(Xem: 1666)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2172)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp hạnh bố thí Ba la mật (Bậc hạ tt-1)

11 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9308)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 1)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ (tt-1)

 

Đức vua Bồ Tát Vessantara Ngự Đến Núi Vaṅka  

Theo sự chỉ dẫn đường của Đức vua Ceta, đoạn đường còn lại 15 do tuần, Đức vua Bồ Tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự đi đến núi Gandhamādana, đứng nhìn rừng núi bao la, từ đó ngự theo hướng bắc đến chân núi Vepulla, ngồi nghỉ nơi bến sông Ketumatī tắm mát xong, ăn trái cây, rồi tiếp tục ngự đến núi Nāḷika, ngự đi về phía hướng đông bắc đến hồ nước lớn Mucalinda, từ đó ngự vào rừng sâu có nhiều cây ăn quả và cũng có nhiều thú dữ, vượt qua khu rừng ấy, đến cái hồ vuông lớn gần núi Vaṅka.

Khi ấy, chỗ ở của Đức vua trời Sakka phát nóng, Đức vua trời Sakka xem xét nguyên nhân biết rõ Đức vua Bồ tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự vào rừng núi Himavanta, trú núi Vaṅka, xuất gia trở thành đạo sĩ, nên Đức vua trời Sakka gọi thiện nam Vissakamma truyền bảo rằng :

- Này Vissakamma! Ngươi nên hiện xuống núi rừng Himavanta, hoá ra 2 cốc lá tại núi Vaṅka, để làm chỗ ở cho Đức vua Bồ tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī và những thứ vật dụng cần thiết cho các vị đạo sĩ.

Vâng lệnh Đức vua trời Sakka, vị thiện nam Vissa-kamma hiện xuống rừng núi Himavanta, hoá ra 2 cốc lá khoảng cách không xa, đường đi kinh hành thuận lợi, hoá ra một bộ y phục đạo sĩ, một bộ nữ đạo sĩ, hai bộ trẻ con, và các thứ vật dụng cần thiết của các đạo sĩ, rồi ghi mấy dòng chữ Những vị nào muốn xuất gia trở thành đạo sĩ, xin hãy sử dụng những bộ y phục và những thứ

vật dụng cần thiết này.”

Vị thiên nam Vissakamma dùng oai lực của mình cấm các loài thú dữ, các loài rắn độc, các con vật có tiếng kêu đáng sợ không được đến gần nơi ấy, rồi trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

Đức vua Bồ tát Vessantara cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự đi theo con đường ấy đến nơi, Đức vua Bồ Tát Vessantara quan sát nhìn thấy 2 cốc lá khoảng cách không xa nhau, có đường đi kinh hành, v.v… Đức vua Bồ Tát Vessantara bước vào cốc lá nhìn thấy dòng chữ, hiểu biết đó là Đức vua trời Sakka ban cho.

Xuất Gia Trở Thành Đạo Sĩ

Đức vua Bồ Tát mở cốc lá ra nhìn thấy bên trong những y phục và các thứ vật dụng của đạo sĩ. Đức vua Bồ Tát Vessantara thay bộ y phục cũ, mặc bộ y phục đạo sĩ mới vào, sử dụng các vật dụng của đạo sĩ, trở thành bậc xuất gia đạo sĩ. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara cầm gậy bước xuống cốc cảm thấy hạnh phúc, nên thốt lên rằng:

Ô! An lạc quá, hạnh phúc quá! Ta đã là bậc xuất gia đạo sĩ rồi!

Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara đi qua lại trên đường kinh hành. Sau đó, đi đến cốc lá của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. 

Nhìn thấy Hoàng Thượng trong tướng mạo đạo sĩ, Chánh cung Hoàng hậu cúi xuống lạy dưới đôi bàn chân của Đức Bồ tát đạo sĩ, xin phép Đức Bồ tát đạo sĩ cho phép xuất gia trở thành nữ đạo sĩ. Chánh cung Hoàng hậu Maddī vào cốc mặc bộ y phục nữ đạo sĩ và hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā cũng mặc y phục đạo sĩ. Cả bốn vị Vương gia đều trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi Vaṅka. Nữ đạo sĩ Maddī bạch với Đức Bồ tát đạo sĩ rằng:

- Kính bạch Đức đạo sĩ, xin Ngài ngự tại cốc chăm sóc hai con nhỏ, còn tíện nữ xin làm phận sự vào rừng tìm các loại trái cây đem về dâng lên Ngài và hai con.

Từ đó mỗi buổi sáng, nữ đạo sĩ Maddī một mình vào rừng núi tìm các loại trái cây, rồi đem về dâng lên Đức Bồ Tát đạo sĩ, và 2 con.

Đức Bồ tát đạo sĩ truyền dạy với nữ đạo sĩ Maddī rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Bây giờ chúng ta đều là bậc xuất gia đạo sĩ rồi.

Vậy, từ nay nữ đạo sĩ không nên đến tìm bần đạo trong những lúc không hợp thời, bởi vì nữ giới có thể làm ô nhiễm bậc hành phạm hạnh.

Nữ đạo sĩ Maddī cung kính vâng lời truyền dạy của Đức Bồ Tát đạo sĩ, nên bạch rằng: “Dạ, xin vâng.

Từ ngày đó, nữ đạo sĩ Maddī dậy từ sáng sớm đi lấy nước uống, nước dùng, cây đánh răng đem đến dâng Đức Bồ Tát đạo sĩ, quét dọn xung quanh cốc, dẫn 2 con đến gửi Đức Bồ Tát đạo sĩ xong, nữ đạo sĩ đeo gùi trên đôi vai, tay cầm mai một mìmh đi vào rừng núi tìm các loại trái cây, loại củ, buổi chiều mới trở về đến cốc lá, tự tay sửa soạn các loại trái cây, loại củ dọn trên sàn trước cốc, rồi thỉnh Đức Bồ Tát đạo sĩ, và gọi 2 con vào dùng, 4 vị đạo sĩ cùng nhau dùng trái cây và củ.

Hằng ngày, đời sống yên ổn của 4 vị Vương gia đạo sĩ thực hành phạm hạnh cao thượng trong núi Vankata suốt thời gian 7 tháng qua.

Bà-la-môn Jūjaka

Vào thời ấy, có Bà-la-môn hành khất tên Jūjaka làng Bà-la-môn Dunniviṭṭha trong đất nước Kāliṅga, y đi ăn xin dành dụm được 100 kahāpana (tiền Ấn xưa) đem gửi một gia đình Bà-la-môn, rồi y lại ra đi ăn xin nơi khác, trải qua một thời gian lâu, nên gia đình Bà-la-môn ấy tiêu dùng hết số tiền ấy.

Khi y trở lại, xin lấy lại số tiền mà y đã gởi trước kia, người chủ nhà Bà-la-môn không có tiền trả lại cho y, nên đem đứa con gái tên Amittatāpanā gả cho y làm vợ, để trừ số tiền ấy.

Bà-la-môn Jūjaka vô cùng sung sướng được người vợ trẻ dẫn về ở làng Bà-la-môn Dunniviṭṭha trong đất nước Kāliṅga.

Cô Amittatāpanā là người vợ tận tụy biết lo phục vụ chồng mình rất chu đáo. Một số ông chồng Bà-la-môn trẻ khác trong làng nhìn thấy cô Amittatāpanā như vậy, nên khen ngợi cô Amittatāpanā mà chê trách vợ mình rằng: 

“Cô Amittatāpanā, vợ của ông Bà-la-môn Jūjaka già, tận tuỵ biết lo phục vụ chồng của cô một cách chu đáo như vậy, còn bà sao không biết noi gương cô Amitta-tāpanā mà phục vụ tôi như vậy?”

Nghe chồng chê trách mình như vậy, khiến các bà vợ cảm thấy bực tức, nên họ gặp nhau bàn tính rằng: “Từ ngày cô Amittatāpanā, vợ ông Bà-la-môn Jūjaka già đến ở trong làng này, ông chồng của chúng ta khen ngợi cô ấy mà chê trách chúng ta. Vậy, chúng ta nên tìm cách nào, để cô Amittatāpanā bỏ làng này đi đến làng khác?”

Các bà Bà-la-môn bàn tính với nhau rằng: “Khi gặp cô chỗ nào. chúng ta cùng nhau nói xấu, chê cười cô có chồng già, đó là điều bất hạnh, thà chịu chết còn hơn có chồng già!”

Một hôm, nhìn thấy cô Amittatāpanā đem nồi đến bến sông để lấy nước, các bà Bà-la-môn vợ của các ông Bà-la-môn trẻ trong làng, cùng nhau dẫn đến gặp cô Amittatāpanā nói xấu, chê cười rằng: 

- Này cô Amittatāpanā! Cô còn trẻ đẹp như thế này, sao mà cha mẹ cô không gả cô cho một người chồng trẻ đẹp xứng đôi vừa lứa mà lại đem gả cô cho ông Bà-la-môn Jūjaka già khọm lưng còng xấu xí như thế kia. Cô có được sung sướng gì đâu! Thà chết còn hơn là sống chung với ông Bà-la-môn Jūjaka già khọm như vậy.

Cha mẹ của cô không tìm cho cô một người chồng trẻ đẹp, nên gả cô cho ông Bà-la-môn Jūjaka già lưng còng xấu xí như thế kia. Chắc cô đã tạo ác nghiệp, nên cô không may mà gặp phải ông Bà-la-môn Jūjaka già lưng còng làm chồng như vậy.

Người chồng trẻ với người vợ trẻ sống chung với nhau mới có hạnh phúc an lạc, còn ông chồng già khọm lưng còng với người vợ trẻ đẹp như cô em sống chung với nhau có sung sướng gì đâu! Cô em thật đáng thương!

- Này cô Amittatāpanā! Cô em còn trẻ và xinh đẹp như thế này, chắc chắn có nhiều Bà-la-môn trai trẻ giàu có xứng đôi vừa lứa thương yêu say đắm cô em.

Vậy, cô em nên bỏ ông Bà-la-môn Jūjaka chồng già khọm ấy, đi trở về lại nhà cha mẹ của mình. Đó là điều tốt lành đối với cô em. Nếu cô em còn bị ràng buộc với ông Bà-la-môn Jūjaka chồng già khọm thì cô em có được hạnh phúc an lạc gì đâu! Thật uổng cuộc đời con gái xinh đẹp như cô! 

Nghe các bà Bà-la-môn vừa chê trách vừa khuyên bảo, nên làm cho cô Amittatāpanā cảm thấy tủi thân. Trên đường đem nước về nhà, cô Amittatāpanā vừa đi vừa khóc thảm thương cho đến khi về đến nhà.

Nhìn thấy Amittatāpanā, người vợ trẻ yêu quý của mình khóc, ông Bà-la-môn Jūjaka chồng già liền hỏi rằng:

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Vì sao em khóc vậy?

- Này ông Bà-la-môn! Tôi sẽ không đi đến bến sông lấy nước nữa đâu! Vì các bà vợ của các ông Bà-la-môn trẻ chê cười tôi làm vợ của một ông chồng già khọm xấu xí như ông đây! Họ chế nhạo tôi đủ điều, tôi cảm thấy xấu hổ quá. Vì vậy, từ nay tôi không đi đến bến sông lấy nước nữa đâu!

Nghe người vợ trẻ yêu quý của mình than vãn như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka cảm thấy khổ tâm, nói lời an ủi rằng

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Từ nay, em không phải đi đến bến sông lấy nước cho anh nữa! anh sẽ tự đi lấy nước về cho em và anh dùng.

 - Này ông Bà-la-môn! Tôi sinh ra trong một gia đình có truyền thống không để chồng đi lấy nước. Tôi nói cho ông biết, nếu ông không tìm được tớ trai, tớ gái đem về phục vụ thì tôi không thể sống chung với ông trong gia đình này nữa.

Nghe người vợ trẻ yêu quý của mình nói như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka thở than rằng:

- Này em yêu quý! Em biết anh nghèo khổ, sống bằng nghề hành khất như thế này, thì làm sao có nhiều tiền để thuê tớ trai, tớ gái đem về phục vụ cho em được. Xin em đừng giận dỗi nữa, em không phải vất vả làm gì cả, một mình anh làm mọi việc trong nhà để phục vụ cho em.

Do oai lực của chư thiên khiến cô Bà-la-môn Amitta-tāpanā nói với ông Bà-la-môn Jūjaka rằng: 

- Này anh Bà-la-môn Jūjaka! Em nghe tin Đức vua Vessantara đang ở tại núi Vaṅka, anh đến yết kiến Đức vua Vessantara, xin Đức vua ban cho tớ trai, tớ gái. Đức vua Vessantara chắc chắn sẽ ban tớ trai, tớ gái cho anh được toại nguyện.

Ông Bà-la-môn Jūjaka than vãn rằng:

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Anh già yếu không còn có sức lực, con đường đi đến núi Vaṅka xa xôi khó khăn hiểm trở, có nhiều thú dữ gây tai hại đến sinh mạng.

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Xin em đừng bận tâm lo nghĩ, anh sẽ làm mọi việc nhà và phục vụ em một cách chu đáo. Xin em hãy an tâm.

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka than vãn như vậy, cô Amittatāpanā chê trách rằng:

- Này ông Bà-la-môn Jūjaka! Ông là người nhút nhát chưa ra đến trận địa chưa chiến đấu đã chịu đầu hàng rồi! Ông chưa đi mà đã co rút cổ chịu thua rồi.

- Này ông Bà-la-môn Jūjaka! Ông nên biết rằng: Nếu ông không chịu đi xin tớ trai, tớ gái từ Đức vua Vessantara thì tôi không ở trong nhà ông nữa. Khi ấy, ông sẽ buồn khổ nhiều, lưng của ông sẽ khòm xuống, tóc ông sẽ bạc trắng, thân hình ông sẽ gầy ốm và ông sẽ chết vì thương nhớ tôi.

Nghe người vợ trẻ yêu quý nói như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka già khọm lo sợ người vợ trẻ bỏ đi thật, bởi vì ông đã bị ràng buộc bởi tham ái với cô vợ trẻ Amitta-tāpanā, nên ông nói rằng:

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Em hãy chuẩn bị vật thực đi đường để cho anh đi đến yết kiến Đức vua Vessantara, xin tớ trai, tớ gái đem về phục vụ em suốt ngày đêm.

Trước lúc khởi hành, ông Bà-la-môn Jūjaka già sửa cửa ngõ lại cho chắc chắn, vào rừng tìm củi về để trong nhà, lấy nước đầy các bể chứa, để cho người vợ ở nhà dùng, rồi ông Bà-la-môn Jūjaka dạy bảo rằng:

- Này Amittatāpanā em yêu quý! Em ở nhà chớ nên dể duôi, ban ngày, em không nên tiếp xúc nhiều người, ban đêm chớ nên đi ra khỏi nhà. Em ở nhà chờ đợi anh đem tớ trai, tớ gái về cho em

Dạy bảo người vợ trẻ xong, ông Bà-la-môn Jūjaka mang hình thức đạo sĩ, trên gương mặt đầm đìa nước mắt vì lưu luyến nói lời từ giã người vợ trẻ yêu quý.

Ông lên đường đi thẳng đến kinh thành Jetuttara, đất nước Sivi hỏi thăm đường đi đến chỗ ở của Đức vua Bồ tát Vessantara tại núi Vaṅka. Dân chúng kinh thành Jetuttara biết ông Bà-la-môn Jūjaka là người dân ăn xin của đất nước Kāliṅga, họ mắng nhiếc xua đuổi, ông Bà-la-môn Jūjaka sợ chạy đi ra khỏi kinh thành Jetuttara.

Do nhờ oai lực của chư thiên khiến ông chạy nhằm đúng con đường mà Đức vua Bồ Tát Vessantara đã ngự đi trước kia.

Ông Bà-la-môn Jūjaka đã trải qua một khoảng đường dài gian nan vất vả đầy khổ cực, cuối cùng ông cũng tìm đến ven rừng, gặp phải bầy chó săn của người thợ săn Cetaputta chạy đến cắn, ông Bà-la-môn Jūjaka hoảng sợ liền trèo lên cây, rồi cầu xin rằng:

Có ai nói cho tôi biết chỗ ở của Đức vua Vessantara cao thượng, Bậc thắng được tâm keo kiệt bủn xỉn mà không bao giờ bị bại nữa. Bậc ban cho sự an toàn đến tất cả chúng sinh, tôi đang gặp cơn nguy khốn, xin ban sự an toàn đến cho tôi. Đức vua Vessantara là nơi nương nhờ của những kẻ hành khất, như mặt đất là nơi nương nhờ của chúng sinh muôn loài.

Có ai nói cho tôi biết chỗ ở của Đại Vương Vessantara, Đại Vương là nơi mà những kẻ hành khất đến tụ hội, như con sông Gaṅgā là nơi mà các dòng sông lớn nhỏ chảy đến tụ hội.

Có ai nói cho tôi biết chỗ ở của Đại Vương Vessantara, Đại Vương như một cây cổ thụ to lớn bên đường, có bóng mát rộng lớn che mát những khách lữ hành nghỉ chân trong mùa nắng nóng, v.v…

 Tôi đang gặp cơn nguy khốn ở khu rừng này, hoảng sợ kêu lời cầu cứu.

Vậy, có người nào biết chỗ ở của Đức vua Vessantara, bậc có những ân đức cao thượng như vậy, nói cho tôi biết, thì người ấy chắc chắn có phước lớn lắm!

Người thợ săn Cetaputta được Đức vua Ceta truyền bảo có bổn phận bảo vệ sự an toàn cho Đại Vương Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ở trong núi rừng Vaṅka này.

Khi ấy, người thợ săn Cetaputta đi trong rừng, nghe tiếng ông Bà-la-môn Jūjaka đang than vãn muốn chầu Đức vua Vessantara, nên nghĩ rằng: “Ông Bà-la-môn này gian nan vất vả đến nơi này, chắc chắn có ý đồ xin gì đây, ta nên giết y chết là xong.”

Nghĩ xong, người thợ săn đưa cây cung nạp mũi tên vào nhắm về phía ông Bà-la-môn Jūjaka bảo rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Đức vua Vessantara đã bị các ngươi làm khổ, bởi vì đã xin con Bạch tượng báu là quốc bảo của đất nước Sivi, nên dân chúng Sivi bực tức mời Đức vua Vessantara ra khỏi đất nước Sivi. Đức vua Vessantara đã dẫn Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngự đến ở tại núi Vaṅka này. Bây giờ, Đức vua Vessantara không có gì để ban cho ngươi nữa! 

- Này ông Bà-la-môn! Ngươi định đến xin hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā chăng? Ta sẽ không để ngươi thực hiện ý đồ xấu ấy đâu! Ta sẽ bắn ngươi rơi xuống đất chết tại nơi đây.

Vậy, ngươi có gì để nói hay không ?

Nghe người thợ săn Cetaputta khẳng khái nói như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka già kinh hồn bạt vía sợ chết, nên nói dối rằng:

- Này người thợ săn! Ta là Bà-la-môn sứ giả không nên giết. Xin ngươi hãy nghe ta nói, người ta không bao giờ giết sứ giả, đó là truyền thống xưa.

- Này người thợ săn! Dân chúng Sivi không còn bực tức Đức vua Vessantara nữa, họ muốn thỉnh Đức vua hồi cung.

Từ ngày Đức vua Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ra khỏi kinh thành Jetuttara, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Bà Hoàng Thái Hậu Phussatī nhớ thương Thái tử Vessantara, Vương phi Maddī và hai cháu đích tôn Jāli và Kaṇhājinā, làm cho 2 vị Vương gia ngày đêm khổ tâm.

Do đó, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Bà Hoàng Thái Hậu Phussatī phái tôi đến đây tìm Đức vua Vessantara, để kính thỉnh Đức vua Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara trị vì đất nước Sivi như trước.

 - Này người thợ săn! Ngươi có biết chỗ ở của Đức vua Vessantara, thì ngươi chỉ đường cho tôi đến yết kiến tâu thỉnh Đức vua Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu ngự trở về kinh thành Jetuttara.

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka nói như vậy, người thợ săn Cetaputta vui mừng hoan hỷ đuổi bầy chó đi nơi khác, Bà-la-môn Jūjaka từ trên cây leo xuống, người thợ săn mời ông Bà-la-môn đến chỗ ở của mình nói rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Tôi rất hân hạnh tiếp đãi ông là sứ giả của Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī, đến tâu thỉnh Đức vua Vessantara kính yêu của chúng tôi.

Vậy, xin mời ông sứ giả dùng vật thực bằng các món thịt rừng với tôi.

Sau khi tiếp đãi ông Bà-la-môn Jūjaka xong, người thợ săn Cetaputta còn biếu mật ong và nhiều món quà khác đi đường cho ông Bà-la-môn Jūjaka.

Người thợ săn Cetaputta tiễn chân ông sứ giả Bà-la-môn Jūjaka đến một nơi, rồi chỉ rõ đường đến chỗ ở của Đức vua Vessantara.

Người thợ săn còn khuyên ông sứ giả Bà-la-môn Jūjaka trên đường đi, nên đến gặp vị đạo sĩ Accuta, nhờ Ngài chỉ đường tiếp đến chỗ ở của Đức vua Vessantara.

Nghe người thợ săn tận tình chỉ rõ con đường đi đến chỗ ở của Đức vua Vessantara, ông Bà-la-môn Jūjaka vô cùng hoan hỷ cảm tạ ơn người thợ săn, rồi xin từ giã tiếp tục lên đường theo sự chỉ dẫn của người thợ săn đến gặp vị đạo sĩ Accuta vấn an sức khoẻ lẫn nhau xong, ông Bà-la-môn Jūjaka bạch hỏi vị đạo sĩ Accuta rằng:

- Kính bạch Ngài đạo sĩ Accuta, tôi đến đây để tìm gặp Đức vua Vessantara, Thái tử của Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī, bị dân chúng Sivi mời ra khỏi đất nước Sivi, ngự đến ở rừng núi Vaṅka. Nếu Ngài biết chỗ ở của Đức vua Vessantara thì xin Ngài chỉ đường cho tôi đến chầu Đức vua Vessantara.

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka bạch hỏi như vậy, vị đạo sĩ Accuta nói cho biết rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Đức vua Vessantara không còn một thứ của cải nào cả. Bây giờ, Đức vua Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī và hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đều xuất gia trở thành đạo sĩ cả thảy, sống thực hành pháp hành cao thượng.

Vậy, ông đến chầu để xin thứ gì nữa? Không lẽ, ông đến xin hoàng tử Jāli đem về làm tớ trai, hoặc xin công chúa Kaṇhājinā đem về làm tớ gái hay sao?

Nghe vị đạo sĩ Accuta nói đúng tim đen của mình, ông Bà-la-môn Jūjaka hoảng sợ vị đạo sĩ không chỉ đường đến chỗ ở của Đức vua Vessantara, nên nói dối rằng:

- Kính bạch Ngài đạo sĩ Accuta cao thượng, kính xin Ngài bớt giận. Thật ra, tôi tha thiết muốn đến chầu Đức vua Vessantara không phải xin Đức vua ban gì cho tôi, mà sự thật, được thấy chư bậc thiện trí sẽ đem lại hạnh phúc cao thượng, gần gũi thân cận với chư bậc thiện trí sẽ được an lạc cao thượng.

Tôi là vị thầy Bà-la-môn Jūjaka muốn đến chầu Đức vua Vessantara, từ ngày Đức vua Vessantara bị dân chúng Sivi mời ra khỏi kinh thành Jetuttara, tôi không được yết kiến Đức vua nữa. Vì vậy, tôi đến đây tìm đến chầu Đức vua Vessantara.

 Nếu Ngài đạo sĩ biết chỗ ở của Đức vua Vessantara thì kính xin Ngài hoan hỷ chỉ cho tôi biết. Bạch Ngài.

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka bạch như vậy, vị đạo sĩ Accuta bảo rằng:

- Này ông Bà-la-môn Jūjaka! Nếu đúng như vậy thì bần đạo xin mời ông nghỉ lại đêm nay ở đây, sáng ngày mai, bần đạo sẽ chỉ đường cho ông đến chầu Đức vua Vessantara.

Nghe vị đạo sĩ bảo như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka vô cùng hoan hỷ vâng lời. Ngài đạo sĩ tiếp đãi mời ông Bà-la-môn Jūjaka dùng các thứ trái cây no đủ.

Sáng ngày hôm sau, Ngài đạo sĩ đưa ông Bà-la-môn Jūjaka đến ngọn đồi cao, đưa cánh tay phải chỉ về phía núi Gandhamādana mà bảo rằng:

- Này ông Bà-la-môn Jūjaka! Ông hãy nhìn theo hướng đầu ngón tay của bần đạo, phía xa kia là núi Gandhamādana, dưới chân núi có hồ nước vuông rộng lớn và sâu có nhiều loại cá to lớn, gần đó có hồ Mucalinda có nhiều hoa sen, hoa súng đủ loại rất xinh đẹp, quanh bờ hồ có nhiều thứ rau ngon, xung quanh nơi ấy là rừng cây, đặc biệt có nhiều cây ăn quả thay đổi nhau cho quả các mùa, quanh năm suốt tháng không bao giờ hết quả. Chính nơi ấy là chỗ ở của Đức vua Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā.

Nghe vị đạo sĩ Accuta chỉ rõ đường đến chỗ ở của Đức vua Vessantara, ông Bà-la-môn Jūjaka vô cùng vui mừng hoan hỷ cảm tạ ân đức vị đạo sĩ, rồi đảnh lễ vị đạo sĩ Accuta, xin phép tiếp tục lên đường đi theo sự chỉ dẫn của vị đạo sĩ Accuta.

Ông Bà-la-môn Jūjaka đi theo con đường nhỏ đến chỗ ở của Đức vua Bồ tát Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā.

Đến gần chỗ ở của Đức vua Bồ Tát Vessantara vào buổi chiều hôm ấy, y nghĩ rằng: “Nếu ta đến yết kiến Đức vua Vessantara để xin hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā mà có sự hiện diện của Chánh cung Hoàng hậu Maddī thì bất lợi cho ta, cho nên ta nên tìm một chỗ nghỉ qua đêm, chờ sáng mai lúc hoàng hậu Maddī đi vào rừng để tìm trái cây. Khi ấy, ta sẽ đến yết kiến Đức vua Vessantara, xin Đức vua ban cho ta hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. Ta sẽ dẫn về làm tôi tớ cho người vợ trẻ yêu quý của ta.”

Chánh Cung Hoàng Hậu Maddī Thấy Ác Mộng

 Trong đêm ấy, lúc gần sáng. Chánh cung Hoàng hậu Maddī nằm thấy ác mộng rằng: “Một ông Bà-la-môn có thân hình xấu xí dị dạng đáng sợ, hai lỗ tai đeo hoa, tay cầm vũ khí hung hãn xông vào cốc lá, nắm đầu tóc lôi làm cho Chánh cung Hoàng hậu té xuống nằm trên nền, rồi móc hai con mắt, chặt hai tay, Chánh cung Hoàng hậu khóc la thảm thiết, y liền mổ ngực của Chánh cung Hoàng hậu móc lấy trái tim, máu đang chảy lai láng, rồi y đem đi.”

Khi tỉnh giấc Chánh cung Hoàng hậu Maddī cảm thấy kinh hoàng, hoảng sợ, nghĩ rằng: “Ta đã nằm thấy ác mộng. Ngoài Hoàng Thượng ra, không một ai có thể đoán được ác mộng này, ta nên ngự đến chầu Hoàng Thượng Vessantara, kể lại ác mộng này.”

Chánh cung Hoàng hậu Maddī ngự đến gõ cửa cốc của Đức vua đạo sĩ Vessantara.

Nghe tiếng gõ cửa, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền hỏi. Ai đó?

Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Đức đạo sĩ cao thượng, thần thiếp là Maddī, kính xin Đức đạo sĩ tha tội.

Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara truyền rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Nữ đạo sĩ đã phá lời cam kết của chúng ta rồi! Do nguyên nhân nào mà nữ đạo sĩ đến đây không đúng thời, đúng lúc vậy ?

Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Đức vua đạo sĩ cao thượng, thần thiếp không dám phá lời cam kết, nhưng thần thiếp vừa nằm thấy cơn ác mộng hãi hùng.

Đức đạo sĩ Vessantara truyền hỏi rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Nếu vậy thì nữ đạo sĩ hãy thuật rõ lại cho bần đạo nghe cơn ác mộng ấy.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rõ lại ác mộng ấy, Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara đoán mộng biết chắc rằng: “Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của mình sẽ được thành tựu. Sáng mai này sẽ có người hành khất đến xin hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā.”

Đoán vậy, nên Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara trấn an nữ đạo sĩ Maddī rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Nữ đạo sĩ ngủ không được yên giấc nên nằm mộng thấy như vậy, nữ đạo sĩ không nên hoảng sợ mà an tâm trở về cốc của mình.

Đêm đã qua, lúc hừng đông hoàng hậu thức dậy làm mọi công việc quét dọn sạch sẽ xung quanh, lấy nước uống nước dùng xong, rồi vào ôm hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā vào lòng, hôn trên đầu, dạy bảo rằng:

- Này hai con yêu quý! Đêm nay, mẫu hậu nằm thấy cơn ác mộng hãi hùng, hai con ở nhà nên thận trọng.

 Dặn dò xong, tắm rửa sạch sẽ, thay y phục, dẫn hai đứa con yêu quý đến trao cho Đức đạo sĩ Vessantara, kính xin Đức đạo sĩ trông nom hai con, rồi nữ đạo sĩ Maddī mang gùi, cầm mai vào rừng đi tìm các thứ trái cây, các thứ củ.

Đức Bồ Tát Vessantara Thực Hành Hạnh Đại Thí Con

Theo dõi biết Chánh cung Hoàng hậu Maddī đã ngự vào rừng, ông Bà-la-môn Jūjaka vội vã đi thẳng đến cốc lá, để yết kiến Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara ngay. 

 Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đang ngồi trước cửa cốc lá như một pho tượng vàng, còn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đang chơi đùa bên cạnh cốc lá của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara. 

Nhìn từ xa thấy ông Bà-la-môn hành khất đi đến, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara nghĩ rằng: “ Suốt 7 tháng qua, ta chưa thấy một Bà-la-môn nào.” Khi thấy ông Bà-la-môn Jūjaka đến đứng trước cửa cốc, nên Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Bà-la-môn! Xin mời vào!

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara gọi, ông Bà-la-môn Jūjaka liền đến yết kiến Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, bèn tâu rằng:

- Muôn tâu Đại vương, Đại vương không có bịnh, sống được an lạc, tìm trái cây đủ sống hằng ngày, muỗi mòng rắn rít không làm khổ Đại vương có phải không?

Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Bà-la-môn! Bần đạo ít bịnh, sống được an lạc, tìm trái cây thuận lợi, đủ dùng hằng ngày, muỗi mòng

rắn rít không làm khổ bần đạo.

Chúng tôi sống trong rừng núi này suốt 7 tháng qua, thấy Bà-la-môn là người đầu tiên.

- Này Bà-la-môn! Ngươi đến đây tốt lành, xin mời dùng các thứ trái cây và uống nước suối.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền hỏi ông Bà-la-môn rằng:

- Này Bà-la-môn! Ngươi đã vất vả đi đến rừng núi Vaṅka này, chắc chắn có mục đích gì, ngươi hãy nói cho bần đạo biết rõ mục đích ấy?

Ông Bà-la-môn Jūjaka Xin Hoàng Tử Và Công Chúa

Ông Bà-la-môn Jūjaka tâu rằng:

- Muôn tâu Đại vương Vessantara, nước các dòng sông không bao giờ khô cạn như thế nào, Đại Vương luôn luôn có tâm đại bi tế độ đến những người hành khất cũng như thế ấy. Kẻ tiện dân này đến xin hoàng tử và công chúa.

Kính xin Đại Vương có tâm đại bi ban hoàng tử và công chúa cho kẻ tiện dân này, để làm tớ trai, tớ gái của người vợ trẻ yêu quý là Amittatāpanā của kẻ tiện dân.

Hạnh Đại Thí Con Yêu Quý 

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka tâu xin như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ vì có được cơ hội tốt bồi bổ cho đầy đủ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

 Hạnh đại thí con yêu quý là 1 trong 5 hạnh đại thí mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành, để cho pháp hạnh bố thí Ba-la-mật được đầy đủ, cho nên Đức vua Bồ Tát Vessantara có đại thiện tâm vững chắc không hề nao núng, làm cho núi Vaṅka rung chuyển,

truyền dạy rằng:

- Này Bà-la-môn! Bần đạo sẽ ban hoàng tử Jāli và công chúa Kahajinā cho ngươi. Ngươi sẽ là chủ của hai đứa con yêu quý của bần đạo.

Nữ đạo sĩ Maddī đã ngự đi vào rừng từ sáng sớm, tìm các loại trái cây, và các loại củ, và sẽ ngự trở về vào lúc buổi chiều.

- Này Bà-la-môn! Ngươi nên nghỉ lại một đêm, sáng ngày mai đợi cho Mẫu hậu của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā tắm rửa hai đứa con sạch sẽ, trang điểm các hoa thơm, ôm hôn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, rồi sau đó ngươi hãy dắt hai đứa con yêu quý của bần đạo đi theo ngươi.

Nghe Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền dạy như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka tâu rằng:

- Muôn tâu Đại vương Vessantara, kẻ tiện dân này không muốn nghỉ lại đêm, mà muốn ra khỏi nơi đây ngay bây giờ, bởi vì đàn bà không ai muốn cho đứa con yêu quý của mình đến với người khác.

- Muôn tâu Đại Vương, nếu Đại Vương muốn thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí con yêu quý thì Đại Vương đừng để Chánh cung Hoàng hậu Maddī thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, Chánh cung Hoàng hậu sẽ cản trở hạnh đại thí con yêu quý của Đại vương.

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân xin dẫn hoàng tử và công chúa đi ngay bây giờ.

Xin Đại vương gọi hoàng tử và công chúa đến đây giao cho tiện dân, không nên chờ Chánh cung Hoàng hậu Maddī trở về, cũng không nên để hoàng tử và công chúa gặp Mẫu hậu của chúng.

Đức đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Bà-la-môn! Nếu ngươi không muốn gặp Chánh cung Hoàng hậu Maddī thì cũng được, nhưng ngươi nên dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến kính dâng lên Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya đang ngự tại kinh thành Jetuttara.

Khi nhìn thấy hai đứa cháu đích tôn của Người, thì Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya sẽ ban cho ngươi nhiều của cải, nhiều tớ trai, tớ gái. .

Nghe Đức vua Bồ Tát Vessantara truyền bảo như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka tâu rằng:

- Muôn tâu Đại vương Vessantara, nếu kẻ tiện dân này dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến kinh thành Jetuttara, chầu Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya thì kẻ tiện dân này sợ Đức Thái Thượng Hoàng kết tội ăn cắp hoàng tử và công chúa, cháu đích tôn của Người, Đức Thái Thượng Hoàng sẽ truyền lệnh trị tội tử hình kẻ tiện dân này. 

Như vậy, kẻ tiện dân này không được tớ trai, tớ gái để phục vụ người vợ trẻ yêu quý của kẻ tiện dân này.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Bà-la-môn! Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya là Đức Minh Quân sẽ vui mừng khi nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, rồi chắc chắn sẽ ban cho ngươi nhiều của cải, tớ trai, tớ gái.

Ông Bà-la-môn Jūjaka lại tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Vessantara, kẻ tiện dân này không thể tuân theo lệnh của Đại Vương được, mà kẻ tiện dân này chỉ muốn dẫn hoàng tử và công chúa về làm tôi tớ phục vụ cho người vợ trẻ yêu quý của kẻ tiện dân mà thôi.

Nghe lời nói độc ác của ông Bà-la-môn Jūjaka như vậy, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā hoảng sợ, nên dẫn nhau đi ra sau cốc lá, rồi chạy vào rừng, đến hồ nước, nhảy xuống trốn dưới hồ nước ấy, lấy lá sen che kín trên đầu.

Khi ấy, ông Bà-la-môn Jūjaka không nhìn thấy hoàng tử và công chúa, nên bực tức nói với Đức Bồ tát đạo sĩ rằng:

- Này Đại Vương! Đại Vương hãy ban hoàng tử và công chúa cho tôi ngay bây giờ có được không? Tôi khẳng định chắc chắn không dẫn hoàng tử và công chúa đến kinh thành Jetuttara, mà tôi chỉ dẫn về làm tôi tớ phục vụ cho người vợ trẻ yêu quý của tôi mà thôi.

Đại Vương đã ra hiệu cho hoàng tử và công chúa chạy trốn mất cả rồi. Đại Vương ngồi làm như người không hay biết.

Người nói dối như Đại Vương trong đời này thật là hiếm có!  

Nghe lời vu oan buộc tội của ông Bà-la-môn Jūjaka, Đức Bồ Tát đạo sĩ giật mình nhìn phía sau không thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, biết chắc hai đứa con nghe được câu chuyện, nên hoảng sợ chạy trốn mất cả rồi. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo ông Bà-la-môn Jūjaka rằng:

- Này Bà-la-môn! Ngươi chớ nên nghĩ sai như vậy, bần đạo sẽ đi tìm hai đứa con về giao cho ngươi.

Truyền bảo xong, Đức Bồ Tát đạo sĩ đứng dậy đi ra sau cốc lá nhìn thấy dấu chân hai con chạy vào rừng, theo dấu chân lần đến hồ nước, biết chắc chắn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đang trốn dưới hồ nước, Đức Bồ Tát đạo sĩ gọi hoàng tử Jāli rằng:

- Này Jāli con yêu quí! Con hãy lên với Phụ Vương,

con hãy nên giúp cho Phụ Vương bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn. Con nên ngoan ngoãn dễ dạy, vâng lời Phụ Vương, giúp cho Phụ Vương thành tựu hạnh đại thí con yêu quý trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật này.

Như vậy, hai con yêu quý như là chiếc thuyền giúp đưa Phụ Vương sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, vượt qua biển khổ luân hồi, rồi sẽ dắt dẫn các chúng sinh khác, các nhân loại, các chư thiên, các phạm thiên cùng vượt qua biển khổ luân hồi.

Hoàng tử Jāli lắng nghe lời khẩn khoản thiết tha của Đức Phụ Vương, nên nghĩ rằng: “Dù ông Bà-la-môn già độc ác kia hành hạ ta thế nào cũng chịu đựng nổi, nhưng ta không nên để Đức Phụ Vương của ta nói sai lời.”

Nghĩ xong, hoàng tử Jāli dở lá sen, trồi đầu lên khỏi mặt nước bước lên bờ hồ, đến cúi đầu lạy dưới bàn chân bên phải của Đức Phụ Vương, rồi 2 tay ôm chân phải của Đức Phụ Vương, khóc nức nở, nước mắt rơi xuống bàn chân Đức Phụ Vương.

 Đức Bồ tát đạo sĩ truyền dạy rằng: 

- Này hoàng nhi Jāli yêu quí! Hoàng muội Kaṇhājinā của con ở đâu ?

Hoàng tử Jāli tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, thông thường tất cả chúng sinh, khi biết tai hoạ xảy đến với mình, đều phải tìm nơi lẩn tránh tai hoạ.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara biết chắc công chúa Kaṇhājinā cũng đang trốn dưới hồ nước này, nên truyền bảo rằng:

- Này Kaṇhājinā con yêu quí của Phụ Vương! Con hãy lên đây với Phụ Vương. Con nên giúp Phụ vương bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn. Con nên ngoan ngoãn dễ dạy, vâng lời Phụ Vương, giúp cho Phụ Vương thành tựu hạnh đại thí con yêu quý trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật này. 

Như vậy, hai con yêu quý như là chiếc thuyền giúp đưa Phụ Vương sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, vượt qua biển khổ luân hồi, rồi sẽ dắt dẫn các chúng sinh khác, các nhân loại, các chư thiên, các phạm thiên cùng vượt qua biển khổ luân hồi.

Lắng nghe lời tha thiết khẩn khoản của Đức Phụ Vương, công chúa Kaṇhājinā mới nghĩ rằng:“Ta sẽ không để Đức Phụ Vương sai lời với ông Bà-la-môn già kia.”

 Công chúa Kaṇhājinā nổi lên khỏi mặt nước, bước lên bờ, đến cúi đầu lạy dưới bàn chân trái của Đức Phụ Vương, 2 tay ôm chân trái Đức Phụ Vương, khóc nức nở, nước mắt rơi xuống bàn chân Đức Phụ Vương. 

Thấy 2 con khóc như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ cũng rơi nước mắt xuống trán hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhā-jinā, cảnh tượng thật vô cùng cảm động.

Khi ấy, Đức Bồ tát đạo sĩ cảm thấy vô cùng xúc động, trong tình phụ tử sâu sắc, cúi xuống đưa hai bàn tay mềm mại xoa nhẹ trên đầu hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhā-jinā, rồi nói lời an ủi hai đứa con yêu quí rằng:

- Này hai con yêu quí! Hai con có biết Phụ Vương đang tư duy về hạnh đại thí con yêu quý trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, mà chỉ có hai con yêu quý mới giúp Phụ Vương bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được thành tựu đầy đủ trọn vẹn mà thôi.

Cúi xuống đỡ hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đứng dậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ đặt điều kiện giá biểu của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, như người chủ đàn bò cho giá mỗi con bò.

Đức Bồ tát đạo sĩ truyền dạy hoàng tử Jāli rằng:

- Này Jāli con yêu quí! Phụ Vương đã bố thí con đến ông Bà-la-môn rồi, nếu con muốn được giải phóng, trở thành người tự do thì con phải trao cho Bà-la-môn Jūjaka 1000 lượng vàng. Khi ấy con sẽ được tự do.

Còn hoàng muội Kaṇhājinā của con thật đáng yêu, đáng quí, nếu muốn được giải phóng, trở thành người tự do thì trao cho ông Bà-la-môn Jūjaka mỗi thứ 100, đó là 100 tớ trai, 100 tớ gái, 100 con voi, 100 con ngựa, 100 con bò. Khi ấy hoàng muội Kaṇhājinā của con cũng sẽ được tự do.

Những điều kiện này, chỉ có Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya là Đức vua nội của 2 con mới có khả năng làm được mà thôi. Ngoài Đức vua nội của 2 con ra, không một ai có khả năng làm được.

Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara đặt điều kiện giá cả cho mỗi đứa con yêu quý xong, rồi an ủi 2 con giúp cho Đức Bồ Tát đạo sĩ bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.

Đức Vua Bồ Tát Thực Hành Hạnh Đại Thí Con Yêu Quý

Dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā trở về cốc lá, Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara gọi ông Bà-la-môn Jūjaka đến, tay phải cầm bình nước, Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ vừa phát nguyện vừa rót nước xuống lòng bàn tay của ông Bà-la-môn Jūjaka, với lời phát nguyện rằng:

 “Sabbaññutaññāṇassa paccayo hotu.”

Hạnh đại thí con yêu quý trong pháp hạnh bố thí Ba-

la-mật của bần đạo này xin làm duyên lành để trở thành Đức Phật Toàn Giác.

Sau khi thực hành hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý nhất xong, Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ truyền bảo với ông Bà-la-môn Jūjaka rằng:

“Ambho Brahmaṇa! Puttehi me sataguṇena sahassaguṇena satasahassaguṇena sabbaññutañ-ñāṇameva piyataraṃ” [1]

- Này Bà-la-môn Jūjaka! Bần đạo chỉ có nguyện vọng muốn trở thành Đức Phật Toàn Giác mà thôi, là nơi yêu quý bậc nhất hơn cả yêu quý hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần.

Khi ấy, do oai lực của pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đến cho ông Bà-la-môn Jūjaka, làm cho trái đất rùng mình chuyển động, trên bầu trời sấm sét vang rền, núi Sineru (Tu-di-sơn) cúi đỉnh núi xuống núi Vaṅka tỏ sự cung kính, toàn thể chư thiên ngự trên mặt đất đều tán dương ca tụng bằng lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Chư Đức vua các cõi trời dục giới cùng toàn thể chư thiên cõi dục giới đều chắp tay thốt lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Chư Phạm thiên cõi trời sắc giới cũng đều thốt lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Trong khu rừng núi Himavanta, các con thú 4 chân như sư tử, cọp, beo, v.v…đều rống lên vui mừng theo tiếng của mình.

Hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý xong, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ thốt lên rằng:

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của ta thật là cao thượng!

 Ta có được cơ hội tốt thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý của ta.


 [1] Khu. Jātakaṭṭhakathā, Phần Mahānipāta, Tích Vessantarajātakavaṇṇanā



Ông Bà-la-môn Jūjaka Độc Ác

Sau khi xin hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā được thoả mãn như ý, ông Bà-la-môn Jūjaka rất vui mừng, mỗi tay nắm tay mỗi đứa trẻ dẫn đi đến một nơi, để 2 đứa trẻ đứng tại đó. Ông Bà-la-môn Jūjaka vào rừng, dùng răng cắn một sợi dây rừng đem ra cột vào cổ tay của hoàng tử Jāli và cổ tay của công chúa Kaṇhājinā, ông nắm đầu dây, cầm cây đánh đập, chửi mắng hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, rồi lôi đi.

Hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā vừa bị đánh đau vừa bị sợi dây siết chặt làm cắt da, thấu thịt, máu chảy tươm ra theo đường, trước sự hiện diện của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara.

Dắt đi được một đoạn đường, ông Bà-la-môn Jūjaka bị trượt chân ngã lăn xuống đường, làm cho sợi dây đứt rời tuột ra khỏi tay của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. Khi ấy, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā vừa khóc vừa chạy lại tìm Đức Phụ Vương, đảnh lễ dưới bàn chân của Đức Phụ Vương tâu rằng:

- Tâu Đức Phụ Vương, Đức Phụ Vương ban 2 con cho ông Bà-la-môn già độc ác, khi Mẫu hậu của 2 con ngự đi tìm các loại trái cây trong rừng chưa về. Kính xin Đức Phụ Vương chờ đợi Mẫu hậu ngự trở về, để 2 con gặp Mẫu hậu, rồi sau đó Đức Phụ Vương mới ban 2 con cho ông Bà-la-môn già độc ác ấy đem đi bán hoặc giết 2 con cũng được.

- Tâu Đức Phụ Vương, thân hình ông Bà-la-môn già có 18 tật nguyền xấu xí quái dị đáng ghê tởm như là loài phi nhân độc ác, hoặc loài Dạ- xoa ăn thịt người. Chắc ông Bà-la-môn ấy đến khu rừng xin Đức Phụ Vương ban 2 con cho ông để ăn thịt.

- Tâu Đức Phụ Vương, xin Đức Phụ Vương nhìn thấy thân hình của 2 con bị đánh sưng, bị sợi dây rừng siết chặt làm trầy da, lủng thịt máu tươm ra chảy dài theo đường, con đau đớn quá! Đức Phụ Vương ơi!

- Tâu Đức Phụ Vương, thông thường các bậc làm cha, làm mẹ thấy con của mình đang bị đau khổ thì không thể nào không cảm động được. Chắc trái tim của Đức Phụ Vương được bọc bằng sắt rắn chắc, nên không còn rung động trước nỗi đau đớn khổ sở của 2 con.

 - Tâu Đức Phụ Vương, Đức Phụ Vương có biết hay không, ông Bà-la-môn già ấy vô cùng độc ác, tàn nhẫn đánh đập, chửi mắng, vừa lôi 2 con vừa đánh đập, như lôi đàn bò vậy. Hoàng muội Kaṇhājinā chưa từng biết đau khổ, nay gặp nỗi khổ như thế này chắc chắn không thể chịu đựng được nổi, chắc có lẽ chết giữa đường thôi!

Vậy, xin Đức Phụ Vương chỉ ban một mình con cho ông Bà-la-môn độc ác ấy mà thôi. Còn hoàng muội Kaṇhājinā ở lại với Đức Phụ Vương và Mẫu hậu. Hơn nữa, hoàng muội Kaṇhājinā không thấy Mẫu hậu, chắc không thể sống nổi được.

Khi nghe hoàng tử Jāli tâu như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara làm thinh không truyền bảo lời nào cả.

Khi ấy, hoàng tử Jāli than vãn đến Mẫu hậu rằng:  

Dù bao nhiêu nỗi đau khổ như thế nào, con cũng có thể chịu đựng được, nhưng con không gặp được Mẫu hậu, đó mới thật là nỗi đau khổ gấp 100 lần, gấp 1000 lần, gấp 100 ngàn lần mà con không sao chịu đựng nổi được.

Ôi! Khi Mẫu hậu từ rừng ngự trở về, không nhìn thấy con và hoàng muội Kaṇhājinā dễ thương, Mẫu hậu sẽ khổ tâm nhiều, khóc than thảm thiết đi tìm 2 con mà không gặp 2 con, Mẫu hậu càng khổ tâm, sầu não vì thương nhớ 2 con nhiều, rồi sẽ ngủ không được, thân của Mẫu hậu ngày một gầy yếu dần. 

 Khi ông Bà-la-môn già độc ác dắt 2 con đi khỏi nơi này rồi, thì Đức Phụ Vương và Mẫu hậu sẽ buồn khổ nhớ thương 2 con, sinh khổ tâm sầu não khóc than suốt đêm dài làm cho cơ thể ngày một héo hon.

Hoàng tử Jāli nói với công chúa Kaṇhājinā rằng:

Từ hôm nay, 2 huynh muội ta bị rời khỏi nơi này, bỏ lại những cây ăn quả, những cây hoa rừng xinh đẹp, bến nước trong trẻo, những con búp bê xinh đẹp mà Đức Phụ Vương khéo tay làm ra, rồi ban cho huynh muội ta chơi trước đây.

Khi hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đang than vãn với nhau, thì ông Bà-la-môn Jūjaka có đôi mắt đỏ ngầu cầm sợi dây và cây chạy lại đánh đập xối xả, chửi mắng thô lỗ, rồi lấy sợi dây cột tay hoàng tử và công chúa lôi đi. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara chứng kiến cảnh tượng ông Bà-la-môn Jūjaka độc ác đánh đập, lôi hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā như vậy.

Hoàng tử Jāli ngoảnh đầu lại sau tâu với Đức Phụ Vương rằng:

- Tâu Đức Phụ Vương, xin Đức Phụ Vương truyền bảo với Mẫu hậu 2 con rằng:

“Hai con được khoẻ mạnh bình thường, cầu xin Mẫu hậu thân tâm thường được an lạc.” 

Khi ấy, nỗi thống khổ cùng cực phát sinh lên đối với Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, trái tim của Ngài nóng lên, Đức Bồ Tát đạo sĩ toàn thân rung động vì nỗi thống khổ, không thể đứng vững được, đôi dòng lệ trào ra ràng rụa trên đôi mắt, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vào trong cốc lá nằm khóc than thảm thiết thật đáng thương.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara nằm than vãn rằng: “Hôm nay, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý của ta sẽ như thế nào? Hai con của ta khóc than, đói khát trên đường đi.

Thường mỗi buổi chiều, đến giờ ăn, hai con đói xin đồ ăn rằng: “Tâu Mẫu hậu, 2 con đói lắm rồi! Xin Mẫu hậu ban đồ ăn cho 2 con.”

Chiều nay, ai sẽ ban đồ ăn cho 2 con của ta?

Trên con đường xa 60 do tuần, 2 con ta ngự đi chân đất, không có mang dép, đôi bàn chân sưng lên làm cho đau đớn. Vậy ai dắt tay 2 con ta đi?

Ông Bà-la-môn Jūjaka đánh đập hành hạ, chửi mắng 2 đứa con nhỏ trước mặt ta, mà không biết nể mặt ta chút nào, không biết ghê sợ tội lỗi.

Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara nghĩ rằng:

Ông Bà-la-môn Jūjaka ấy thật là kẻ độc ác, đánh đập, chửi mắng 2 đứa con nhỏ yêu quý của ta một cách tàn nhẫn như vậy, ta nên cầm thanh gươm đuổi theo giết chết y, rồi dẫn 2 con của ta trở lại. 

Sở dĩ Đức vua Bồ Tát đạo sĩ Vessantara suy nghĩ than vãn những điều như vậy, là vì quá thương yêu hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, 2 đứa con yêu quý nhất của Ngài, khi thấy ông Bà-la-môn Jūjaka đối xử tàn nhẫn với chúng, tâm sân hận phát sinh khiến Đức vua Bồ Tát đạo sĩ chợt nảy ra ý định giết chết ông Bà-la-môn Jūjaka ấy rồi dẫn 2 đứa con yêu quý của Ngài trở về. 

Cũng ngay khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara liền thức tỉnh, nhớ lại truyền thống của chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác trong quá khứ, có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác đều phải thực hành đầy đủ 5 hạnh đại thí Ba-la-mật (pañca mahāparicāga).[1] 

5 hạnh đại thí Ba-la-mật là:

1- Hạnh đại thí của cải tài sản, ngai vàng…,

2- Hạnh đại thí bộ phận trong thân thể của mình.

3- Hạnh đại thí sinh mạng của mình.

4- Hạnh đại thí con yêu quí.

5- Hạnh đại thí vợ yêu quý.

Thật ra, tiền kiếp của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đã từng thực hành 3 hạnh đại thí Ba-la-mật trên nhiều kiếp trong quá khứ rồi, riêng 2 hạnh đại thí con yêu quý và vợ yêu quý thì chưa. Cho nên, Đức Bồ Tát cần phải thực hành 2 hạnh đại thí Ba-la-mật này, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành đầy đủ 30 pháp hạnh Ba-la-mật, trong đó có 5 hạnh đại thí Ba-la-mật. 

Nếu Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác không thực hành đầy đủ 5 hạnh đại thí Ba-la-mật này thì chắc chắn không thể trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được.

Hiểu biết rõ như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara tự nhủ mình rằng: “Này Vessantara! Ngươi bố thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā là 1 trong 5 hạnh đại thí

Ba-la-mật mà chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn. Khi đã bố thí 2 đứa con yêu quý đến ông Bà-la-môn Jūjaka rồi, ngươi đã thành tựu được hạnh đại thí con yêu quý trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

Nay, hai con của ngươi đã thuộc về sở hữu của ông Bà-la-môn Jūjaka rồi! Ngươi nhìn thấy 2 đứa con bị đau khổ, khiến ngươi sinh tâm sân sầu não cùng cực, mà nảy ra ý định giết chết ông Bà-la-môn Jūjaka ấy, lấy lại hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý của ngươi trở về.

Như vậy, đó có phải là việc làm của Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác hay không?

Thật ra, chư Đức Bồ Tát đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật rồi, sau đó không phát sinh tâm sân nóng nảy sầu não, mà chỉ có phát sinh thiện tâm hoan hỷ mà thôi.”

Sau khi tự nhủ mình như vậy, tâm của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara được ổn định, vắng lặng được phiền não, Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara nguyện giới lại cho được trong sạch, rồi phát nguyện rằng:

“Nếu ông Bà-la-môn Jūjaka đối xử hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thế nào thì ta cũng cố gắng giữ thiện tâm cho được trong sạch thanh tịnh, vắng lặng. 

Sau đó, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara ngự ra ngồi trước cửa cốc lá như tượng màu vàng.

Trên đường đi, hoàng tử Jāli than với hoàng muội rằng:

- Này hoàng muội Kaṇhājinā, em yêu quí! Đức Phụ Vương đã ban huynh muội ta cho ông Bà-la-môn già độc ác, ông đánh đập, chửi mắng huynh muội ta, vừa lôi đi vừa đánh đập như lôi đàn bò. Nay, huynh muội chúng ta

không còn Đức Phụ Vương và Mẫu hậu nữa.

- Này hoàng muội Kaṇhājinā, em yêu quí! Huynh muội ta đau khổ, mệt lử cả người, đôi bàn chân bị sưng, không bước nổi được. Vậy, huynh muội ta cùng nhau chết cho rồi, còn sống mà khổ như thế này có ích lợi gì đâu?

Một lần nữa ông Bà-la-môn Jūjaka dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đi, bị vấp ngã xuống đường, làm đứt sợi dây rời ra khỏi tay, nên hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā cùng nhau chạy trở lại gặp Đức Phụ Vương.

Ông Bà-la-môn Jūjaka bị ngã đau, cố gắng ngồi dậy, không thấy 2 đứa trẻ, nên tâm sân phát sinh nóng nảy tức giận, cầm sợi dây và cây rượt đuổi theo, gặp hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā tại chỗ cốc Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, ông Bà-la-môn Jūjaka tức giận đánh đập một cách tàn nhẫn, chửi mắng rằng: “Hai đứa trẻ này giỏi chạy trốn đâu cho thoát khỏi tay ta.

Trước sự hiện diện của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, ông Bà-la-môn Jūjaka lấy sợi dây cột chặt vào tay của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, lôi nhanh đi. 

Khi ấy, công chúa Kaṇhājinā khóc than và tâu với Đức Phụ Vương rằng:

- Tâu Đức Phụ Vương, ông Bà-la-môn già Jūjaka này rất độc ác, tàn nhẫn quá! Ông đánh đập 2 anh em chúng con bằng cây như đánh đàn bò.

- Tâu Đức Phụ Vương, thông thường Bà-la-môn là người có thiện pháp, có tâm từ, nhưng ông Bà-la-môn già này chắc không phải là người, ông là Dạ- xoa hoá thành Bà-la-môn có thân hình dị dạng đáng ghê sợ, đến xin Đức Phụ Vương cho 2 con, để ông ăn thịt.

Hai anh em chúng con bị Dạ xoa bắt đi ăn thịt, Đức

Phụ Vương có biết hay không?

Lắng nghe tiếng khóc than và lời tâu thiết tha của công chúa Kanhajinā. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara chỉ còn phát sinh nỗi thống khổ cùng cực mà thôi, trái tim nóng lên, lỗ mũi nghẹt thở, phải thở bằng miệng, hai dòng nước mắt nóng chảy ra. Đức Bồ Tát Đạo sĩ tư duy rằng:

“Nỗi thống khổ cùng cực này là do nhân tình thương yêu các con, không phải vì nhân nào khác.”

Sau khi suy xét đã biết rõ nhân sinh nỗi thống khổ này, Đức Bồ Tát Đạo sĩ liền ngồi kiết già lấy bình tĩnh trở lại.

Hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā bị ông Bà-la-môn Jūjaka độc ác, tàn nhẫn lôi đi mau, công chúa Kaṇhājinā vừa đi vừa than khóc rằng:

“Đôi chân nhỏ của hai huynh muội chúng tôi đã mỏi rã rời, mà đường thì còn xa tít, 2 huynh muội chúng tôi đi không nổi nữa, mặt trời thì sắp lặn, 2 huynh muội chúng tôi mệt lử bước chân lên không nổi, và vừa đói bụng vừa khát nước quá!.

Hai huynh muội chúng tôi xin kính lạy tất cả chư thiên ngự trong núi rừng Himavanta, ngự trên các cội cây, ngự nơi bến hồ,….kính xin quí vị chư thiên đến tâu cho Mẫu hậu Maddī của chúng tôi biết rằng:

“Tâu Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā của bà vẫn bình thường, ông Bà-la-môn già độc ác, tàn nhẫn đang dẫn 2 người con của Bà đi trên con đường nhỏ đủ một người đi”

- Thưa các vị chư thiên, xin quý vị tâu với mẫu hậu Maddī của chúng tôi rằng: “Tâu Chánh cung Hoàng hậu Maddī, nếu Bà muốn đi tìm hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thì xin Bà đi theo con đường nhỏ đủ một người đi, từ cốc lá ngự đi nhanh theo dấu chân, chắc

chắn Bà sẽ gặp hoàng tử và công chúa ở giữa đường.”

 Sau khi tha thiết khẩn khoản chư thiên giúp tâu với Mẫu hậu Maddī của mình, rồi than vãn và hy vọng Mẫu hậu Maddī đến giúp đỡ rằng:  

“Ôi! khi Mẫu hậu từ rừng ngự trở về cốc lá không nhìn thấy 2 con ra đón Mẫu hậu, nhìn thấy cốc lá vắng vẻ, không thấy bóng 2 con, chắc mẫu hậu sẽ khổ tâm lắm!

Mẫu hậu ơi! Ông Bà-la-môn già độc ác, cột tay hai con bằng sợi dây rừng, đánh đập, chửi mắng 2 con, lôi đi như đàn bò.

Xin Mẫu hậu mau đến kịp chiều nay, đem trái cây cho ông Bà-la-môn già ăn no đủ, rồi xin ông lôi đi chậm chậm, bởi vì 2 bàn chân của 2 con đã sưng lên, đau đớn, nhức nhối không chịu nổi được. Còn cổ tay của 2 con bị ông Bà-la-môn già cột chặt bằng sợi dây rừng, làm trầy da, đứt thịt, máu chảy rơi theo đường, 2 con đau nhức quá!

Mẫu hậu ơi! Xin Mẫu hậu đến mau để cứu 2 con với!

 



[1] Khu. Jātakaṭṭhakathā, Mahānipāta, T Vessantarajātakavṇṇanā

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn