(Xem: 1761)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2228)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp Hạnh Trí tuệ Ba La Mật Bậc hạ (8)

12 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9622)

 

Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Trí tuệ Ba La Mật_Tập 2)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

 

Pháp Hạnh Trí tuệ Ba La Mật

Bậc hạ (8)

Đức Bồ Tát Trở Về Kinh Thành Mithilā

Khi đoàn quân rất đông đảo đi đến gần kinh thành Mithilā, những người lính của vị quân sư Senaka nhìn thấy Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita dẫn đầu đoàn quân đông đảo trở về, liền báo cho vị quân sư Senaka biết.

Quân sư Senaka đến chầu Đức Vua Vedeha tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita dẫn đầu đoàn quân rất đông đảo đang trở về kinh thành Mithilā.

Nghe vị quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua Vedeha nghĩ: “Đoàn quân của Mahosadha paṇḍita trước đây có ít, bây giờ rất đông đảo. Vậy, có phải Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta bắt buộc Mahosadha paṇḍita dẫn đầu kéo quân đến tấn công kinh thành Mithilā này hay không?”

Nghĩ vậy, nên Đức Vua Vedeha lo sợ, truyền hỏi các vị quân sư rằng:

- Thưa quý quân sư, đoàn quân của Mahosadha paṇḍita trước đây có ít, bây giờ rất đông đảo đang kéo vào kinh thành Mithilā như vậy. Quý vị quân sư nghĩ thế nào?

Quân sư Senaka tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, kính xin Bệ hạ vui mừng, không có gì đáng ngại cả, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita đã làm cho Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta kính phục, nên Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta đã cho các đội binh theo tiễn đưa quan Thừa tướng Mahosadha paṇḍita đến kinh thành Mithilā được an toàn.

Nghe quân sư Senaka tâu như vậy, Đức Vua vô cùng hoan hỷ truyền lệnh dân chúng trong kinh thành Mithilā trang hoàng kinh thành đẹp đẽ để đón rước Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cùng đoàn quân trở về kinh thành Mithilā được an toàn.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita vào kinh thành đến cung điện chầu Đức Vua Vedeha, đảnh lễ Đức Vua, tâu trình lên Đức Vua xong, ngồi một nơi hợp lẽ.

Khi ấy, Đức Vua Vedeha từ trên ngai vàng đứng dậy, đến ôm choàng Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita với tấm lòng nhớ thương, rồi dắt lên cùng ngồi chung trên ngai vàng, truyền hỏi rằng:

- Này Hoàng nhi Mahosadha paṇḍita yêu quý! Con ở lại trong tay của kẻ thù, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, con đã sử dụng phép thần kế nào mà con không chỉ thoát ra khỏi tay của kẻ thù, mà còn làm cho Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta kính phục con, ban thưởng cho con nhiều phẩm vật quý giá đến thế?

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, con đã chống đỡ việc làm của kẻ thù, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, bằng việc làm của con. Con đã chống đỡ ý nghĩ của kẻ thù, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, bằng ý nghĩ của con. Chỉ có một mình con đã chống đỡ được Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta cùng 101 Vua chư hầu.

Sau đó, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu thuật lại cuộc khẩu chiến giữa Ngài với Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, và chinh phục được Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, cho Đức Vua Vedeha nghe lại đầy đủ. Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu thuật lại đầy đủ như vậy, Đức Vua Vedeha vô cùng hoan hỷ, tán dương, ca tụng trí tuệ siêu việt của Ngài.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu lên Đức Vua Vedeha về những quà của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta tặng Ngài như sau:

- Tâu Đức Phụ Vương, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ban tặng cho con 1.000 thỏi vàng, 80 xóm nhà trong vùng Kāsi, 400 người tớ gái, 100 người vợ.

 Con đã đưa các đội binh, các công nhân, các nhà nghệ thuật đầy đủ trở về an toàn.

Đức Vua Vedeha truyền lệnh cho phép thần dân thiên hạ trong toàn đất nước Videharaṭṭha ăn mừng, vui chơi, ca hát, nhảy múa suốt 7 ngày đêm. Đức Vua Vedeha truyền bảo rằng:

- Những người nào có lòng tôn kính Trẫm, thì những người ấy hãy nên đem phẩm vật đến kính biếu Mahosadha paṇḍita hoàng nhi của Trẫm.

Từ lâu, phần đông các quan, quân trong triều đình, các hoàng thân của Đức Vua Vedeha, dân chúng trong kinh thành Mithilā, dân chúng ngoại thành, dân chúng 4 xóm nhà 4 vùng lúa mạch 4 hướng Đông, Tây, Nam, Bắc cho đến dân chúng các vùng biên địa đều có lòng ngưỡng mộ Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Nay, Đức Vua Vedeha truyền lệnh cho phép thần dân thiên hạ trong toàn đất nước Videharaṭṭha được phép đem phẩm vật đến kính biếu Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Đó là cơ hội tốt cho tất cả mọi người được gần gũi thân cận với Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita.

Trong cung điện, từ Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī của Đức Vua Vedeha là đại tỷ của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, đem những phẩm vật quý giá đến biếu Ngài, rồi thứ đến các Hoàng hậu, thứ phi, cung phi mỹ nữ, các vị trong hoàng gia, hoàng tử, công chúa, quan trong triều, tướng lĩnh, binh lính triều đình, dòng Bà-la-môn, phú hộ, các thương gia, dân chúng trong kinh thành, dân chúng ngoại thành, dân chúng trong 4 vùng lúa mạch, cho đến dân chúng vùng biên địa, lũ lượt kéo nhau đem những phẩm vật quý giá của xứ sở của mình đến kính biếu Ngài.

Tất cả mọi người đều vô cùng hoan hỷ được chiêm ngưỡng, gần gũi, thân cận với Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita. Tất cả mọi người đều tán dương, ca tụng Ngài là bậc đại thiện trí, luôn luôn đem lại sự hạnh phúc an lạc cho mọi người.

Toàn thể dân chúng vui mừng đại lễ hội suốt 7 ngày xong, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đến chầu Đức Vua Vedeha, tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, xin Đại Vương truyền lệnh tổ chức đại lễ tiễn đưa 3 vị hoàng thân của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta là Thái hậu Calākadevī, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī và Thái tử Pañcālacanda ngự trở về kinh thành Uttarapañcāla nhanh nhất.

Đức Vua Vedeha truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi Mahosadha yêu quý! Lành thay! Chúng ta nên tổ chức đại lễ tiễn đưa 3 vị hoàng thân của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta một cách trọng thể nhất.

Lễ Tiễn Đưa Ba Vị Hoàng Thân

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ra lệnh cho các đoàn quân của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta đã tiễn đưa Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ngày trước, nay, các đoàn quân ấy cùng với đoàn quân của Ngài trở thành đoàn quân hộ giá 3 vị hoàng thân của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ngự trở về kinh thành Uttarapañcāla.

Đức Bồ Tát dẫn 100 người vợ, 400 tớ gái mà Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta đã ban cho Ngài trước đây, nay Ngài kính xin dâng đến Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta đem về lo hầu hạ, phục vụ cho Bà.

Khi ấy, trong buổi lễ tiễn đưa, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī ôm công chúa Pañcālacandī vào lòng, hôn trên đầu, rồi truyền bảo rằng:

- Mẫu hậu ngự trở về cố quốc, con ở lại đây với Đức Vua Vedeha.

 Công chúa Pañcālacandī cảm động khóc vì phải xa Mẫu hậu của mình.

Sau đó, ba vị hoàng thân: Thái hậu Calākadevī, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī và Thái tử Pañcālacanda của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ngự lên chiếc long xa sang trọng trở về kinh thành Uttarapañcāla với đoàn quân hộ giá đông đảo.

Ba vị hoàng thân ngự trên chiếc long xa sang trọng ra khỏi kinh thành Mithilā với lòng lưu luyến, bởi vì Đức Vua Vedeha đối xử với họ một lòng tôn kính suốt trong những ngày họ ngự tại cung điện của Đức Vua Vedeha.

Ba Vị Hoàng Thân Ngự Về Đến Cố Quốc

Quân lính giữ biên giới đến chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, ba vị hoàng thân của Đại Vương cùng đoàn quân hộ giá đông đảo đang ngự đến gần kinh thành Uttarapañcāla.

Nghe tâu như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta cùng các quan ngự ra ngoài kinh thành Uttarapañcāla chờ đón rước Thái hậu Calākadevī, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī và Thái tử Pañcālacanda.

Nhìn từ xa, thấy chiếc long xa sang trọng chở ba vị hoàng thân của mình đang đến, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta vô cùng vui mừng, hoan hỷ giục con voi báu lại đón rước họ, rồi Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta dẫn đầu đoàn người ngự vào kinh thành Uttarapañcāla đến cung điện, thỉnh Thái hậu Calākadevī, theo sau là Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī và Thái tử Pañcālacanda lên lâu đài.

Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Thái hậu Calākadevī rồi tâu rằng:

- Tâu Mẫu hậu, Đức Vua Vedeha đối sử với Mẫu hậu như thế nào?

- Này hoàng nhi yêu quý! Đức Vua Vedeha đối sử với Mẫu hậu, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī, Thái tử Pañcālacandī như những người trong hoàng gia của mình. Đức Vua Vedeha đặt Mẫu hậu lên ngôi vị nhạc Hoàng Thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī lên ngôi vị nhạc Mẫu hậu, Thái tử Pañcālacanda lên ngôi vị nhạc hoàng huynh và Công chúa Pañcālacandī lên ngôi vị Chánh cung Hoàng hậu.

Đức Vua Vedeha hết lòng sủng ái Chánh cung Hoàng hậu Pañcālacandī. Ngày đêm, Đức Vua Vedeha đối xử làm tròn bổn phận đối với Mẫu hậu, Chánh cung Hoàng hậu, Thái tử và Công chúa của con.

Nghe Mẫu hậu truyền bảo như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta vô cùng hoan hỷ khen ngợi Đức Vua Vedeha là Đức Vua chí hiếu chí tình.

Về sau, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta thường truyền sai sứ giả đem những phẩm vật quý giá ban cho Đức Vua Vedeha, vị phò mã của mình. Và Đức Vua Vedeha cũng thường truyền sai sứ giả đem những phẩm vật quý giá kính dâng lên Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, Đức nhạc Phụ vương của mình.

Từ đó về sau, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta với Đức Vua Vedeha trở thành người thân quyến với nhau, dân chúng 2 kinh thành Uttarapañcāla và kinh thành Mithilā thân mật với nhau, toàn thể dân chúng 2 đất nước Kapilaraṭṭha và đất nước Videharaṭṭha cũng thân thiện với nhau, sống chung hòa bình thịnh vượng, an cư lạc nghiệp với nhau.

Đức Vua Vedeha Băng Hà

Chánh cung Hoàng hậu Pañcālacandī được Đức Vua sủng ái nhất, đến năm thứ nhì, Bà sinh hạ được một hoàng tử. Khi hoàng tử lên 10 tuổi, Đức Vua Vedeha băng hà. Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita làm đại lễ đăng quang cho hoàng tử nối ngôi vua cha, cũng ngự tại kinh thành Mithilā, trị vì đất nước Videharaṭṭha.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu với Đức Vua trẻ rằng:

- Tâu Đại Vương, hạ thần xin đi đến chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, Đức Vua ngoại của Bệ hạ tại kinh thành Uttarapañcāla.

Đức Vua trẻ truyền bảo rằng:

- Thưa Thừa tướng, Trẫm còn thơ dại, Trẫm cần nương nhờ nơi quan Thừa tướng. Kính xin quan Thừa tướng không nên bỏ Trẫm đi trong lúc này.

Chánh cung Hoàng hậu Pañcālacandī cũng khẩn khoản van xin Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ở lại, vì Đức Vua còn thơ dại và triều đình rất cần Ngài, để làm nơi nương nhờ. Ngài tâu rằng:

- Tâu Chánh cung Hoàng hậu, hạ thần đã từng hứa với Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, cho nên hạ thần phải giữ lời hứa ấy. Xin tâu lệnh Bà rõ.

Đức Bồ Tát Giã Từ Kinh Thành Mithilā

Mặc dù Đức Vua trẻ, Chánh cung Hoàng hậu Pañcālacandī, các quan trong triều đình, các tướng lĩnh, quân lính, dân chúng trong kinh thành Mithilā khóc than thật đáng thương, khẩn khoản xin Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ở lại triều đình, nhưng Ngài vẫn không thay đổi ý định. Ngài dẫn nhóm 1000 người bạn thuộc hạ của mình rời khỏi kinh thành Mithilā đi đến kinh thành Uttarapañcāla, chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta như lời đã hứa năm xưa. Vị quan gác cửa thành vào tâu trình lên Đức Vua rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, quan Mahosadha paṇḍita cùng đoàn tùy tùng thuộc hạ đến kinh thành Uttara-pañcāla, xin vào yết kiến Đại Vương.

Nghe vị quan tâu như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahma-datta vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:

 - Này khanh! Khanh hãy mời quan Mahosadha paṇḍita cùng đoàn thuộc hạ vào cung điện.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cùng nhóm bạn vào yết kiến Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta tại cung điện, đảnh lễ, vấn an Đức Vua xong, Ngài tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Đức Vua Vedeha đã băng hà, hạ thần đã làm tròn bổn phận xong. Để giữ gìn lời hứa năm xưa với Đại Vương, hạ thần cùng nhóm bạn thuộc hạ đến chầu Đại Vương.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita! Khanh cùng nhóm bạn đến đây, Trẫm rất hài lòng vô cùng hoan hỷ. Nay triều đình có thêm những bậc hiền tài giúp Trẫm.

Vậy, Trẫm xin ban cho các khanh chỗ ở, và những nhu cầu cần thiết, ban cho khanh 80 xóm vùng Kāsi để thâu thuế.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cùng nhóm bạn 1000 người hết lòng phục vụ cho triều đình Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, nhưng họ không được đãi ngộ xứng đáng.

Bậc Đại Thiện Trí Gặp Bậc Đại Thiện Trí

Khi ấy, một nữ tu sĩ Bherī phiêu lãng (Paribbājikā) thường đến thọ nhận vật thực trong cung điện của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta. Nữ tu sĩ Bherī là bậc đại thiện trí, có trí tuệ sắc bén, chưa từng gặp Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, chỉ nghe danh tiếng Ngài là bậc đại thiện trí, có trí tuệ siêu việt, đến phục vụ Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita cũng chưa từng gặp nữ tu sĩ Bherī, chỉ nghe danh tiếng nữ tu sĩ Bherī là bậc đại thiện trí có trí tuệ sắc bén, thường đến thọ nhận vật thực trong cung điện của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta.

Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī không hài lòng nơi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, bởi vì chính Ngài là người bày ra kế bắt công chúa Pañcālacandī yêu dấu của Bà thành hôn với Đức Vua Vedeha tại kinh thành Mithilā, làm cho Bà phải xa lìa công chúa yêu dấu của Bà. Cho nên, Bà truyền bảo 500 tỳ nữ theo dõi, tìm lỗi của Ngài, rồi tâu lên Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, để làm kế ly gián. Tuân lệnh Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī, hằng ngày, nhóm tỳ nữ luôn luôn theo dõi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita.

Một hôm, nữ tu sĩ Bherī thọ thực xong, từ cung điện trở về, nhìn thấy Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita từ ngoài đi vào làm việc trong cung điện. Hai vị gặp nhau tại sân bên ngoài cung điện.

Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita dừng lại, chắp 2 tay lễ bái vị nữ tu sĩ Bherī. Vị nữ tu sĩ Bherī nghĩ: “Nghe danh tiếng Mahosadha paṇḍita là bậc đại thiện trí, có trí tuệ siêu việt, ta muốn biết y là bậc đại thiện trí hay không. Vậy, ta nên hỏi những câu hỏi bằng cách ra dấu bằng tay”.

Vị nữ tu sĩ Bherī dừng lại, nhìn về phía Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, rồi ngửa bàn tay phải, có nghĩa là: “Này quan Mahosadha paṇḍita! Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta mời ông từ nước ngoài đến giúp triều đình, Đức Vua có ban nhiều ân huệ cho ông không?

Nhìn thấy nữ tu sĩ Bherī ngửa bàn tay phải, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita hiểu rõ ý nghĩa câu hỏi của nữ tu sĩ, nên Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đưa tay phải nắm chặt lại, có nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta mời tôi đến giúp triều đình. Đã từng hứa sẽ ban cho tôi nhiều ân huệ, đến nay Đức Vua vẫn còn nắm chặt tay, chưa ban những ân huệ ấy cho tôi”.

Hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nên vị nữ tu sĩ Bherī đưa bàn tay vuốt trên đầu của mình, có nghĩa là: “Này quan Mahosadha paṇḍita! Nếu ông sống trong hoàn cảnh thiếu thốn như vậy, thì xin ông nên đi xuất gia như bần đạo vậy!”

Hiểu rõ ý nghĩa vị nữ tu sĩ khuyên đi xuất gia như bà, nên Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đưa tay sờ vào bụng của mình, có nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ, tôi còn có vợ con và nhóm bạn hữu thuộc hạ, cần phải lo nuôi dưỡng, nên tôi chưa có thể xuất gia như bà được”.

Vị nữ tu sĩ Bherī hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, bà thông cảm hoàn cảnh khổ của Ngài. Hai bậc đại thiện trí: nữ tu sĩ Bherī và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita vấn đáp với nhau bằng cách ra dấu bằng bàn tay, mà chỉ có họ mới có thể thông hiểu rõ

ý nghĩa của nhau mà thôi.

Nữ tu sĩ Bherī đi về chỗ ở của mình, còn Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đi vào cung điện phục vụ Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta. Nhóm nữ tỳ của Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī theo dõi nhìn thấy nữ tu sĩ Bherī và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có cử chỉ ra dấu bằng tay ấy, họ nghĩ: “Đó là cái lỗi mà họ đã nhìn thấy nơi Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita”.

Họ đến tâu lên Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī, về những điều đã nhìn thấy Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita và nữ tu sĩ Bherī.

Nghe nhóm nữ tỳ đến tâu như vậy, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī truyền bảo họ đến chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, tâu theo cách suy diễn của Bà. Tuân theo lệnh của Bà, họ đến chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, chúng tiện nữ nhìn thấy vị quan Mahosadha paṇḍita với nữ tu sĩ Bherī gặp nhau tại sân trước cung điện, bàn tính với nhau chiếm đoạt ngai vàng của Hoàng Thượng.

Như vậy, Mahosadha paṇḍita và nữ tu sĩ Bherī là kẻ thù của Hoàng Thượng.

Nghe nhóm nữ tỳ ấy tâu như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta truyền hỏi rằng:

- Này các nữ tỳ! Các ngươi thấy hoặc nghe gì mà dám tâu như vậy?

Nhóm nữ tỳ ấy tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, nhóm tiện nữ nhìn thấy nữ tu sĩ Bherī, sau khi thọ thực xong, từ cung điện ra về, nữ tu sĩ Bherī gặp vị quan Mahosadha paṇḍita từ bên ngoài đi vào, 2 người đứng khoảng cách xa tại sân trước cung điện của Hoàng Thượng.

Khi ấy, nữ tu sĩ Bherī làm dấu ngửa bàn tay, có nghĩa là: “Này Mahosadha paṇḍita! Ngài có khả năng nắm Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta trong bàn tay của Ngài, rồi chờ cơ hội chiếm lấy ngai vàng vào trong tay của Ngài chưa?”

Vị quan Mahosadha paṇḍita đưa tay phải nắm chặt lại, có nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ Bherī, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta nằm trong tay của tôi rồi, tôi chờ cơ hội giết Đức Vua”.

Nữ tu sĩ Bherī đưa bàn tay vuốt trên đầu của mình, có nghĩa là: “Này Mahosadha paṇḍita! Ngài nên chặt đầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta”.

Vị quan Mahosadha paṇḍita đưa tay sờ vào bụng của mình, có nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ Bherī, tôi không chỉ chặt đầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta mà còn đâm vào bụng của Đức Vua nữa”.

- Tâu Hoàng Thượng, kính xin Hoàng Thượng chớ nên dể duôi, xin Hoàng Thượng truyền lệnh giết chết vị quan Mahosadha paṇḍita trước. Đó là thượng sách.

Nghe lời tâu của nhóm tỳ nữ của Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī như vậy, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta nghĩ: “Ta và Mahosadha paṇḍita đã từng hứa chắc chắn với nhau không bao giờ giết hại lẫn nhau nữa. Cho nên, ta tin tưởng chắc chắn vị quan Mahosadha paṇḍita không bao giờ giết hại ta. Nhưng ta muốn biết rõ sự thật về cuộc đàm thoại bằng cách ra dấu tay như thế nào?

Vậy, ta nên hỏi vị nữ tu sĩ Bherī. Bởi vì bậc xuất gia tôn trọng sự thật”.

Đức Bồ Tát Được Thăng Chức Quan Thừa Tướng

Sáng hôm sau, khi nữ tu sĩ Bherī thọ thực tại cung điện xong, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ngự đến gặp bà, truyền hỏi rằng:

- Kính thưa nữ tu sĩ, bà đã gặp vị quan Mahosadha paṇḍita chưa?

- Tâu Đại Vương, hôm qua, sau khi thọ thực xong, bần đạo từ trên lâu đài bước xuống ra về, đi ra đến sân, nhìn thấy vị quan Mahosadha paṇḍita từ ngoài đi vào làm việc trong cung điện, ông dừng lại cách một khoảng, đứng chắp 2 tay lễ bái bần đạo.

Bần đạo nghĩ rằng: “Nghe danh tiếng vị quan Mahosadha paṇḍita là bậc đại thiện trí, có trí tuệ siêu việt, ta muốn biết ông là bậc đại thiện trí hay không.

Vậy, ta nên hỏi ông những câu hỏi theo cách ra dấu bằng tay”.

Bần đạo dừng lại, nhìn về phía quan Mahosadha paṇḍita rồi ngửa bàn tay phải, nghĩa là: “Này ông Mahosadha paṇḍita! Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta mời ông từ nước ngoài đến giúp triều đình, Đức Vua có ban nhiều ân huệ cho Ngài không?”

Nhìn thấy bần đạo ngửa bàn tay phải, vị quan Mahosadha paṇḍita hiểu rõ ý nghĩa câu hỏi của bần đạo, nên ông đưa tay phải nắm chặt lại, nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta mời tôi đến giúp, đã từng hứa sẽ ban cho tôi nhiều ân huệ. Đến nay Đức Vua vẫn nắm chặt tay, chưa ban những ân huệ ấy cho tôi”. 

Hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời của Ngài Mahosadha paṇḍita, nên bần đạo đưa bàn tay vuốt trên đầu của mình, nghĩa là: “Này ông Mahosadha paṇḍita! Nếu ông sống trong hoàn cảnh thiếu thốn như vậy, thì ông nên đi xuất gia như bần đạo vậy”!

Hiểu rõ ý nghĩa bần đạo khuyên đi xuất gia, nên ông đưa tay sờ vào bụng của mình, nghĩa là: “Thưa nữ tu sĩ, tôi còn có vợ con và nhóm bạn hữu thuộc hạ, cần phải lo nuôi dưỡng, nên tôi chưa có thể xuất gia như bà được”.

Bần đạo hiểu rõ ý nghĩa câu trả lời ấy của quan Mahosadha paṇḍita, nên thông cảm hoàn cảnh khổ hiện tại của ông.

 - Tâu Đại Vương, bần đạo gặp Ngài Mahosadha paṇḍita chỉ hỏi và đáp với nhau theo cách ra dấu bằng tay mà thôi, không có nói với nhau lời nào.

Hỏi và đáp theo cách ra dấu bằng tay này chỉ có bậc đại thiện trí với bậc đại thiện trí, mới có thể thông hiểu rõ ý nghĩa của nhau được mà thôi.

Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta truyền hỏi rằng:

- Thưa vị nữ tu sĩ Bherī, vị quan Mahosadha paṇḍita có phải là bậc đại thiện trí hay không?

- Tâu Đại Vương, bậc đại thiện trí như quan Mahosadha paṇḍita không dễ có trong đời này. Vậy, vị quan Mahosadha paṇḍita ấy đích thực là bậc đại thiện trí cao thượng nhất trong đời này. 

Nghe nữ tu sĩ Bherī tâu thuật lại cuộc đàm thoại lý thú giữa bà và Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, và được bà khẳng định rằng: “ Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đích thực là bậc đại thiện trí cao thượng nhất trong đời này.” Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta vô cùng hoan hỷ vì được gần gũi, thân cận với bậc đại thiện trí ấy, Đức Vua đảnh lễ nữ tu sĩ Bherī, rồi ngự trở về lâu đài của mình.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đi vào chầu Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, làm phận sự trong triều đình như thường lệ. Đức Vua truyền hỏi rằng:

- Này Mahosadha paṇḍita! Khanh có gặp nữ tu sĩ Bherī hay chưa?

- Tâu Đại Vương, hôm qua, đang đi vào cung điện, hạ thần đã gặp vị nữ tu sĩ Bherī tại sân, trước cung điện.

- Này Mahosadha paṇḍita! Khanh có nói chuyện với vị nữ tu sĩ Bherī hay không?

Nghe Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta truyền hỏi như vậy, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu trình Đức Vua rằng:

- Tâu Đại Vương, ban đầu hạ thần dừng lại, đứng cách một khoảng, chắp 2 tay cung kính lễ bái vị nữ tu sĩ. Bà ngửa bàn tay phải ra có nghĩa là hỏi hạ thần phục vụ trong triều đình, được Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ban nhiều ân huệ hay không? 

Hiểu rõ ý nghĩa nữ tu sĩ Bherī hỏi, nên hạ thần đưa tay phải nắm chặt lại.

Bà hiểu rõ Đại Vương chưa ban nhiều ân huệ, nên hạ thần đang sống trong hoàn cảnh thiếu thốn.

Bà đưa bàn tay vuốt trên đầu của bà.

Hiểu rõ ý nghĩa bà khuyên hạ thần nên đi xuất gia như bà, thì hạ thần đưa tay sờ vào bụng của mình.

Vị nữ tu sĩ Bherī hiểu rõ hạ thần còn có bổn phận lo nuôi dưỡng vợ con và nhóm bạn hữu của mình.

Bà thông cảm hoàn cảnh của hạ thần. Sau đó, hạ thần xin bái biệt bà.

- Tâu Đại Vương, đó là cuộc vấn đáp theo cách ra dấu bằng tay, mà chỉ có hạ thần với nữ tu sĩ Bherī hiểu biết rõ với nhau mà thôi, không nói bằng lời như vậy.

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tâu trình lại cuộc đàm thoại giữa vị nữ tu sĩ Bherī với Ngài, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta vô cùng hoan hỷ phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài.

Hôm ấy, buổi hội triều, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta trân trọng ban chức quyền cao nhất trong triều đình, Chức quan Senāpati: Chức quan Thừa tướng đến Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita giữa triều đình bá quan văn võ, đồng thời, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta cũng ban cho 1.000 người bạn hữu thuộc hạ của Ngài chức tước lớn cùng một lúc.

Sau khi được Đức Vua ban chức trọng quyền cao nhất trong triều đình, Ngài nghĩ: “Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta không chỉ ban cho ta chức quyền cao nhất trong triều đình, mà còn ban cho 1.000 người bạn hữu của ta chức tước lớn nữa, cùng một lúc như thế này, ta không biết Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta có mưu kế gì hay không?

Để biết Đức Vua có thật tâm tin tưởng nơi ta, hoặc có mưu kế gì khác. Người có khả năng biết được Đức Vua đối xử với ta như thế nào, thì chỉ có nữ tu sĩ Bherī mà thôi, bởi vì bà có trí tuệ sâu sắc, biết cách dò xét để tìm ra sự thật”.

Nghĩ xong, Ngài đem phẩm vật đến lễ bái cúng dường vị nữ tu sĩ Bherī xong, ngồi một nơi hợp lẽ, thưa rằng:

- Kính thưa nữ tu sĩ, từ ngày Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ngự đến truyền hỏi chuyện với bà, bà đã tâu thuật lại cuộc đàm thoại lý thú giữa bà với tôi. Bà đã đề cao tôi với Đức Vua.

Sau đó, Đức Vua lại truyền hỏi lại tôi về cuộc đàm thoại lý thú ấy. Nghe tôi cũng tâu thuật lại như vậy.

Đức Vua đã ban cho tôi chức quyền cao nhất: “Chức quan Thừa tướng” trong triều đình, và cùng một lúc ban chức lớn đến cho 1.000 người bạn hữu của tôi nữa.

Tôi muốn biết Đức Vua đã ban như vậy, với thiện tâm thiện ý của Đức Vua, hay có mưu kế gì trong tâm. Vậy, tôi xin nhờ bà tìm hiểu, dò xét Đức Vua đối xử với tôi như thế nào?

Nghe Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có tâm trạng băn khoăn như vậy, vị nữ tu sĩ Bherī nhận lời giúp làm sáng tỏ, để cho Ngài an tâm.

Câu Hỏi Dakarakkhasapañhā

Một hôm, vào cung điện của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta, nữ tu sĩ Bherī nghĩ ra câu hỏi gọi là Dakarakkhasapañhā: Câu hỏi Dạ-xoa dưới nước.

Vị nữ tu sĩ Bherī chỉ muốn hỏi riêng một mình Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta về câu hỏi ấy mà thôi. 

Bà tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, bần đạo có một câu hỏi muốn hỏi riêng Đại Vương, kính xin Đại Vương cho cơ hội.

Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo rằng:

- Thưa vị nữ tu sĩ, kính mời bà hỏi, nếu quả nhân biết thì quả nhân sẽ giải đáp.

Được Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta cho phép, lại là cơ hội tốt, nên vị nữ tu sĩ tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, giả dụ Đại Vương đi du thuyền trên biển, trong chiếc thuyền gồm có 7 người là:

1- Đại Vương, 2- Mẫu hậu Calākadevī, 3- Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī,

4- Hoàng đệ Tikhiṇamanti, 5- Bạn hữu Dhanusekha, 6- Quân sư Kevaṭṭa,

7- Thừa tướng Mahosadha paṇḍita,

Một Dạ-xoa dưới nước (Dakarakkhasa) nổi lên bắt chiếc thuyền, với yêu cầu rằng: “Tâu Đại Vương, trong chiếc thuyền này gồm có 7 người, xin Đại Vương ban cho tôi từng người để ta ăn thịt theo tuần tự từ người thứ nhất đến người thứ sáu, tôi sẽ tha chết một người”.

- Tâu Đại Vương, nếu Dạ-xoa dưới nước yêu cầu như vậy, thì Đại Vương ban cho Dạ-xoa ăn thịt từng người theo tuần tự từ người thứ nhất đến người thứ sáu như thế nào?

Nghe câu hỏi mà vị nữ tu sĩ Bherī đặt ra hỏi, Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta truyền thưa rằng:

- Thưa vị nữ tu sĩ Bherī, nếu Dạ-xoa dưới nước yêu cầu như vậy thì quả nhân sẽ ban cho Dạ-xoa ăn thịt mỗi người theo tuần tự như sau:

1- Người thứ nhất, Mẫu hậu Calākadevī của quả nhân.

2- Người thứ nhì, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī của quả nhân.

3- Người thứ ba, Hoàng đệ Tikhiṇamanti của quả nhân.

4- Người thứ tư, bạn hữu Dhanusekha của quả nhân.

5- Người thứ năm, quân sư Kevaṭṭa của quả nhân.

6- Người thứ sáu chính là quả nhân.

Khi ấy, quả nhân truyền bảo Dạ-xoa ấy rằng: Ngươi hãy ăn thịt ta đây!

- Thưa vị nữ tu sĩ Bherī, thà quả nhân chịu hy sinh sinh mạng cho Dạ-xoa ăn thịt là người thứ sáu, chứ không bao giờ chịu hy sinh Thừa tướng Mahosadha paṇḍita cho Dạ-xoa ăn thịt.

Nghe Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta giải đáp câu hỏi như vậy, vị nữ tu sĩ Bherī đã biết được Đức Vua thật tâm tôn trọng Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita.

Sau khi Đức Vua giải đáp câu hỏi dakarakkhasapañhā xong, bà muốn cho các quan quân trong triều đình, những người trong hoàng gia, dân chúng trong kinh thành Uttarapañcāla đều biết đến tài đức của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, cho nên bà tâu lên Đức Vua rằng:

- Tâu Đại Vương, kính xin Đại Vương truyền lệnh cho tất cả các quan quân trong triều đình, những người trong hoàng gia, dân chúng trong kinh thành Uttarapañcāla tụ hội tại sân rồng trước cung điện, và Đại Vương ngự trên ngai vàng.

Khi ấy, bần đạo sẽ tâu hỏi lại câu hỏi dakarakkhasapañhā này, rồi kính xin Đại Vương giải đáp lại như vậy, trước tất cả mọi tầng lớp người tham dự, để cho mọi người biết đến tài đức vẹn toàn của Thừa tướng Mahosadha paṇḍita được rõ ràng như vầng trăng sáng trên hư không trong đêm rằm.

Xét Về Đức (Guṇa) Với Lỗi (Dosa)

Để biết lý do nào mà Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta ban cho Dạ-xoa ăn thịt mỗi người trong chiếc thuyền theo tuần tự từ người thứ nhất đến người thứ sáu.  

1- Người thứ nhất là Thái hậu Calākadevī.

Vị nữ tu sĩ Bherī biết câu chuyện bà Calākadevī là Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Mahācūḷanī. Bà ngoại tình với vị Bà-la-môn Chabbhi, vị quan lớn trong triều đình của Đức Vua Mahācūḷanī, bà lập mưu kế đầu độc Đức Vua Mahācūḷanī bị băng hà, rồi đưa vị Bà-la-môn Chabbhi lên ngôi vua, và bà vẫn là Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī của vị Bà-la-môn Chabbhi. Khi ấy, Thái tử Cūḷanī đang còn thơ ấu.

Một hôm, vị Bà-la-môn Chabbhi nhìn thấy Thái tử Cūḷanī nên nghĩ: “Khi Thái tử Cūḷanī trưởng thành, nó sẽ giết ta, để trả thù, rồi lấy lại ngôi vua cha. Vậy, ta nên giết Thái tử Cūḷanī ngay khi còn thơ ấu”.

 Nghĩ xong, vị Bà-la-môn bàn với Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī về chuyện giết Thái tử Cūḷanī. Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī vì thương yêu Thái tử nên tâu dối rằng:

- Tâu Bệ hạ, vì yêu Bệ hạ, nên thần thiếp đã đầu độc Đức Vua Mahācūḷanī. Nay sá gì Thái tử Cūḷanī, cũng nên giết nó cho xong. Thần thiếp có kế giết Thái tử chết mà không ai biết.

Vị Bà-la-môn Chabbhi tin theo lời tâu của Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī. Bà gọi người đầu bếp của vị Bà-la-môn Chabbhi vào truyền bảo rằng:

- Này người đầu bếp! Thái tử Cūḷanī với Dhanusekha con trai của ngươi cùng sinh một đêm, là bạn hữu thân thiết với nhau. Nay, vị Bà-la-môn Chabbhi muốn giết Thái tử để tránh hậu hoạ về sau. Vì vậy, ta gửi Thái tử ngủ chung với Dhanusekha trong phòng của ngươi. Ngươi đem 3 bộ xương dê bỏ vào trong phòng ngủ.

Đến đêm khuya, mọi người đều ngủ say, ngươi dẫn Thái tử Cūḷanī và Dhanusekha ra khỏi phòng, rồi dùng lửa đốt phòng ấy. Ngươi hãy dẫn Thái tử và con trai ngươi trốn ra cửa nhỏ, đi sang nước khác để sinh sống. Ta ban cho ngươi nhiều thứ của cải quý giá, nhờ ngươi trông nom, săn sóc nuôi dưỡng Thái tử Cūḷanī và Dhanusekha con trai của ngươi trong đất nước khác.

Ngươi nói Thái tử là con của ngươi, không nên tiết lộ tông tích của Thái tử.

Tuân theo lệnh truyền của Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī, người đầu bếp đem 3 bộ xương nai vào để trong phòng ngủ của mình. Thi hành theo kế của Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī, đêm khuya, mọi người đều ngủ say, châm lửa đốt cháy phòng ngủ, rồi người đầu bếp dẫn Thái tử Cūḷanī và con trai Dhanusekha trốn ra khỏi kinh thành Uttarapañcāla, đi đến kinh thành Sāgala, đất nước Maddaraṭṭha.

Sau đó, Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī tâu dối Bà-la-môn Chabbhi rằng:

- Tâu Đức phu quân, phòng ngủ của người đầu bếp đã bị cháy rụi. Trong phòng có 3 người: Người đầu bếp, con trai của ông và Thái tử Cūḷanī đều bị chết thiêu. Đây là bộ xương của Thái tử. Như vậy, mưu đồ của Đức phu quân đã được thành tựu như ý.

Người đầu bếp sau đó xin vào làm bếp, được Đức vua Madda chấp thuận. Hằng ngày, Thái tử Cūḷanī và cậu Dhanusekha thường vào cung điện chơi với Công chúa Nandā của Đức vua Madda. Công chúa Nandā đem lòng thương yêu Thái tử Cūḷanī.

Một hôm, Đức vua Madda truyền gọi người đầu bếp vào hỏi rằng:

- Này người đầu bếp! Hai đứa trẻ ấy là con của ai vậy?

- Tâu Bệ hạ, hai đứa trẻ ấy là con của tiện dân.

- Này người đầu bếp! Tại sao 2 đứa trẻ không giống nhau?

- Tâu Bệ hạ, bởi vì 2 đứa trẻ ấy khác mẹ.

Theo dõi và để ý thấy tư cách của Thái tử Cūḷanī, Đức vua Madda biết chắc đứa trẻ Cūḷanī không phải là con trai của người đầu bếp, nên truyền bảo rằng:

- Này người đầu bếp! Người hãy nói sự thật, Trẫm

biết chắc rằng đứa trẻ Cūḷanī không phải con trai của ngươi. Nó là con của ai? Nếu ngươi không tâu thật thì Trẫm sẽ truyền lệnh chém đầu ngươi.

Nghe Đức vua Madda truyền bảo như vậy, người đầu bếp sợ chết nên tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, nếu như vậy thì tiện dân xin tâu chuyện này chỗ vắng vẻ..

Đức vua Madda cho cơ hội, người đầu bếp tâu rõ mọi sự thật về cuộc đời Thái tử Cūḷanī. Đức vua Madda chấp thuận cho Công chúa Nandā kết hôn với Thái tử Cūḷanī.

Nữ tu sĩ Bherī, căn cứ vào chuyện này mà tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Mẫu hậu Calākadevī của Đại Vương là người mẹ có ân đức lớn nhất đối với Đại Vương, Bà không chỉ có công ơn sinh thành dưỡng dục Đại Vương trưởng thành, mà còn cứu sống Đại Vương bằng kế đánh lừa vị Bà-la-môn Chabbhī. Bà đem xương dê nói rằng bộ xương của Thái tử Cūḷanī.

Như vậy, Mẫu hậu Calākadevī của Đại Vương đã có công ơn sinh thành dưỡng dục và bảo vệ sinh mạng của Đại Vương. Vậy, lý do nào mà Đại Vương ban Mẫu hậu Calākadevī cho Dạ-xoa ăn thịt người đầu tiên?

Nghe nữ tu sĩ Bherī trình bày như vậy, Đức vua Cūḷanī Brahmadatta thưa rằng:

- Thưa nữ tu sĩ, thật vậy, Mẫu hậu Calākadevī rất thương yêu quả nhân, có ân đức lớn nhất đối với quả nhân. Quả nhân biết công ơn sinh thành dưỡng dục của Mẫu hậu Calākadevī, Bà luôn luôn bảo vệ quả nhân. Nhưng Mẫu hậu Calākadevī có những lỗi như sau:

- Thưa nữ tu sĩ,

* Mẫu hậu Calākadevī đã già rồi mà thích trang điểm lộng lẫy bằng những đồ nữ trang quý giá, thích tiếp xúc chuyện trò với các cô gái trẻ. Đó là điều không nên.

* Mẫu hậu Calākadevī thích chuyện trò cười cợt với những người gác cửa thành, người luyện tập voi, ngựa, cho đến quá giờ đóng cửa thành. Đó là điều không nên.

* Mẫu hậu tự viết chiếu chỉ với lời lẽ của quả nhân truyền rằng: “Mẫu hậu Calākadevī của Trẫm đang độ tuổi hồi xuân. Vậy, khanh đến hầu hạ Mẫu hậu của Trẫm” rồi trao một lính hầu đem đến vị quan trấn nhậm tỉnh thành ấy.

Vị quan ấy đến chầu Trẫm, rồi đọc giữa triều đình làm cho quả nhân vô cùng xấu hổ.

- Thưa nữ tu sĩ, đó là lý do mà quả nhân ban Mẫu hậu Calākadevī cho Dạ-xoa ăn thịt người đầu tiên.

2- Người Thứ Nhì Là Chánh Cung Hoàng hậu Nandādevī

Nghe Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo những lỗi của Hoàng Thái hậu Calākadevī như vậy, nữ tu sĩ Bherī tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương ban Hoàng Thái hậu Calākadevī cho Dạ-xoa ăn thịt người đầu tiên, bởi do những lỗi ấy cũng nên, nhưng Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī là người có ân đức đối với Đại Vương từ khi còn nhỏ cho đến nay.

- Tâu Đại Vương, bà Nandādevī là Chánh cung Hoàng hậu cao quý hơn các hoàng hậu và các cung phi mỹ nữ khác trong triều đình. Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī xinh đẹp tuyệt trần, có giọng nói thanh tao rất hay, là người biết chiều chuộng Đại Vương, bà thường ngự chung với Đại Vương như hình với bóng. Bà rất mực thương yêu Đại Vương.

Khi Đại Vương là cậu bé Cūḷanī đi theo người đầu bếp trốn sang kinh thành Sāgala đất nước Maddaraṭṭha, được ở trong cung điện của Đức Vua Madda. Cậu Cūḷanī chưa lộ rõ tông tích, thường chơi với Công chúa Nandā của Đức vua Madda. Công chúa Nandā đem lòng thương yêu cậu Cūḷanī.

Một hôm nọ, cậu Cūḷanī nổi giận đánh Công chúa Nandā, Công chúa chỉ âm thầm khóc mà thôi, không dám cho Đức Phụ Vương biết, vì sợ Đức Phụ Vương sẽ hành phạt cậu Cūḷanī.

Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī là người rất thông minh, không hay giận hờn, đặc biệt biết chiều chuộng Đại Vương. Vậy, lý do nào mà Đại Vương ban Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ nhì.

Nghe nữ tu sĩ Bherī trình bày như vậy, Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo lỗi của Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī như sau:

 - Thưa nữ tu sĩ, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī biết quả nhân đang say đắm nơi bà. Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī xin quả nhân ban cho bà những món đồ trang sức quý giá mà quả nhân đã ban cho các bà hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa của quả nhân rồi. Đáng lẽ, bà không nên xin nơi quả nhân những món trang sức ấy, nhưng vì quả nhân đang say đắm nơi bà, nên quả nhân đã hứa sẽ ban cho bà những món trang sức ấy.

Bà truyền bảo các bà hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa rằng: “Những món đồ trang sức ấy, Hoàng thượng đã ban cho ta rồi. Vậy, các ngươi hãy mang lại dâng cho ta”.

Các hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa phải đem những món đồ trang sức ấy đến dâng cho bà, rồi họ khóc vì tiếc món đồ trang sức của họ từ trước.

Thấy các hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa của quả nhân khóc, vì tiếc như vậy, quả nhân cảm thấy khổ tâm.

Đó là lý do mà quả nhân ban Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ nhì.

3. Hoàng đệ Tikhiṇamanti của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta

Nghe Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo những lỗi của bà Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī như vậy, nữ tu sĩ Bherī tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương ban Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī, cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ nhì, bởi do những lỗi ấy cũng nên, nhưng Hoàng đệ Tikhiṇamanti của Đại Vương là người có công lớn đối với Đại Vương và triều đình của Đại Vương.

 - Tâu Đại Vương, Hoàng đệ Tikhiṇamanti là người ngự đi thỉnh Đại Vương từ kinh thành Sāgala, đất nước nhỏ Maddaraṭṭha, ngự trở về kinh thành Uttarapañcāla, làm lễ đăng quang nối ngôi vua cha.

Hoàng đệ Tikhiṇamanti có công lớn giúp Đại Vương làm phát triển đất nước, làm cho 101 Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu phải khuất phục Đại Vương, làm cho đất nước Kapilaraṭṭha phồn vinh và hùng mạnh, đặc biệt Hoàng đệ Tikhiṇamanti là người có mưu trí bậc nhất.

Chuyện kể rằng: “Khi bà Calākadevī sinh hạ hoàng tử Tikhiṇamanti trong lúc là Chánh cung Hoàng hậu của vị Bà-la-môn Chabbhī, nên ông tưởng rằng Tikhiṇa-manti là con của mình và hoàng tử Tikhiṇamanti cũng tưởng rằng vị Bà-la-môn Chabbhī là phụ thân của mình. Cho nên, vị Bà-la-môn Chabbhī ban cho hoàng tử một thanh gươm báu đặc biệt.

Về sau, một vị quan trung thành với cố Đại Vương Mahācūḷanī tâu với hoàng tử Tikhiṇamanti rằng: “Tâu hoàng tử Tikhiṇamanti, hoàng tử không phải là con của vị Bà-la-môn Chabbhī, bởi vì khi hoàng tử còn là thai nhi trong bụng Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī của Đức Vua Mahācūḷanī.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Calākadevī ngoại tình với vị Bà-la-môn Chabbhī, quan lớn trong triều, khiến dùng thuốc độc giết Đại Vương Mahācūḷanī bị băng hà, rồi vị Bà-la-môn chiếm ngôi vua. Như vậy, căn cứ theo thời gian, hoàng tử là con của cố Đại Vương Mahācūḷanī, không phải là hoàng tử của vị Bà-la-môn.

Nghe vị quan trung tín tâu như vậy, hoàng tử Tikhiṇamanti nổi cơn thịnh nộ nghĩ: “Ta sẽ giết vị Bà-la-môn Chabbhī này bằng mưu kế”.

Một hôm, vào chầu vị Bà-la-môn Chabbhī, hoàng tử Tikhiṇamanti trao thanh gươm báu cho vị quan giữ cửa cung điện lâu đài của vị Bà-la-môn Chabbhī, rồi đến gặp vị quan lớn thân tín trong cung điện, truyền bảo rằng:

- Này vị quan lớn! Ngươi hãy đến gặp vị quan giữ cửa cung điện lâu đài của vị Bà-la-môn Chabbhī nói với vị quan ấy rằng: “Thanh gươm báu này là của tôi”. Hai ngươi tranh chấp lớn tiếng với nhau, rồi chờ ta gọi vào.

Sau khi truyền bảo xong, hoàng tử Tikhiṇamanti vào chầu vị Bà-la-môn Chabbhī. Nghe hai vị quan lớn tiếng với nhau ở bên ngoài cửa cung điện lâu đài, hoàng tử Tikhiṇamanti truyền bảo người lính ra xem có chuyện gì mà họ lớn tiếng với nhau.

Tuân lệnh hoàng tử, người lính đi ra ngoài cửa cung điện lâu đài, nghe biết chuyện rồi vào thưa rằng:

- Tâu hoàng tử, hai vị quan ấy tranh chấp với nhau về thanh gươm báu. Vị quan lớn bảo rằng: “Thanh gươm báu này là của tôi”. Vị quan giữ cửa bảo rằng:“Thanh gươm báu này là của hoàng tử Tikhiṇamanti giao tôi giữ”.

Nghe người lính tâu như vậy, hoàng tử Tikhiṇamanti tâu với vị Bà-la-môn Chabbhī rằng:

- Tâu Đức Phụ Vương, thanh gươm báu mà Đức Phụ Vương ban cho con, con giao cho vị quan giữ cửa lâu đài giữ. Nay vị quan lớn bảo rằng: “Thanh gươm báu ấy là của ông”. Như vậy, sự thật như thế nào?

Vị Bà-la-môn Chabbhī truyền bảo rằng:

- Nếu như vậy thì hãy cho truyền gọi 2 vị quan ấy đem thanh gươm báu vào, ta nhớ rõ thanh gươm báu ấy, ta sẽ phán xét.

Khi hai vị quan đem thanh gươm báu vào, hoàng tử Tikhiṇamanti cầm thanh gươm báu, tuốt gươm ra khỏi vỏ, trình cho vị Bà-la-môn Chabbhī, tâu rằng:

- Tâu Đức Phụ Vương, xin Đức Phụ Vương xem kỹ thanh gươm báu này.

Khi vị Bà-la-môn đến gần xem kỹ thanh gươm báu ấy, không thận trọng, ngay tức khắc, hoàng tử đưa thanh gươm báu cắt cổ ông ta, cái đầu rơi xuống dưới chân của mình, rồi truyền lệnh đem thi thể ra ngoài cung điện.

 Vị Bà-la-môn Chabbhī bị hoàng tử Tikhiṇamanti giết chết, các quan trong triều đều vui mừng, bởi vì ông là vị quan phản phúc với cố Đại Vương Mahācūḷanī.

Hoàng tử Tikhiṇamanti truyền lệnh trang hoàng cung điện lộng lẫy và kinh thành Uttarapañcāla cho đẹp đẽ, để tổ chức lễ đăng quang hoàng tử Tikhiṇamanti lên nối ngôi Đức Phụ Vương Mahācūḷanī của mình.

Khi ấy, bà Calākadevī, Mẫu hậu của hoàng tử Tikhiṇamanti truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi Tikhiṇamanti yêu quý! Sự thật, con chính là hoàng tử của Đại Vương Mahācūḷanī, không phải con của vị Bà-la-môn Chabbhī. Con còn vị hoàng huynh là Thái tử Cūḷanī hiện đang còn sống ở tại kinh thành Sāgala, đất nước Maddaraṭṭha.

Nghe Mẫu hậu Calākadevī truyền bảo như vậy, hoàng tử Tikhiṇamanti dẫn đầu 4 đội quân hùng hậu ngự đến kinh thành Sāgala, đất nước nhỏ Maddaraṭṭha, thỉnh Hoàng huynh Cūḷanī và công chúa Nandā trở về kinh thành Uttarapañcāla, làm lễ đăng quang Thái tử Cūḷanī lên nối ngôi vua cha, trị vì đất nước Kapilaraṭṭha to lớn cho đến nay.

Như vậy, hoàng đệ Tikhiṇamanti là người có lòng tôn kính hỗ trợ đắc lực cho Đại Vương.

Vậy, lý do nào mà Đại Vương ban hoàng đệ Tikhiṇa-manti cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ ba?

Nghe nữ tu sĩ Bherī trình bày như vậy, Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền thưa rằng:

- Thưa nữ tu sĩ, thật vậy, hoàng đệ Tikhiṇamanti ngự đến kinh thành Sāgala đất nước nhỏ Maddaraṭṭha, thỉnh quả nhân trở về kinh thành Uttarapañcāla lên nối ngôi vua cha, tri vì đất nước lớn Kapilaraṭṭha này.

Hoàng đệ Tikhiṇamanti có công lớn làm cho các vùng trong nước phát triển, chinh phục được 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu đều khuất phục quả nhân, làm cho đất nước Kapilaraṭṭha giàu mạnh hùng cường, đặc biệt hoàng đệ Tikhiṇamanti là người có tài thiện xạ, có mưu trí sâu sắc… nhưng hoàng đệ thường huênh hoang với mọi người rằng: “Hoàng huynh Cūḷanī Brahmadatta của tôi đang ngự ở kinh thành Sāgala đất nước nhỏ bé Maddaraṭṭha, tôi đi đến thỉnh hoàng huynh của tôi ngự trở về kinh thành Uttarapañcāla đất nước to lớn Kapilaraṭṭha, làm lễ đăng quang hoàng huynh Cūḷanī Brahmadatta lên nối ngôi vua cha, có uy quyền lớn và an hưởng mọi sự an lạc như vậy”.

Ngày trước, hoàng đệ Tikhiṇamanti ngự đến chầu mỗi buổi sáng, nhưng nay, hoàng đệ Tikhiṇamanti có khi đến chầu, có khi không, không giữ phép luật của triều đình.

Đó là lý do mà quả nhân ban hoàng đệ Tikhiṇamanti cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ ba.

4. Bạn hữu Dhanusekha của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta  

Nghe Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo về Hoàng đệ Tikhiṇamanti như vậy, vị nữ tu sĩ Bherī tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương ban cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ ba là hoàng đệ Tikhiṇamanti, bởi do những lỗi ấy cũng nên, nhưng bạn hữu Dhanusekha là người bạn thân thiết tín cẩn của Đại Vương.

Bạn hữu Dhanusekha cùng sinh trong một đêm với Đại Vương trong kinh thành Uttarapañcāla này, là người bạn hữu thân thiết từ thuở nhỏ cùng khổ cùng vui với Đại Vương cho đến nay, luôn luôn đi theo Đại Vương như hình với bóng, là người bạn hữu có sự tinh tấn không ngừng ngày đêm trong công việc mà Đại Vương giao phó, có một lòng trung thành tuyệt đối với Đại Vương. Đặc biệt, bạn hữu Dhanusekha có tài bắn cung đệ nhất, không ai sánh được.

Vậy, lý do nào mà Đại Vương ban bạn hữu Dhanu-sekha cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ tư?

Nghe nữ tu sĩ Bherī trình bày như vậy, Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền thưa rằng:

- Thưa nữ tu sĩ, thật vậy, bạn hữu Dhanusekha là người bạn thân thiết từ thuở nhỏ, cùng khổ cùng vui với quả nhân. Ngày xưa, bạn hữu Dhanusekha hay vỗ tay cười lớn như thế nào, đến nay cũng vẫn giữ tính hay vỗ tay cười lớn như thế ấy.

Nay quả nhân là Đức Vua mà bạn hữu Dhanusekha hành động, nói năng như ngang hàng với quả nhân, không biết tôn kính như Đức Vua.

Quả nhân có ban cho bạn hữu Dhanusekha một ân huệ là được phép đến chầu quả nhân bất cứ lúc nào. Nhưng khi quả nhân đang chuyện trò thân mật với Chánh cung Hoàng hậu Nandādevī nơi kín đáo, bạn hữu Dhanusekha đi vào không xin phép trước, không biết tôn trọng quả nhân.

Đó là lý do mà quả nhân ban bạn hữu Dhanusekha cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ tư.

5. Quân sư Kevaṭṭa của Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta

Nghe Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền bảo những lỗi của bạn hữu Dhanusekha như vậy, nữ tu sĩ Bherī tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương ban bạn hữu Dhanusekha cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ tư, bởi do những lỗi ấy cũng nên, nhưng quân sư Kevaṭṭa là một vị thầy giỏi về các bộ môn của Bà-la-môn, hiến nhiều kế sách, có tài điều binh khiển tướng giúp Đại Vương chiến thắng dễ dàng 101 kinh thành, bắt 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu này đều thần phục Đại Vương, thu phục 101 nước trong cõi Nam thiện bộ châu trở thành các nước chư hầu của Đại Vương. Cho nên, Đại Vương có uy quyền lớn trong cõi Nam thiện bộ châu này.

Vậy, lý do nào mà Đại Vương ban vị quân sư Kevaṭṭa cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ năm?

Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền thưa rằng:

- Thưa vị nữ tu sĩ, trong các buổi hội triều, quả nhân ngự trên ngai vàng chủ trì, phía dưới các quan văn võ, các khanh tướng sĩ mà vị quân sư Kevaṭṭa trợn mắt nhìn quả nhân như giận giữ quả nhân.

Đó là lý do mà quả nhân ban vị quân sư Kevaṭṭa cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ năm.

6- Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta

Tiếp theo nữ tu sĩ Bherī tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương truyền bảo rằng: “Quả nhân ban mỗi người cho Dạ-xoa ăn thịt theo tuần tự từ người thứ nhất là Mẫu hậu Calākadevī cho tới người thứ năm là vị quân sư Kevaṭṭa, đến người thứ sáu cuối cùng chính là quả nhân. Thà quả nhân chịu hy sinh sinh mạng của mình cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ sáu, chứ không bao giờ chịu hy sinh Thừa tướng Mahosadha paṇḍita cho Dạ-xoa ăn thịt. Quả nhân chịu băng hà, để cho Thừa tướng Mahosadha paṇḍita còn sống”.

- Tâu Đại Vương, Đại Vương là một Đại Hoàng Đế cao cả nhất trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, có 101 Đức Vua của 101 nước nhỏ đều chịu thần phục Đại Vương làm các nước chư hầu. Đại Vương là Đại Hoàng Đế có nhiều uy quyền nhất, thống lĩnh các đội binh hùng mạnh gồm 18 akkhobhinī quân, Đại Vương làm bá chủ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này. Đại Vương có 16.000 cung phi mỹ nữ xinh đẹp như thiên nữ, đêm ngày hầu hạ, Đại Vương đang hưởng mọi sự an lạc cao quý trong đời.

- Tâu Đại Vương, sinh mạng là nơi yêu quý nhất của mỗi chúng sinh, Đại Vương là người cao quý nhất trong thần dân thiên hạ trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này.

Sinh mạng của Đại Vương thật là cao quý biết dường nào!

Vậy, lý do nào mà Đại Vương dám hy sinh sinh mạng của mình chịu cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ sáu, để bảo vệ sinh mạng của Thừa tướng Mahosadha paṇḍita?

- Tâu Đại Vương, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita là con người như thế nào mà Đại Vương dám hy sinh sinh mạng của mình, để bảo vệ sinh mạng của quan Thừa tướng Mahosadha paṇḍita vậy?

Nghe vị nữ tu sĩ Bherī tâu hỏi như vậy, Đức vua Cūḷanī Brahmadatta truyền thưa rằng:

- Thưa nữ tu sĩ, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita từ nước khác đến giúp quả nhân trị vì đất nước Kapila-raṭṭha cho được phát triển mạnh, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho thần dân thiên hạ. Thật sự, quả nhân chưa thấy, chưa phát hiện một điều lỗi nào dù chỉ là cái lỗi nhỏ của Thừa tướng Mahosadha paṇḍita.

Thừa tướng Mahosadha paṇḍita là bậc đại thiện trí, có trí tuệ siêu việt, cho nên, quả nhân dù phải hy sinh sinh mạng của mình, để bảo vệ sinh mạng của Thừa tướng Mahosadha paṇḍita vẫn xứng đáng lắm. Bởi vì, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita còn sống có khả năng đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cho toàn thể hoàng tộc của quả nhân, trong triều đình của quả nhân, trong toàn cõi đất nước của quả nhân, trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này. Do đó, quả nhân không thể ban Thừa tướng Mahosadha paṇḍita cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ sáu, mà chính quả nhân sẽ hy sinh sinh mạng của mình cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ sáu vậy.

Nghe Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta tán dương ca tụng tài đức cao thượng, trí tuệ siêu việt của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ví như vầng trăng rằm sáng tỏ trên hư không trong trẻo.

Muốn cho mọi người phát sinh đức tin trong sạch nơi Ngài, nên nữ tu sĩ Bherī khuyên những người đến tụ hội tại sân trước cung điện gồm đủ các giai cấp từ Đức vua Cūḷanī Brahmadatta, các Chánh cung Hoàng hậu, hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, những người trong hoàng tộc của Đức Vua, 101 Vua chư hầu trong toàn cõi Nam thiện bộ châu, các quan trong triều, các quân lính, toàn thể dân chúng trong kinh thành Uttarapañcāla rằng:

- Thưa tất cả quý vị, quý vị đã nghe Đại Vương Cūḷanī Brahmadatta tán dương ca tụng Thừa tướng Mahosadha paṇḍita là bậc đại thiện trí, có trí tuệ siêu việt, có khả năng đem lại cho mình và cho tất cả mọi chúng sinh, nhất là nhân loại và chư thiên, sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài cả trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp trong vị lai.

Vì vậy, Đại Vương Cūḷanī Brahmadatta dám hy sinh các sinh mạng những người thân yêu của mình ban cho Dạ-xoa ăn thịt theo tuần tự từ người thứ nhất cho đến người thứ năm, rồi cuối cùng Đức Vua Cūḷanī Brahmadatta hy sinh sinh mạng của mình cho Dạ-xoa ăn thịt người thứ sáu, để bảo vệ sinh mạng của Thừa tướng Mahosadha paṇḍita còn sống trên chiếc thuyền giữa biển.

- Thưa tất cả quý vị, trí tuệ là pháp cao thượng, bậc đại thiện trí có trí tuệ nên được mọi người, chư thiên, phạm thiên tôn kính lễ bái cúng dường.

Như vậy, Thừa tướng Mahosadha paṇḍita là bậc đại thiện trí có trí tuệ siêu việt, có tài đức vẹn toàn rất xứng đáng cho mọi người chúng ta tôn kính đảnh lễ cúngdường Ngài một cách cung kính.

Nghe lời khuyên dạy của nữ tu sĩ Bherī, mọi người đều vô cùng hoan hỷ cung kính đảnh lễ Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita với tấm lòng tôn kính.

Tích Mahosadhajātaka, hoặc tích Umaṅgajātaka, trong tích này, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, tiền kiếp của Đức Phật Gotama của chúng ta, đang thực hành pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ và các pháp hạnh Ba-la-mật khác, để bồi bổ và tích luỹ cho được đầy đủ 30 pháp hạnh Ba-la-mật, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu là Đức Phật Gotama trong thời vị lai.

Như vậy, công tử Mahosadha paṇḍita vẫn còn là Đức Bồ Tát có trí tuệ siêu việt thấy rõ, biết rõ những gì mà những người khác không thể thấy được, không thể biết được. Đó là do nhờ trí tuệ siêu việt mà Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đã tích lũy từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ.

Trí tuệ siêu việt của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita ấy có khả năng khống chế, đè bẹp những tà kiến của người khác, dẹp bỏ những ý đồ đen tối của người khác, có khả năng phá tan các mưu kế thâm độc của các kẻ thù một cách dễ dàng, để thực hiện những điều mong ước trở thành hiện thực.

Đức Phật dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu, không chỉ kiếp hiện tại Như Lai là Đức Phật Chánh Đẳng Giác có trí tuệ siêu việt khống chế, đè bẹp mọi tà thuyết của người khác một cách dễ dàng như vậy, mà trong các tiền kiếp của Như lai khi còn là Đức Bồ Tát cũng có trí tuệ siêu việt khống chế, đè bẹp những tà kiến, dẹp bỏ những ý đồ đen tối của người khác, còn phá tan các mưu kế thâm độc của các kẻ thù, đặc biệt nhờ trí tuệ siêu việt nên biến kẻ thù trở thành người thân yêu của mình nữa. (Như trong tích Mahosadhajātaka).

Sau khi lắng nghe Đức Phật thuyết về tích Maho-sadhajātaka hoặc tích Umaṅgajātaka xong, chư Tỳ khưu phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ lời giáo huấn của Đức Phật, nên chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, có số trở thành bậc Thánh Nhập lưu, có số trở thành bậc Thánh Nhất lai, có số trở thành bậc Thánh Bất lai, có số trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, tuỳ theo pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật của mỗi vị.

Còn có số chưa trở thành bậc Thánh nào, vẫn còn là hạng phàm nhân cũng vô cùng hoan hỷ phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, cố gắng tinh tấn tiếp tục thực hành các pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật, để mong chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, sẽ trở thành bậc Thánh nhân trong thời vị lai.

Tích Mahosadhajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Mahosadhajātaka hoặc tích Umaṅga-jātaka này, khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Mahosadhajātaka hoặc tích Umaṅgajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

- Ông phú hộ Sirivaḍḍhaka, nay kiếp hiện tại là Đức vua Suddhodana.

- Bà Sumanādevī, nay kiếp hiện tại là Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī.

- Đức vua Vedeha, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Kāḷudāyaka.

- Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī, nay kiếp hiện tại là bà Maṅgalikā.

- Vị quân sư Senaka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Mahākassapa.

- Vị quân sư Pukkusa, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Poṭṭhapāda.

- Vị quân sư Kāminda, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Ambaṭṭha.

- Vị quân sư Devinda, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Pilotika.

- Đức vua Cūḷanī Brahmadatta, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Sāriputta.

- Vị quân sư Kevaṭṭa, nay kiếp hiện tại là tỳ khưu Devadatta.

- Bà Mẫu hậu Calākādevī của Đức Vua Cūḷanī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức tỳ khưu ni Thullanandinī.

- Công chúa Pañcālacandī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức tỳ khưu ni Sundarī.

- Con chim vẹt Suvapaṇḍita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Ānanda.

- Con chim sáo Sāḷikā, nay kiếp hiện tại là Bà Mallikā.

- Nữ tu sĩ Bherī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.

- Bà Amarā, phu nhân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức tỳ khưu ni Bimbāsundarī (Yasodharā).

 - Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

Theo bộ Chú giải Jātakaṭṭhakathā bản dịch chữ Thái những nhân vật trong tích Mahosadhajātaka liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

 - Ông phú hộ Sirivaḍḍhaka, nay kiếp hiện tại là Đức vua Suddhodana.

- Bà Sumanādevī, nay kiếp hiện tại là Chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī.

- Đức vua Vedeha, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Kāḷudāyī.

- Chánh cung Hoàng hậu Udumbaradevī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức tỳ khưu ni Gotamī.

- Vị quân sư Senaka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Mahākassapa.

- Vị quân sư Pukkusa, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Poṭṭhapāda.

- Vị quân sư Kāminda, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Ambaṭṭha.

- Vị quân sư Devinda, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Soṇadaṇḍaka.

- Đức vua Cūḷanī Brahmadatta, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Sāriputta.

- Vi Bà-la-môn Anukevaṭṭa, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Mahāmoggallāna.

- Hoàng đệ Tikhiṇamanti, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Nanda

- Bạn hữu Dhanusekha, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Rāhula

- Bà Mẫu hậu Calākādevī của Đức Vua Cūḷanī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức Tỳ khưu ni Thullanandikā.

- Thái tử Pañcālacanda, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Anuruddha.

- Công chúa Pañcālacandī, nay kiếp hiện tại là Đại Đức tỳ khưu ni Sundarī.

- Con chim vẹt Suvapaṇḍita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức Ānanda.

- Con chim sáo Sāḷikā, nay kiếp hiện tại là Bà Mallikādevī.

- Nữ tu sĩ Bherī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại đức tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.

- Vị quân sư Kevaṭṭa, nay kiếp hiện tại là tỳ khưu Devadatta.

- Bà Amarā, phu nhân của Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức tỳ khưu ni Bimbāsundarī (Yasodharā).

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật

Tóm lược tích Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tiền kiếp của còn Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ, ngoài ra, có 8 pháp hạnh Ba-la-mật phụ khác cũng đồng thời thành tựu như sau:

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tạo mọi phước thiện bố thí, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita giữ gìn giới, đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có tâm từ đối với mọi người, mọi chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita có tâm xả đối với mọi chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

 Đó là 8 pháp hạnh Ba-la-mật phụ đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ này.

Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita

Tích Mahosadhajātaka hoặc tích Umaṅgajātaka này, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita tiền kiếp của Đức Phật Gotama thực hành pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ (Paññāpāramī).

Từ khi mới lên 7 tuổi, Đức Bồ Tát Mahosadha paṇḍita đã có trí tuệ siêu việt hơn hẳn tất cả mọi người trong đời, không có một ai sánh được.

Pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha).

 Trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ đó là tâm sở trí tuệ đồng sinh trong các thiện tâm thấy rõ biết rõ các pháp.

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, (Sammā-sambuddha), Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác (Samma- sambodhisatta) cần phải thực hành đầy đủ 3 bậc pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật: Pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ, pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc trung và pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc thượng.

Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác dù thực hành pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc nào cũng chỉ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho mình và cho tất cả mọi người, mọi chúng sinh khác mà thôi.  

Trí tuệ siêu việt ấy có được do từ đâu?

Trí tuệ siêu việt ấy có được do 2 nguyên nhân:

- Trí tuệ siêu việt do nhờ tích luỹ từ nhiều đời nhiều kiếp trong quá khứ hỗ trợ.

- Trí tuệ siêu việt do phát sinh trong kiếp hiện tại.

Trí tuệ phát sinh trong kiếp hiện tại, Đức Phật thuyết dạy bài kinh Paññāsutta[1] được tóm lược 8 điều chính yếu.

Chư tỳ khưu muốn có được trí tuệ cần phải hội đủ 8 nhân phát sinh trí tuệ như sau:

1- Tỳ khưu đến nương nhờ nơi Đức Phật hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, làm bậc Tôn Sư của mình, hết lòng tôn kính, có tâm biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, có đức tin trong sạch nơi Đức Phật hoặc nơi bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, lắng nghe chánh pháp của Đức Phật.

 Đó là nhân thứ nhất phát sinh trí tuệ.

2- Tỳ khưu lắng nghe chánh pháp của Đức Phật, hoặc bậc Thánh Thanh Văn đệ tử của Đức Phật, thường đến hầu đảnh lễ Đức Phật hoặc bậc Thánh Thanh Văn bạch hỏi những điều chưa hiểu rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp này có ý nghĩa như thế nào? Bạch Ngài.

- Kính bạch Đức Thế Tôn, pháp này thực hành như thế nào? Bạch Ngài.

Đức Phật giảng giải cho hiểu rõ những pháp ấy.

Đó là nhân thứ nhì phát sinh trí tuệ.

3- Khi tỳ khưu nghe hiểu rõ những pháp ấy làm cho thân tâm thanh tịnh.

Đó là nhân thứ ba phát sinh trí tuệ.

4- Tỳ khưu là người có giới, giữ gìn trong giới tỳ khưu, thực hành các pháp hành Tỳ khưu và thu thúc lục căn thanh tịnh, thường thấy tai hoạ lớn trong lỗi nhỏ, giữ gìn giới tỳ khưu cho được trong sạch thanh tịnh.

 Đó là nhân thứ tư phát sinh trí tuệ.

5- Tỳ khưu là bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, ghi nhớ thuộc lòng các Pháp học, thông suốt pháp hành, có chánh kiến thanh tịnh, thuyết giảng chánh pháp hay ở phần đầu, phần giữa, phần cuối, ý nghĩa sâu sắc, văn chương lưu loát.

Đó là nhân thứ năm phát sinh trí tuệ.

6- Tỳ khưu là người có chánh tinh tấn không ngừng diệt các bất thiện pháp, để các thiện pháp phát sinh, có đức nhẫn nại, có sự tinh tấn không ngừng, không từ bỏ phận sự, làm tăng trưởng mọi thiện pháp.

 Đó là nhân thứ sáu phát sinh trí tuệ.

7- Tỳ khưu đi vào nơi chư Tỳ khưu Tăng hội, không nói chuyện nhảm, không nói lời vô ích, khi thì tự mình thuyết pháp, khi thì thỉnh mời vị Đại Đức thuyết pháp, không nên xem thường sự im lặng như bậc Thánh nhân.

Đó là nhân thứ bảy phát sinh trí tuệ.

8- Tỳ khưu thực hành pháp hành thiền tuệ, trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt trong ngũ uẩn chấp thủ rằng:

- Sắc uẩn là như vậy, sự sinh của sắc uẩn là như vậy, sự diệt của sắc uẩn là như vậy.

- Thọ uẩn là như vậy, sự sinh của thọ uẩn là như vậy, sự diệt của thọ uẩn là như vậy.

- Tưởng uẩn là như vậy, sự sinh của tưởng uẩn là như vậy, sự diệt của tưởng uẩn là như vậy.

- Hành uẩn là như vậy, sự sinh của hành uẩn là như vậy, sự diệt của hành uẩn là như vậy.

- Thức uẩn là như vậy, sự sinh của thức uẩn là như vậy, sự diệt của thức uẩn là như vậy.

 Đó là nhân thứ tám phát sinh trí tuệ.

 Trí tuệ có 3 loại:

- Sutamayapaññā: Trí tuệ phát sinh do nghe từ các bậc thiện trí, do học hỏi, nghiên cứu chánh pháp.

- Cintāmayapaññā: Trí tuệ phát sinh do suy xét, tư duy sâu sắc đúng đắn theo chánh pháp.

- Bhavanāmayapaññā: Trí tuệ phát sinh do thực hành pháp hành thiền tuệ. trí tuệ thiền tuệ tam giới, trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới.

Trí tuệ phát sinh do nghe như thế nào?

Hạng thanh văn có đức tin trong sạch nơi bậc đại thiện trí, đến gần gũi thân cận với bậc đại thiện trí, lắng nghe chánh pháp của bậc đại thiện trí, ghi nhớ hiểu rõ chánh pháp của bậc đại thiện trí.

Đó là gọi là trí tuệ phát sinh do nghe chánh pháp của bậc đại thiện trí.

Chánh pháp là những pháp nào?

Chánh pháp đó là 37 Pháp Bodhipakkhiyadhamma: 37 Pháp phát sinh Thánh Đạo như sau:  

* 4 pháp niệm xứ (satipaṭṭhāna):

1) Niệm thân,

2) Niệm thọ,

3)Niệm tâm,

4)Niệm pháp.

* 4 pháp tinh tấn (samappadhāna):

1) Tinh tấn ngăn các ác pháp chưa phát sinh, không cho phát sinh,

2) Tinh tấn diệt ác pháp đã phát sinh,

3) Tinh tấn làm cho thiện pháp phát sinh,

4)Tinh tấn làm tăng trưởng thiện pháp đã phát sinh.

 

* 4 pháp thành tựu (iddhipāda):

1)Thành tựu do hài lòng, 

2)Thành tựu do tinh tấn

3)Thành tựu do quyết tâm, 

4)Thành tựu do trí tuệ.

* 5 pháp chủ (indriya):

1)Tín pháp chủ,

 2)Tấn pháp chủ,

3) Niệm pháp chủ,

4) Định pháp chủ,

5) Tuệ pháp chủ.

* 5 pháp lực (bala):

1)Tín pháp lực, 

2)Tấn pháp lực,

3) Niệm pháp lực,

4) Định pháp lực,

5) Tuệ pháp lực.

* 7 pháp giác chi (bojjhaṅga):

1) Niệm giác chi, 

2) Trạch pháp giác chi,

3) Tinh tấn giác chi, 

4) Hỷ giác chi,

5) Tịnh giác chi,

6) Định giác chi, 

7) Xả giác chi.

* 8 pháp chánh đạo (magga):

1) Chánh kiến, 

2) Chánh tư duy, 

3) Chánh ngữ,

4) Chánh nghiệp,

5) Chánh mạng,

6) Chánh tinh tấn,

7) Chánh niệm,

8) Chánh định.

Nếu trường hợp các hạng thanh văn không có cơ hội trực tiếp lắng nghe bậc đại thiện trí, thì nên đọc sách Tam tạng Pāḷi, Chú giải Pāḷi, hoặc nghe máy ghi âm lời giảng giải chánh pháp của bậc đại thiện trí, hoặc nghiên cứu chánh pháp của bậc đại thiện trí, ghi nhớ hiểu rõ chánh pháp của bậc đại thiện trí.

Đó cũng gọi là trí tuệ phát sinh do nghe chánh pháp của bậc đại thiện trí.

Trí tuệ phát sinh do suy xét, tư duy như thế nào?

Sau khi có trí tuệ phát sinh do nghe chánh pháp của bậc đại thiện trí, hạng thanh văn suy xét kỹ, tư duy sâu sắc, hiểu biết đúng đắn về chánh pháp của bậc đại thiện trí.

Đó gọi là trí tuệ phát sinh do suy xét, tư duy sâu sắc đúng đắn theo chánh pháp.

Trí tuệ phát sinh do thực hành pháp hành thiền tuệ như thế nào?

Sau khi có trí tuệ phát sinh do nghe và do suy xét, tư duy sâu sắc đúng đắn theo chánh pháp, rồi thực hành pháp hành thiền tuệ để phát sinh trí tuệ thiền tuệ tam giới và trí tuệ thiền tuệ Siêu tam giới.

Đó gọi là trí tuệ thiền tuệ phát sinh do thực hành pháp hành thiền tuệ như sau:

* Hạng thanh văn phàm nhân thực hành pháp hành thiền tuệ, phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo, Nhập Lưu Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được 2 loại phiền não là tà kiến và hoài nghi, trở thành bậc Thánh Nhập Lưu.

* Bậc Thánh Nhập Lưu tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ, phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế lần thứ nhì, chứng đắc Nhất Lai Thánh Đạo, Nhất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại thô, trở thành bậc Thánh Nhất Lai.

* Bậc Thánh Nhất Lai tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ, phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế lần thứ ba, chứng đắc Bất Lai Thánh Đạo, Bất Lai Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được phiền não sân loại vi tế, trở thành bậc Thánh Bất Lai.

* Bậc Thánh Bất Lai tiếp tục thực hành pháp hành thiền tuệ, phát sinh trí tuệ thiền tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh pháp, sắc pháp, thấy rõ, biết rõ trạng thái vô thường, trạng thái khổ, trạng thái vô ngã của danh pháp, sắc pháp, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế lần thứ tư, chứng đắc A-ra-hán Thánh Đạo, A-ra-hán Thánh Quả và Niết Bàn, diệt đoạn tuyệt được tất cả mọi phiền não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng.

Đó gọi là trí tuệ phát sinh do thực hành pháp hành thiền tuệ.

Trí tuệ là pháp cao thượng, người có trí tuệ là người cao thượng.  

 

(Xong pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật bậc hạ)



1] Bộ Aṅguttaranikāya, Aṭṭhakanipāta, Kinh Paññāsutta

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn