(Xem: 1821)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2279)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp Hạnh Xuất Gia Ba La Mật (Bậc hạ)

12 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9810)

 

Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 1)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-La-Mật - Bậc Hạ

(Nekkhammapāramī)

 

Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-La-Mật có 3 bậc

Tích Bhisajātaka
(Phi-xá-cha-tá-ká)

Trong tích Bhisajātaka,[1] Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm con gia đình Bà-la-môn phú hộ, có tâm nhàm chán trong ngũ dục, nên thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật (nekkhammapāramī), trở thành Đạo sĩ ở trong rừng Himavanta. Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana, gần kinh thành Sāvatthi. Khi ấy, Đức Thế Tôn đề cập đến một vị Tỳ khưu phát sinh tâm tham muốn trong ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục. Đó là 5 đối tượng ràng buộc, nên Đức Thế Tôn cho truyền gọi vị Tỳ khưu ấy đến, truyền hỏi rằng:

- Này Tỳ khưu! Con phát sinh tâm tham muốn trong ngũ dục như vậy, có thật không?

Vị Tỳ khưu thú thật rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, có thật vậy. Bạch Ngài.

- Này Tỳ khưu! Do nguyên nhân nào mà con phát sinh tâm tham muốn như vậy?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do phiền não phát sinh. Bạch Ngài.

 Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này tỳ khưu! Con đã xuất gia trong giáo pháp của Như Lai, để diệt mọi phiền não, dẫn đến giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới. Sao con để phiền não phát sinh, rồi sinh tâm tham muốn ngũ dục như thế! 

Trong quá khứ, khi Đức Phật Chánh Đẳng Giác chưa xuất hiện trên thế gian, chư bậc thiện trí xuất gia trở thành đạo sĩ, đem vật dục (vatthukāma) và phiền não dục (kilesakāma) làm đối tượng, để tự nguyền rủa mình.  

Tích Bhisajātaka

Đức Thế Tôn thuyết tích Bhisajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua Brahmadatta ngự tại kinh thành Bārāṇasī. Khi ấy, Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh trong gia đình Bà-la-môn phú hộ có của cải tài sản nhiều đến 800 triệu, cha mẹ đặt tên Ngài là Mahākañcanakumāra: Công tử Mahākañcana.

Về sau, cha mẹ của Ngài sinh đứa con thứ hai đặt tên là Upakañcanakumāra: Công tử Upakañcana, theo tuần tự sinh thêm 5 đứa con trai và đứa con gái út đặt tên là Kañcanadevī.

Đức Bồ Tát Mahākañcana trưởng thành sau khi học thành tài các bộ môn theo truyền thống Bà-la-môn từ kinh thành Takkasilā trở về, cha mẹ muốn cho Ngài lập gia đình, nên bảo rằng:

- Này Mahākañcana con yêu quý! Cha mẹ muốn chọn một người con gái cùng giai cấp đem về làm lễ cưới vợ cho con.

Nghe cha mẹ dạy bảo như vậy, Đức Bồ Tát Mahā-kañcana thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, con không muốn cưới ai làm vợ cả, bởi vì con nhận thức tam giới này như là nhà tù lớn giam hãm chúng sinh đáng kinh sợ, đầy tai hoạ đau khổ, như lửa đang cháy khắp mọi nơi.

Con cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục), thấy tội lỗi trong ngũ dục. Dù trong giấc mộng con cũng không từng thấy hành dâm, huống hồ gì con đang tỉnh.

Vậy, làm sao con có thể cưới ại làm vợ được!

 - Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ cưới vợ cho các em con. Riêng con chắc chắn không muốn cưới vợ. 

Nghe Đức Bồ Tát Mahākañcana khăng khăng không chịu cưới vợ. Cha mẹ đã khẩn khoản năn nỉ nhiều lần không được, nên nhờ các người bạn thân của Đức Bồ Tát Mahākañcana đến tha thiết năn nỉ nhưng cũng không làm cho Đức Bồ Tát thay đổi ý kiến. Các người bạn bèn hỏi Đức Bồ Tát rằng:

- Này bạn Mahākañcana thân mến! Bạn muốn gì mà không muốn cưới vợ?

Nghe các bạn hỏi như vậy, Đức Bồ Tát trả lời rằng:

- Này các bạn thân mến! Tôi muốn lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) trong đời, nên tôi không muốn cưới vợ.

Các bạn không thể thuyết phục được Đức Bồ Tát Mahākañcana, nên cha mẹ của Ngài đến khuyên bảo tuần tự 6 người con trai còn lại nên cưới vợ, nhưng không có người con trai nào chịu vâng lời theo cha mẹ.

Cả 6 người con trai đều khăng khăng không chịu cưới vợ, thậm chí người con gái út Kañcanadevī cũng không chịu lấy chồng. Cha mẹ không thể khuyên bảo người con nào được.

Về sau, khi cha và mẹ tuần tự qua đời, Đức Bồ Tát Mahākañcana anh trưởng cùng với các người em làm lễ hoả táng cha và mẹ xong, tất cả 7 anh em đồng tâm nhất trí đem tất cả của cải khoảng 800 triệu làm phước thiện đại bố thí hết đến cho những người nghèo khổ, thiếu thốn, rồi 7 anh em dự định cùng dẫn nhau vào rừng núi Himavanta.

Xuất Gia Trở Thành Đạo Sĩ

Sau khi làm phước thiện đại bố thí hết phần của cải tài sản xong, Đức Bồ Tát Mahākañcana anh trưởng dẫn 6 người em trai, 1 người em gái, 1 người tớ trai, 1 người tớ gái và 1 người bạn hữu cùng nhau đi vào rừng núi Himavanta, mỗi người làm một cốc lá gần hồ sen lớn, rồi xuất gia trở thành đạo sĩ sống tại nơi ấy.

Hằng ngày, các đạo sĩ dẫn nhau vào rừng vừa chuyện trò vừa hái trái cây lớn nhỏ, các thứ rau, các loại củ,… đem về cùng ăn chung chuyện trò vui vẻ với nhau.

 Một hôm, trên đường từ trong rừng trở về, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana suy nghĩ rằng:

Chúng ta đã từ bỏ nhà cửa, của cải đi xuất gia trở thành đạo sĩ sống trong rừng núi, mà cách sống giống như đời sống của người tại gia thế này, không thích hợp với bậc xuất gia như chúng ta.

Buổi chiều hôm ấy, gọi tất cả các vị đạo sĩ tụ hội,  Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nói rõ điều suy nghĩ của mình, rồi bảo rằng:

- Này quý vị đạo sĩ! Từ nay, mỗi vị ở tại cốc của mình thực hành pháp hành thiền định, không nên chuyện trò vui vẻ với nhau như thế này nữa.

Chỉ một mình tôi đi vào rừng tìm các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ mà thôi, đem về chia ra 11 phần ăn.

Khi nghe tiếng kiểng đá báo hiệu, mỗi vị từ cốc thu thúc lục căn thanh tịnh, đi ra lãnh một phần ăn đem về cốc để dùng, rồi tiếp tục thực hành pháp hành thiền định.

 Trong trường hợp đặc biệt, nếu vị đạo sĩ nào có sự việc gì xảy ra thì vị đạo sĩ ấy nên đánh kiểng báo hiệu, để tất cả các vị đạo sĩ sẽ tụ hội tại nơi này.

Nghe Đức Bồ Tát Mahākañcana bảo như vậy, vị đạo sĩ Upakañcana em kế bèn bạch rằng:

- Kính bạch Đạo huynh trưởng, tất cả chúng tôi nương nhờ nơi Ngài mà xuất gia trở thành đạo sĩ.

Vậy, Ngài là vị Thầy của chúng tôi, tất cả chúng tôi đều có bổn phận hầu hạ phục vụ Ngài. Cho nên, việc đi vào rừng tìm các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ là phận sự của chúng tôi.

 - Kính bạch Đạo huynh trưởng, xin thỉnh Thầy, nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái của chúng ta, nữ đạo sĩ tớ gái, cả 3 vị đều ở tại cốc thực hành pháp hành thiền định, còn lại chúng tôi gồm có 8 vị luân phiên nhau, mỗi ngày 1 vị đi vào rừng tìm đủ các thứ trái cây lớn nhỏ, rau, củ, đem về chia ra làm 11 phần ăn, đặt trên tảng đá, rồi đánh kiểng báo hiệu.

Khi nghe tiếng kiểng, xin thỉnh mỗi vị đi ra nhận một phần ăn đem về cốc để dùng, rồi thực hành pháp hành thiền định.

Về sau, các đạo sĩ xuống hồ lấy củ sen lên nấu chín chia ra làm 11 phần ăn cho mỗi vị một phần ăn để dùng. Tất cả các vị đạo sĩ tinh tấn thực hành pháp hành thiền định với đề mục kasiṇa, có định tâm vững chắc, có nhiều oai lực phi thường.

Khi ấy, cõi trời Tam thập Tam thiên của Đức Vua Trời Sakka bị rung chuyển do oai lực giới đức của các đạo sĩ ấy, khiến Đức Vua Trời Sakka phải kính phục, nên nghĩ rằng: Tất cả các vị đạo sĩ ấy có còn hướng tâm đến hưởng thụ ngũ dục hay không? Ta nên thử xem cho biết sự thật.”

Đức Vua Trời Sakka dùng oai lực giấu phần ăn củ sen của vị Đạo Trưởng Mahākañcana liên tiếp 3 ngày.

Ngày đầu, từ trong cốc đi ra đến tảng đá không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahā-kañcana nghĩ rằng: “Hôm nay, vị đạo sĩ ấy quên chia phần ăn của ta rồi.”

Ngày thứ hai, cũng không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Chắc ta có lỗi gì, nên vị ấy không chia phần ăn củ sen cho ta.” 

Ngày thứ ba, cũng không thấy phần ăn củ sen của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Do nguyên nhân gì mà quý vị không chia phần ăn củ sen cho ta suốt 3 ngày nay? Nếu ta có lỗi thì ta nên xin lỗi, rồi ta xin quý vị tha thứ lỗi cho ta.”

Nghĩ như vậy, chiều hôm ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đánh tấm kiểng đá báo hiệu.

Nghe tiếng kiểng, tất cả các vị đạo sĩ cùng nhau đến tụ hội tại nơi quy định. Một vị đạo sĩ hỏi rằng:

- Kính thưa quý vị, vị nào đánh kiểng, có điều gì xảy ra vậy?

Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng:

- Này quý vị, chính tôi là người đánh kiểng.

Các vị đạo sĩ thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, do nguyên nhân gì mà Thầy đánh kiểng vậy?

Đức Bồ Tát Mahākañcana hỏi rằng:

- Này quý vị! 3 ngày qua liên tục, 3 vị nào có phận sự đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm kia cách nay 3 hôm, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm ấy, con có nhớ chia phần củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, ngày hôm ấy, con đã chọn lựa những củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

- Này quý vị! Ngày hôm qua cách nay 2 hôm, vị nào đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm qua, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm qua, con có nhớ chia phần ăn củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, hôm qua, con đã chọn lựa những củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

- Này quý vị! Ngày hôm nay, vị nào đi tìm củ sen vậy?

Một vị đạo sĩ đứng dậy chắp 2 tay thưa rằng:

- Kính bạch Thầy, ngày hôm nay, phiên con đi tìm củ sen. Bạch Thầy.

- Này con! Ngày hôm nay, con có nhớ chia phần ăn củ sen cho thầy hay không?

- Kính bạch Thầy, hôm nay, con đã chọn lựa những củ sen ngon nhất làm phần ăn để kính dâng cho Thầy trước. Bạch Thầy.

Nghe 3 vị đạo sĩ bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng:

- Này quý vị! Suốt 3 ngày qua, thầy đến tảng đá để nhận phần ăn của mình, nhưng không được phần ăn củ sen nào cả.

* Ngày đầu, thầy nghĩ rằng: “Vị chia phần ăn, quên phần của ta rồi.”

* Ngày hôm qua, thầy nghĩ rằng:“Chắc ta có lỗi gì?”

* Ngày hôm nay, thầy nghĩ rằng: “Ta nên đánh kiểng, báo quý vị đến tụ hội tại nơi này. Nếu ta có lỗi thì ta nên xin lỗi quý vị.”

 Đó là nguyên nhân mà thầy đánh kiểng chiều nay.

Nay, thầy đã nghe 3 vị làm phận sự tìm củ sen trong 3 ngày qua, đều có chia phần ăn củ sen cho thầy, nhưng sự thật, thầy không nhận được phần ăn củ sen.

Vậy, ai là người ăn cắp phần ăn củ sen ấy?

Thật ra, ăn cắp phần ăn củ sen, đó là điều đáng trách đối với bậc đã từ bỏ nhà cửa, của cải đi xuất gia trở thành đạo sĩ như chúng ta.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana dạy bảo như vậy, tất cả các vị đạo sĩ đều phát sinh tâm ghê sợ tội lỗi mà thốt lên kinh ngạc rằng: “Ô! Tội lỗi thật!”

 Khi ấy, vị thiên nam ngự trên cây trong rừng gần hồ nước, hiện xuống dưới đất, đến ngồi nơi hội họp ấy; một con voi phá chuồng, chạy trốn trong rừng, thỉnh thoảng đến đảnh lễ chư đạo sĩ, cũng đến đứng nơi ấy; một con khỉ bị thầy bắt rắn bắt buộc diễn trò với con rắn hổ mang, nên chạy trốn vào rừng sống gần hồ nước cũng đến ngồi nơi ấy; Đức Vua trời Sakka hiện xuống ẩn mình không để ai thấy cũng chứng kiến tại nơi ấy.

Khi ấy, vị đạo sĩ Upakañcana em trai kế của Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đứng dậy thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana huynh trưởng, và kính trọng các vị đạo sĩ, với lòng tôn kính xin bạch rằng:

- Kính bạch Thầy, xin Thầy cho phép con bộc bạch sự trong sạch của con có được không?

Nghe Upakañcana bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ bảo rằng:

- Này Upakañcana! Thầy cho phép con bộc bạch sự trong sạch của con tự nhiên.

Những Lời Thề Gọi Là Độc Địa

* Vị đạo sĩ Upakañcana đứng giữa nhóm đạo sĩ bộc bạch sự trong sạch của mình, xin thề với lời độc địa rằng:

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy có được nhiều ngựa, nhiều bò, nhiều vàng bạc, có được người vợ xinh đẹp dễ thương thật đáng yêu quý nhất, có nhiều con trai con gái thật dễ thương.

Sở dĩ, đó gọi là lời thề độc địa là vì vị đạo sĩ ấy thấy những thứ vật dục ấy có nhiều chừng nào, thì nỗi khổ thân, khổ tâm cũng có nhiều chừng ấy, bởi vì những thứ ấy đều vô thường, là khổ cả.

 Vị đạo sĩ này là người lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) có tâm nhàm chán trong ngũ dục, bởi vì đó là 5 đối tượng ràng buộc. 

Các vị đạo sĩ khác thấy rõ, biết rõ tội lỗi của vật dục (vatthukāma) và phiền não dục (kilesakāma). Vì vậy, khi nghe vị đạo sĩ Upakañcana thề độc địa như vậy, các vị đạo sĩ đều bịt 2 lỗ tai lại. Còn Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana bảo rằng: 

- Này Upakañcana! Lời thề của con thật là độc địa quá! Con không ăn cắp củ sen thật sự.

Vậy, con nên ngồi xuống chỗ ngồi của mình.

* Tiếp theo vị đạo sĩ em trai thứ nhì đứng dậy thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, xin bộc bạch sự trong sạch của mình, xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy thích trang sức, thoa bột trầm đỏ thơm tho, mặc vải từ vùng Kāsi, là người có nhiều con trai con gái dễ thương, là người say mê đắm đuối trong ngũ dục.

Bởi vì, người nào say mê đắm đuối trong ngũ dục thì người ấy phải chịu bao nhiêu là nỗi khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai thứ ba xin thề với lời độc địa rằng:

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy là người tại gia có nhiều ruộng đất, nhiều lúa gạo đầy kho, nhiều của cải ngọc ngà châu báu, nhiều con trai con gái, có danh tiếng, say mê trong ngũ dục, người ấy sống tại gia như vậy, không thấy sự già, sự bệnh của mình.

Bởi vì, người sống tại gia có đầy đủ ngũ dục, chắc chắn sẽ có nhiều nỗi khổ lớn lao.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai thứ tư xin thề với lời độc địa rằng: 

 - Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được làm lễ đăng quang lên ngôi vua có nhiều quyền lực, có sức mạnh, xâm chiếm các nước khác làm nước chư hầu, trị vì đất nước rộng lớn có 4 biển làm ranh giới.

Bởi vì, thấy tội lỗi trong ngôi vị đế vương. Đức Vua càng lớn thì càng có nhiều nỗi khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai kế thứ năm xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy là vị thầy Bà-la-môn say mê trong sự xem sao, đoán số không bao giờ biết chán, được Đức Vua, các quan, các phú hộ, … thường đến lễ bái cúng dường người ấy.

Bởi vì, tâm tham ái trong lễ vật cúng dường là nhân sinh khổ thân, khổ tâm.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ em trai kế thứ sáu xin thề với lời thề độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được mọi người trong đời suy tôn là người tài giỏi về môn tụng thần chú; người ấy được nổi danh lan truyền khắp mọi nơi, nên có nhiều người đem các phẩm vật đến lễ bái cúng dường người ấy. 

Bởi vì, thấy tội lỗi trong lễ vật cúng dường.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ bạn hữu xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ

sen của Thầy thì xin cho người ấy được Đức Vua ban cho xóm làng trù phú để lấy thuế, lúc nào cũng phát sinh tâm tham hoan hỷ cho đến chết.

Bởi vì, thấy tội lỗi trong của cải tài sản.

* Tiếp theo cũng như vậy, vị đạo sĩ tớ trai xin thề với lời thề độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người ấy được Đức Vua ban ân huệ làm chủ một vùng trù phú, ngày đêm thưởng thức ca

hát, nhảy múa vui chơi trong đám bạn hữu. Xin đừng gặp điều không may nào xảy ra cả.

Bởi vì, thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong vật dục và phiền não dục là nhân sinh khổ.

* Tiếp theo cũng như vậy, nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái út xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu người nữ nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho người nữ ấy được Đức Vua cao cả nhất trên trái đất, tấn phong người nữ ấy là đệ nhất Chánh cung Hoàng hậu cao cả nhất đứng đầu trong 16 ngàn hoàng hậu, cung phi mỹ nữ.

Bởi vì, nữ đạo sĩ có tâm nhàm chán trong ngũ dục, xem ngũ dục ví như đống phẩn có mùi hôi thối nên tránh xa, thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong ngũ dục.

 * Tiếp theo cũng như vậy, nữ đạo sĩ tớ gái xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch Thầy, nếu tớ gái nào ăn cắp phần ăn củ sen của Thầy thì xin cho tớ gái ấy không biết sợ sệt, ngồi ăn chung những món ăn ngon với những người chủ.

Bởi vì, người tớ gái ngồi ăn chung với chủ, đó là điều bất hạnh.

* Tiếp theo vị thiên nam xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu thiên nam nào ăn cắp phần ăn củ sen của Đạo Sư thì xin cho kiếp sau của thiên nam ấy sẽ là vị Đại Đức trụ trì một ngôi chùa lớn cũ tại kinh thành lớn, nên thường sửa chữa, làm mọi công việc hằng ngày, là vị Đại Đức ham mê làm việc suốt ngày.

Bởi vì, trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, tiền kiếp vị thiên nam này đã từng là vị Đại Đức trụ trì một ngôi chùa lớn cũ, nên phải sửa chữa, làm mọi công việc hằng ngày, phải chịu bao nhiêu khổ cực. Do đó, tưởng nhớ lại tiền kiếp của mình mà kinh sợ.

 * Tiếp theo con voi cũng xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu con voi nào ăn cắp phần ăn củ sen của Đạo Sư thì xin cho con voi ấy bị buộc 4 chân, cổ và eo buộc bằng sợi dây xích chắc chắn, bị dắt ra khỏi rừng yên tịnh này, dẫn về kinh thành, bị đâm bằng lưỡi giáo, bị móc bằng câu móc.

 * Tiếp theo con khỉ cũng xin thề với lời độc địa rằng: 

- Kính bạch vị Đạo Sư, nếu con khỉ ăn cắp phần ăn củ sen của Đạo Sư thì xin cho con khỉ ấy bị đeo vòng hoa đẹp nơi cổ, bị xỏ lỗ tai, bị đánh bằng roi. Vị thầy rắn tập luyện con khỉ xong, bắt con khỉ ấy diễn trò với rắn hổ mang, bắt đến gần miệng rắn hổ mang. Con khỉ ấy bị buộc cổ dắt đi diễn trò với rắn hổ mang theo các ngõ đường trong kinh thành.

Nghe 13 vị thề với lời độc địa như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana nghĩ rằng: “Không biết có ai nghĩ rằng ta không mất phần ăn củ sen mà nói rằng mất hay không, để bộc bạch sự trong sạch của mình.

Vậy, ta cũng xin thề với lời độc địa trước sự hiện diện của quý vị rằng:

- Này quý vị! Người nào nói dối rằng: “Phần ăn củ sen không mất mà nói mất, hoặc có nghi ngờ người nào, thì xin cho người ấy say mê hưởng mọi thứ ngũ dục (vatthukāma) với tâm phiền não dục (kilesakāma), không được đi xuất gia trở thành đạo sĩ, cho đến chết ở trong gia đình.

Ẩn mình nghe 11 vị đạo sĩ, vị thiên nam và con voi, con khỉ phát biểu cảm tưởng của mình như vậy, mà họ cho rằng: “Đó là lời thề độc địa,” nên Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Ta có tác ý giấu phần ăn củ sen của vị Đạo sư suốt 3 ngày qua, để thử nhóm đạo sĩ xem. Nay nghe họ đều tỏ vẻ nhàm chán trong ngũ dục, thấy tội lỗi ngũ dục, như nhổ bãi nước miếng, nên họ đều thề với lời thề mà họ cho là độc địa. ậy, ta nên bạch hỏi nguyên nhân nào mà họ cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục như vậy.”

Đức Vua trời Sakka hiển hiện ra ngự đến đảnh lễ Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, rồi truyền hỏi rằng: 

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana, phần đông chúng sinh trong đời, mong mỏi, tìm kiếm những ngũ dục, nên tạo ác nghiệp, thiện nghiệp, bởi vì ngũ dục là đối tượng đáng mong ước, đáng hài lòng ưa thích, đáng say mê đối với chúng sinh trong đời này.

Quý Ngài đạo sĩ nhận thức thế nào về ngũ dục mà phát sinh tâm nhàm chán trong ngũ dục như vậy? Bạch Ngài.

Nghe Đức Vua trời Sakka bạch hỏi như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời Sakka, bởi vì say mê trong ngũ dục, nên phần đông chúng sinh tạo thân hành ác, khẩu nói ác, để phải chịu mọi cảnh khổ như bị hành hạ đánh đập, bị giam cầm trong nhà tù, bị chém giết.

Bởi vì say mê trong ngũ dục nên phần đông chúng sinh phát sinh tâm dể duôi, quên mình tạo ác nghiệp, mà bậc thiện trí chê trách. Những người ấy phải chịu quả khổ trong kiếp hiện tại. Sau khi chết, nếu ác nghiệp ấy cho quả tái sinh thì sẽ sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy.

Do thấy tội lỗi của ngũ dục như vậy, nên các đạo sĩ cảm thấy nhàm chán trong ngũ dục.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ thưa như vậy, Đức Vua trời Sakka bạch thú thật rằng:  

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana cao thượng, Trẫm muốn thử xem quý vị đạo sĩ có còn hướng tâm đến hưởng thụ ngũ dục hay không, nên mới lấy giấu phần ăn củ sen của Ngài suốt 3 ngày liên tiếp.

Tất cả quý Ngài đạo sĩ đều là những bậc có giới đức trong sạch, hoàn toàn không phạm tội trộm cắp.

- Kính bạch Ngài, đây là 3 phần ăn củ sen của Ngài.

Đức Vua Trời Sakka Bị Quở Trách

Nghe Đức Vua trời Sakka bạch như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tâu rằng:

- Tâu Đức Vua trời Sakka, các vị đạo sĩ chúng tôi không phải những người thuộc hạ của Đức Vua trời, chúng tôi không phải những người để cho Đức Vua trời thử xem như vậy.

Các đạo sĩ chúng tôi không phải thân quyến cũng không phải bạn hữu của Đức Vua trời. Tại sao Đức Vua trời ngự xuống đây coi thường, làm trò đùa với các đạo sĩ chúng tôi như vậy?

Đức Vua Trời Sakka Sám Hối Lỗi Và Xin Nương Nhờ  

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana quở trách như vậy, Đức Vua trời Sakka cúi xin lỗi bằng câu kệ rằng:

- Kính bạch Ngài Đạo sư Mahākañcana, bậc hành pháp cao thượng, Trẫm xin Ngài là vị Tôn sư, là Đức Phụ Thân của Trẫm, Trẫm xin nương nhờ bóng mát dưới đôi bàn chân của Ngài,

 Trẫm xin hết lòng thành kính đảnh lễ, xin sám hối Ngài cùng quý vị đạo sĩ, cầu xin quý Ngài tha thứ lỗi cho Trẫm đã phạm đến quý Ngài lần này. Trẫm cầu mong bậc thiện trí có đức nhẫn nại, không ghét bỏ Trẫm. Trẫm xin nương nhờ nơi quý Ngài.

Khi Đức Vua trời Sakka thành tâm sám hối lỗi lầm của mình, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka và khuyên bảo nhóm vị đạo sĩ cũng nên tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka nữa.

Vâng lời Thầy, nhóm đạo sĩ đều hoan hỷ tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka.

Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana khuyên dạy nhóm đệ tử rằng:

- Này các con! Tất cả chúng ta được thấy Đức Vua trời Sakka cao cả trên cõi trời Tam thập Tam thiên, đó là đêm vinh hạnh đối với chúng ta sống trong rừng như thế này. Nếu sống tại nhà thì chúng ta không có cơ hội thấy Đức Vua trời Sakka như vậy.

- Này các con! Các con nên phát sinh thiện tâm hoan hỷ, hãy nên tha thứ lỗi cho Đức Vua trời Sakka, bởi vì thầy đã nhận lại được phần ăn củ sen rồi.

Sau đó, Đức Vua trời Sakka thành kính đảnh lễ Đức Đạo sư Mahākañcana và nhóm đạo sĩ, rồi xin phép ngự trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

Tất cả nhóm đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định đều chứng đắc các bậc thiền sắc giới và chứng đắc các phép thần thông.

Sau khi nhóm đạo sĩ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Sau khi thuyết về tích Bhisajātaka xong, Đức Thế Tôn truyền dạy chư tỳ khưu rằng: 

- Này chư tỳ khưu! Chư đạo sĩ thiện trí tiền bối đều đem ngũ dục ra làm đối tượng để thề với lời thề gọi là độc địa theo cảm tưởng của mình như vậy.

Đức Thế Tôn thuyết về pháp tứ Thánh Đế, tỳ khưu có tâm tham muốn trong ngũ dục, thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo - Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu tại nơi ấy.

Tích Bhisajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại.

Trong tích Bhisajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama làm đạo sĩ Mahākañcana trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Bhisajātaka liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

 - Vị đạo sĩ Upakañcana em trai thứ nhất, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sārīputta, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ nhì, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ ba, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahākassapa, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ tư, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ năm, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Puṇṇa, 

- Vị đạo sĩ em trai thứ sáu, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda, 

- Vị nữ đạo sĩ Kañcanadevī em gái út, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā, 

- Vị đạo sĩ tớ gái, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Khujjuttarā, 

- Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Kāḷudāyī,

- Vị đạo sĩ tớ trai, nay kiếp hiện tại là cận sự nam Cittagahapati,

- Vị thiên nam cội cây, nay kiếp hiện tại là Dạ xoa Sātāgira,

- Con voi, nay kiếp hiện tại là voi chúa Pāllileyyaka,

- Con khỉ, nay kiếp hiện tại là con khỉ dâng mật ong đến Đức Phật Gotama tại rừng Pāllileyyaka.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama

10 Pháp Hạnh Ba-La-Mật

Tóm lược tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ, ngoài ra, còn có pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana đem tất cả của cải làm phước bố thí, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana giữ giới trong sạch, đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có trí tuệ suy xét đúng đắn, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có tâm từ đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana có tâm xả đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu cùng một lúc với pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ này.

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Mahākañcana

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật đó là đại thiện tâm trong sạch nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục).

Tích Bhisajātaka này, Đức Bồ Tát Mahākañcana, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh trong gia đình phú hộ. 

Khi Đức Bồ Tát Mahākañcana trưởng thành, cha mẹ khuyên bảo Ngài nên cưới vợ, nhưng Ngài khăng khăng từ chối, không chịu cưới vợ, bởi vì Ngài thấy rõ, biết rõ tội lỗi trong ngũ dục.

Không chỉ Đức Bồ Tát Mahākañcana không chịu cưới vợ mà còn làm gương cho 6 người em trai và 1 người em gái cũng không chịu lấy chồng nữa.

Sau khi cha mẹ qua đời, Đức Bồ Tát Mahākañcana đem tất cả của cải khoảng 800 triệu tiền Ấn thời ấy, làm phước thiện đại bố thí đến những người nghèo khổ, rồi dẫn 6 người em trai, 1 người em gái, 1 người bạn hữu, 1 người tớ trai và 1 người tớ gái đi vào rừng Himavanta, xuất gia trở thành đạo sĩ.

Tất cả nhóm vị đạo sĩ đều là những người có tâm nhàm chán trong ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục).

Bậc xuất gia là người lánh xa ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) có tâm nhàm chán trong ngũ dục, thấy tội lỗi trong ngũ dục.

 Như vậy, gọi là Đức Bồ Tát thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ.

 

  (Xong pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc hạ)

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn