(Xem: 1488)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp Hạnh Xuất Gia Ba la mật (Bậc Trung)

12 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 13300)

 

Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 1)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp Hạnh Xuất Gia Ba-la-mật Bậc Trung 

( Nekkhamma Upapāramī )

Tích Hatthipālajātaka (Hach- thi-pa-lá-cha-tá-ká)

Tích Hatthipālajātaka [1] này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm công tử Hatthipāla thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung (nekkham-ma upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Chư tỳ khưu tụ hội tại giảng đường đàm đạo về nhiều người từ bỏ nhà, xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Thế Tôn, đông đảo như vậy.

Khi ấy, Đức Thế Tôn ngự đến giảng đường, ngồi trên pháp toà truyền hỏi chư tỳ khưu rằng: 

- Này chư tỳ khưu! Các con đang đàm đạo với nhau về vấn đề gì vậy?

 Chư tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn về vấn đề như vậy, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Không chỉ kiếp hiện tại Như Lai đã thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, xuất gia trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác thuyết pháp tế độ các hàng Thanh văn, nên có nhiều người từ bỏ nhà, xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Như Lai rất đông như vậy, mà còn những tiền kiếp Như Lai khi còn là Đức Bồ Tát từ bỏ nhà, xuất gia trở thành đạo sĩ, cũng có nhiều người từ bỏ nhà, đi theo Đức Bồ Tát đạo sĩ vào rừng núi Himavanta, xuất gia trở thành đạo sĩ rất đông.

Nghe Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy, chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết vê tiền kiếp của Ngài.

Tích Hatthipālajātaka  

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết về tích Hatthipālajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua Esukārī ngự tại kinh thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi. Đức Vua Esukārī có vị Quan Thừa tướng vốn là người bạn thân thiết từ thời thơ ấu. Đức Vua và Quan Thừa tướng cả hai đều chưa có con nối dòng. Một hôm Đức Vua Esukārī truyền bảo giao ước với Quan Thừa tướng rằng:

- Này khanh thân mến! Hai chúng ta chưa có con kế thừa. Sau này, nếu bạn có công tử thì Trẫm sẽ truyền ngôi báu cho người công tử của bạn. Hoặc nếu Trẫm có Thái tử thì Thái tử sẽ thừa hưởng gia sản của bạn.

Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng đã giao ước chắc chắn với nhau như vậy.

Một hôm, Quan Thừa tướng đi lý địa phương thâu thuế của mình, ngồi trên xe trở về kinh thành, đến bên ngoài cửa hướng đông, gặp một người đàn bà khốn khổ tên Bahuputtika có 7 đứa con trai nhỏ: đứa ẳm trên tay, đứa ngồi trên vai, đứa dắt theo sau, còn các đứa khác đi trước, đi sau bà. Quan Thừa tướng hỏi người đàn bà ấy rằng:

- Này người đàn bà khốn khổ! Cha của 7 đứa trẻ này ở đâu vậy?

Người đàn bà thưa rằng:

- Kính thưa quan lớn, cha của 7 đứa con này đâu có thường ở đây.

Quan Thừa tướng hỏi rằng:

- Này người đàn bà khốn khổ! Bà làm cách nào mà có 7 đứa con trai như vậy?

Nghe quan lớn hỏi như vậy, cảm thấy lúng túng, bà nhìn thấy một cây da lớn bên ngoài cửa thành, chỉ tay về phía cây da ấy mà thưa rằng:

- Kính thưa quan lớn, tiện nữ này đến cầu xin chư thiên ngự tại cây da, nên tiện nữ có được 7 đứa con trai như vậy.

Nghe người đàn bà khốn khổ thưa như vậy, Quan Thừa tướng xuống xe, đến chỗ cây da, cầm nhánh cây da lay động, nói lời hăm doạ chư thiên rằng:

- Này chư thiên cội cây! Hằng năm, Đức Vua đã truyền lệnh xuất ra một số tiền 1.000 kahāpaṇa, để làm lễ cúng dường đến các ngươi. Sao ngươi không dâng lên Đức Vua nhiều hoàng tử, nhiều công chúa! Còn người đàn bà khốn khổ kia có ân nghĩa gì đối với ngươi, mà ngươi ban cho bà ấy 7 đứa con trai như vậy!

Kỳ hạn trong khoảng 7 ngày, kể từ ngày hôm nay, nếu nhà ngươi không dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử, đến ngày thứ 7, thì ta sẽ ra lệnh chặt cây da này ra thành từng đoạn nhỏ, đào gốc chặt rễ.

Sau khi nói lời hăm doạ xong, Quan Thừa tướng lên xe vào kinh thành, trở về tư dinh của mình.

Sáng ngày hôm sau, Quan Thừa tướng lại đến cây da cũng nói lời hăm doạ, mỗi buổi sáng như vậy.

Đến sáng ngày thứ 6, Quan Thừa tướng cầm nhánh cây da lay động, dõng dạc nói lời hăm doạ rằng:

 - Này chư thiên cội cây! Chỉ còn 1 đêm nay nữa mà thôi. Nếu các ngươi không chịu dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử thì sáng ngày mai các ngươi phải bị phạt.

Nghe lời dõng dạc hăm doạ của Quan Thừa tướng như vậy, chư thiên cội cây hoảng sợ nghĩ rằng: “Nếu vị Quan Thừa tướng này không được các hoàng tử như ý thì chắc chắn ra lệnh chặt cây da này, làm hư hoại các lâu đài của chúng ta, không còn nơi nương nhờ nữa.

Vậy, chúng ta nên dâng lên Đức Vua các hoàng tử bằng cách nào đây!

Chư thiên cội cây bay đến cầu cứu các Đức tứ Thiên Vương, tâu rõ sự việc xảy ra như vậy. Các Đức tứ Thiên Vương không có khả năng dâng các hoàng tử theo sự yêu cầu của Quan Thừa tướng.

Chư thiên cội cây bay lên cõi trời Tam thập Tam thiên, đến chầu, cầu xin Đức Vua trời Sakka cứu giúp.

Nghe lời khẩn khoản cầu cứu của chư thiên cội cây, Đức Vua trời Sakka suy xét rằng:

Đức Vua Esukārī sẽ có được các hoàng tử xứng đáng, Đức Vua trời Sakka thấy 4 vị thiên nam đã từng tích luỹ nhiều phước thiện xứng đáng tái sinh làm các hoàng tử của Đức Vua Esukārī .

Tiền kiếp của 4 vị thiên nam này là 4 người thợ dệt trong kinh thành Bārāṇasī. Khi làm ra được của cải, chia ra 5 phần, lấy 1 phần đem làm phước thiện bố thí.

Sau khi 4 người thợ chết, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm 4 vị thiên nam trong cõi trời Tam thập Tam thiên này. Tiếp theo kiếp sau sẽ tái sinh lên cõi trời Dạ Ma thiên, cõi trời Đâu Suất Đà thiên, cõi trời Hoá Lạc thiên, cõi trời Tha Hoá Tự Tại thiên. Thiện nghiệp cho quả tái sinh trong các cõi trời dục giới.

Nay đến lúc 4 vị thiên nam hết tuổi thọ tại cõi trời Tam thập Tam thiên này, thiện nghiệp sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời Dạ Ma thiên.

Thấy rõ, biết rõ như vậy, nên Đức Vua trời Sakka ngự đến lâu đài của 4 vị thiên nam, truyền bảo rằng:

- Này 4 vị thiên nam! Các ngươi nên tái sinh làm người trong cõi người, theo tuần tự tái sinh đầu thai trong lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Esukārī.

Nghe lời truyền bảo của Đức Vua trời Sakka, 4 vị thiên nam tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời Sakka, chúng thần xin tuân lệnh của Đức Vua, nhưng chúng thần không muốn tái sinh đầu thai trong lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Esukārī, mà chúng thần sẽ tái sinh đầu thai trong lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Khi lớn lên, chúng thần sẽ từ bỏ nhà, xa lánh ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục, xuất gia trở thành đạo sĩ lúc còn trai trẻ.

Chấp thuận điều kiện của 4 vị thiên nam, Đức Vua trời Sakka ngự trở về truyền bảo với chư thiên cội cây biết như vậy. Chư thiên cội cây vô cùng hoan hỷ đảnh lễ Đức Vua trời Sakka, rồi xin phép trở về chỗ lâu đài tại cây da.

Sáng ngày thứ 7, quan Thừa tướng ra lệnh gọi nhóm lính lực lưỡng đem theo cưa, búa, riều…, dẫn nhóm lính ấy đến cây da, quan Thừa tướng bực bội nói với chư thiên cội cây rằng: 

- Này chư thiên cội cây! Ta chỉ xin các ngươi dâng lên Đức Vua của ta các hoàng tử mà thôi, mà các ngươi không chịu giúp ta. Sáng ngày thứ 7 hôm nay đã hết kỳ hạn, các ngươi phải bị phạt.

Khi ấy, chư thiên cội cây hiện ra từ cây da do oai lực của mình, thưa với Quan Thừa tướng với lời nhỏ nhẹ rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi sẽ ban cho Ngài 4 đứa con trai.

- Này chư thiên cội cây! Không phải ta muốn 4 đứa con trai ấy, mà ta chỉ xin các ngươi hãy kính dâng lên Đức Vua của ta 4 đứa con trai ấy mà thôi.

Chư thiên khẳng định thưa rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi chỉ ban cho Ngài 4 đứa con trai ấy mà thôi. 

Quan Thừa tướng khẩn khoản cầu xin rằng:

- Này chư thiên cội cây! Nếu vậy, thì xin chư thiên dâng lên Đức Vua 2 đứa con trai, còn ban cho tôi 2 đứa con trai vậy!

 Chư thiên khẳng định một lần nữa thưa rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, chúng tôi không thể kính dâng lên Đức Vua Esukārī, mà chỉ ban cho Ngài cả 4 đứa con ấy mà thôi.

 - Kính thưa Quan Thừa tướng, khi lớn lên, 4 đứa con ấy sẽ từ bỏ nhà đi vào rừng núi Himavanta, sẽ xuất gia trở thành đạo sĩ lúc đang còn trẻ.

Một lần nữa, Quan Thừa tướng khẩn khoản rằng: 

- Này chư thiên cội cây! Xin chư thiên dâng lên Đức Vua cả 4 đứa con trai ấy. Để ngăn cản 4 hoàng tử không xuất gia trở thành đạo sĩ. Đó là phận sự của ta.

Tuy Quan Thừa tướng khẩn khoản van nài như vậy, nhưng chư thiên cũng chỉ ban cho Quan Thừa tướng cả 4 đứa con trai ấy mà thôi, rồi biến mất trở về lâu đài. 

Từ đó về sau, những phẩm vật cúng dường phát sinh đến chư thiên rất nhiều.

Đức Bồ Tát Tái Sinh Đầu Thai

* Đức Bồ Tát Jeṭṭhakadevaputta: Đức Bồ Tát thiên nam trưởng chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tam thập Tam thiên, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng

phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

 Đúng 10 tháng, Đức Bồ Tát sinh ra đời, được đặt tên là Hatthipālakumāra: Công tử giữ voi, rồi giao cho người giữ voi nuôi dưỡng, cốt để ngăn cản không cho Đức Bồ Tát công tử Hatthipālakumāra lớn lên từ bỏ nhà, đi xuất trở thành đạo sĩ. Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla lớn lên trong gia đình của người giữ voi.

 * Tiếp theo vị thiên nam thứ nhì chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Assapālakumāra: Công tử giữ ngựa, rồi giao cho người giữ ngựa nuôi dưỡng. Công tử Assapāla lớn lên trong gia đình người giữ ngựa.

* Tiếp theo vị thiên nam thứ ba chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Gopālakumāra: Công tử giữ bò, rồi giao cho người giữ bò nuôi dưỡng. Công tử Gopāla lớn lên trong gia đình người giữ bò…

* Tiếp theo vị thiên nam thứ tư chuyển kiếp, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng.

Đúng 10 tháng bé trai sinh ra đời, được đặt tên là Ajapālakumāra: Công tử giữ dê, rồi giao cho người giữ dê nuôi dưỡng. Công tử Ajapāla lớn lên trong gia đình người giữ dê…

Để ngăn cản không cho 4 công tử từ bỏ nhà, đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nên Quan Thừa tướng ra lệnh mời tất cả mọi đạo sĩ phải rời khỏi đất nước Kāsi, bởi vì Quan Thừa tướng sợ rằng: “Bốn công tử nhìn thấy vị đạo sĩ, rồi sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ, không có người kế thừa sự nghiệp của mình.”

Được nuôi dưỡng trưởng thành trong mỗi gia đình như vậy, mỗi công tử trở thành đứa trẻ ngỗ nghịch, không biết lễ phép, thích quậy phá mọi người.

Bàn Tính Truyền Ngôi Vua

Bốn công tử đến lúc trưởng thành đều có thân hình phương phi, đặc biệt thân hình Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla có những tướng tốt của bậc đại nhân, nhưng tính khí của mỗi công tử lại là ngang tàng ngỗ nghịch.

Bốn công tử được biết là 4 huynh đệ với nhau đều là con của Quan Thừa tướng. Mỗi công tử ở mỗi tư dinh của mình.

Khi Đức Bồ Tát Hatthipāla lên 16 tuổi, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng bàn tính với nhau rằng:

Việc truyền ngôi báu cho công tử Hatthipāla và phong chức cho 3 công tử như thế nào đây!

Bởi vì mỗi công tử đều có tính khí ngang tàng ngỗ nghịch, nếu công tử Hatthipāla được làm lễ đăng quang lên ngôi vua, và 3 công tử được phong chức quan trong triều thì chỉ làm cho đất nước Kāsi này bị suy vong mà thôi. Còn nếu có các đạo sĩ đến kinh thành Bārāṇasī này, thì 4 công tử chắc chắn sẽ từ bỏ dinh thự, đi xuất gia trở thành đạo sĩ chỉ làm khổ dân chúng mà thôi.

Bây giờ, Trẫm và khanh nên thử 4 công tử trước, rồi sau đó sẽ tính việc truyền ngôi sau.

Đức Bồ Tát Công Tử Hatthipāla.

Sau khi bàn tính xong, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng thay hình đổi dạng, giả làm 2 vị đạo sĩ đi đến khất thực trước cổng tư dinh của Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Nhìn thấy 2 vị đạo sĩ, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng, đảnh lễ dưới đôi bàn chân của 2 vị đạo sĩ, đón rước vào tư dinh, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, rồi bạch rằng:

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, đã lâu lắm rồi, nay con mới gặp hai Ngài đạo sĩ thực hành phạm hạnh cao thượng, thu thúc lục căn thanh tịnh. Thật là đáng tôn kính. 

 Hai Ngài mặc y phục, đội mũ đạo sĩ là bậc diệt mọi phiền não. Con đem hết lòng thành kính cúi đầu đảnh lễ quý Ngài bằng thân, khẩu, ý.

 - Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, con vô cùng hoan hỷ phát sinh đức tin trong sạch nơi quý Ngài đạo sĩ thực hành thiện pháp.

Kính thỉnh hai Ngài ngồi trên chỗ ngồi cao quý, độ nước. Con xin lau đôi bàn chân của quý Ngài, xin xoa dầu, bóp đôi chân của quý Ngài. Kính mời thọ nhận những lễ vật cúng dường của con.

Thấy Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla vô cùng hoan hỷ đón rước, tiếp đãi rất cung kính, biết lễ phép, nói lời khiêm tốn như vậy, vị đạo sĩ vốn là Quan Thừa tướng phụ thân của Đức Bồ Tát công tử hỏi rằng:

- Này công tử Hatthipāla! Con có biết hai chúng tôi là ai, mà con đã tiếp đãi cung kính với chúng tôi như vậy?

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, hai Ngài là đạo sĩ từ rừng núi Himavanta đến đây.

- Này công tử Hatthipāla! Hai chúng tôi không phải là đạo sĩ. Vị này là Đức Vua Esukārī, còn ta là Quan Thừa tướng cha của con đây!

Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla hỏi rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Esukārī và kính thưa phụ thân, con muốn biết do nguyên nhân gì mà Đại Vương và phụ thân phải thay hình đổi dạng, giả làm vị đạo sĩ như vậy?

Quan Thừa tướng, phụ thân của công tử Hatthipāla trả lời rằng: 

- Này Hatthipāla con yêu quý! Đức Vua và cha giả làm đạo sĩ như vậy, chỉ để thử con mà thôi.

- Kính thưa phụ thân, Đại Vương và phụ thân thử con như vậy để làm gì?

- Này Hatthipāla con yêu quý! Khi con thấy Đức vua và cha giả làm đạo sĩ, để cho con không muốn xuất gia trở thành đạo sĩ. Nếu được như vậy thì Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân bảo như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, con không muốn lên ngôi làm vua, mà con chỉ muốn xuất gia trở thành đạo sĩ mà thôi.

 Nghe công tử Hatthipāla dõng dạc thưa như vậy, Quan Thừa tướng, phụ thân công tử khuyên bảo rằng:

- Này Hatthipāla con yêu quý! Con còn trẻ nên học các bộ môn truyền thống, lên ngôi làm vua, hưởng mọi đối tượng ngũ dục an lạc trong đời, có các hoàng hậu, sinh ra nhiều hoàng tử, nhiều công chúa, để nối dòng dõi.

Đến lúc tuổi già, con mới nên vào rừng núi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Người nào xuất gia lúc tuổi già như vậy, người ấy được chư bậc thiện trí tán dương ca tụng.

Nghe phụ thân khuyên dạy như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, học các bộ môn truyền thống không phải là chân lý, không đem lại sự lợi ích thật sự, ngôi vua cũng vậy. 

- Kính thưa phụ thân, có ai có thể ngăn được sự già, sự bệnh, sự chết bằng quyền lực, bằng các con của mình được đâu!

Của cải tài sản, các con là nguồn gốc của khổ não, là nơi chấp thủ.

Chư bậc thiện trí khuyên dạy nên lánh xa ngũ dục là những đối tượng làm say mê trong đời.

 Mỗi chúng sinh được hiện hữu trong đời đều do quả của nghiệp của chúng sinh ấy đã tạo trong kiếp quá khứ.

- Kính thưa phụ thân, bởi vì tất cả chúng sinh đều có nghiệp là của riêng mình. 

Nghe Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thưa với phụ thân như vậy, Đức Vua Esukārī truyền hỏi công tử rằng:

- Này công tử Hatthipāla! Ngươi nói:Mỗi chúng sinh được hiện hữu trong đời đều do quả của nghiệp của chúng sinh ấy đã tạo trong kiếp quá khứ.” Đó chắc chắn là sự thật.

Tuy nhiên, cha mẹ già của ngươi mong ước được nhìn thấy ngươi sống lâu 100 tuổi, không có bệnh luôn khoẻ mạnh, để phụng dưỡng cha mẹ già. 

Nghe Đức Vua Esukārī truyền bảo như vậy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao cả, tình bằng hữu với sự già, tình thân thiết với sự chết, nếu có đối với người nào, hoặc người nào biết chắc rằng: “Ta sẽ không chết” thì đôi khi cha mẹ sẽ nhìn thấy người ấy sống lâu 100 tuổi, không có bệnh luôn khoẻ mạnh.

- Muôn tâu Đại Vương cao cả, như người chèo đò ngang chở khách từ bến này sang bến kia, rồi ngược lại như thế nào, thì sự già, sự bệnh thường dắt dẫn sinh mạng của chúng sinh đến sự chết cũng như thế ấy.

Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla giảng giải về sinh mạng của chúng sinh ngắn ngủi như vậy, rồi cầu nguyện cho Đức Vua Esukārī rằng:

Xin cầu nguyện cho Đại Vương thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang theo đuổi kẻ tiện dân đang tâu với Đại Vương.

Kính xin Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp, không nên say mê trong sinh mạng vô thường này!

Đức Bồ Tát Công Tử Hatthipāla Đi Xuất Gia

Sau khi tâu xong, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla đảnh lễ Đức Vua Esukārī, đảnh lễ Quan Thừa tướng phụ thân của mình, rồi xin phép từ bỏ tư dinh, không màng đến ngôi vua, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, để đi xuất gia trở thành đạo sĩ, nên có một số đông dân chúng cũng xin đi xuất gia theo Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Dẫn đoàn tuỳ tùng thuộc hạ dài khoảng 1 do-tuần đến bờ sông Gaṅgā, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla nhìn dòng nước sông Gaṅgā làm đề mục thiền định Āpokasiṇa, thực hành pháp hành thiền định dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, chứng đắc các phép thần thông tại nơi ấy.

Đức Bồ Tát Hatthipāla nghĩ rằng: “Đoàn tuỳ tùng này sẽ đông đảo lắm, còn có 3 người em trai, cha mẹ, Đức Vua Esukārī, Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua, những người trong hoàng tộc, cùng với toàn thể dân chúng trong kinh thành Bārāṇasī sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Cho nên, ta nên chờ đợi mọi người đến đông đủ.”

Khi ấy, Đức Bồ Tát Hatthipāla ngồi giảng dạy đoàn tuỳ tùng thuộc hạ tại bờ sông Gaṅgā.

Công Tử Assapāla

Vào ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng bàn tính với nhau rằng:

Công tử Hatthipāla không màng đến ngôi vua, dẫn đoàn tuỳ tùng đông đảo đi xuất gia trở thành đạo sĩ, đang nghỉ tại bờ sông Gaṅgā.

Nay, Trẫm cùng ngự với khanh nên đến thử công tử Assapāla như thế nào, rồi sẽ làm lễ đăng quang cho lên ngôi vua.

Sau khi bàn tính xong, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ ngự đến khất thực trước cổng tư dinh của công tử Assapāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng tư dinh của mình, công tử Assapāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng, đảnh lễ dưới đôi bàn chân của 2 vị đạo sĩ, đón rước vào tư dinh, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, rồi bạch với hai vị đạo sĩ rằng:

- Kính bạch hai Ngài đạo sĩ cao quý, đã lâu lắm rồi, nay con mới gặp hai Ngài đạo sĩ thực hành phạm hạnh cao thượng, thu thúc lục căn thanh tịnh. Thật là đáng tôn kính. 

Công tử Assapāla phục vụ hộ độ tiếp đãi hai vị đạo sĩ

như Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla.

Thấy công tử Assapāla biết giữ lễ phép, nói lời khiêm

tốn, nên Quan Thừa tướng phụ thân bảo với công tử Assapāla biết sự thật rằng:

- Này Assapāla con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai đạo sĩ như con tưởng. Vị này là Đức Vua Esukārī và ta là Quan Thừa tướng, cha của con đây. Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi huynh trưởng Hatthipāla của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Assapāla con yêu quý! Huynh trưởng Hatthipāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ rồi.

Công tử Assapāla thưa tiếp rằng:

- Kính thưa phụ thân, hiện nay huynh trưởng Hatthi-pāla của con đang ở đâu vậy?

 - Này Assapāla con yêu quý! Hiện nay huynh trưởng Hatthipāla của con đang ở bến sông Gaṅgā.

Công tử Assapāla dõng dạc thưa với phụ thân rằng:

- Kính thưa phụ thân, con cũng không muốn lên ngôi làm vua, ví như bãi nước miếng mà huynh trưởng Hatthipāla của con đã nhổ bỏ, chẳng lẽ con lại quỳ gối liếm bãi nước miếng ấy sao! Con cũng sẽ đi xuất gia trở thành đạo sĩ theo huynh trưởng Hatthipāla của con.

Công tử Assapāla giảng giải rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kính thưa phụ thân, ngũ dục:

sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục ví như sình lầy làm cho chúng sinh chìm đắm; ngũ dục là những đối tượng dắt dẫn tâm chúng sinh đến sự khổ.

Những chúng sinh nào say mê trong ngũ dục ví như sình lầy, những chúng sinh ấy bị chìm đắm không thể vượt qua bờ bên kia là Niết Bàn được; những chúng sinh ấy có tâm thấp hèn, phải chịu khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài mà thôi.

- Muôn tâu Đại Vương, kính thưa phụ thân, trước đây, lớn lên trong gia đình người giữ ngựa, con là đứa trẻ ngang tàng ngỗ nghịch, đã tạo nhiều ác nghiệp làm khổ các chúng sinh khác. Khi còn tử sinh luân hồi, quả của ác nghiệp ấy con không thể tránh khỏi được.

Vậy, ngay bây giờ, con ráng thu thúc thân, khẩu, ý tránh xa mọi ác nghiệp, chỉ cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện nghiệp mà thôi.

Công tử Assapāla cầu nguyện rằng:  

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và phụ thân thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang theo đuổi con đang tâu với Đại Vương và phụ thân.

Công Tử Assapāla Đi Xuất Gia

Công tử Assapāla đảnh lễ Đức Vua Esukārī và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do tuần, đi tìm huynh trưởng Hatthipāla tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy người em thứ nhất, công tử Assapāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthi-pāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Assapāla cùng đoàn tuỳ tùng, rồi khuyên rằng:

- Này Assapāla em yêu quý! Đoàn người này chắc chắn sẽ càng đông thêm nữa. Vậy, chúng ta nên chờ đợi tại nơi này.

Nghe huynh trưởng Hatthipāla dạy bảo như vậy, công tử Assapāla vâng lời ở lại chờ đợi.

Công Tử Gopāla

Sau khi công tử Assapāla đã xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia theo Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla, vào ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ đi khất thực đến đứng trước cổng tư dinh của công tử Gopāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng, công tử Gopāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng đảnh lễ dưới hai bàn chân của hai vị đạo sĩ, rồi thỉnh vào tư dinh của mình, thỉnh ngồi trên chỗ ngồi cao quý, phục vụ hộ độ tiếp đãi như hai người anh đã làm, và bạch những lời lẽ như hai người anh đã bạch.

Khi ấy, Quan Thừa tướng truyền bảo cho công tử Gopāla biết rõ sự thật rằng:

- Này công tử Gopāla, con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai vị đạo sĩ như con tưởng, mà là Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng cha của con đây.

Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi hai huynh của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Gopāla con yêu quý! huynh trưởng Hatthipāla và huynh Assapāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Hiện nay đang ở tại bờ sông Gaṅgā.

 Nghe phụ thân cho biết như vậy, công tử Gopāla vô cùng hoan hỷ thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, đã từ lâu con tha thiết muốn xuất gia trở thành đạo sĩ, mà con chưa tìm ra được con đường xuất gia, cũng như người đi tìm con bò bị lạc đường vào trong rừng.

 Nay, con đã thấy con đường mà hai huynh của con đi rồi, ví như người ấy thấy dấu chân con bò bị lạc đường vào trong rừng.

- Kính thưa phụ thân, con không muốn lên ngôi làm vua, mà chỉ muốn từ bỏ kinh thành Bārāṇasī này, đi theo hai huynh của con xuất gia trở thành đạo sĩ mà thôi.

Công tử Gopāla tâu với Đức Vua Esukārī và thưa phụ thân của mình rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Esukārī, như người nuôi bò không thấy con bò lạc đường vào trong rừng sâu như thế nào, cũng như sự lợi ích của sự xuất gia của kẻ tiện dân này bị thất lạc từ lâu. Hôm nay, kẻ tiện dân đã thấy con đường xuất gia ấy rồi, chẳng lẽ kẻ tiện dân này không đi tìm lại sự lợi ích của sự xuất gia của mình hay sao! 

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân này chắc chắn cũng sẽ đi theo con đường mà hai huynh của kẻ tiện dân này đã đi.

 Công Tử Gopāla Đi Xuất Gia

Công tử Gopāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi theo con đường của hai huynh của mình.

 Khi ấy, quan Thừa tướng phụ thân của công tử Gopāla khẩn khoản yêu cầu rằng:

- Này Gopāla con yêu quý! Xin con chờ 1-2 ngày nữa, để cho Đức Vua và cha thân tâm được ổn định, rồi sau đó con mới đi xuất gia có được không?

Nghe Đức Vua và phụ thân của mình khẩn khoản yêu cầu như vậy, công tử Gopāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, thiện nghiệp nên tạo hôm nay thì không nên khất lại ngày mai. Thiện nghiệp nên tạo hôm nay, thì chỉ nên tạo ngay hôm nay mà thôi.

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân,

Người nào khất lần công việc rằng: Công việc nên làm hôm nay khất lại ngày mai, công việc nên làm ngày mai khất lại ngày kia, và cứ như vậy, thì người ấy không được lợi ích của công việc ấy.

Bậc thiện trí biết rằng: Công việc nào vị lai chưa đến công việc ấy không có lợi ích gì. Thiện pháp phát sinh, bậc thiện trí bỏ lỡ sao được!

Sau khi giảng giải như vậy, công tử Gopāla cầu nguyện Đức Vua và phụ thân rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và thân phụ thân tâm thường được an lạc.

Sự già, sự bệnh, sự chết đang đuổi theo con, con xin phép đi xuất gia. 

Công tử Gopāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do-tuần, đi tìm 2 người anh của mình tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy em thứ nhì, công tử Gopāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Gopāla cùng đoàn tuỳ tùng.

Công Tử Ajapāla

Sau khi không thể khẩn khoản yêu cầu công tử Gopāla ở lại dù 1-2 ngày cũng không được, Đức Vua và Quan Thừa tướng vô cùng thất vọng.

Qua ngày hôm sau, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng giả làm đạo sĩ đi khất thực đến đứng trước cổng tư dinh của công tử Ajapāla.

Nhìn thấy hai vị đạo sĩ đứng trước cổng, công tử Ajapāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng đảnh lễ dưới bàn chân của hai vị đạo sĩ, rồi thỉnh vào tư dinh của mình, thỉnh ngồi trên chỗ cao quý, cung kính tiếp đãi giống như 3 người anh, và bạch lời lẽ cũng như vậy.

Khi ấy, Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng truyền bảo cho công tử Ajapāla biết sự thật rằng:

- Này công tử Ajapāla, con yêu quý! Sự thật chúng ta không phải là hai vị đạo sĩ như con tưởng, mà là Đức Vua Esukārī và Quan Thừa tướng cha của con đây.

Đức Vua và cha sẽ làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này.

Nghe phụ thân của mình bảo như vậy, công tử Assapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, khi ba huynh của con đang hiện hữu, sao có thể làm lễ đăng quang cho con lên ngôi vua được!

Quan Thừa tướng phụ thân của công tử Assapāla cho biết rằng:

- Này Ajapāla con yêu quý! huynh trưởng Hatthipāla, huynh thứ nhất Assapāla và huynh thứ nhì Gopāla của con không chịu lên ngôi làm vua, đã xin phép cha, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia trở thành đạo sĩ. Hiện nay đang ở tại bờ sông Gaṅgā.

 Nghe phụ thân cho biết như vậy, công tử Ajapāla vô cùng hoan hỷ thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, một khi ba người anh của con không chịu lên ngôi làm vua, như nhổ bãi nước miếng, rồi bỏ đi, chẳng lẽ con quỳ gối liếm lại bãi nước miếng của ba người anh của con được hay sao!

- Kính thưa phụ thân, chắc chắn con cũng chỉ đi xuất gia theo ba người anh của con mà thôi.

Nghe công tử Ajapāla dõng dạc thưa như vậy, Đức vua Esukārī và Quan Thừa tướng vô cùng thất vọng, chỉ còn cách khẩn khoản tha thiết công tử Ajapāla rằng:

- Này Ajapāla con yêu quý! Con còn trẻ quá! Đức Vua và cha mẹ còn có bổn phận nuôi dưỡng. Bây giờ con nên lên ngôi làm vua, trị vì đất nước Kāsi này. Đến lúc tuổi già con mới nên xuất gia trở thành đạo sĩ.

Nghe phụ thân khuyên dạy như vậy, công tử Ajapāla thưa rằng:

- Kính thưa phụ thân, thông thường, tất cả chúng sinh, có số chết lúc còn trẻ, có số chết lúc tuổi già, có phải vậy không?

Không có báo hiệu nào để phân biệt chúng sinh nào chết lúc còn trẻ, hoặc chúng sinh nào chết lúc tuổi già.

Riêng phận con, con hoàn toàn không biết chết lúc nào. Vì vậy, tốt nhất con nên xuất gia ngay từ bây giờ.

Công tử Ajapāla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, kẻ tiện dân thấy một cô gái xinh đẹp dễ thương, cô gái ấy chết trong thời còn trẻ, chưa kịp hưởng sự an lạc trong đời; và thấy một cậu trai trẻ có thân hình khỏe mạnh, có trí tuệ sáng suốt, thế mà cậu trai trẻ ấy cũng không thoát khỏi tử thần.

- Muôn tâu Đại Vương và kính thưa phụ thân, kẻ tiện dân sẽ lánh xa ngũ dục, từ bỏ tư dinh này, đi ra khỏi kinh thành Bārāṇasī, để đi xuất gia theo 3 người anh của tiện dân.

Kính xin Đức Vua và phụ thân mở lòng đại bi tế độ, cho phép kẻ tiện dân này được phép đi xuất gia.

Sau khi giảng giải như vậy, công tử Gopāla cầu nguyện Đức Vua và phụ thân rằng:

- Muôn tâu Đại Vương và phụ thân kính yêu, con xin cầu nguyện Đại Vương và phụ thân thân tâm thường được an lạc. Sự già, sự bệnh, sự chết đang đuổi theo con, con xin phép đi xuất gia. 

Công Tử Ajapāla Đi Xuất Gia

Công tử Ajapāla đảnh lễ Đức Vua và phụ thân, rồi xin phép rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ cùng dân chúng theo sau dài 1 do-tuần, đi tìm 3 người anh của mình tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy em thứ ba, công tử Ajapāla cùng với đoàn tuỳ tùng đông đảo đến, huynh trưởng Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy công tử Ajapāla cùng đoàn tuỳ tùng, rồi khuyên rằng:

- Này Ajapāla em yêu quý! Đoàn người này chắc chắn sẽ càng đông thêm nữa. Vậy, chúng ta nên chờ đợi tại nơi này.

Nghe huynh trưởng Hatthipāla dạy bảo như vậy, công tử Ajpāla vâng lời ở lại chờ đợi.

 

Quan Thừa Tướng

Ngày hôm sau, Quan Thừa tướng ngồi trên ngai một mình nghĩ rằng: “Bốn đứa con trai của ta đã bỏ ta đi xuất gia trở thành đạo sĩ cả rồi, chỉ còn lại một mình ta mà thôi. Bây giờ, ta như gốc cây khô trụi cành trụi lá. Vậy, ta cũng nên xuất gia trở thành đạo sĩ theo 4 đứa con yêu quý của ta.”

Nghĩ vậy, nên cho người truyền gọi phu nhân Vāseṭṭhī đến, quan Thừa tướng bảo rằng:

- Này phu nhân Vāseṭṭhī! Người đời gọi là ‘cây’ bởi vì có cành có lá, khi cây ấy đã trụi cành, trụi lá hết, thì gọi là ‘gốc cây khô’.

- Này phu nhân Vāseṭṭhī! Bốn đứa con yêu quý đã bỏ chúng ta đi xuất gia trở thành đạo sĩ cả rồi. Bây giờ, tôi xin trao tất cả của cải tài sản lớn này lại cho phu nhân, tôi cũng từ bỏ dinh thự này, đi xuất gia trở thành đạo sĩ theo các con của tôi.

Sau khi bảo phu nhân Vāseṭṭhī của mình như vậy, liền cho truyền gọi 16.000 Bà-la-môn đến hội họp.

Quan Thừa tướng bảo các vị Bà-la-môn ấy rằng: 

- Này quý vị Bà-la-môn! Tôi sẽ từ bỏ dinh thự này, đi xuất gia theo con của tôi. Còn quý vị nghĩ thế nào?

 Các vị Bà-la-môn ấy đều thưa rằng:

- Kính thưa Quan Thừa tướng, tất cả chúng tôi cũng xin đi theo Ngài, để xuất gia trở thành đạo sĩ với các con của Ngài.

Quan Thừa Tướng Đi Xuất Gia

Quan Thừa tướng trao tất cả của cải tài sản gồm có khoảng 180 triệu đồng (tiền Ấn xưa), cho phu nhân Vāseṭṭhī của mình, rời khỏi dinh thự, dẫn nhóm Bà-la-môn ra khỏi kinh thành Bārāṇasī, tìm đến 4 đứa con yêu quý tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy quan Thừa tướng, phụ thân của mình từ xa đi đến, dẫn theo đoàn tuỳ tùng thuộc hạ đông đảo, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ phụ thân cùng nhóm tuỳ tùng ấy.

Phu Nhân Vāseṭṭhī  

Sau khi Quan Thừa tướng dẫn nhóm Bà-la-môn đi xuất gia, phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng nghĩ rằng: “Bốn đứa con của ta không màng ngôi vua, đã đi xuất gia rồi, Đức phu quân của ta từ bỏ của cải tài sản đến khoảng 180 triệu và bỏ chức Quan Thừa tướng cao nhất trong triều, dẫn nhóm tuỳ tùng thuộc hạ 16.000 Bà-la-môn đi xuất gia rồi, chỉ còn lại một mình ta mà thôi.

Vậy, ta cũng nên từ bỏ tất cả, đi xuất gia theo 4 đứa con yêu quý của ta.”

Nghĩ như vậy, bà Bà-la-môn Vāseṭṭhī cho gọi các phu nhân của 16.000 vị Bà-la-môn đến, rồi thông báo rằng:

- Này quý phu nhân! Quan Thừa tướng phu quân của ta đã dẫn 16.000 vị Bà-la-môn phu quân của quý bà, đã đi xuất gia theo 4 đứa con của ta rồi.

Vậy, quý bà nghĩ thế nào?

Các bà phu nhân thưa rằng:

- Kính thưa lệnh bà, lệnh bà nghĩ thế nào?

Phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng bảo rằng:

- Này quý phu nhân! Ta quyết định từ bỏ dinh thự này và tất cả của cải tài sản lớn này, rồi ta đi xuất gia theo 4 đứa con của ta. Còn các bà nghĩ thế nào?

 Các bà phu nhân đồng thưa rằng:

- Kính thưa lệnh bà, tất cả chúng tôi đều xin đi theo lệnh bà, để xuất gia với 4 công tử của bà.

Phu Nhân Vāseṭṭhī Đi Xuất Gia

Sau đó, phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng từ bỏ tất cả, dẫn nhóm phu nhân các vị Bà-la-môn cùng các con của họ, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi tìm đến 4 công tử tại bờ sông Gaṅgā.

Nhìn thấy mẫu thân của mình dẫn đoàn người đông đảo từ xa đến, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ mẫu thân cùng đoàn tuỳ tùng đông đảo ấy.

Đức Vua Esukārī

Ngày hôm ấy, không thấy Quan Thừa tướng đến chầu như thường ngày, Đức Vua Esukārī truyền hỏi rằng:

- Này các khanh! Quan Thừa tướng thế nào mà không đến chầu hôm nay?

- Muôn tâu Bệ hạ, Quan Thừa tướng và phu nhân Vāseṭṭhī từ bỏ dinh thự và tất cả của cải tài sản lớn ấy, rồi dẫn đoàn tuỳ tùng đông đảo rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia theo 4 công tử tại bờ sông Gaṅgā rồi. Tâu Bệ hạ.

Nghe tâu như vậy, Đức Vua Esukārī nghĩ rằng: “Của cải tài sản nào không có chủ, của cải tài sản ấy thuộc về của Đức Vua.”

Nghĩ vậy, nên Đức Vua Esukārī truyền lệnh lính trong triều đến dinh thự Quan Thừa tướng chở tất cả của cải tài sản của Quan Thừa tướng đem về nộp vào kho triều đình.

Chánh Cung Hoàng Hậu 

Nhìn thấy lính chở của cải nhiều đem về nộp vào kho như vậy, nên Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Esukārī truyền hỏi các lính ấy rằng:

- Này các khanh! Của cải tài sản của ai mà các ngươi chở nhiều quá vậy?

- Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu, Đức Vua truyền lệnh chở tất cả của cải tài sản của Quan Thừa tướng đem về nộp vào kho triều đình.

- Này các khanh! Quan Thừa tướng ở đâu? Dinh thự quan Thừa tướng không còn ai hay sao?

- Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu, hạ thần nghe nói rằng: “Quan Thừa tướng và phu nhân Vāseṭṭhī từ bỏ dinh thự, từ bỏ tất cả của cải tài sản lớn, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, dẫn theo đoàn tuỳ tùng đông đảo đi xuất gia theo 4 công tử của họ rồi, nên trong dinh thự không còn người nào cả.”

Nghe người lính tâu như vậy, Chánh cung Hoàng hậu suy nghĩ rằng: “Đức Vua Esukārī, Đức phu quân của ta tham của cải tài sản lớn mà Quan Thừa tướng, phu nhân Vāseṭṭhī và 4 công tử của Quan Thừa tướng đã từ bỏ, như nhổ bãi nước miếng, rồi bỏ đi, Đức Vua lại truyền lệnh cho những người lính đem của cải ấy về nộp vào kho triều đình. Vậy, ta nên thức tỉnh Đức Vua bằng một thí dụ.”

Suy nghĩ như vậy xong, Chánh cung Hoàng hậu truyền lệnh cho người lính mua thịt bò ngon đem về gom một đống thịt phía trước sân cung điện, rồi giăng lưới bẫy sẵn, chờ bầy chim kên kên thấy thịt từ xa bay đến ăn thịt bò ngon.

Những con chim kên kên ăn thịt bò ngon no quá, thân mình nặng nề không thể bay lên được. Con chim kên kên nào biết khôn, mửa bớt thịt ra, làm cho thân mình nhẹ bớt, nên bay trở về tổ được. Còn con chim kên kên nào ham ăn thịt bò ngon no quá, thân hình nặng nề không thể bay lên được, chúng đều bị mắc lưới bẫy.

Chánh cung Hoàng hậu truyền lệnh cho người lính bắt một con kên kên đem đến cho bà. Chánh cung Hoàng hậu đem con chim kên kên ấy đến chầu Đức Vua Esukārī, tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, kính thỉnh Hoàng Thượng ngự đến đứng chỗ cửa sổ nhìn xuống trước sân, thấy bầy chim kên kên nằm trong bẫy lưới, rồi tâu rằng:

 - Muôn tâu Hoàng Thượng, những con chim kên kên nào ăn thịt bò ngon quá no, rồi mửa ra bớt, thì những con chim kên kên ấy bay lên trở về tổ của mình được.

Còn những con chim kên kên nào ăn thịt bò ngon quá no, không chịu mửa ra được, thân nặng nề, thì những con chim kên kên ấy không thể bay lên được, nên chúng đều bị sa vào bẫy lưới của thần thiếp.

 - Muôn tâu Hoàng Thượng, quan Thừa tướng, phu nhân Vāseṭṭhī và 4 công tử của quan Thừa tướng đã từ bỏ của cải tài sản, như nhổ bỏ các ngũ dục sình lầy, rồi đi xuất gia. Còn Hoàng Thượng lại truyền lệnh cho lính đem xe chở các của cải tài sản ấy đem về nộp vào kho triều đình, để sử dụng lại.

 - Muôn tâu Hoàng Thượng, người nào sử dụng những gì mà người khác nhổ bỏ rồi. Chư bậc thiện trí không tán dương ca tụng người ấy.

Nghe lời tâu của Chánh cung Hoàng hậu, Đức Vua Esukārī liền thức tỉnh, phát sinh tâm ghê sợ tội lỗi, cảm thấy tam giới này như ba hầm lửa đang cháy ngùn ngụt, phát sinh động tâm, nên nghĩ rằng: “Ta nên từ bỏ ngai vàng điện ngọc, rồi ta cũng nên đi xuất gia ngay hôm nay mà thôi.” 

Khi ấy, Đức Vua Esukārī tán dương ca tụng Chánh cung Hoàng hậu rằng:

- Này Ái khanh! Như người đàn ông lực lưỡng có sức mạnh giúp nắm tay người yếu đuối bị chìm trong vũng sình lầy, đưa lên bờ được an toàn như thế nào. Cũng như ái khanh cứu vớt Trẫm thoát ra khỏi vũng sình lầy ngũ dục bằng lời lẽ chân lý đúng đắn như thế ấy.

Đức Vua Esukārī Đi Xuất Gia

Sau khi tán dương ca tụng Chánh cung Hoàng hậu như vậy, Đức Vua Esukārī truyền lệnh các quan hội triều. Khi các quan văn võ tề tựu đông đủ, Đức Vua Esukārī truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Trẫm từ bỏ ngai vàng, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia theo công tử Hatthipāla, ngay hôn nay. Còn các khanh nghĩ thế nào?

 Nghe Đức Vua Esukārī truyền bảo như vậy, các quan văn võ đều tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, chúng thần cũng xin theo Bệ hạ, đi xuất gia.

Như vậy, Đức Vua Esukārī từ bỏ ngai vàng, từ bỏ kinh thành Bārāṇasī rộng lớn, dẫn nhóm các quan và đoàn tuỳ tùng dài khoảng 3 do-tuần, ngự đi xuất gia, tìm đến nơi Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla tại bờ sông Gaṅgā.

 Nhìn thấy Đức Vua Esukārī cùng đoàn tuỳ tùng đông đảo từ xa đến, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ Đức Vua Esukārī cùng đoàn tuỳ tùng ấy.

Chánh Cung Hoàng Hậu Pañcālī

Sau khi nghe tin Đức Vua Esukārī cùng nhóm các quan đã rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia rồi, ngày hôm sau, dân chúng còn lại trong kinh thành Bārāṇasī, kéo nhau tụ hội tại trước cung điện, đảnh lễ Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, tâu rằng:

- Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, Đức Vua Esukārī cao cả trong đất nước Kāsi đã từ bỏ ngai vàng, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ngự đi xuất gia rồi. Chúng thần dân thiên hạ kính thỉnh Chánh cung Hoàng hậu lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này, làm nơi nương nhờ của chúng thần dân thiên hạ trong đất nước Kāsi này.

 Toàn thể chúng thần dân thiên hạ đều một lòng trung thành phục vụ Chánh cung Hoàng hậu.

Kính xin Lệnh bà ban lời giáo huấn đến thần dân thiên hạ.

Nghe lời tâu của thần dân thiên hạ, Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī truyền bảo rằng: 

- Này toàn thể dân chúng! Đức Vua Esukārī cao cả đã từ bỏ đất nước Kāsi này, đã hài lòng trở thành bậc xuất gia. Dù ta cũng sẽ từ bỏ ngũ dục đáng ưa thích trong đời, mà đi một mình thực hành phạm hạnh cao thượng.

- Này toàn thể dân chúng! Đức Vua Esukārī cao cả đã từ bỏ đất nước Kāsi này, đã hài lòng trở thành bậc xuất gia. Dù ta cũng từ bỏ ngũ dục mà ta sở hữu trong đời, mà đi một mình thực hành phạm hạnh cao thượng. 

- Này toàn thể dân chúng! Thời gian ban ngày đã trôi qua, ban đêm cũng trôi qua, tuổi thọ giảm dần, tiếp theo tuần tự ba thời: ấu niên, trung niên, lão niên. Dù ta cũng sẽ từ bỏ ngũ dục đáng ưa thích trong đời, mà đi một mình thực hành phạm hạnh cao thượng. 

 - Này toàn thể dân chúng! Thời gian ban ngày đã trôi qua, ban đêm cũng trôi qua, tuổi thọ giảm dần, tiếp theo tuần tự ba thời: ấu niên, trung niên, lão niên. Dù ta cũng từ bỏ ngũ dục mà ta sở hữu trong đời, mà đi một mình thực hành phạm hạnh cao thượng. 

 - Này toàn thể dân chúng! Thời gian ban ngày đã trôi qua, ban đêm cũng trôi qua, tuổi thọ giảm dần, tiếp theo tuần tự ba thời: ấu niên, trung niên, lão niên. Dù ta cũng sẽ diệt mọi phiền não, tham ái nóng nảy trong đời, là người có tâm thanh tịnh, thoát khỏi mọi phiền não, tham ái ràng buộc, mà đi một mình thực hành phạm hạnh cao thượng.

Sau khi truyền dạy 5 câu kệ xong, rồi chánh cung Hoàng hậu Pañcālī truyền gọi những phu nhân của những vị quan trong triều đến chầu, truyền bảo rằng:

- Này quý phu nhân! Đức Vua Esukārī đã từ bỏ ngai vàng, từ bỏ đất nước Kāsi rộng lớn, dẫn nhóm quan trong triều cùng đoàn tuỳ tùng đông đảo, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī này, ngự đi xuất gia theo công tử Hatthipāla, tại bờ sông Gaṅgā. Vậy, quý bà nghĩ thế nào?

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī truyền hỏi như vậy, quý bà phu nhân của các vị quan đều tâu rằng:

- Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, Lệnh bà nghĩ thế nào?

- Này quý phu nhân! Ta cũng từ bỏ tất cả, rồi đi xuất gia theo công tử Hatthipāla, tại bờ sông Gaṅgā.

 - Muôn tâu Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, kính xin Lệnh bà cho phép tất cả chúng tôi cùng đi theo xuất gia nơi công tử Hatthipāla, tại bờ sông Gaṅgā.

Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng: “Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Quý phu nhân.”

Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī truyền lệnh cho lính trong triều mở các kho vàng, kho ngọc, v.v… và vẽ bản đồ chỉ rõ các hầm kho báu lớn chôn dưới đất, rồi ghi dòng chữ trên bảng treo lên cho mọi người biết rằng:

“Những thứ của cải này đã được vua ban cho rồi, nếu ai cần lấy những vật gì thì được phép lấy những vật ấy như ý.”

Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī truyền lệnh cho những người lính đánh kiểng thông báo cho toàn thể dân chúng trong kinh thành và dân chúng trong đất nước Kāsi đều biết như vậy.

Nghe tin Đức Vua Esukārī từ bỏ ngai vàng, rời khỏi kinh thành Bārāṇasī ngự đi xuất gia rồi, và nay Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī cũng sẽ rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ngự đi xuất gia nữa, làm xao động trong lòng toàn thể dân chúng trong kinh thành Bārāṇasī. Cho nên, toàn thể dân chúng trong kinh thành xôn xao bàn luận, rồi cuối cùng quyết định từ bỏ nhà cửa, của cải tài sản, mọi người đều lũ lượt dẫn con cháu xin đi theo Chánh cung Hoàng hậu cùng xuất gia với công tử Hatthipāla, tại bờ sông Gaṅgā. Kinh thành Bārāṇasī vắng người qua lại. 

Chánh Cung Hoàng Hậu Pañcālī Đi Xuất Gia

Đoàn người đông đảo dài 3 do-tuần, ngự đi ra khỏi kinh thành Bārāṇasī, đi xuất gia theo công tử Hatthipāla tại bờ sông Gaṅgā. 

Nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī dẫn đầu đoàn người đông đảo từ xa ngự đến, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ Chánh cung Hoàng hậu cũng đoàn tuỳ tùng đông đảo ấy.

Đức Bồ Tát Hatthipāla Đi Vào Rừng Núi Himavanta

Khi ấy, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla dẫn đầu đoàn tuỳ tùng dài độ 12 do-tuần đi vào rừng núi Himavanta. Dân chúng đất nước Kāsi nghe tin rằng:

Công tử Hatthipāla dẫn đầu đoàn người đông đảo dài độ 12 do-tuần đi vào rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo sĩ, làm cho kinh thành Bārāṇasī vắng người qua lại. Vậy, chúng ta ở lại nơi đây có ích lợi gì!

Cho nên, các đoàn người lũ lượt kéo nhau đi theo vào rừng núi Himavanta, để xin xuất gia trở thành đạo sĩ với Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla đông đảo đến 30 do-tuần. Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla dẫn đoàn tuỳ tùng chưa đến rừng núi Himavanta.

Khi ấy, trên cõi trời Tam thập Tam thiên Đức Vua trời Sakka suy xét rằng: “Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla dẫn đầu đoàn tuỳ tùng đông đảo đi vào rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo sĩ.

Vậy, ta nên có bổn phận chuẩn bị chỗ ở, các thứ vật dụng cần thiết đủ để cho mọi người xuất gia trở thành đạo sĩ, và mọi thứ tiện nghi trong đời sống hằng ngày của các đạo sĩ.

Cho nên, Đức Vua trời Sakka truyền gọi vị thiên nam Vissakamma đến, rồi truyền bảo rằng:

- Này Vissakamma! Ngươi nên hiện xuống cõi người, tại rừng núi Himavanta, hoá ra các cốc lá, những thứ vật dụng cần thiết để cho mọi người xuất gia trở thành đạo sĩ, và mọi thứ tiện nghi trong đời sống hằng ngày của các đạo sĩ, chiều dài 36 do-tuần, chiều ngang 15 do-tuần.

Tuân theo lệnh của Đức Vua trời Sakka, vị thiên nam Vissakamma hiện xuống cõi người, làm con đường dẫn đến rừng núi Himavanta chỗ thuận lợi, gần bến bờ sông Gaṅgā, hoá ra các cốc lá, những thứ vật dụng cần thiết đầy đủ để cho mọi người xuất gia trở thành đạo sĩ, và mọi thứ tiện nghi cần thiết trong đời sống hằng ngày của toàn thể đạo sĩ, như đường kinh hành, chỗ nghỉ buổi trưa, hồ nước lớn, những cây ăn quả nhiều loại có quả quanh năm suốt tháng, đầy đủ cho tất cả mọi đạo sĩ, chiều dài khoảng 36 do-tuần, chiều ngang khoảng 15 do-tuần, do oai lực của vị thiên nam Vissakamma. Sau khi hoá xong, vị thiên nam Vissakamma ghi dòng chữ rằng:

“Ye keci pabbajitukāmā ime parikkhāre gaṇhantu.”

“Những vị nào có ý định xuất gia trở thành đạo sĩ, kính xin quý Ngài được phép nhận sử dụng những thứ vật dụng cần thiết này.”

Vị thiên nam Vissakamma dùng oai lực của mình, đuổi các con thú dữ và các loài chim có tiếng kêu đáng kinh sợ ra khỏi xa phạm vi sinh sống, sinh hoạt hằng ngày của toàn thể quý vị đạo sĩ, rồi mới trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

Đức Bồ Tát Hatthipāla Xuất Gia Trở Thành Đạo Sĩ

Khi Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla dẫn đầu đoàn tuỳ tùng đến bìa rừng theo con đường dẫn đến vùng mà vị thiên nam Vissakamma hoá ra dành cho Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla cùng đoàn tuỳ tùng đông đảo của Ngài.

Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla biết rõ Đức Vua trời Sakka đã truyền lệnh cho chư thiên hoá ra đầy đủ mọi thứ sẵn sàng dành cho mình và đoàn tuỳ tùng đông đảo của mình, để xuất gia trở thành đạo sĩ. Thật vậy, nhìn thấy tấm bản có ghi dòng chữ:

“Ye keci pabbajitukāmā ime parikkhāre gaṇhantu.”

Mở cửa bước vào cốc lá, nhìn thấy bộ y phục của đạo sĩ, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla thay bộ y phục công tử bằng bộ y phục đạo sĩ, tự nguyện xuất gia trở thành đạo sĩ, rồi bước ra ngoài đi kinh hành quanh đôi ba vòng, cảm thấy thật là hạnh phúc an lạc biết dường nào!

Sau đó, Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla cho phép tất cả mọi người đều xuất gia trở thành đạo sĩ cả thảy. 

Xem xét toàn vùng, Đức Bồ Tát đạo sĩ sắp đặt những vị nữ đạo sĩ có con nhỏ ở giữa, vòng tiếp theo dành cho những vị đạo sĩ già lớn tuổi, vòng tiếp theo dành cho những đạo sĩ trung niên và vòng ngoài cùng dành cho những nam đạo sĩ trẻ khoẻ mạnh.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp giảng dạy toàn thể đạo sĩ, dạy pháp hành thiền định đề mục “Tứ vô lượng tâm” Đó là:

* Niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng.  

*Niệm rải tâm bi đến tất cả chúng sinh vô lượng. 

*Niệm rải tâm hỷ đến tất cả chúng sinh vô lượng.

*Niệm rải tâm xả đến mỗi chúng sinh vô lượng.

Trong 3 đề mục vô lượng tâm: niệm rải tâm từ, niệm rải tâm bi, niệm rải tâm hỷ, hành giả chọn 1 trong 3 đề mục thực hành pháp hành thiền định trước.

Sau khi hành giả chứng đắc đệ tứ thiền sắc giới xong, mới chuyển đổi sang thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm xả sau.

Một Đức Vua của nước khác nghe tin rằng:

Trong kinh thành Bārāṇasī, Đức Vua Esukārī và Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī từ bỏ ngai vàng, dẫn tất cả các quan trong triều, các phu nhân của các quan cùng dân chúng trong kinh thành Bārāṇasī đông đảo ngự đi theo công tử Hatthipāla vào rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo sĩ. 

Nghe tin như vậy, muốn biết hư thực thế nào, nên Đức Vua cầm đầu đội quân ngự đến kinh thành Bārāṇasī.

Khi đến nơi, thấy cửa thành mở rộng, Đức Vua ngự đi vào bên trong kinh thành vắng người, không thấy một bóng người qua lại, các nhà đều mở cửa, của cải ngổn ngang, ngự đến cung điện của Đức Vua Esukārī vắng người, các cửa cung điện đều mở, các kho báu đều mở cửa bỏ trống, nên Đức Vua nghĩ rằng:

Đức Vua Esukārī, Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, toàn thể các quan, dân chúng trong kinh thành đều từ bỏ các của cải quý báu mà họ đã dành dụm tích luỹ trải qua các đời vua, các đời cha ông tổ tiên, đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

 Như vậy, bậc xuất gia đạo sĩ ắt hẳn là cao quý hơn người có của cải quý báu ấy.

Nghĩ như vậy, Đức Vua ngự ra khỏi cung điện, tìm người hỏi thăm đường đi đến chỗ ở công tử Hatthipāla, gặp mấy người uống rượu tại một nơi, họ chỉ con đường đi đến chỗ ở công tử Hatthipāla. Đức Vua ngự cùng với đội quân theo con đường đi đến chỗ ở công tử Hatthipāla, vừa đến bìa rừng.

Biết Đức Vua tìm đến, Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla hiện ra bìa rừng đón rước Đức Vua, ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ Đức Vua cùng đội quân, rồi dẫn vào chỗ ở bên trong.

Đức Vua cùng đội quân xin phép xuất gia trở thành đạo sĩ. Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla cho phép xuất gia trở thành đạo sĩ theo ý nguyện.

Về sau, có 5 Đức Vua của đất nước khác cùng đội quân cũng tìm đến xin phép xuất gia trở thành đạo sĩ như Đức Vua trước.

Như vậy, có 7 Đức Vua từ bỏ ngai vàng ngự đi cùng với các quan và toàn thể dân chúng rộng lớn gồm có 36 do-tuần, theo xuất gia trở thành đạo sĩ nơi Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla.

Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla ngồi trên hư không thuyết pháp tế độ tất cả mọi đạo sĩ, truyền dạy pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm, và đề mục kasiṇa. 

Tất cả mọi vị đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định phần đông dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới và các phép thần thông.

Trong tất cả mọi đạo sĩ ấy có 2 phần 3 đạo sĩ chứng đắc các bậc thiền sắc giới. Sau khi họ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới, được sinh cõi trời sắc giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào quả của bậc thiền sở đắc của mình.

Còn lại 1 phần 3 đạo sĩ ấy chỉ tạo dục giới thiện nghiệp cho nên, sau khi họ chết, dục giới thiện nghiệp cho quả một số tái sinh làm chư thiên trong 6 cõi trời dục giới. Một số khác tái sinh làm người trong 3 hạng người: Đức Vua hoặc Bà-la-môn hoặc hạng trưởng giả giàu sang phú quý, không có một ai bị tái sinh trong 4 cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh.

Đức Thế Tôn truyền dạy câu kệ rằng:

“Abhitthretha kalyāṇe, pāpā cittaṃ nivāraye. Dandhañhi karato puññaṃ, pāpasmiṃ ramate mano.([2][1])

- Này chư tỳ khưu! Các con nên mau lẹ tạo thiện nghiệp, để ngăn tâm ác.Thật vậy, người chậm chạp tạo thiện nghiệp, thì tâm ưa thích trong ác nghiệp.

Sau khi thuyết xong tích Hatthipālajātaka, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Trong những tiền kiếp của Như Lai từ bỏ tất cả đi xuất gia trở thành đạo sĩ, những người khác cũng theo gương từ bỏ tất cả đi theo tiền kiếp Như Lai xuất gia trở thành đạo sĩ.

- Đức Vua Esukārī, nay kiếp hiện tại là Đức Phụ Vương Suddhodana.

- Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī, nay kiếp hiện tại là Mẫu hậu Mahāmāyādevī.

- Quan Thừa tướng, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahākassapa.

- Phu nhân Vāseṭṭhī của Quan Thừa tướng, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức tỳ khưu ni Bhaddakāpilānī.

- Công tử Assapāla, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.

- Công tử Gopāla, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Mahāmoggallāna.

- Công tử Ajapāla, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha.

- Các vị đạo sĩ khác, nay kiếp hiện tại là tứ chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ.

- Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật

Tóm lược tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung, ngoài ra, còn có pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla từ bỏ cuả cải, ... đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla giữ giới trong sạch, đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla có trí tuệ suy xét đúng đắn, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla có tâm từ đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla có tâm xả đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng đồng thời thành tựu cùng một lúc với pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung này.

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát đạo sĩ Hatthipāla

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác ( Sammāsambuddha).

Pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật đó là đại thiện tâm trong sạch nhàm chán ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục) trong đời.

Tích Hatthipālajātaka này, Đức Bồ Tát Hatthipāla, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, sinh làm công tử của quan Thừa tướng trong triều đình của Đức Vua Esukārī trong kinh thành Bārāṇasī, đất nước Kāsi. 

Tiền kiếp Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla là vị thiên nam tại cõi trời Tam thập Tam thiên. Khi gần hết tuổi thọ, Đức Vua trời Sakka ngự đến mời vị thiên nam ấy tái sinh xuống làm người, đầu thai vào lòng Chánh cung Hoàng hậu Pañcālī của Đức Vua Esukārī, nhưng vị thiên nam không chấp thuận theo lời mời của Đức Vua trời Sakka, mà chọn tái sinh đầu thai vào lòng phu nhân Vāseṭṭhī của quan Thừa tướng, cùng với 3 vị thiên nam bạn với điều kiện khi lớn lên sẽ từ bỏ nhà, đi vào rừng núi Himavanta, chỉ xuất gia trở thành đạo sĩ lúc còn trẻ mà thôi.

Vị chư thiên cội cây thưa với quan Thừa tướng biết rõ điều này, nên quan Thừa tướng sẽ tìm cách ngăn cản các công tử của mình không nghĩ đến việc xuất gia, để công tử trưởng lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi.

Khi công tử đầu lòng sinh ra đời, quan Thừa tướng đặt tên Hatthipālakumāra: Công tử giữ voi, rồi giao cho người giữ voi nuôi dưỡng.

Tuần tự 3 công tử sinh ra đời: Công tử thứ nhì được đặt tên là Assapālakumāra: Công tử giữ ngựa, rồi giao cho người giữ ngựa nuôi dưỡng. Công tử thứ ba được đặt tên là Gopālakumāra: Công tử giữ bò, rồi giao cho người giữ bò nuôi dưỡng. Công tử thứ tư được đặt tên là Ajapālakumāra: Công tử giữ dê, rồi giao cho người giữ dê nuôi dưỡng.

Để ngăn cản 4 công tử của mình không từ bỏ dinh thự, đi vào rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo sĩ, nên quan Thừa tướng ra lệnh mời tất cả mọi đạo sĩ rời ra khỏi đất nước Kāsi, để khi 4 công tử lớn lên không nhìn thấy hình ảnh vị đạo sĩ nào cả.

Bốn công tử được nuôi dưỡng, trưởng thành trong 4 gia đình người giữ voi, người giữ ngựa, người giữ bò, người giữ dê, 4 công tử thường gần gũi thân cận với những người ác, nên 4 đứa trẻ có tính khí ngang tàng, ngỗ nghịch, không biết hổ thẹn tội lỗi, không biết ghê sợ tội lỗi, đi quậy phá làm khổ nhiều người khác.

Thấy 4 công tử như vậy, nên quan Thừa tướng dẫn về dinh thự của mình, 4 công tử biết nhau là 4 huynh đệ cùng là con của phu nhân Vāseṭṭhī và quan Thừa tướng. Mỗi công tử ở mỗi tư dinh riêng biệt có nhóm tuỳ tùng thuộc hạ của mình. 

Khi công tử trưởng Hatthipāla lên 16 tuổi, Đức Vua Esukārī và quan Thừa tướng bàn tính làm lễ đăng quang cho công tử trưởng Hatthipāla lên ngôi vua, trị vì đất nước Kāsi này, nhưng xét thấy công tử trưởng Hatthipāla có tính khí ngang tàng ngỗ nghịch là người ác như vậy, nếu khi công tử trưởng Hatthipāla lên ngôi làm vua thì chắc chắn chỉ làm cho đất nước Kāsi này sẽ bị diệt vong mà thôi.

Và nếu công tử trưởng Hatthipāla từ bỏ tư dinh, đi xuất gia trở thành đạo sĩ thì cũng chỉ quậy phá làm khổ dân chúng mà thôi.

Đức Vua Esukārī bàn tính với Quan Thừa tướng rằng:

Trẫm và khanh nên giả làm hai vị đạo sĩ ngự đến thử công tử trưởng Hatthipāla xem thế nào, rồi sau đó chúng ta sẽ tính việc làm lễ đăng quang cho công tử trưởng Hatthipāla lên ngôi vua.

Sau khi bàn tính xong, Đức Vua Esukārī và quan Thừa tướng giả làm hai vị đạo sĩ ngự đến khất thực trước cổng tư dinh của công tử trưởng Hatthipāla.

Nhìn thấy hình dạng hai vị đạo sĩ đứng trước cổng tư dinh của mình, đó là hình ảnh đạo sĩ chưa từng nhìn thấy bao giờ, nên Đức Bồ Tát công tử trưởng Hatthipāla vô cùng hoan hỷ ra tận cổng, quỳ xuống cung kính đảnh lễ dưới hai bàn chân của hai vị đạo sĩ, rồi kính thỉnh vào ngồi trên chỗ ngồi cao quý, Đức Bồ Tát công tử trưởng Hatthipāla ngồi chỗ thấp, cung kính bạch lời khiêm tốn với đại thiện tâm tôn kính đối với hai vị đạo sĩ.

Cho nên, hình ảnh dù thật dù giả cũng gây cho người tiếp xúc một ấn tượng sâu sắc ban đầu.

Hai vị đạo sĩ vốn là Đức Vua Esukārī và quan Thừa tướng vô cùng ngạc nhiên, không ngờ công tử trưởng Hatthipāla có thể thay đổi tâm tính hiền lương một cách mau lẹ như vậy.

Thật vậy, Đức Phật thuyết dạy trong bài kinh Maṅgala sutta về 38 pháp hạnh phúc an lành, 2 pháp đầu tiên là:

“Asevanā ca bālānaṃ, paṇḍitānañca sevanā…”

(Không nên gần gũi thân cận với kẻ ác,

Nên gần gũi thân cận với bậc thiện trí. …

Đó là pháp hạnh phúc an lành cao thượng.”

Khi nghe Đức Vua Esukārī và quan Thừa tướng phụ thân của mình truyền bảo sẽ làm lễ đăng quang cho công tử trưởng Hatthipāla lên ngôi vua, Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla khăng khăng từ chối không muốn lên ngôi làm vua, mà chỉ muốn từ bỏ tư dinh, đi vào rừng núi Himavanta, để xuất gia trở thành đạo sĩ mà thôi.

Sở dĩ Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla không muốn lên ngôi vua, là vì tiền kiếp của Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla chỉ có ý nguyện xuất gia trở thành đạo sĩ lúc còn trẻ mà thôi. 

Do ý nguyện kiếp quá khứ ấy, nên kiếp hiện tại khi nhìn thấy hình ảnh vị đạo sĩ, dù đã biết là vị đạo sĩ giả, nhưng vẫn nhắc nhở Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla không màng lên ngôi làm vua, mà từ bỏ tư dinh, đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Còn 3 người em vốn là 3 vị thiên nam bạn thân thiết của tiền kiếp Đức Bồ Tát công tử Hatthipāla, nên noi theo gương của huynh trưởng Hatthipāla của mình, từ bỏ tư dinh, đi theo huynh trưởng Hatthipāla xuất gia trở thành đạo sĩ.

Cho nên, kiếp hiện tại chỉ là quả của nghiệp từ vô số kiếp quá khứ mà thôi.

 (Xong pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật bậc trung)

 



 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn