đức vua Vessantara. Sáng hôm ấy Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng các quan ngự đến các trại bố thí làm phước đại thí gồm có:

*700 con voi quí cùng những đồ trang sức,

*700 con ngựa quí cùng với đồ trang sức,

*700 cỗ xe cùng đồ trang hoàng,

*700 cô gái xinh đẹp cùng đồ trang sức quí giá,

*700 con bò sữa giống tốt,

*700 người tớ gái tài giỏi xinh đẹp,

*700 người tớ trai đã được huấn luyện tốt…

Còn các thứ đồ ăn, đồ uống không thiếu một thứ nào, thậm chí có cả thứ rượu (không có lợi), để cho nhóm người nghiện rượu.

Đức vua Bồ tát Vessantara làm phước đại thí (mahā-dāna) đến cho tất cả mọi hạng người: Từ vua chúa cho đến người nghèo khổ mãi đến chiều tối, Đức vua Bồ tát trở về cung điện của mình. (chỉ còn một đêm ấy mà thôi)

Đêm hôm ấy, Đức vua Bồ tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī với hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự đến chầu Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī, xin phép từ biệt đi vào rừng núí Himavanta, đến núi Vaṅka.

Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī vô cùng khổ tâm vì phải xa lìa Thái tử Vessantara yêu quý nhất của mình, lại còn biết Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā là người con dâu và hai cháu đích tôn của mình cũng xin đi theo Thái tử Vessantara, cho nên nỗi thống khổ càng thêm gấp bội.

Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī khuyên bảo Chánh cung Hoàng hậu Maddī rằng:

- Này vương phi Maddī! Trong rừng núi Himavanta có nhiều thú dữ rất nguy hiểm, vả lại đời sống trong rừng rất khổ cực, con không thể chịu nỗi được đâu!

Vậy, con nên ở lại trong cung điện này, chỉ một mình Đức phu quân Vessantara của con đi mà thôi.

Nghe Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī khuyên bảo như vậy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tha thiết tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, con cũng biết rõ như vậy, nhưng con không thể ở lại cung điện hưởng mọi sự an lạc một mình, mà để Đức phu quân của con chịu khổ một mình trong rừng núi Himavanta.

Vậy, con tha thiết kính xin Đức Phụ Vương và Mẫu hậu cho phép con được cùng đi theo Đức phu quân của con, để trọn tình trọn nghĩa, vui khổ có nhau.

Nghe vương phi Maddī tâu như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và bà Hoàng Thái hậu Phussatī biết không thể thuyết phục người con dâu ở lại cung điện được, nên tha thiết khuyên bảo vương phi Maddī nên để lại 2 đứa cháu rằng:

- Này vương phi Maddī! Nếu con muốn đi theo Đức phu quân của con, để trọn tình trọn nghĩa thì phụ vương và mẫu hậu cho phép được, nhưng hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā còn thơ ấu quá không thể sống thiếu thốn trong rừng núi được.

Vậy, con không nên đem 2 cháu yêu quý đi theo 2 con, mà nên để 2 đứa cháu ở lại với phụ vương và mẫu hậu nuôi dưỡng.

Nghe Đức Phụ Vương và Mẫu hậu khuyên bảo như vậy, vương phi Maddī tha thiết tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thơ ấu là trái tim, là một phần thân thể của 2 con. Khi 2 con còn sống thì không thể xa lìa hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā được. Tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu.

Khi ấy, Đức vua Bồ tát Vessantara tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, con đã khuyên bảo Chánh cung Hoàng hậu Maddī nên ở lại cung điện với hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, nhưng Chánh cung Hoàng hậu không chịu, nhất quyết dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đi theo con.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và bà Hoàng Thái hậu Phussatī vô cùng khổ tâm, bởi vì không chỉ mất Thái tử Vessantara mà còn con dâu là Vương phi Maddī và hai cháu đích tôn là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā nữa. Thái tử Vessantara hầu chuyện thân mật với Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī suốt đêm hôm ấy.

Đức vua Bồ Tát Rời Khỏi Đất Nước Sivi

Sáng sớm hôm ấy, trước khi mặt trời mọc, các quan sửa soạn chiếc long xa có 4 con ngựa báu. Biết ý của Thái tử Vessantara hoan hỷ làm phước thiện bố thí, nên bà Hoàng Thái hậu Phussatī truyền bảo các quan đem nhiều của cải quý báu chất đầy trong chiếc xe, rồi đem đến rước Đức vua Bồ Tát Vessantara. 

Đức vua Bồ tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đảnh lễ Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī, xin phép xuất gia trở thành đạo sĩ. Đức Phụ Vương và Mẫu hậu đành chấp thuận, nhưng phát sinh nỗi thống khổ cùng cực vì phải xa lìa những người thân yêu nhất trong đời.

Khi mặt trời mọc, các quan đến tâu Đức vua Bồ Tát Vessantara đến giờ ngự ra khỏi kinh thành Jetutara. Đức vua Bồ tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đảnh lễ Đức Phụ Vương Sañjaya và Mẫu hậu Phussatī xin phép từ giã lần cuối và từ giã 60 ngàn quan đại thần đồng sinh với Đức vua Bồ Tát Vessantara, rồi ngự đến chiếc long xa có bốn con ngựa báu đang chờ đón bên ngoài cửa.

Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī và hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā bước lên xe, ngoảnh nhìn lại thấy Đức Phụ Vương và Mẫu hậu đứng nhìn theo với nỗi thống khổ cùng cực vì phải xa lìa những người thân yêu nhất của mình.

Chiếc long xa có 4 con ngựa báu chở bốn vị vương gia lăn bánh, hai bên đường có nhiều người trong hoàng tộc dân chúng đứng chờ tiễn đưa Đức vua Bồ tát Vessantara ngự ra khỏi đất nước Sivi, đến núi Vaṅka trong rừng núi Himavanta. Họ chắp hai tay cung kính Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī và hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā với lòng kính yêu vô hạn.

Trên đường đi, nhiều người đứng chờ xin ban phước bố thí đến cho họ, Đức vua Bồ Tát Vessantara dừng chiếc long xa lại, lấy của cải quý báu làm phước thiện bố thí ban cho họ. Đến khi tất cả mọi thứ của cải vàng ngọc quí báu trong xe đã hết sạch, Đức vua Bồ Tát Vessantara cởi những thứ đồ trang sức đeo trong thân của mình đem làm phước thiện bố thí cho họ.

Nghe tin Đức vua Bồ tát Vessantara làm phước đại bố thí, bốn vị Bà-la-môn đến không kịp, nên chạy theo sau. Nhìn từ xa thấy họ, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu với Đức phu quân, Đức vua Bồ Tát Vessantara ngừng chiếc long xa lại chờ họ đến. Bốn vị Bà-la-môn quỳ lạy tâu xin Đức vua bố thí ban của cải đến cho họ.

Khi biết không còn thứ của cải nào để cho họ nữa, nên họ tâu xin Đức vua bố thí cho họ mỗi người một con ngựa. Đức vua Bồ Tát Vessantara bước xuống chiếc long xa, cởi bốn con ngựa báu ra, rồi ban cho 4 vị Bà-la-môn mỗi người một con ngựa báu, họ lên ngựa cỡi trở về, chiếc long xa đứng trơ trọi một chỗ.

Ngay khi ấy, 4 vị thiện nam hoá ra thành 4 con la thay vào bốn con ngựa báu tiếp tục kéo chiếc long xa đưa bốn vị Vương gia ngự đi đến núi Vaṅka trong rừng núi Himavanta.

Khi ấy, nhìn thấy chiếc long xa sang trọng lộng lẫy, nên một vị Bà-la-môn đến quỳ lạy tâu xin Đức vua làm phước thiện bố thí ban chiếc long xa ấy cho ông.

Nghe vị Bà-la-môn tâu xin như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng với Chánh cung Hoàng hậu Maddī ẵm 2 đứa con bước xuống long xa, rồi Đức vua Bồ Tát Vessantara ban chiếc long xa cho vị Bà-la-môn ấy. Ngay khi ấy, 4 con la vốn là 4 vị thiện nam cùng nhau biến mất.

Đức vua Bồ tát Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Maddī em! Em ẵm công chúa Kaṇhājinā, còn anh ẵm hoàng tử Jāli tiếp tục ngự đi bộ trên đường đến núi Vaṅka trong rừng núi Himavanta.

Rừng Núi Vaṅka

Đức vua Bồ Tát Vessantara ẵm hoàng tử Jāli và Chánh cung Hoàng hậu Maddī ẵm công chúa Kaṇhājinā đang đi trên đường, gặp một nhóm người đi ngược đường về phía họ, Đức vua Bồ Tát Vessantara bèn hỏi họ rằng:

- Này quí vị! Núi Vaṅka ở nơi nào? Từ đây đi đến nơi đó còn khoảng cách bao nhiêu xa?

Nhóm người này nhìn thấy Đức vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī đi bộ mỗi người ẵm một đứa con, hỏi đường đi đến núi Vaṅka, họ cảm thấy thương mà thưa rằng:

- Kính thưa hai vị, núi Vaṅka ở xa tít mãi đằng kia, mà hai vị đi bộ như thế này biết bao giờ mới đi đến nơi ấy. 

Nghe nhóm người chỉ dẫn như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī từ giã nhóm người ấy, rồi tiếp tục đi bộ đến kinh thành Mātula đất nước Cetaraṭṭha vào buổi chiều ngày hôm ấy, ngồi tại nhà nghỉ trước cổng kinh thành Mātulanagara.

Thực ra, từ kinh thành Jetuttara đất nước Sivi đến kinh thành Mātula đất nước Ceta có khoảng cách xa 30 do tuần,([2][1]) do nhờ oai lực chư thiên đã thâu con đường ngắn lại, nên Đức vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī khởi hành từ kinh thành Jetuttara đất nước Sivi vào buổi sáng, đến kinh thành Mātula đất nước Cetaraṭṭha vào buổi chiều hôm ấy.

Nghe quân lính gác tại cổng thành tâu báo với Đức Vua Ceta rằng: “ Đức vua Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đã ngự đến, và đang ngồi tại nhà nghỉ trước cổng kinh thành.”

Nghe tâu như vậy, Đức vua Ceta cùng các quan văn võ ngự ra tận nhà nghỉ trước cổng kinh thành, đón rước Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā.

Nhìn thấy hoàn cảnh khổ của 4 vị Vương gia như vậy, Đức vua Ceta cùng các quan cận thần vô cùng xúc động rơi nước mắt. Nghi lễ đón tiếp rất đơn giản nhưng tình cảm thật đậm đà thắm thiết.

Đức vua Ceta cung thỉnh Đức vua Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự lên chiếc long xa sang trọng, rồi cung nghinh rước vào cung điện, để cho bốn vị Vương gia tắm rửa sạch sẽ, rồi cung thỉnh ngự đến phòng khách của triều đình. Đức vua Ceta tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Vessantara, hôm nay bổn vương cùng bá quan văn võ vô cùng diễm phúc được đón tiếp Đại Vương cùng Chánh cung Hoàng hậu, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, xin được mở tiệc thết đãi 4 vị Vương gia là thượng khách của triều đình. 

Khi ấy, Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền bảo rằng: 

- Thưa Đức vua Ceta, Đức vua cùng các quan đã đón tiếp bổn vương cùng Chánh cung Hoàng hậu, hoàng tử và công chúa thật là trọng thể với tình cảm đậm đà thắm

thiết như thế này, bổn vương xin cảm tạ toàn thể quý vị.

Đức vua Ceta tâu hỏi rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Vessantara, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Bà Hoàng Thái Hậu Phussatī được khoẻ mạnh hay không? Do nguyên nhân nào mà Đại Vương cùng Chánh cung Hoàng hậu phải vất vã như thế này?

Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền bảo cho Đức vua Ceta biết Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Bà Hoàng Thái Hậu Phussatī được khoẻ mạnh, và thuật cho biết nguyên nhân như sau: 

- Thưa Đức vua Ceta, sở dĩ bổn vương phải rời khỏi đất nước Sivi là vì bổn vương đem con Bạch tượng báu của triều đình, làm phước bố thí ban cho 8 vị Bà-la-môn của đất nước Kāliṅga. Do đó dân chúng Sivi bực tức bổn vương, dẫn nhau đến chầu Đức Thái Thượng Hoàng, yêu cầu Đức Thái Thượng Hoàng phải truyền lệnh mời bổn vương rời khỏi đất nước Sivi, đến ở núi Vaṅka trong rừng núi Himavanta.

Tuy Đức Thái Thượng Hoàng rất thương yêu bổn vương, nhưng dân chúng Sivi hăm doạ, nếu Đức Thái Thượng Hoàng không truyền lệnh mời bổn vương rời khỏi đất nước Sivi thì họ sẽ gây nguy hiểm không chỉ đến cho bổn vương, mà còn đến Đức Thái Thượng Hoàng nữa. Do đó, Đức Thái Thượng Hoàng đành phải chiều theo ý của dân chúng Sivi.

Đó là nguyên nhân khiến bổn vương phải rời khỏi đất nước Sivi, đến ở núi Vaṅka trong rừng núi Himavanta. Còn Chánh cung Hoàng hậu Maddī ẵm hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā xin đi theo bổn vương.

Nghe xong câu chuyện của Đức vua Bồ Tát Vessan-tara, Đức vua Ceta cùng các quan vô cùng thương cảm cho cảnh ngộ của Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā còn thơ ấu.

Đức vua Ceta cùng 60 ngàn quan cận thần chắp tay khẩn khoản tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Vessantara, Kính thỉnh Đại Vương lên ngôi báu ngự tại kinh thành Mātula, trị vì đất nước Ceta này, còn tất cả chúng thần nguyện hết lòng làm bề tôi trung thành của Đại Vương.

Dù Đức vua Ceta khẩn khoản tâu nhiều lần như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara vẫn một mực khước từ lời thỉnh cầu của Đức vua Ceta cùng các quan trong triều đình, bởi vì. Đức vua Bồ Tát Vessantara chỉ muốn ngự đến rừng núi Vaṅka  thôi.

Nghỉ lại một đêm tại cung điện của Đức vua Ceta, sáng sớm hôm sau Đức vua Bồ Tát Vessantara, cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự lên chiếc long xa tiếp tục khởi hành ngự đi đến rừng núi Vaṅka.

Đức vua Ceta cùng 60 ngàn quan theo sau đưa tiễn Đức vua Bồ Tát Vessantara một đoạn đường dài 15 do tuần, rồi dừng lại nơi đầu bìa rừng và tâu chỉ rõ đường cho Đức vua Bồ Tát Vessantara rằng:

- Muôn tâu Đại vương Vessantara, chúng thần xin tiễn Đại Vương nơi đây, còn Đại Vương cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā tiếp tục ngự đi về hướng bắc nhìn thấy sườn núi cao Vepulla, tiếp đến dòng sông Ketumatī nước trong trẻo, tiếp đến núi Nāḷika. Từ đó, ngự đi về hướng đông bắc có hồ nước Mucalinda to lớn có nhiều thứ sen trắng, sen hồng…, từ đó, ngự vào rừng sâu có nhiều loại cây ăn quả, tiếp đến sườn núi Vaṅka gần đó có cái hồ vuông lớn nước ngon lành, nơi ấy Đại Vương có thể làm cốc lá trú ngụ nơi ấy.

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương ngự đi thêm khoảng 15 do tuần nữa, trải qua các dãy núi rừng này mới đến rừng núi Vaṅka. 

Tại nơi ấy, cuộc chia ly đầy lưu luyến, vô cùng cảm động, Đức vua Ceta cảm động trào nước mắt, Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā tiếp tục lên đường đầy khó khăn nguy hiểm, Đức vua Ceta đứng nhìn theo cho đến khi khuất dạng.

Để bảo vệ an toàn cho Đức vua Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, không cho kẻ thù nào đến quấy rầy, nên Đức vua Ceta gọi người thợ săn tên là Cetaputta đến truyền bảo rằng:

- Này ngươi! Ngươi có phận sự giữ gìn cửa rừng này, xem xét những người lạ khả nghi không cho phép vào khu rừng.

Sau khi truyền bảo người thợ săn xong, Đức vua Ceta hồi cung ngự trở về kinh thành Mātulanagara cùng với 60 ngàn quan trong triều.


 [1] 1 do tuần dài khoảng 20 cây số


 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn