(Xem: 1764)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2231)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Pháp hạnh Phát nguyện Ba la-mật - Bậc Hạ

14 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9558)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp HạnhTinh Tấn Ba La Mật_Tập 3)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp hạnh Phát nguyện Ba la mật có 3 bậc

(Adhiṭṭhānapāramī )

 

Pháp Hạnh Phát Nguyện Ba-la-mật Bậc Hạ (Adhiṭṭhānapāramī )

Tích Nimijātaka (Ni-mi-cha-tá-ká)

 Trong tích Nimijātaka ([1][1]) Đức Vua Nimi là Đức Bồ Tát tiền kiếp Đức Phật Gotama thực hành pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật bậc hạ (Adhiṭṭhānapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại vườn thượng uyển của Đức Vua Maghadeva, gần kinh thành Mithilā vào buổi chiều. Đứng nhìn phong cảnh, Đức Thế Tôn muốn thuyết về tích Nimijātaka, nên Ngài mỉm cười.

Khi ấy, Ngài Đại Đức Ānanda bạch hỏi rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, do nguyên nhân nào mà Ngài mỉm cười? Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này Ānanda! Phong cảnh này, trong tiền kiếp của Như Lai sinh làm Đức Vua Maghadevarāja đã từng thực hành pháp hành thiền định. 

Truyền dạy xong như vậy, Đức Thế Tôn im lặng.

Khi ấy, chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết về tiền kiếp của Ngài.

Tích Nimijātaka

Đức Thế Tôn ngồi trên toạ cụ đã trải sẵn, rồi Đức Thế Tôn thuyết về tích Nimijātaka tiền kiếp của Ngài được tóm lược như sau: 

- Này chư Tỳ khưu! Trong thời quá khứ, Đức Vua Bồ Tát tên là Maghadeva, tiền kiếp của Như Lai ngự tại kinh thành Mithilā, đất nước Videha.

- Khi còn là Thái tử trong thời kỳ thơ ấu vui chơi khoảng thời gian 84.000 năm,

- Thời kỳ làm Phó vương khoảng thời gian 84.000 năm,

- Thời kỳ làm Đại Vương khoảng thời gian 84.000 năm.

Một hôm, Đức Vua Bồ Tát Maghadeva truyền bảo vị quan sửa tóc, râu rằng:

- Này khanh! Nếu khi nào ngươi thấy trên đầu của Trẫm có một sợi tóc bạc thì ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ ngay khi ấy.

Thời gian sau, vị quan sửa tóc thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Đức Vua Bồ Tát Maghadeva, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ hạ thần đã thấy một sợi tóc bạc trên đầu của Đại Vương rồi.

Đức Vua Bồ Tát Maghadeva truyền bảo vị quan nhổ sợi tóc bạc ấy. Vị quan ấy dùng cái nhíp vàng nhổ sợi tóc bạc ấy, rồi đặt trên bàn tay của Đức Vua. 

Nhìn thấy sợi tóc bạc, Đức Vua Bồ Tát Maghadeva suy xét thấy sự già đã đến, rồi sự chết đang chờ phía trước, nên Đức Vua Bồ Tát Maghadeva quyết định rằng:

“Bây giờ là thời kỳ ta nên đi xuất gia trở thành đạo sĩ.”

Đức Vua ban một xóm nhà cho vị quan sửa tóc, để thu thuế nuôi mạng.

Đức Vua Bồ Tát Maghadeva cho truyền gọi Thái tử đến, rồi truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Con hãy nên nối ngôi Phụ Vương. Còn Phụ Vương sẽ đi xuất gia.

 Nghe Đức Phụ Vương truyền bảo như vậy, vị Thái tử tâu hỏi rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, do nguyên nhân nào mà Đức Phụ Vương đi xuất gia như vậy.

Đức Vua Bồ Tát Maghadeva truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Một sợi tóc bạc đã mọc trên đầu của Phụ Vương. Vậy, thời trẻ trung của Phụ Vương đã đi qua rồi, sự già và sự chết sẽ đến. Cho nên, ngay bây giờ, Phụ Vương phải xuất gia trở thành đạo sĩ, để thực hành pháp hành thiền định.

Sau đó Đức Vua Bồ Tát Maghadeva truyền lệnh hội triều, các quan văn võ tề tựu đông đủ, Đức Vua Bồ Tát Maghadeva làm đại lễ đăng quang cho Thái tử lên nối ngôi vua cha.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Maghadeva truyền dạy Đức Vua Thái tử rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Sau này, khi nào con thấy có sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy, con nên truyền ngôi lại cho Thái tử, rồi con cũng phải nên đi xuất gia như phụ vương vậy!

* Đức Vua Bồ Tát Maghadeva phát nguyện rằng:

Xin cho các Đức Vua sau này trong hoàng tộc của Trẫmi, khi thấy sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy, truyền ngôi lại cho Thái tử, rồi đi xuất gia trở thành đạo sĩ như Trẫm vậy.”

Sau khi phát nguyện xong, Đức Vua Bồ Tát Magha-deva từ giã kinh thành Mithilā, ngự đi đến vườn thượng uyển, rồi xuất gia trở thành đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định với đề mục tứ vô lượng tâm: Niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm bi đến tất cả chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm hỷ đến tất cả chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm xả đến tất cả chúng sinh vô lượng, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới, duy trì suốt 84.000 năm.

Sau khi Đức Bồ Tát đạo sĩ Maghadeva tịch (chết), sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới phạm thiên.

Đức Vua Sau Duy Trì Truyền Thống Xuất Gia

Đức Vua Thái tử của Đức Vua Maghadeva cũng theo truyền thống của Đức Phụ Vương, đến khi nào thấy có sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy cũng truyền ngôi báu lại cho Thái tử, rồi từ giã kinh thành Mithilā, ngự đi vào vườn thượng uyển, xuất gia trở thành đạo sĩ, thực hành pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới .

 Sau khi vị đạo sĩ ấy tịch (chết), sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trong cõi trời sắc giới phạm thiên.

Để giữ gìn và duy trì truyền thống xuất gia trở thành đạo sĩ theo dòng dõi của hoàng tộc Đức Vua Bồ Tát Maghadeva đã phát nguyện, nên từ Đức Vua này kế tiếp đến Đức Vua khác, hễ khi nào thấy có một sợi tóc bạc mọc trên đầu, ngay khi ấy truyền ngôi báu lại cho Thái tử, rồi từ giã kinh thành Mithilā, ngự đi vào vườn thượng uyển xuất gia trở thành đạo sĩ, thực hành pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới, theo tuần tự trải qua các đời Đức Vua, còn thiếu 2 Đức Vua nữa là đủ 84.000 Đức Vua.

Đức Bồ Tát phạm thiên Maghadeva trên cõi trời sắc giới phạm thiên xem xét thấy rằng: “Các đời Vua trong dòng dõi hoàng tộc của mình theo truyền thống xuất gia trở thành đạo sĩ, còn thiếu 2 đời nữa là đủ 84.000 Đức Vua, Đức Bồ Tát phạm thiên phát sinh thiện tâm vô cùng hoan hỷ, rồi xem xét tiếp theo truyền thống xuất gia trở thành đạo sĩ theo dòng dõi của hoàng tộc của mình này có còn tiếp tục nữa hay không?

Đức Bồ Tát phạm thiên Maghadeva thấy rõ, biết rõ truyền thống này sẽ không có Đức Vua duy trì nữa, nên Đức Bồ Tát phạm thiên Maghadeva nghĩ rằng: “Ta sẽ nên giữ gìn duy trì truyền thống này của ta.”

Đức Bồ Tát Phạm Thiên Maghadeva Tái Sinh

Nghĩ vậy, Đức Bồ Tát phạm thiên Maghadeva chuyển kiếp (cuti) chết từ cõi trời sắc giới phạm thiên, thiện nghiệp cho quả tái sinh vào lòng Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua kinh thành Mithilā.

Tròn đúng 10 tháng, Đức Bồ Tát đản sinh ra, Đức Vua cho truyền gọi các Bà-la-môn có tài xem tướng tốt vào cung điện, để xem tướng Thái tử và làm lễ đặt tên Đức Bồ Tát Thái tử.

Các vị Bà-la-môn xem tướng Đức Bồ Tát xong, tâu lên Đức Vua rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, Thái tử này sẽ tiếp nối dòng dõi duy trì truyền thống xuất gia trở thành đạo sĩ của Bệ hạ,  bởi vì dòng dõi hoàng tộc của Bệ hạ là dòng dõi xuất gia. Sau Thái tử này, về sau không còn Đức Vua duy trì truyền thống xuất gia nữa.

Nghe các vị Bà-la-môn tâu như vậy, Đức Vua suy nghĩ rằng: “Thái tử này sẽ tiếp nối dòng dõi hoàng tộc duy trì truyền thống xuất gia của ta, nên Đức Vua đặt tên Thái tử là NIMIKUMĀRA: Thái tử Nimi .

Khi Thái tử Nimi còn thơ ấu thường giữ gìn ngũ giới trong sạch, thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.  

Một hôm, vị quan sửa tóc, râu tâu Đức Vua rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, trên đầu của Bệ hạ có một sợi tóc bạc. 

Vị quan dùng cây nhíp bằng vàng nhổ sợi tóc bạc đặt trong lòng bàn tay, Đức Vua ban cho vị quan ấy xóm nhà để thâu thuế, nuôi sống gia đình.

Nhìn thấy sợi tóc bạc, Đức Phụ Vương của Đức Bồ Tát Thái tử Nimi làm đại lễ đăng quang cho Đức Bồ Tát Thái tử Nimi lên nối ngôi vua cha.

Còn Đức Phụ Vương của Đức Bồ Tát Thái tử Nimi từ giã kinh thành Mithilā, ngự đến vườn thượng uyển, xuất gia trở thành đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới.

Sau khi Đức đạo sĩ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên trong cõi trời sắc giới.

Đức Vua Bồ Tát Nimi 

Đức Vua Bồ Tát Nimi lên ngôi Vua cũng ngự tại kinh thành Mithilā, trị vì đất nước Videha. Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền lệnh xây dựng 5 trại làm phước thiện bố thí: 4 trại tại 4 cửa thành và 1 trại tại giữa kinh thành Mithilā.

Mỗi ngày, Đức Vua Bồ Tát Nimi ban mỗi trại 100 ngàn kahāpaṇa, 5 trại gồm có 500 ngàn kahāpaṇa, để các quan trong triều lo phận sự làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Sa-môm, Bà-la-môn, đến cho dân chúng nghèo khổ, người đi đường, v.v…

Đức Vua Bồ Tát Nimi thường giữ gìn ngũ giới trong sạch và đầy đủ trọn vẹn, thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.  

Đức Vua Bồ Tát Nimi thường thuyết pháp giảng dạy tất cả mọi người nên làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Sa-môm, Bà-la-môn, đến cho dân chúng nghèo khổ, người đi đường, v.v…, nên giữ gìn ngũ giới cho được trong sạch và trọn vẹn, nên tránh xa mọi ác nghiệp, nên tạo mọi thiện nghiệp.

Đức Vua Bồ Tát Nimi giảng dạy mọi người tạo các phước thiện làm nhân duyên sinh lên cõi trời dục giới an hưởng mọi sự an lạc, và diễn tả mọi cảnh khổ trong cõi địa ngục đáng kinh sợ, để cho mọi người không dám tạo ác nghiệp, mà chỉ tạo mọi thiện nghiệp mà thôi.

Phần đông thần dân thiên hạ đều vâng theo lời giáo huấn của Đức Vua Bồ Tát Nimi, làm phước thiện bố thí, giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, tránh xa mọi ác nghiệp, cố gắng tinh tấn mọi thiện nghiệp, cho nên, những người dân ấy sau khi chết, thiện nghiệp của mình cho quả tái sinh kiếp sau trở thành vị thiên nam hoặc vị thiên nữ trong cõi trời dục giới, an hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Chư Thiên Tụ Hội Tại Hội Trường Sudhammā

Khi tụ hội trong hội trường Sudhammā tại cõi trời Tam thập Tam thiên, các chư thiên thường tán dương ca tụng ân đức của Đức Vua Bồ Tát Nimi rằng:

- Này quý vị! chúng ta nương nhờ Đức Vua Nimi, nên chúng ta được an hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời như thế này! Đức Vua Nimi là Vị Tôn Sư khả kính của chúng ta. Ân đức Vị Tôn Sư thật là vô lượng!

Thuyết về tích Nimijātaka, Đức Vua Bồ Tát Nimi, tiền kiếp của Ngài, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Khi nào Đức Vua Bồ Tát Nimi là bậc thiện trí có ý nguyện tạo mọi thiện pháp, để thực hành các pháp hạnh Ba-la-mật cho mình và đem lại sự lợi ích cho mọi người, khi ấy, chư thiên và nhân loại đều tán dương ca tụng ân đức của Đức Vua Bồ Tát Nimi rằng: “Thật là phi thường! Đức Vua Bồ Tát Nimi là bậc đại thiện trí chưa phải là Đức Phật mà đã thực hành các phận sự đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài đến thần dân thiên hạ trong đất nước Videha như vậy.”

Đức Vua Bồ Tát Nimi thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng. Hằng đêm, đến canh chót tỉnh dậy, ngồi thực hành pháp hành thiền định, khi xả thiền, tư duy rằng: “Ta thường giữ gìn giới trong sạch và trọn vẹn, đã làm phước thiện bố thí đến tất cả mọi người không hạn định.

Vậy, quả báu của phước thiện bố thí có nhiều hay quả báu của pháp hành phạm hạnh có nhiều.”

Đức Vua Bồ Tát Nimi đang phân vân, chưa quyết định được. Khi ấy, trên cõi trời Tam thập tam thiên của Đức Vua trời Sakka phát nóng, nên Đức Vua trời Sakka xem xét biết nguyên nhân từ Đức Vua Bồ Tát Nimi tư duy như vậy, cho nên, Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Ta sẽ hiện xuống cõi người để làm sáng tỏ vấn đề này của Đức Vua Bồ Tát Nimi.”

 Nghĩ xong, Đức Vua trời Sakka hiện xuống cõi người, làm cho hào quang sáng ngời tỏa khắp nơi chốn của Đức Vua Bồ Tát Nimi, làm cho Đức Vua Bồ Tát có cảm giác sởn tóc gáy, nên truyền hỏi rằng:

- Thưa Ngài, Ngài có phải là chư thiên hay Đức Vua trời Sakka mà có hào quang rực rỡ đến như thế, Trẫm chưa từng thấy bao giờ ?

Nghe Đức Vua Bồ Tát Nimi thưa như vậy, Đức Vua trời Sakka tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Nimi, bổn vương là Đức Vua trời Sakka đến chầu Đại Vương.

- Tâu Đại Vương Nimi, Đại Vương không nên có cảm giác sởn tóc gáy như vậy. Kính xin Đại Vương truyền hỏi câu hỏi mà Đại Vương đang phân vân, chưa quyết định thế nào.

Có cơ hội tốt, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi tâu rằng: 

- Tâu Đức Vua trời Sakka, bổn vương xin tâu hỏi Đức Vua rằng:

Pháp thiện bố thí với pháp hành phạm hạnh, trong 2 pháp này, pháp nào có quả báu nhiều hơn?

Nghe Đức Vua Bồ Tát Nimi tâu hỏi như vậy, Đức Vua trời Sakka thấy rõ, biết rõ quả báu của pháp hành phạm hạnh, nên giải đáp rằng:

- Tâu Đại Vương Nimi,

*Người thực hành phạm hạnh bậc hạ là tránh xa sự hành dâm, người ấy có quả báu được sinh trong dòng họ hoàng tộc.

*Người thực hành phạm hạnh bậc trung là thực hành pháp hành thiền định chứng đạt đến cận định (upacāra-samādhi) người ấy có quả báu được sinh làm chư thiên trong các cõi trời dục giới.

*Người thực hành phạm hạnh bậc thượng là thực hành pháp hành thiền định chứng đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền sắc giới và 4 bậc thiền vô sắc giới (samāpatti), người ấy có quả báu được sinh làm phạm thiên trong các cõi trời sắc giới hoặc vô sắc giới. (tùy theo bậc thiền sở đắc của hành giả).

Đức Vua trời Sakka tâu với Đức Vua Bồ Tát Nimi rằng:

- Tâu Đại Vương Nimi, như vậy, pháp hành phạm hạnh có quả báu nhiều hơn phước thiện bố thí gấp trăm

lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần …

- Tâu Đại Vương Nimi, sự thật, pháp hành phạm hạnh có quả báu nhiều hơn phước thiện bố thí gấp vô số lần. Mặc dù vậy, kính xin Đại Vương chớ nên dể duôi trong 2 thiện pháp này.

Vậy, kính xin Đại Vương tạo cả phước thiện bố thí lẫn pháp hành phạm hạnh.

Sau khi tâu như vậy, Đức Vua trời Sakka xin phép cáo biệt Đức Vua Bồ Tát Nimi, ngự trở về cung trời Tam thập Tam thiên.

Trong Phật giáo này,

*Nếu tỳ khưu nào có giới hạnh trong sạch, có ý nguyện muốn sinh làm chư thiên trong cõi trời dục giới nào thì vị Tỳ khưu ấy được gọi là thực hành phạm hạnh bậc hạ, bởi vì có tác ý bậc hạ.

Sau khi vị Tỳ khưu ấy chết, dục giới thiện nghiệp cho quả báu tái sinh làm vị thiên nam trong cõi trời dục giới ấy theo ý nguyện.

*Nếu tỳ khưu nào có giới hạnh trong sạch, thực hành pháp hành thiền định, chứng đắc 8 bậc thiền: 4 bậc thiền sắc giới và 4 bậc thiền vô sắc giới thì vị Tỳ khưu ấy được gọi là thực hành phạm hạnh bậc trung, bởi vì có tác ý bậc trung.

Sau khi vị Tỳ khưu ấy chết, sắc giới hoặc vô sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm vị phạm thiên trong cõi trời sắc giới hoặc cõi trời vô sắc giới tùy theo bậc thiền sở đắc của tỳ khưu hành giả.

*Nếu Tỳ khưu nào có giới hạnh trong sạch, thực hành pháp hành thiền tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán thì vị Tỳ khưu A-ra-hán ấy được gọi là thực hành phạm hạnh bậc thượng hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.

Đức Vua Trời Sakka Ngự Đến Hội Trường Sudhammā

Đức Vua trời Sakka ngự đến hội trường Sudhammā, nơi có số đông chư thiên đang tụ hội.

Nhìn thấy Đức Vua trời Sakka, chư thiên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại thiên Vương, Đại Vương từ đâu ngự trở về.

Đức Vua trời Sakka truyền bảo rằng:

- Này chư vị! Điều phân vân phát sinh lên đối với Đức Vua Nimi ngự tại kinh thành Mithilā, nên Trẫm đã xuất hiện ngự đến tại nơi ấy, đến chầu Đức Vua Nimi, để làm sáng tỏ vấn đề ấy xong, rồi Trẫm ngự trở về đây.

Nhân cơ hội ấy, Đức Vua trời Sakka truyền bảo toàn thể chư thiên đang tụ hội tại hội trường rằng:

- Này chư vị! Chư vị hãy lắng nghe Trẫm giảng giải thiện pháp bậc thấp, thiện pháp bậc cao trong cõi người như sau:

* Phước thiện bố thí dù nhiều đến bao nhiêu cũng gọi là thiện pháp bậc thấp.

* Phước thiện giữ gìn giới trong sạch và đầy đủ trọn vẹn gọi là thiện pháp bậc cao v.v…

Đức Vua Nimi ngự tại kinh thành Mithilā, trị vì đất nước Videha, là bậc đại thiện trí. Hằng ngày, Đức Vua Nimi đã xuất ra một số tiền lớn để làm phước thiện bố thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, bố thí đến cho mọi người nghèo khổ, v.v…

Khi Đức Vua Nimi đang tạo phước thiện bố thí như vậy, phát sinh điều phân vân rằng: “Phước thiện bố thí và pháp hành phạm hạnh, trong 2 thiện pháp này, thiện pháp nào có quả báu nhiều hơn?”

- Này chư vị! Trẫm đã tâu với Đức Vua Nimi, làm sáng tỏ điều phân vân ấy rằng: 

 -“Tâu Đức Vua Nimi, pháp hành phạm hạnh có quả báu nhiều hơn phước thiện bố thí gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần…”.

Đức Vua trời Sakka tán dương ca tụng Đức Vua Bồ Tát Nimi thật sự là bậc đại thiện trí trong thế gian này.

Nghe Đức Vua trời Sakka tán dương ca tụng Đức Vua Bồ Tát Nimi như vậy, nhóm chư thiên mong muốn diện kiến Đức Vua Bồ Tát Nimi, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Thiên Vương, Đức Vua Nimi là vị Tôn Sư của chúng thần, tiền kiếp của chúng thần là dân chúng của đất nước Videha, đã vâng lời giáo huấn của Đức Vua, thực hành theo lời khuyên dạy của Đức Vua, do nương nhờ nơi Đức Vua, nên chúng thần được sinh lên cõi trời này, được an hưởng mọi sự an lạc như thế này. Cho nên, chúng thần mong ước được diện kiến Đức Vua Nimi.

- Muôn tâu Đức Thiên Vương, chúng thần kính xin Đức Thiên Vương thỉnh Đức Vua Nimi ngự lên tại hội trường Sudhammā này, để chúng thần có được cơ hội tốt diện kiến vị Tôn Sư của chúng thần.

Nghe lời tâu thỉnh cầu của nhóm chư thiên đông đảo ấy, nên Đức Vua trời Sakka chuẩn tấu.

Đức Vua trời Sakka truyền lệnh vị thiên nam đánh xe Mātali rằng:

- Này Mātali! Ngươi hãy đem cỗ xe trời Vejayanta-ratha xuất hiện xuống kinh thành Mithilā, đến cung điện kính thỉnh Đức Vua Nimi ngự lên hội trường Sudhammā. 

Tuân theo lệnh của Đức Vua trời Sakka, vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha cài 1000 con ngựa

báu Sindhava xuất hiện trên bầu trời nơi kinh thành Mithilā nhằm vào ngày rằm ánh trăng sáng tỏ.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Nimi đang thọ trì bát giới uposathasīla trong ngày rằm, ngự tại lâu đài tiếp khách cùng với các quan trong triều ngồi xung quanh suy xét về bát giới uposathasīla.

Trên bầu trời, có một mặt trăng tròn chiếu sáng và có cỗ xe trời Vejayantaratha cũng tỏa sáng giữa không trung.

 Trong kinh thành Mithilā, dân chúng nhìn lên không trung, thấy hiện tượng lạ thường như vậy, nên bảo rằng:

Hôm nay, trên không trung có 2 mặt trăng chiếu sáng! Khi cỗ xe trời Vejayantaratha hiện đến gần, thì mọi người bảo nhau rằng:

- Này quý vị! Không phải mặt trăng thứ hai mà là một cỗ xe trời. Chắc chắn Đức Vua trời Sakka truyền đem cỗ xe trời này rước Đức Vua Nimi của chúng ta. Cỗ xe trời này thật là xứng đáng với Đức Vua của chúng ta, nên mọi người đều phát sinh tâm hoan hỷ.

Thỉnh Đức Vua Bồ Tát Nimi Ngự Lên Cõi Trời

Khi ấy, vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha dừng trước cửa lâu đài mà Đức Vua Bồ Tát Nimi đang ngự cùng với các quan trong triều, vị thiên nam Mātali đến chầu Đức Vua Bồ Tát Nimi, tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, Đức Vua Trời Sakka truyền bảo hạ thần đến kính thỉnh Đại Vương ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha này, hạ thần sẽ đưa Đại Vương ngự lên giảng đường Sudhammā, trên cung trời Tam thập Tam thiên, bởi vì tại nơi ấy, Đức Vua trời Sakka cùng nhóm chư thiên đông đảo đang ngồi chờ đợi mong muốn diện kiến Đại Vương.

Nghe vị thiên nam Mātali tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Nimi nghĩ rằng: “Ta sẽ ngự lên cung trời Tam thập Tam thiên, mà ta chưa đến.”

Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền bảo các quan cùng các người vương gia trong hoàng tộc rằng:

- Này các khanh! Trẫm ngự lên cung trời Tam thập Tam thiên trong thời gian không lâu. Các khanh không nên dể duôi, hãy nên cố gắng tinh tấn thực hành mọi thiện pháp

 Sau khi truyền bảo xong, Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự lên ngồi trên cỗ xe trời Vejayantaratha, vị thiên nam Mātali tâu Đức Vua Bồ Tát Nimi rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, có 2 con đường: Một đường, Đại Vương có thể nhìn thấy các cõi địa ngục là nơi mà các chúng sinh đang phải chịu quả khổ của ác nghiệp mà họ đã tạo trong tiền kiếp.

Và một đường, Đại Vương có thể nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư thiên đang an hưởng quả an lạc của thiện nghiệp mà họ đã tạo trong tiền kiếp.

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, Đại Vương muốn cho hạ thần đưa Đại Vương ngự theo con đường nào?

Nghe vị thiên nam Mātali tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Nimi nghĩ rằng: “Ta muốn ngự đi cả 2 đường, để nhìn thấy các cõi địa ngục và các lâu đài của 2 loại chúng sinh ấy.”

Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền bảo rằng:

- Này thiên nam Mātali! Trẫm muốn đi cả 2 đường: một đường, để Trẫm nhìn thấy các cõi địa ngục là nơi mà các chúng sinh đang phải chịu quả khổ của ác nghiệp mà họ đã tạo trong tiền kiếp.

Và một đường, để Trẫm nhìn thấy các lâu đài là nơi mà các chư thiên đang an hưởng quả an lạc của thiện nghiệp mà họ đã tạo trong tiền kiếp.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền bảo như vậy, vị thiên nam tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, trong 2 đường ấy, Đại Vương muốn ngự theo đi đường nào trước.

- Này thiên nam Mātali! Trước tiên, Trẫm muốn nhìn thấy các cõi địa ngục là nơi mà các chúng sinh đang chịu quả khổ của ác nghiệp của họ. 

Tuân theo lệnh của Đức Vua Bồ Tát Nimi, vị thiên nam Mātali đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi xem các cõi địa ngục trước.

* Xem Các Cõi Địa Ngục

Con Sông Vetaraṇī

 Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đến con sông Vetaraṇī, nhìn thấy các chúa địa ngục cầm khí giới như mã tấu, gươm, búa, cây lao, cây chĩa ba, v.v… cháy đỏ rực đâm, chém các chúng sinh địa ngục ở bờ sông ấy. Các chúng sinh địa ngục ấy chịu không nổi, rơi xuống dòng sông Vetaraṇī.

Trong dòng sông Vetaraṇī này nước nóng sôi sùng sục, có đầy những lưỡi cưa răng nhọn như mũi giáo bén nhọn, nóng cháy rực cắt các chúng sinh địa ngục ấy thành đoạn lớn nhỏ. Chúng sinh địa ngục chết rồi, liền hóa sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài.

Các chúng sinh địa ngục này bị các lưỡi giáo nóng đỏ đâm thủng thân hình, rơi xuống nước sông Vetaraṇī đụng những lá sen sắc bén, nóng đỏ cắt thân hình chúng sinh ấy ra thành đoạn lớn nhỏ đau khổ. Chúng sinh địa ngục chết rồi, liền hóa sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn ác nghiệp ấy.

 Các chúng sinh địa ngục này chìm xuống dưới nước nóng sôi và cay, bị các lưỡi cưa sắc bén cắt đứt ra từng đoạn lớn nhỏ, chịu bao nhiêu nỗi đau khổ, chết rồi, liền hóa sinh trở lại kéo dài suốt thời gian lâu dài cho đến khi mãn ác nghiệp ấy.

Các chúng sinh địa ngục này rơi xuống dưới nước nóng sôi, đôi khi trôi theo dòng nước, đôi khi trôi ngược dòng nước. Các chúa địa ngục đứng trên bờ bắn mũi tên đâm chúng sinh ấy, hoặc đâm bằng cây giáo, hoặc phóng lao đâm chúng sinh ấy…. Chúng sinh địa ngục này phải chịu bao nỗi khổ không sao kể xiết được.

Các chúa địa ngục dùng câu móc chúng sinh ấy lên nằm trên tấm sắt nóng cháy đỏ, cầm thỏi sắt nóng cháy đỏ bỏ vào miệng chúng sinh ấy….

Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy các chúng sinh địa ngục phải chịu bao nhiêu những nỗi khổ như vậy, cảm thấy đáng kinh sợ, nên truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục trong dòng sông Vetaraṇī phải chịu bao nhiêu nỗi khổ do hành hạ như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?  

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh địa ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người có quyền lực, đánh đập, hành hạ những người yếu thế, tạo ác nghiệp như vậy.

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục trong con sông Vetaraṇī này, phải chịu quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúng Sinh Địa Ngục Bị Ăn Thịt

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy các đàn chó, các bầy chim ... cắn xé ăn thịt thân thể các chúng sinh địa ngục ấy.

 Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Các đàn chó đỏ, chó đốm to bằng con voi chạy đuổi theo cắn xé ăn thịt chúng sinh địa ngục ấy, chỉ còn bộ xương; bầy kên kên mỏ như sắt nhọn lớn bằng cỗ xe bò, bầy kên kên mổ làm vỡ nát xương, để ăn tủy xương; bầy diều hâu mỏ như sắt đáng sợ cắn xé ăn thịt chúng sinh địa ngục…

Những chúng sinh địa ngục ấy bị ăn thịt như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

 - Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có tính keo kiệt, bủn xỉn trong của cải của mình, không chịu làm phước thiện bố thí đến cho người khác, thường hay mắng nhiếc các Sa-môn, Bà-la-môn có giới đức trong sạch, đã tạo ác nghiệp như vậy.

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị ăn thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúng Sinh Địa Ngục Bị Hành Hạ

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục đang bị cháy đỏ đi đạp trên tấm sắt nóng cháy rực dài 9 do-tuần, các chúa địa ngục đuổi theo kịp, đánh đôi chân các chúng sinh địa ngục ấy bằng cây sắt cháy đỏ rực bằng cây thốt nốt, làm cho chúng sinh địa ngục ngã quỵ, rồi đánh đập chúng sinh ấy tan xương nát thịt.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục đang bị cháy đỏ đi đạp trên tấm sắt nóng cháy rực, và các chúa địa ngục đuổi theo đánh bằng cây sắt nóng cháy rực, làm tan xương nát thịt.

Những chúng sinh địa ngục bị đánh như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay làm khổ, hành hạ, mắng chửi những người đàn ông, đàn bà vô tội có giới hạnh trong sạch, có thiện pháp. 

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị đánh đập tan xương nát thịt, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúa Địa Ngục Hành Hạ Chúng Sinh Địa Ngục

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy các chúa địa ngục đâm các chúng sinh địa ngục bằng khí giới cháy đỏ, các chúng sinh địa ngục rơi xuống hầm lửa than hồng đến eo, chúa địa ngục múc lửa than hồng đổ trên đầu của các chúng sinh địa ngục ấy. Bị thiêu nóng nên thân hình quằn quại, khóc la thảm thiết.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục đang quằn quại, khóc la thảm thiết trong hầm than hồng đỏ rực, vì sức nóng kinh khủng ấy.

Những chúng sinh địa ngục bị thiêu đốt nóng như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trong ban vận động gom góp tiền bạc của các thí chủ có đức tin trong sạch, để làm đại lễ phước thiện bố thí cúng dường đến chư Sa-môn, Bà-la-môn, hoặc để xây dựng chùa, tháp, hoặc để cứu trợ những người nghèo khổ, v.v… Nhưng các người ấy đem sử dụng số tiền bạc ấy theo ý của mình, không theo tác ý thiện tâm trong sạch của thí chủ, hoặc lấy bớt số tiền ấy sử dụng riêng cho mình, rồi làm sổ sách giả chi tiêu vào công việc này, vào công việc kia làm hết số tiền ấy.

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp lừa dối ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục hầm than hồng, bị chúa địa ngục hành hạ, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Địa Ngục Nồi Đồng Sôi (Lohakumbhī)  

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục bị các chúa địa ngục nắm đôi chân đưa lên, cái đầu chúc xuống ném vào địa ngục nồi đồng sôi.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục bị chúa địa ngục nắm đôi chân ném vào địa ngục nồi đồng sôi chịu nóng thiêu như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người hay chê trách, mắng nhiếc chư Sa-môn, Bà-la-môn có giới hạnh trong sạch, thực hành phạm hạnh cao thượng.

Sau khi những người ấy chết, khẩu ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị chúa

địa ngục nắm đôi chân ném vào địa ngục nồi đồng sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Địa Ngục Nước Đồng Sôi

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy các chúa địa ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ các chúng sinh địa ngục đưa lên, chặt cái cổ, cái đầu còn dính ở sợi dây sắt, rồi ném thân mình chúng sinh địa ngục vào địa ngục nước đồng sôi, thì cái đầu mọc lại ngay trên cái cổ thân mình chúng sinh địa ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các chúa địa ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ các chúng sinh địa ngục đưa lên, chặt cái cổ, cái đầu còn dính ở sợi dây sắt, rồi ném thân mình chúng sinh địa ngục vào địa ngục nước đồng sôi, thì cái đầu lại mọc ngay trên cái cổ thân mình chúng sinh địa ngục ấy như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề bắt chim chặt đầu, chặt cánh, làm thịt ăn, đem bán thịt cho người khác.

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị chúa địa ngục dùng sợi dây sắt nóng cháy đỏ cột cổ, chặt đầu, ném thân mình chúng sinh địa ngục vào địa ngục nước đồng sôi, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúng Sinh Địa Ngục Khát Nước

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy con sông nước chảy bình thường, những chúng sinh địa ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, bởi vì sức nóng của tấm sắt cháy đỏ rực, nên đi xuống con sông ấy, ngay tức thì con sông bốc lửa lên, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy. Chúng sinh địa ngục bị khát nước không sao chịu đựng được, nên nuốt trấu và lá cây cháy đỏ thay cho nước, làm cho chúng sinh địa ngục đau khổ, khóc than thảm thiết.

 Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, nên đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người bán thóc trộn chung với thóc lép và trấu cho người mua, nói rằng: “Thóc này là loại thóc tốt.”

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp do thân, khẩu, ý bất thiện ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị khát nước không sao chịu đựng nổi, đi xuống con sông, nước sông trở thành trấu và lá khô bốc cháy, phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúa Địa Ngục Đâm Chúng Sinh Địa Ngục

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục bị các chúa địa ngục bao vây xung quanh, rồi bị đâm bằng cây giáo, cây chĩa ba, bằng các thứ khí giới khác, thân hình của chúng sinh địa ngục đầy lỗ đâm đau đớn khóc la thảm thiết.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục bị các chúa địa ngục xung quanh, rồi đâm bằng cây giáo,… Những chúng sinh địa ngục ấy bị đâm như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

 Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người trộm cắp, chiếm đoạt của cải tài sản của người khác, hoặc lừa gạt để chiếm đoạt của cải người khác một cách bất hợp pháp, để nuôi mạng.

Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp trộm cắp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị chúa địa ngục bao vây xung quanh, rồi bị đâm bằng cây giáo, cây chĩa ba,…chúng sinh địa ngục phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúa Địa Ngục Chặt Chúng Sinh Địa Ngục

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục bị các chúa địa ngục dùng dây sắt cháy đỏ cột cổ các chúng sinh địa ngục lôi lại đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn. 

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh địa ngục bị các chúa địa ngục dùng dây sắt cháy đỏ cột cổ các chúng sinh địa ngục lôi lại đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn như vậy. Do tiền kiếp của họ đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người làm nghề giết heo, bò, gà, vịt,…để bán thịt nuôi mạng, hoặc làm nghề đánh bắt cá,…để bán cá nuôi mạng.

 Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị chúa địa ngục dùng dây cột cổ các chúng sinh địa ngục lôi lại, đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, rồi chặt ra từng đoạn, chúng sinh địa ngục phải chịu bao nỗi quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúng Sinh Địa Ngục Ăn Phẩn Uống Nước Tiểu

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục ăn phẩn, uống nước tiểu. 

Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy phẩn và nước tiểu dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng sinh địa ngục bị đói khát không chịu nổi, nên ăn phẩn và uống nước tiểu như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người phản bạn, hại bạn, thường hay làm khổ người khác, chúng sinh khác.

 Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải ăn phẩn, uống nước tiểu dơ bẩn như vậy. 

Chúng Sinh Địa Ngục Uống Máu Và Dòi

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh địa ngục uống máu và ăn con dòi. 

Thấy cảnh tượng đáng ghê tởm như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Hồ nước này chứa đầy máu và dòi dơ bẩn có mùi hôi thối tỏa ra, chúng sinh địa ngục bị thiêu đốt nóng nảy, bị đói khát không chịu nổi, nên uống máu và ăn dòi dơ bẩn như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người giết cha, giết mẹ, giết bậc Thánh Arahán. 

Sau khi những người ấy chết, trọng ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục phải chịu quả khổ đói khát không chịu nổi, nên phải uống máu và dòi làm vật thực như vậy.  

Lưỡi Của Chúng Sinh Địa Ngục Bị Lưỡi Câu Móc

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy chúa địa ngục dùng lưỡi câu móc lưỡi của những chúng sinh địa ngục lôi ra đặt nằm trên tấm sắt cháy đỏ, dùng câu móc móc da thịt. Chúng sinh địa ngục nằm quằn quại, đau khổ khóc la, nước miếng chảy ra.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Những chúng sinh địa ngục ấy phải chịu khổ như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người có chức trọng quyền cao có phận sự đặt ra giá mua và giá bán các loài động vật và các loại thực vật, nhưng các quan ấy có tính tham lam ấy ăn hối lộ người mua, nên ép giá người bán, để cho người mua có lợi, rồi các quan ấy được chia phần lợi. Hoặc là những người có hành vi gian lận như dùng cây cân thiếu trọng lượng, v.v…

 Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục phải chịu quả khổ của ác nghiệp của họ như vậy.

Chúng Sinh Trong Địa Ngục HầmThan Hồng

 * Người Nam Phạm Giới Tà Dâm

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy địa ngục hầm than hồng to lớn, các chúa địa ngục nắm đôi chân các chúng sinh địa ngục ném vào địa ngục hầm than hồng, rồi dùng các loại khí giới đâm các chúng sinh địa ngục ấy. 

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Những chúng sinh trong địa ngục hầm than hồng bị đâm như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

 Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ấy, khi còn trên cõi người, là những người nam lấy vợ, con gái của người khác, phạm giới tà dâm.

 Sau khi những người ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả hóa sinh làm những chúng sinh cõi địa ngục bị chúa địa ngục nắm đôi chân đưa lên, cái đầu chúc xuống ném vào địa ngục hầm than hồng, rồi dùng các loại khí giới đâm vào thân hình các chúng sinh địa ngục ấy như vậy.

* Người Nữ Phạm Giới Tà Dâm

Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy các nữ chúng sinh địa ngục có thân hình đáng kinh sợ, bị lở loét toàn thân, ruồi lằng bâu quanh mình, dính đầy máu và mủ, lún sâu dưới đất đến eo, đứng khóc than thảm thiết, hòn núi lửa cháy đỏ lăn đến từ 4 hướng đè bẹp các nữ chúng sinh địa ngục ấy.

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các nữ chúng sinh địa ngục chịu bao cảnh khổ như vậy. Do tiền kiếp của nữ chúng sinh địa ngục đã tạo ác nghiệp như thế nào?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các nữ chúng sinh địa ngục ấy, khi còn trên cõi người, là những người con gái gia đình giàu sang phú quý, khi cô đã có chồng rồi, còn quan hệ lén lút với người đàn ông khác, vì say mê trong tình dục, phạm giới tà dâm. 

  Sau khi những người vợ ấy chết, ác nghiệp tà dâm ấy cho quả hóa sinh làm những nữ chúng sinh địa ngục phải chịu quả khổ của ác nghiệp tà dâm ấy như vậy.

Những Địa Ngục Của Những Chúng Sinh Tà Kiến 

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy những chúng sinh trong cõi địa ngục có hình dáng cao, thấp, nhỏ, lớn khác nhau, có hình thù kỳ dị thật đáng kinh tởm,

Thấy cảnh tượng đáng kinh sợ như vậy, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng: 

- Này thiên nam Mātali! Các chúng sinh ở trong địa ngục như vậy. Do tiền kiếp của các chúng sinh ấy đã tạo ác nghiệp như thế nào?

 Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả khổ của ác nghiệp của các chúng sinh địa ngục ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của các chúng sinh ở trong địa ngục ấy, khi còn trên cõi người, là người có tà kiến thấy sai, không tin nghiệp và quả của nghiệp như sau:

- Làm phước thiện bố thí không có quả,

- Cúng dường không có quả,

- Lễ bái, thỉnh mời …không có quả,

- Làm thiện nghiệp không có quả thiện, làm ác nghiệp không có quả ác, v.v….

 Những người ấy có tà kiến như vậy, nên đã tạo mọi ác nghiệp. sau khi họ chết, ác nghiệp tà kiến cho quả tái sinh kiếp sau có hình thù kỳ dị thật đáng kinh tởm bị thiêu đốt trong cõi địa ngục như vậy.

Đức Vua Trời Sakka Suy Xét

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi nhìn thấy các chúng sinh trong các cõi địa ngục như vậy, thì tại hội trường Sudhammā trên cõi trời Tam thập Tam thiên, Đức Vua trời Sakka cùng số đông chư thiên đang ngồi chờ đợi đón rước Đức Vua Bồ Tát Nimi.

Khi ấy, Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Do nguyên nhân nào mà thiên nam Mātali chậm trễ như thế này, mới thấy thiên nam Mātali đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi xem các cõi địa ngục.”

Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Nếu đi xem các cõi địa ngục như vậy, thì đến hết tuổi thọ của Đức Vua Bồ Tát Nimi cũng không tận cùng được.”

Vậy, ta nên gửi sứ giả bay thật nhanh đến báo tin cho thiên nam Mātali lệnh của ta rằng:

 “- Này Mātali! Ngươi hãy đưa Đại Vương Nimi ngự đến hội trường Sudhammā gấp.”

Nhận được lệnh, Vị thiên nam Mātali tâu Đức Vua Bồ Tát Nimi rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, hạ thần đưa Đại Vương ngự đi xem các chúng sinh trong một số cõi địa ngục. Nay có lệnh Đức Vua trời Sakka truyền lệnh hạ thần thỉnh Đại Vương ngự lên hội trường Sudhammā trên cõi trời Tam thập Tam thiên ngay bây giờ. 

Đường Lên Cõi Trời Tam Thập Tam Thiên 

Lâu Đài 5 Đỉnh

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự lên cõi trời Tam thập Tam thiên. Trên đường ngự đi, Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy lâu đài có 5 đỉnh bằng ngọc maṇi sáng chói, nguy nga lộng lẫy, to lớn 12 do tuần trên hư không. Xung quanh lâu đài có khu vườn rộng, nhiều loại cây đầy hoa quả, có hồ nước lớn, hoa sen, hoa súng đủ loại rất xinh đẹp lạ thường. Bên trong lâu đài, một thiên nữ xinh đẹp ngồi trên ghế dựa, xung quanh có cả ngàn thiên nữ hầu hạ. Đức Vua Bồ Tát Nimi cảm thấy hoan hỷ, nên truyền hỏi vị thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Tiền kiếp của thiên nữ ấy đã từng tạo phước thiện như thế nào mà được hóa sinh trên cõi trời, hưởng sự an lạc trong lâu đài như vậy?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện nghiệp của vị thiên nữ ấy, nên tâu rằng:

 - Muôn tâu Đại Vương cao thượng, vị thiên nữ ấy tên là Bīraṇī, tiền kiếp của thiên nữ là tớ gái (con của người tớ gái) trong gia đình Bà-la-môn, trong thời kỳ Đức Phật Kassapa.

Một hôm, Ông Bà-la-môn muốn cúng dường vật thực đến chư Tỳ khưu, nên ông bảo người vợ và các người con gái của ông, ai cũng đều từ chối không chịu làm. Ông Bà-la-môn đến bảo người tớ gái rằng:

- Này tớ gái! Sáng sớm ngày mai, ngươi có thể lo sửa soạn vật thực, để cúng dường đến chư tỳ khưu tăng được hay không?

Người tớ gái cung kính thưa với ông chủ rằng:

- Kính thưa ông chủ, dạ, con có thể làm được.

Đêm ấy, cô thức dậy từ sáng sớm, cô tớ gái lo sửa soạn vật thực ngon lành đầy đủ một cách chu đáo xong. Khi nhìn thấy chư Tỳ khưu đến đứng trước nhà khất thực, cô tớ gái ra cung kính đón rước vào nhà, kính thỉnh chư Tỳ khưu ngồi trên chỗ cao quý, cô dâng cúng dường vật thực đến chư tỳ khưu một cách rất cung kính. Sau khi chư tỳ khưu dùng xong, cô kính dâng vật dụng chút đỉnh của riêng cô đến chư tỳ khưu. Cô có tâm từ kính yêu chư tỳ khưu ấy. 

Cô tớ gái là người có giới hạnh trong sạch, nên sau khi chết, thiện nghiệp bố thí cúng dường đến chư tỳ khưu cho quả hóa sinh làm thiên nữ có lâu đài có 5 đỉnh trên hư không như vậy.

7 Lâu Đài Trên Hư Không 

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi nhìn thấy 7 lâu đài vàng sáng chói như mặt trời giữa hư không, vị thiên nam trong lâu đài có nhiều oai lực, trang sức các viên ngọc quý, có các thiên nữ xung quang hầu hạ, phục vụ đàn ca múa hát. Vị thiên nam luân chuyển hưởng an lạc trong 7 lâu đài vàng ấy. Đức Vua Bồ Tát Nimi cảm thấy vô cùng hoan hỷ, nên truyền hỏi vị thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Vị thiên nam ấy đã tạo phước thiện như thế nào, mà được hóa sinh trên cõi trời, hưởng sự an lạc trong 7 lâu đài vàng như vậy?

Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện nghiệp của vị thiên nữ ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, vị thiên nam ấy tên là Soṇadinna, tiền kiếp của vị thiên nam là thí chủ Soṇadinna một tỉnh nhỏ trong đất nước Kāsi. Ông cho xây dựng 7 cốc, rồi dâng cúng dường đến chư tỳ khưu trong thời kỳ Đức Phật Kassapa, ông thường hộ độ các thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh đến chư Tỳ khưu. Ông là người cận sự nam có ngũ giới trong sạch, thường thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

Sau khi ông thí chủ Soṇadinna chết, thiện nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm vị thiên nam Soṇadinna có 7 lâu đài vàng sáng chói, hưởng mọi sự an lạc như vậy.

Lâu Đài Bằng Ngọc Maṇi

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi lên cao nhìn thấy lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn phát ra ánh sáng chói ngời mát dịu, có đủ các loại âm thanh hay nghe êm tai. Vị thiên nam có nhiều oai lực trong lâu đài, các thiên nữ trang sức xinh đẹp lộng lẫy ca hát nhảy múa mà chưa từng thấy, chưa từng nghe bao giờ, nên Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Vị thiên nam ấy đã từng tạo phước thiện như thế nào mà được hóa sinh trên cõi trời, hưởng sự an lạc trong lâu đài bằng ngọc maṇi như vậy?

 Vị thiên nam Mātali thấy rõ, biết rõ quả của thiện nghiệp của vị thiên nữ ấy, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, tiền kiếp của vị thiên nam ấy là cận sự nam có giới hạnh trong sạch trong kinh thành Bārāṇasī, thời kỳ Đức Phật Kassapa. Ông cùng nhóm thí chủ xây dựng ngôi chùa, giếng nước, hồ nước, đường sá, cầu đường; ông hộ độ cúng dường chư Thánh A-ra-hán những thứ vật dụng cần thiết như y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh…một cách cung kính; ông thường thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

Sau khi người cận sự nam chết, thiện nghiệp ấy cho quả hóa sinh làm vị thiên nam trong lâu đài bằng ngọc maṇi cao lớn sáng ngời, hưởng mọi sự an lạc như vậy.

Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự trên cỗ xe trời Vejayanta-ratha có 1000 con ngựa báu Sindhava kéo lên càng cao, thì càng nhìn thấy những lâu đài của chư thiên càng nguy nga tráng lệ hơn các lâu đài phía dưới, do oai lực phước thiện lớn của mỗi vị thiên nam, thiên nữ.

7 Ngọn Núi Cao Nơi Cõi Trời Tứ Đại Thiên Vương

Tiếp tục lên cao, nhìn thấy 7 ngọn núi lớn có chiều cao theo tuần tự trong đại dương Sīdantara, Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi vị thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! 7 ngọn núi lớn tên gọi là gì?  

Vị thiên nam Mātali tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, 7 dãy núi lớn tên gọi là núi Sudassana, núi Karavīka, núi Īsadhara, núi Yugandhara, núi Nemindhara, núi Vinataka, núi Assakaṇṇa, mỗi ngọn núi có chiều cao theo tuần tự, ngọn núi sau cao hơn ngọn núi trước. 7 ngọn núi nằm trong đại dương Sīdantara.

* Từ ngọn núi Sudassana thấp đến ngọn núi Karavīka cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara, theo tuần tự như vậy.

* Từ ngọn núi Karavīka thấp đến ngọn núi Īsadhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.

* Từ ngọn núi Īsadhara thấp đến ngọn núi Yugan-dhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.

* Từ ngọn núi Yugandhara thấp đến ngọn núi Nemin-dhara cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.

* Từ ngọn núi Nemindhara thấp đến ngọn núi Vinataka cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara.

* Từ ngọn núi Vinataka thấp đến ngọn núi Assakaṇṇa cao hơn khoảng giữa 2 ngọn núi này có đại dương Sīdantara. Ngọn núi Assakaṇṇa là cao nhất. 7 ngọn núi thấp cao ví như 7 tầng nấc thang.

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, 7 ngọn núi ấy là chỗ ngự của tứ Đại Thiên Vương hộ trì thế giới:

* Đại Thiên Vương Dhataraṭṭha ngự tại hướng Đông.

*Đại Thiên Vương Virūḷhaka ngự tại hướng Nam.

*Đại Thiên Vương Virūpakkha ngự tại hướng Tây.

*Đại Thiên Vương Kuvera ngự tại hướng Bắc.

Vị thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự đi qua 7 ngọn núi, chỗ ngụ của tứ Đại Thiên Vương, rồi tiếp tục ngự đi lên cõi trời Tam thập Tam thiên.

Nhìn thấy cổng cõi trời Tam thập Tam thiên có điêu khắc hình Đức Vua trời Sakka đẹp tuyệt vời, Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Cổng ấy đẹp tuyệt vời có tên gọi là gì?

Vị thiên nam Mātali tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, cổng ấy có tên gọi là Cittakūṭa là cổng ra vào của Đức Vua trời Sakka, cổng ấy có chiều rộng và chiều dài mỗi chiều 1000 do tuần là cổng chính của cõi trời Tam thập Tam thiên nằm trên đỉnh ngọn núi Sineru, thật là xinh đẹp lạ thường, có điêu khắc hình Đức Vua trời Sakka, các hình ảnh sư tử chúa, hổ chúa, v.v…

- Muôn tâu Đại Vương cao thượng, kính thỉnh Đại Vương ngự vào cổng này, ngự đi trên nền cõi trời bằng vàng và ngọc maṇi, xung quanh có các loài hoa trời đủ loại rất xinh đẹp.

Ngự trên cỗ xe trời Vejayantaratha có 1000 con ngựa báu Sindhava kéo bay vào bên trong, Đức Vua Bồ Tát Nimi nhìn thấy hội trường rộng lớn nguy nga tráng lệ tuyệt vời tại cõi trời Tam thập Tam thiên, nên truyền hỏi thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là gì?

Vị thiên nam Mātali tâu rằng:

 - Muôn tâu Đại Vương cao thượng, hội trường rộng lớn ấy có tên gọi là hội trường Sudhammā được phát sinh do quả phước thiện, thật nguy nga lộng lẫy tuyệt vời, các cây cột 8 cạnh bằng ngọc quý nhất.

Hội trường là chỗ hội họp của toàn thể chư thiên cõi trời Tam thập Tam thiên, có Đức Vua trời Sakka chủ trì, để bàn thảo những vấn đề an lạc hạnh phúc của chư thiên và nhân loại.

- Kính thỉnh Đại Vương ngự vào hội trường Sudhammā, nơi mà Đức Vua trời Sakka cùng toàn thể chư thiên đang chờ đón rước Đại Vương.

Đang ngồi chờ đợi Đức Vua Bồ Tát Nimi, toàn thể chư thiên nghe tin báo rằng:

Đức Vua Bồ Tát Nimi đã ngự đến rồi!”

Mỗi vị thiên nam, thiên nữ cầm đóa hoa trời, hương trời, v.v. đi ra tận cổng Cittakūṭa đứng đón rước cúng dường Đức Vua Bồ Tát Nimi, kính thỉnh Ngài ngự vào hội trường Sudhammā.

Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự xuống cỗ xe trời Vejayan-taratha, ngự đi vào hội trường Sudhammā.

Hai bên đường toàn thể chư thiên hoan hỷ đón rước, cúng dường những phẩm vật quý đến Đức Vua Bồ Tát, reo hò rằng:

“Muôn tâu Đại Vương, toàn thể chư thiên chúng con kính chào mừng Đại Vương!

Kính thỉnh Đại Vương ngự lên trên bảo tòa bên cạnh Đức Vua trời Sakka.

Đức Vua trời Sakka vô cùng hoan hỷ tâu rằng: “Bổn vương vô cùng hoan hỷ đón rước Đại Vương của đất nước Videha. Kính thỉnh Đại Vương ngự lên trên bảo tòa cao quý của bổn vương. Kính thỉnh Đại Vương hưởng mọi sự an lạc trên cõi trời Tam thập Tam thiên này.

Nghe Đức Vua trời Sakka kính thỉnh như vậy, Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền bảo rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời, những thứ gì có được do người khác ban tặng, những thứ ấy ví như xe cộ hoặc của cải mượn người của người khác. Do đó, bổn vương không muốn được của người khác ban tặng. Mọi phước thiện mà chính bổn vương tự tạo, đó là thứ của cải riêng của chính mình, gắn bó với mình mà thôi.

Khi hồi cung ngự trở lại kinh thành Mithilā, bổn vương sẽ tạo mọi phước thiện trong cõi người, như bố thí, giữ gìn giới trong sạch, thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thu thúc lục căn thanh tịnh, thực hành pháp hành thiền định, để cho tâm được an lạc, sẽ không bị nóng nảy về sau.

Đức Vua Bồ Tát Nimi thuyết pháp với giọng hay tế độ toàn thể chư thiên, làm cho chư thiên vô cùng hoan hỷ trong lời dạy của Ngài.

Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự tại cõi trời Tam thập Tam thiên([2][1]) chỉ 7 ngày, tính theo thời gian cõi người.

Đức Vua Bồ Tát Nimi tán dương ca tụng vị thiên nam Mātali rằng:

- Này thiên nam Mātali! Ngươi đã đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Trẫm ngự đi xem những chúng sinh trong các cõi địa ngục, do quả của các ác nghiệp, và ngự đi xem những chư thiên trong các lâu đài nguy nga tráng lệ, do quả của các thiện nghiệp. Vậy, ngươi đã có công giúp đỡ Trẫm nhiều.

Đức Vua Bồ Tát Nimi Ngự Trở Lại Cõi Người

Sau đó, Đức Vua Bồ Tát Nimi tâu với Đức Vua trời Sakka rằng:

- Muôn tâu Đức Vua trời, bổn vương đã ngự an hưởng trong cõi trời Tam thập Tam thiên 7 ngày qua. Nay, bổn vương mong muốn hồi cung trở lại kinh thành Mithilā.

 Nghe Đức Vua Bồ Tát Nimi tâu như vậy, Đức Vua trời Sakka truyền lệnh cho thiên nam Mātali đánh cỗ xe trời Vejayantaratha đưa Đại Vương Nimi hồi cung trở về kinh thành Mithilā.

Tuân theo lệnh Đức Vua trời Sakka, vị thiên nam Mātali kính thỉnh Đức Vua Bồ Tát Nimi ngự lên cỗ xe trời Vejayantaratha, đưa Đức Vua Bồ Tát hồi cung ngự trở về kinh thành Mithilā. Vị thiên nam Mātali cung kính đảnh lễ Đức Vua Bồ Tát Nimi, rồi xin phép trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

Dân Chúng Vui Mừng Hoan Hỷ

Biết Đức Vua Bồ Tát Nimi hồi cung ngự trở về cung điện, dân chúng trong kinh thành Mithilā vô cùng vui mừng hoan hỷ đến chầu Đức Vua Bồ Tát Nimi tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, cõi trời Tam thập Tam thiên như thế nào?

Đức Vua Bồ Tát Nimi diễn tả cõi trời Tam thập Tam thiên, quả báu thiện nghiệp của Đức Vua trời Sakka, và quả báu thiện nghiệp của mỗi vị thiên nam, thiên nữ có lâu đài nguy nga tráng lệ tuyệt vời không sao tả được.

Đức Vua Bồ Tát Nimi khuyên dạy rằng: “Nếu các ngươi không dể duôi trong mọi thiện pháp như bố thí, giữ gìn giới trong sạch, thọ trì bát giới Uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, thực hành pháp hành thiền định, … thì cũng sẽ được hóa sinh lên cõi trời Tam thập Tam thiên vậy.”

Đức Vua Bồ Tát thuyết pháp tế độ các dân chúng trong kinh thành Mithilā.

Về sau, khi vị quan cắt tóc, sửa râu thấy một sợi tóc bạc mọc trên đầu Đức Vua Bồ Tát Nimi, nên tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, có một sợi tóc bạc mọc trên đầu của Đại Vương rồi.

Nghe tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền lệnh vị quan ấy nhổ sợi tóc bạc ấy. Vị quan dùng nhiếp vàng nhổ sợi tóc bạc ấy đặt trên bàn tay của Đức Vua Bồ Tát Nimi.

Nhìn thấy sợi tóc bạc ấy, Đức Vua Bồ Tát Nimi phát sinh động tâm, nghĩ đến việc xuất gia trở thành đạo sĩ. Đức Vua Bồ Tát ban cho vị quan ấy một xóm làng để thâu thuế.

Đức Vua Bồ Tát Nimi cho truyền gọi Thái tử đến, rồi truyền dạy rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Phụ vương sẽ truyền ngôi báu lại cho con, còn Phụ vương sẽ từ bỏ cung điện, đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Thái tử tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, do nguyên nhân nào Đức Phụ Vương đi xuất gia trở thành đạo sĩ?

Đức Vua Bồ Tát Nimi truyền dạy rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Một sợi tóc bạc đã mọc trên đầu của Phụ Vương rồi, thời trẻ trung đã qua rồi, sự già đã xuất hiện. Đó là nguyên nhân, đến thời kỳ Phụ Vương nên đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Đức Vua Bồ Tát Nimi làm đại lễ đăng quang cho Thái tử lên nối ngôi vua cha, đó là theo truyền thống từ các đời vua trước.

Đức Vua Bồ Tát Nimi từ bỏ cung điện đi vào vườn xoài, làm lễ xuất gia trở thành đạo sĩ, rồi trú tại vườn xoài, thực hành pháp hành thiền định đề mục tứ vô lượng tâm: niệm rải tâm từ đến chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm bi đến chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm hỷ đến chúng sinh vô lượng; niệm rải tâm xả đến chúng sinh vô lượng dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới cho đến khi chết.

Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên, trên cõi trời sắc giới phạm thiên, hưởng sụ an lạc cho đến khi hết tuổi thọ trên cõi trời sắc giới ấy.

Còn Đức Vua Kāḷārajanaka là Thái tử của Đức Vua Bồ Tát Nimi không còn giữ gìn, duy trì theo truyền thống xuất gia của Đức Phụ Vương nữa. 

Đức Thế Tôn thuyết về tích Nimijātaka xong, rồi truyền dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Không chỉ kiếp hiện tại Như Lai từ bỏ ngai vàng đi xuất gia, mà còn trong những tiền kiếp trong quá khứ, khi Như Lai còn là Đức Bồ Tát cũng từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

 Đức Thế Tôn thuyết về tứ đế, chư tỳ khưu chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chứng đắc Thánh Đạo-Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh Nhân, tùy theo năng lực trí tuệ Ba-la-mật của mỗi vị.

Tích Nimijātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

 Tích Nimijātaka này, Đức Vua Bồ Tát Nimi, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, thực hành pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật bậc hạ trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của các nhân vật trong tích Nimijātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

- Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha,

 - Vị thiên nam Mātali, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānanda,

 - 84.000 Đức Vua, nay kiếp hiện tại là tứ chúng: Tỳkhưu, Tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ,

- Đức Vua Bồ Tát Nimi, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 

(Xong pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật bậc hạ)

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn