(Xem: 1488)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp hạnh Tâm từ Ba la mật (Bậc hạ-bậc trung)

14 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 8889)

 


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 3)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp hạnh Tâm từ Ba la mật có 3 bậc:

 (Mettāpāramī)

 

 

Pháp Hạnh Tâm Từ Ba-la-mật Bậc Hạ

Tích Arakajātaka (Á-rá-ká-cha-tá-ká)

Trong tích Arakajātaka[1] Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Bà-la-môn Araka thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc hạ (Mettāpāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, gọi chư Tỳ Khưu truyền dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Khi tỳ khưu thực hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng trở nên thành thạo, làm nền tảng vững chắc, tâm an tịnh, chứng đắc bậc thiền sắc giới, được tích lũy nhiều, nên được 11 quả báu như sau:

- Ngủ được an lạc,

- Thức dậy được an lạc,

- Không thấy ác mộng,

- Được mọi người yêu mến,

- Được các hàng phi nhân yêu mến,

- Được chư thiên hộ trì,

- Lửa, thuốc độc, khí giới không làm hại được,

- Tâm an định mau,

- Gương mặt trong sáng,

 - Tỉnh táo lúc lâm chung,

 - Nếu chưa trở thành bậc Thánh A-ra-hán thì sẽ hóa sinh trong cõi trời sắc giới phạm thiên.

- Này chư tỳ khưu! Khi tỳ khưu thực hành niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh nhiều trở nên thành thạo, …., nên được 11 quả báu như vậy.

- Này chư Tỳ khưu! Thông thường, tỳ khưu thực hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh vô lượng muôn loài có chỉ định và không chỉ định, với tâm mong sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc.

Tỳ khưu thực hành niệm rải tâm bi đến chúng sinh vô lượng, niệm rải tâm hỷ đến chúng sinh vô lương, niệm rải tâm xả đến chúng sinh vô lượng muôn loài có chỉ định và không chỉ định, với tâm mong sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc.

Tỳ khưu thực hành tứ vô lượng tâm như vậy, nếu chưa chứng đắc 4 Thánh đạo, 4 Thánh quả, và Niết Bàn thì sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả hóa sinh kiếp sau làm phạm thiên trên cõi sắc giới phạm thiên.

Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

Trong thời quá khứ, các bậc tiền bối thiện trí thực hành niệm rải tâm từ đến chúng sinh vô lượng suốt 7 năm. Sau khi chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả hóa sinh kiếp sau làm phạm thiên trên cõi sắc giới phạm thiên suốt 7 kiếp trái đất hoại và kiếp trái đất trụ (saṃvaṭṭakappa-vivaṭṭakappa).”  

Đức Thế Tôn thuyết tích Arakajātaka, tiền kiếp của Ngài được tóm lược như sau:

Tích Arakajātaka

Thời quá khứ, trong một kiếp trái đất ấy, Đức Bồ Tát, tiền kiếp Đức Phật Gotama, sinh trong dòng dõi Bà-la-môn tên là Araka.

Khi trưởng thành, Đức Bồ Tát Araka nhàm chán các

đối tượng ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục), nên từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành đạo sĩ ở tại trong rừng núi Himavanta, thực hành pháp hành thiền định đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài. 

Về sau, Đức Bồ Tát đạo sĩ Araka có nhiều đệ tử, nên trở thành vị Tôn Sư. Đức Bồ Tát đạo sĩ truyền dạy các đệ tử đạo sĩ rằng:

- Này các đệ tử! Thông thường, bậc xuất gia nên thực hành đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, sẽ được 11 quả báu của tâm từ.

 Bậc xuất gia nên thực hành niệm rải tâm bi đến tất cả chúng sinh vô lượng, niệm rải tâm hỷ đến tất cả chúng sinh vô lượng, niệm rải tâm xả đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, nếu tâm đạt đến an định vững chắc, chứng đắc các bậc thiền sắc giới.

Sau khi hành giả ấy chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Hành giả có thiện tâm tế độ với tâm từ đối với tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài, phía trên từ mặt đất lên đến tột đỉnh cõi trời vô sắc‘Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên,’ phía dưới từ mặt đất xuống đến cõi đại địa ngục ‘Ussadamahānaraka,’ bề ngang cõi người, toàn thể thế giới chúng sinh, niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng rằng: “Cầu mong tất cả chúng sinh muôn loài không oan trái lẫn nhau, không có khổ tâm, không có khổ thân, xin giữ gìn thân tâm được an lạc (Sabbe sattā averā hontu, abyāpajjā, anīghā, sukhī attānaṃ pariharantu).

Hành giả thực hành niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng, cầu mong sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc đến tất cả chúng sinh vô lượng không giới hạn, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc giới.

Cho nên, sau khi hành giả ấy chết, dục giới thiện nghiệp không có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau, mà chỉ có sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên mà thôi.

Đức Bồ Tát đạo sư Araka truyền dạy nhóm đệ tử như vậy, Ngài giữ gìn duy trì các bậc thiền sắc giới, không bị hư hoại cho đến chết.

Sau khi Ngài chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh làm phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên suốt 7 kiếp trái đất hoại và kiếp trái đất trụ. (saṃvaṭṭa-kappa-vivaṭṭakappa).

 Tích Arakajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Arakajātaka này, Đức Bồ Tát đạo sư Araka, tiền kiếp của Đức Phật Gotama trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, những hậu kiếp của nhân vật trong tích ấy liên quan đến kiếp hiện tại như sau:

- Nhóm đệ tử đạo sĩ, nay kiếp hiện tại họ là tứ chúng: tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ.

- Đức Bồ Tát đạo sư Araka, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

 

(Xong pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc hạ)


 

9.2 - Pháp Hạnh Tâm Từ Ba-la-mật Bậc Trung

 (Mettā upapāramī ) 

Tích Suvaṇṇasāmajātaka (Xú-wanh-ná-xa-má-cha-tá-ká)

Trong tích Suvaṇṇasāmajātaka[2]Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm con của Đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā, thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung (Mettā upapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi, Khi ấy, đề cập đến vị Tỳ khưu chí hiếu biết lo phụng dưỡng cha mẹ một cách chu đáo, Đức Thế Tôn khen ngợi vị Tỳ khưu ấy.

*Vị Tỳ Khưu Con Ông Bà Phú Hộ.

Trong kinh thành Sāvatthi, một ông bà phú hộ có của cải tài sản đến 180 triệu (tiền Ấn xưa) mà chỉ có một người con trai duy nhất, người con trai là nguồn vui tinh thần của hai ông bà phú hộ. 

Một hôm, công tử đứng trên lâu đài nhìn xuống đường lớn, thấy một số đông người tay cầm hoa, vật thơm đi đến chùa Jetavana, để nghe Đức Phật thuyết pháp, công tử mới nghĩ rằng: “Ta cũng nên đi theo họ đến chùa Jetavana, để nghe Đức Phật thuyết pháp.”

Nghĩ xong, công tử nhờ người nô bộc đi mua hoa, vật thơm, v.v… công tử đem hoa, vật thơm, các phẩm vật đến chùa Jetavana đảnh lễ, cúng dường lên Đức Phật, và cúng dường các bộ y, thuốc trị bệnh, các thứ nước trái cây đến chư Đại Đức Tỳ khưu tăng, rồi ngồi một nơi hợp lẽ, lắng nghe Đức Phật thuyết pháp.

Công tử nhận thức thấy rõ rằng: “Tội lỗi của ngũ dục (sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục), đời sống của người tại gia có nhiều ràng buộc phiền toái, chật hẹp. Thấy rõ đời sống của bậc xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật thì thật là cao quý biết dường nào!”

 Sau khi nghe Đức Phật thuyết pháp xong, mọi người đứng dậy tuần tự trở về nhà, còn công tử đến hầu đảnh lễ Đức Phật, xin Ngài cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Ngài.

Đức Thế Tôn truyền dạy công tử rằng:

- Này con! Như Lai không cho phép xuất gia đối với những người con mà cha mẹ chưa cho phép.

Vậy, con nên trở về nhà xin cha mẹ cho phép trước, rồi trở lại đây. Khi ấy, Như Lai sẽ cho phép con xuất gia trở thành Tỳ Khưu trong giáo pháp của Như Lai.

Nghe lời dạy của Đức Phật, công tử thành kính đảnh lễ Đức Phật, rồi xin phép trở về nhà.

Khi về nhà, công tử vào đảnh lễ cha mẹ, rồi thưa rằng:

- Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ cho phép con xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Nghe đứa con yêu quí nhất thưa như vậy, hai ông bà phú hộ cảm thấy vô cùng khổ tâm, bởi vì công tử là đứa con duy nhất, mà ông bà thương yêu quí mến nhất nên hai ông bà phú hộ bảo với con rằng:

- Này con yêu quí! Con là đứa con duy nhất của cha mẹ, con là nguồn hạnh phúc an lạc, là nơi nương nhờ duy nhất của cha mẹ, thì làm sao cha mẹ có thể cho phép con đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama được.

- Này con yêu quí! Đời sống của bậc xuất gia Tỳ khưu khổ lắm con ạ! Vì vậy, con chớ nên xuất gia trở thành Tỳ khưu. Con chỉ nên sống tại gia, tạo mọi phước thiện như bố thí, giữ giới, v.v… mà thôi.

Cha mẹ không thể nào cho phép con xuất gia trở thành Tỳ khưu được.

Nghe cha mẹ dạy bảo như vậy, công tử thất vọng khổ tâm, không dùng vật thực suốt 7 ngày.

Hai ông bà phú hộ khẩn khoản khuyên bảo đủ điều, nhưng công tử không nghe lời cha mẹ, mà chỉ quyết tâm muốn xuất gia trở thành Tỳ khưu mà thôi.

Thấy vậy, hai ông bà phú hộ bàn bạc với nhau rằng:

Nếu chúng ta không cho phép con đi xuất gia trở thành Tỳ khưu theo ý nguyện của nó, đứa con duy nhất của chúng ta sẽ chết, thì chúng ta sẽ không còn có cơ hội nhìn thấy con của chúng ta nữa.

Nhưng nếu chúng ta cho phép con đi xuất gia trở thành Tỳ khưu, thì chúng ta sẽ còn có cơ hội nhìn thấy con của chúng ta, hoặc sau khi con xuất gia trở thành Tỳ khưu, nếu không chịu nổi khổ cực thiếu thốn, thì nó trở về lại nhà của chúng ta mà thôi.

Sau khi bàn bạc xong, hai ông bà phú hộ bảo với công tử rằng:

- Này con yêu quí! Cha mẹ đồng ý cho phép con đi xuất gia trở thành Tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Nghe cha mẹ bảo như vậy, công tử cảm thấy vô cùng hoan hỷ, bắt đầu ăn uống tắm rửa trở lại, qua ít hôm sau sức khoẻ của công tử đã hồi phục. Công tử đến hầu đảnh lễ cha mẹ, xin phép đi xuất gia.

Công Tử Xuất Gia Trở Thành Tỳ Khưu

Công tử đi đến hầu đảnh lễ Đức Phật, kính xin Ngài cho phép xuất gia. Đức Phật truyền bảo một vị Tỳ khưu làm thầy tế độ cho công tử xuất gia trở thành Sa di.

Sau khi trở thành sa di một thời gian, vị thầy tế độ làm lễ nâng vị sa di lên trở thành Tỳ khưu.

 Sau khi trở thành Tỳ khưu, vị Tỳ khưu ấy nương nhờ nơi thầy tế độ cố gắng tinh tấn theo học pháp học và pháp hành: pháp hành giới, pháp hành định, pháp hành tuệ rành rẽ suốt 5 năm .

Một hôm, vị Tỳ khưu ấy nghĩ rằng:

Ta sống tại nơi này, có nhiều bà con, bạn bè đến thăm viếng, cúng dường các thứ vật dụng nhiều. Đó là điều bất lợi đối với ta, ta có chí nguyện xuất gia mong giải thoát khổ.

Vậy, ta nên tìm một nơi thanh vắng, để thuận lợi thực hành pháp hành thiền tuệ.

Sau khi suy nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy đảnh lễ thầy tế độ, xin Ngài cho phép được rời khỏi ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi này, tìm một nơi thanh vắng để thuận lợi thực hành pháp hành thiền tuệ.

Được vị thầy tế độ cho phép, vị Tỳ khưu ấy đến một khu rừng vắng vẻ ở vùng biên giới. Tại khu rừng này, dù vị Tỳ khưu tiến hành pháp hành thiền tuệ suốt 12 năm, mà vẫn chưa chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chưa chứng đắc Thánh Đạo, Thánh Quả nào.

Ông Bà Phú Hộ Trở Nên Người Nghèo Khổ

Về phần hai ông bà phú hộ, cha mẹ của vị Tỳ khưu ấy, thương nhớ đến người con yêu quý, nỗi khổ tâm thương nhớ, cho nên công việc làm ăn càng ngày càng suy thoái, không có người trông nom, của cải tài sản càng ngày càng tiêu hao dần một cách mau chóng, do người ta chiếm đoạt tất cả các của cải tài sản, ruộng vườn, thậm chí đến ngôi nhà to lớn cũng bị người ta chiếm đoạt luôn.

 Hai ông bà trở nên người nghèo khổ, dẫn dắt nhau đi xin ăn qua ngày.

Một hôm, Ngài Đại Đức từ ngôi chùa Jetavana đến khu rừng tại biên giới, gặp vị Tỳ khưu con của ông bà phú hộ trong kinh thành Sāvatthi năm xưa. Vị Tỳ khưu tiếp đón Ngài Đại Đức khách, thăm hỏi lẫn nhau vô cùng hoan hỷ. 

Được biết Ngài Đại Đức khách này từ ngôi chùa Jetavana mới đến, nên vị Tỳ khưu bạch hỏi về Đức Thế Tôn cùng chư Đại Đức Tăng trong chùa, vị thầy tế độ của mình, rồi bạch hỏi về ông bà phú hộ trong kinh thành Sāvatthi đời sống như thế nào.

Nghe vị Tỳ khưu bạch hỏi như vậy, Ngài Đại Đức khách trả lời rằng:

- Này pháp đệ! Ông bà phú hộ ấy có một người con trai duy nhất đã xuất gia trở thành Tỳ khưu và vị Tỳ khưu ấy đã mất tích nhiều năm rồi. Còn của cải tài sản của ông bà phú hộ đã bị khánh kiệt. Bây giờ, hai ông bà lâm vào tình cảnh khổ cực, hằng ngày, hai ông bà dẫn nhau đi xin ăn sống qua ngày.

Nghe Ngài Đại Đức nói như vậy, vị Tỳ khưu vô cùng xúc động, ngẹn ngào đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa.

Thấy vậy, Ngài Đại Đức hỏi rằng:

- Này pháp đệ! Hai ông bà ấy có liên quan với pháp đệ như thế nào ?

Vị Tỳ khưu thưa rằng:

- Kính bạch Ngài Đại Đức, hai ông bà ấy chính là

thân phụ thân mẫu của đệ, còn đệ là người con duy nhất của hai ông bà ấy. Thưa Ngài.

Ngài Đại Đức khuyên rằng:

- Này pháp đệ! Sở dĩ thân phụ, thân mẫu của pháp đệ lâm vào hoàn cảnh khổ như vậy, là vì pháp đệ.

Vậy, pháp đệ phải có bổn phận lo phụng dưỡng cha mẹ già yếu của pháp đệ.

Nghe lời khuyên dạy của Ngài Đại Đức, vị Tỳ khưu con của ông bà phú hộ nghĩ rằng: “Dù ta đã cố gắng tinh tấn thực hành pháp hạnh thiền tuệ suốt 12 năm qua, mà vẫn chưa chứng ngộ chân lý tứ Thánh Đế, chưa chứng đắc được Thánh Đạo-Thánh Quả nào. Có lẽ ta chưa có đủ các pháp hạnh Ba-la-mật.

Vậy, ta nên hoàn tục trở thành người cận sự nam, để thuận tiện cho việc chăm nom săn sóc, phụng dưỡng cha mẹ già của ta, rồi cố gắng tạo các phước thiện như bố thí, giữ giới, hành thiền, v.v…”

Nghĩ xong, vị Tỳ khưu ấy rời khỏi khu rừng, lên đường trở về kinh thành Sāvatthi, đi tìm cha mẹ. Khi đến một ngõ rẽ, một ngõ đi vào kinh thành Sāvatthi và một ngõ đi đến chùa Jetavana. Vị Tỳ khưu ấy đứng tại ngõ rẽ suy nghĩ rằng: “Ta nên đi tìm cha mẹ trước hay đến đảnh lễ Đức Phật trước, rồi suy nghĩ tiếp rằng:Tuy ta đã xa cách cha mẹ ta nhiều năm qua, nhưng mà sau này hằng ngày, ta thường gần gũi chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ ta. Khi ấy, ta không có nhiều thời gian thân cận với Đức Phật để nghe pháp của Ngài.

Vậy, hôm nay ta nên đến đảnh lễ Đức Thế Tôn trước, rồi sáng hôm sau, ta sẽ đi tìm cha mẹ của ta.”

Sau khi suy nghĩ như vậy, vị tỳ khưu ấy đi theo con đường dẫn đến chùa Jetavana. Đến nơi trời đã về chiều, vị tỳ khưu ấy tìm đến đảnh lễ Đức Phật, rồi nghe Ngài thuyết pháp.

Canh chót đêm ấy, sau khi xả đại bi định, rồi suy xét chúng sinh có duyên lành nên tế độ, Đức Thế Tôn thấy vị Tỳ khưu con của ông bà phú hộ trong kinh thành Sāvatthi năm xưa, là người có duyên lành nên tế độ.

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết bài kinh Mātuposaka-sutta, Đức Phật tán dương người con chí hiếu biết chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ bằng những thứ vật dụng cần thiết có được bằng cách hợp pháp.

Chư bậc thiện trí đều tán dương ca tụng những người con chí hiếu biết lo phụng dưỡng cha mẹ trong đời này như vậy. Sau khi những người con ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời, được hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Sau khi nghe bài kinh Mātuposakasutta ấy xong, vị Tỳ khưu suy xét đúng đắn rằng: “Trước đây, ta có ý định hoàn tục trở thành người cận sự nam, để thuận tiện lo chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ. Nay, nghe Đức Phật thuyết giảng bài kinh này, giúp ta hiểu rõ rằng: “Dù ta là Tỳ khưu có được những thứ vật dụng cần thiết bằng cách hợp pháp, cũng nuôi nấng, phụng dưỡng cha mẹ của ta được.

Như vậy, ta không nên hoàn tục trở thành người cận sự nam, mà ta vẫn là tỳ khưu cũng phụng dưỡng cha mẹ già của ta được.”

Sáng ngày hôm sau, vị tỳ khưu ấy đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi mang bát đến chỗ các thí chủ làm phước thiện bố thí cháo buổi sáng. Sau khi được cháo xong, vị Tỳ khưu mang bát cháo đi vào kinh thành Sāvatthi, để tìm cha mẹ của Ngài.

Cảnh Đoàn Tụ Cha Mẹ

Nhìn thấy cha mẹ vừa xin cháo đem về, ngồi bên vách nhà người khác, vị Tỳ khưu ấy đến gần chỗ cha mẹ của Ngài, đứng trước cảnh tượng đau lòng ấy, Ngài vô cùng cảm động trào đôi dòng nước mắt chảy ra ràn rụa, nghẹn ngào quá không nói lên lời, Ngài đứng chết điếng cả người.

Lúc đó, cha mẹ của Ngài chưa nhận ra Ngài, nên nghĩ rằng: Vị Tỳ khưu ấy đang đứng khất thực.

Mẹ Ngài bạch rằng:

- Kính bạch Ngài, Nay chúng tôi nghèo khổ không có vật thực gì xứng đáng để cúng dường đến Ngài. Xin Ngài đi đến ngôi nhà khác.

Nghe lời nói tha thiết thân thương của thân mẫu, Ngài cảm động quá nên đứng bất động. Thân phụ của Ngài thấy vị Tỳ khưu có cảm giác khác thường, nên bảo thân mẫu của Ngài hãy đến gần xem kỹ vị tỳ khưu ấy có phải là con của họ hay không?

Thân mẫu của Ngài đứng dậy đến gần, thì nhận ra được Ngài chính là người con yêu quý của ông bà mà họ đã khắc khoải mong chờ lâu nay. Vì quá xúc động bà quỵ xuống chân của vị tỳ khưu rồi khóc lên thành tiếng, thân phụ của Ngài đến đỡ bà lên và nhận ra Ngài là con của ông bà rồi ông cũng khóc. Vị tỳ khưu thấy cha mẹ của Ngài khóc, Ngài không ngăn nổi cơn xúc động nên cũng oà lên khóc. 

Đó là một cảnh tượng thật thương tâm, lúc đoàn tụ cha mẹ .

Vị Tỳ khưu cố gắng thốt lên từng lời rằng:

- Thưa cha mẹ, xin cha mẹ đừng khóc than sầu não nữa, kể từ ngày hôm nay, xin cha mẹ cho bần sư được phép phụng dưỡng cha mẹ.


[1] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần dukanipāta, Tích Arakajātaka.

[2] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Mahānipāta, Tích Suvaṇṇasāmajātaka


Tỳ Khưu Phụng Dưỡng Cha Mẹ

Vị tỳ khưu trao bát cháo của Ngài cho cha mẹ dùng buổi sáng, rồi Ngài dẫn cha mẹ đến một nơi thuận lợi, mời cha mẹ nghỉ ngơi tại nơi đó, còn vị tỳ khưu mang bát vào trong kinh thành Sāvatthi đi khất thực, đem vật thực về mời cha mẹ dùng.

Sau đó, Ngài lại đi khất thực một lần nữa, có được bao nhiêu vật thực, Ngài mời ba mẹ dùng thêm. Khi cha mẹ no đủ, Ngài mới dùng phần vật thực còn lại.

Vị tỳ khưu mời cha mẹ đến ở chỗ đàng hoàng, hằng ngày, vị tỳ khưu ấy chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ đầy đủ, không để cha mẹ phải chịu cảnh đói khát như trước nữa.

Ngày nào đi khất thực có được vật thực đủ dùng, Ngài dâng vật thực cho cha mẹ dùng no đủ, nếu vật thực còn thừa thì Ngài mới dùng phần vật thực ấy.

Vì vậy, thân thể của Ngài càng ngày càng gầy, vì thiếu vật thực.

Nếu có được tấm vải mới nào thì Ngài đều đem dâng tấm vải mới ấy đến cha mẹ mặc. Nếu cha mẹ xả bỏ tấm choàng cũ thì vị tỳ khưu đem giặt sạch sẽ, rồi nhuộm màu lại vá vào tấm y cũ rách của Ngài, hoặc lượm các tấm vải mà người ta vất bỏ, đem về giặt sạch sẽ, nhuộm màu lại, rồi vá vào tấm y cũ rách của Ngài, cho nên tấm y của vị tỳ khưu ấy có nhiều miếng vá.

Vị tỳ khưu ấy chỉ biết lo chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ cho được no ấm mà thôi. Về phần Ngài có bữa no bữa đói, cho nên thân thể gầy ốm, mặc bộ y cũ có nhiều miếng vá. 

Nhìn thấy vị tỳ khưu ấy gầy ốm xanh xao, mặc bộ y cũ có nhiều mảnh vá như vậy, nên các vị Tỳ khưu khác hỏi Ngài rằng:

- Này pháp hữu! Trước kia pháp hữu có thân thể khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, nhưng nay thân thể của pháp hữu gầy ốm xanh xao như vậy, pháp hữu có mắc phải bệnh gì không?

Pháp hữu không có y mặc hay sao, mặc bộ y quá cũ có nhiều miếng vá như vậy?

Nghe các vị tỳ khưu khác hỏi như vậy, vị tỳ khưu ấy trả lời rằng:

- Này quý pháp hữu! Thật ra, tôi không bị mắc bệnh gì cả, rồi thuật chuyện lo chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ già cho chư tỳ khưu nghe rằng:

- Này quý pháp hữu! Hằng ngày, tôi đi khất thực, được bao nhiêu vật thực tôi đều đem về dâng lên cho cha mẹ tôi dùng trước, khi cha mẹ tôi đã dùng no đủ, thì tôi mới dùng phần còn lại, nên có bữa no bữa đói. Vì vậy, thân thể của tôi bị gầy ốm, xanh xao như thế này. Tôi không bị mắc bệnh gì cả.

Và nếu khi tôi có tấm vải mới nào thì tôi dâng tấm vải ấy đến cha mẹ tôi mặc. Nếu cha mẹ tôi xả bỏ tấm choàng cũ thì tôi lấy, hoặc tôi lượm tấm vải người ta bỏ, đem giặt sạch sẽ, nhuộm màu lại, rồi vá vào tấm y cũ rách của tôi. Cho nên, tấm y của tôi có nhiều miếng vá.

Nghe vị tỳ khưu thuật chuyện như vậy, các pháp hữu bảo với vị tỳ khưu ấy rằng:

- Này pháp hữu! Những thí chủ có đức tin trong sạch làm phước thiện bố thí các món vật thực, vải may y, … cúng dường đến chư tỳ khưu, Đức Thế Tôn không cho phép tỳ khưu đem những thứ vật thực, vải may y ấy, để phụng dưỡng người tại gia cư sĩ. 

Vậy, pháp hữu đã làm việc không nên làm.

Nghe lời chê trách của pháp hữu vị tỳ khưu ấy cảm thấy hổ thẹn.

Chư tỳ khưu ấy đem việc này bạch lên Đức Thế Tôn rằng:

- Kính Bạch Đức Thế Tôn, vị tỳ khưu ấy đem những vật thực, vải may y mà thí chủ làm phước bố thí với đức tin trong sạch nơi chư tỳ khưu, để phụng dưỡng người tại gia cư sĩ.

Đức Thế Tôn truyền dạy gọi vị tỳ khưu ấy đến bèn hỏi rằng:

- Này Tỳ khưu! Như Lai nghe nói con đem những vật thực, vải may y mà thí chủ làm phước bố thí với đức tin trong sạch cúng dường đến chư tỳ khưu Tăng, để phụng dưỡng người tại gia cư sĩ. Chuyện đó có thật hay không?

Vị Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chuyện đó có thật. Bạch Ngài.

Đức Thế Tôn truyền hỏi rằng:

- Này Tỳ khưu! Con đem những vật thực, vải may y ấy, để phụng dưỡng người tại gia cư sĩ ấy, họ là người liên quan với con thế nào vậy?

- Kính bạch Đức Thế Tôn, Con đem những vật thực, vải may y để phụng dưỡng người tại gia cư sĩ ấy, họ là cha mẹ của con. Bạch Ngài.

Để cho vị Tỳ khưu ấy phát sanh đại thiện tâm hoan hỷ, nên Đức Phật tán dương ca tụng rằng:

Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay! Lành thay! ba lần như vậy.

Đức Thế Tôn truyền dạy tỳ khưu ấy rằng:

- Này Tỳ khưu! Con là người con chí hiếu, có đức tính tri ân và báo ân cha mẹ, biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ già.

Con đã làm bổn phận người con chí hiếu mà tiền kiếp của Như Lai đã từng biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ già đui mù trong thời quá khứ.

Nghe Đức Thế Tôn truyền dạy như vậy, chư tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết về tiền kiếp của Ngài.

Đức Thế Tôn thuyết giảng tích Suvaṇṇasāmajātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, một ngôi làng không xa kinh thành Bārāṇasi, một người thợ săn trưởng xóm nhà gồm có 500 gia đình ở bờ sông bên này và có một người thợ săn trưởng xóm nhà gồm có 500 gia đình ở bờ sông bên kia, hai người thợ săn trưởng này là hai người bạn thân thiết với nhau.

Khi còn trẻ hai người bạn giao ước với nhau rằng:

“Sau này, nếu hai chúng ta mỗi người lập gia đình, người này sinh con trai, người kia sinh con gái thì hai chúng ta sẽ làm sui gia với nhau, cho hai đứa con chúng ta thành vợ thành chồng với nhau”.

Về sau, gia đình người thợ săn trưởng xóm bờ sông bên này sinh được đứa bé trai, cha mẹ đặt tên là Dukūlakumāra (Bé trai Dukūla), và gia đình người thợ săn trưởng xóm bờ sông bên kia sinh được bé gái, cha mẹ đặt tên là Pārikākumārī (Bé gái Pārikā). 

Hai đứa bé trai và bé gái rất xinh đẹp có màu da như màu vàng, tuy hai đứa con sinh trong hai gia đình thợ săn, nhưng hai đứa con ấy không bao giờ tạo ác nghiệp sát sinh theo nghề nghiệp gia đình.

Khi cậu Dukūla và cô Pārikā đều trưởng thành lên mười sáu tuổi. cha mẹ của cậu Dukūla nói với đứa con trai rằng:

- Này Dukūla con yêu quý! Cha mẹ sẽ cưới cô Pārikā rất xinh đẹp có màu da như màu vàng, giống như con, là con gái của người bạn thân, đem về làm vợ của con.

Nghe người cha nói như vậy, cậu Dukūla bịt hai lỗ tai không muốn nghe, bởi vì tiền kiếp của cậu vốn là vị phạm thiên ở cõi trời sắc giới, hết tuổi thọ, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm người trong gia đình người thợ săn trưởng này. Cho nên, tâm của cậu không say mê trong ngũ dục: sắc dục, thanh dục, hương dục, vị dục, xúc dục. Cậu Dukūla thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ đừng nói đến vấn đề ấy với con, con không muốn có vợ đâu!

Cha mẹ cậu Dukūla khẩn khoản hai ba lần, nhưng cậu Dukūla vẫn khăng khăng không chịu ưng thuận.

Còn cha mẹ của cô Pārikā nói với con gái rằng:

- Này Pārikā con yêu quý! Cha mẹ sẽ gả con cho cậu Dukūla rất đẹp trai có màu da như màu vàng giống như con, là con trai của người bạn thân, làm chồng của con.

Nghe cha mẹ nói như vậy, cô Pārikā bịt hai lỗ tai không muốn nghe, bởi vì tiền kiếp của cô vốn là vị phạm thiên ở cõi trời sắc giới, hết tuổi thọ, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm con trong gia đình người thợ săn trưởng này. Cho nên, tâm cô không say mê trong ngũ dục.

Cô Pārikā thưa với cha rằng:

- Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ đừng nói vấn đề ấy với con, con không muốn lấy chồng đâu!

Cha mẹ cô Pārikā khẩn khoảng hai ba lần, nhưng cô Pārikā vẫn khăng khăng không chịu ưng thuận. Hai gia đình bạn thân này đã từng giao ước với nhau từ khi còn trẻ, cho nên hai gia đình giữ gìn lời giao ước năm xưa ấy, bắt buộc hai đứa con của hai gia đình phải vâng lời cha mẹ.

Khi ấy, cậu Dukūla bí mật gởi thư cho cô Pārikā với lời lẽ rằng: “Cô Pārikā! Nếu cô muốn lấy chồng, rồi ăn ở với chồng, thì cô nên lấy người con trai khác, còn tôi không thể ăn ở với cô được”

Còn cô Pārikā cũng bí mật gởi thư cho cậu Dukūla với lời lẽ cũng giống như cậu Dukūla rằng: “Anh Dukūla! Nếu anh muốn lấy vợ, rồi ăn ở với vợ, thì anh nên lấy cô gái khác, còn em không thể ăn ở với anh được”

Lễ Thành Hôn Hành Phạm Hạnh

Cậu Dukūla và cô Pārikā đã bí mật hiểu lòng nhau. Sau đó, hai gia đình tổ chức làm lễ thành hôn cho cậu Dukūla và cô Pārikā đúng theo lời giao ước năm xưa. Cậu Dukūla và cô Pārikā chính thức thành vợ chồng với nhau, hai vợ chồng tuy thân sống chung với nhau một nhà, nhưng tâm thì giống như hai vị phạm thiên hoàn toàn không nghĩ đến tình dục.

Cha mẹ cậu Dukūla bảo cậu rằng:

- Này Dukūla con yêu quý! Con sinh ra trong gia đình người thợ săn mà con không làm nghề thợ săn.

Vậy, sau này con làm nghề gì để nuôi sống gia đình.

Cậu Dukūla thưa với cha mẹ rằng:

- Kính thưa cha mẹ, xin cha mẹ cho phép hai con từ bỏ nhà đi xuất gia trở thành Đạo sĩ ở trong rừng Himavanta, sống bằng các loại trái cây, các loại củ và lá rừng.

Nghe con nói như vậy, không còn cách nào khác, cha mẹ đành chịu cho phép đứa con trai và con dâu đi xuất gia trở thành đạo sĩ.

Hai Vợ Chồng Đều Trở Thành Đạo sĩ

Cậu Dukūla và cô Pārikā vô cùng hoan hỷ đảnh lễ cha mẹ, xin phép từ giã cha mẹ, dẫn nhau rời khỏi nhà đi vào rừng Himavanta đến bên bờ sông Migasammatā.

Khi ấy, chỗ ngồi của Đức Vua Sakka cõi trời Tam thập Tam thiên phát nóng, Đức Vua Sakka xem xét nguyên nhân bằng thiên nhãn, thấy rõ hai bậc đại nhân là cậu Dukūla và cô Pārikā đang đi vào rừng núi Himavanta đến chỗ bến sông Migasammatā.

Đức Vua Sakka truyền lệnh vị thiện nam Vissa-kamma xuất hiện xuống rừng núi Himavanta, chỗ bến sông Migasammatā hoá ra hai cốc lá cùng những thứ vật dụng cần thiết như y phục đạo sĩ v.v… cho hai bậc đại nhân, con đường dẫn đến hai cốc lá, đường đi kinh hành, con đường đi vào rừng tìm trái cây, v.v… để hai bậc đại nhân thuận lợi thực hành phạm hạnh cao thượng.

Tuân lệnh Đức Vua trời Sakka, vị thiện nam Vissa-kamma xuất hiện xuống rừng núi Himavanta, chỗ bên sông Migasammatā hoá ra hai cốc lá, những thứ vật dụng cần thiết như y phục đạo sĩ v.v… con đường dẫn đến hai cốc lá, đường đi kinh hành, con đường đi vào rừng tìm trái cây, v.v… xong, vị thiện nam Vissakamma trở về cõi trời Tam thập tam thiên.

Hai vị đại nhân đi theo con đường nhỏ dẫn đến hai cốc lá cách nhau không xa, trong mỗi cốc lá có đầy đủ các thứ vật dụng cần thiết đối với vị đạo sĩ. Hai bậc đại nhân biết rõ, các thứ này do vua trời Sakka ban cho họ.

Cậu Dukūla thay bộ đồ cũ, mặc bộ y phục đạo sĩ rồi làm lễ xuất gia trở thành nam đạo sĩ và cô Pārikā cũng xuất gia trở thành nữ đạo sĩ.

Hai vị đạo sĩ trú bên bờ sông Migasammatā, vị nam

đạo sĩ và vị nữ đạo sĩ thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng muôn loài. Do năng lực tâm từ của vị nam đạo sĩ và nữ đạo sĩ mà các loài chúng sinh, các loài thú trong rừng đều được sống an lành mát mẻ, biết thương yêu lẫn nhau, không làm khổ nhau, không oan trái lẫn nhau, mọi loài điều được sống an lạc.

Hằng ngày, nữ đạo sĩ Pārikā thức dậy tử sáng sớm quét dọn sạch sẽ chỗ ở lấy nước dùng, nước uống để sẵn, rồi hai đạo sĩ dẫn nhau vào rừng tìm các loại trái cây lớn nhỏ, các loại củ, rễ… đem về dùng, rồi thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ, trải qua suốt thời gian lâu dài tại bờ sông Migasammatā.

Đức Vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên, thường hiện xuống chăm sóc phụng dưỡng hai bậc đạo sĩ.

Một hôm, Đức Vua trời Sakka nhìn thấy tai nạn sẽ xảy đến với cả hai bậc Đại nhân đạo sĩ, đó là đôi mắt của hai bậc đạo sĩ đều bị mù, không nhìn thấy gì nữa.

Đức Vua trời Sakka nghĩ rằng: “Ta phải tìm cách giúp hai bậc Đại nhân Đạo sĩ này.”

Đức Vua trời Sakka từ cõi trời Tam thập Tam thiên hiện xuống đến hầu đảnh lễ vị Đạo sĩ Dukūla thưa rằng:

- Kính bạch Ngài thiện trí đạo sĩ Dukūla, Ngài và nữ đạo sĩ Pārikā sẽ bị tai nạn đều làm mù đôi mắt, không còn thấy gì nữa.

Vậy, kính xin hai bậc Đại nhân nên có một người con, để sau này người con ấy chăm lo săn sóc phụng dưỡng hai bậc Đại nhân trong lúc đui mù.

Vậy, kính xin hai bậc Đại nhân nên để thân với thân tiếp xúc với nhau.

Nghe Đức Vua trời Sakka bạch như vậy, vị thiện trí Đạo sĩ Dukūla thưa rằng:

- Thưa Đức Vua trời Sakka, Đức Vua bạch như vậy nghe sao được!

Trước đây, dù sống tại gia hai chúng tôi vẫn không hề để thân với thân tiếp xúc với nhau. Nay, hai chúng tôi đã là đạo sĩ thì làm sao hai chúng tôi có thể để thân với thân tiếp xúc với nhau được.

Đức Vua trời Sakka bạch rằng:

- Kính bạch Ngài thiện trí đạo sĩ Dukūla, Ngài không cần phải hành như người thường, mà Ngài chỉ cần lấy bàn tay vuốt nhẹ lên bụng của vị nữ đạo sĩ Pārikā trong thời kỳ sau kinh nguyệt mà thôi.

Vị Đạo sĩ thiện trí Dukūla thưa rằng:

- Thưa Đức Vua trời Sakka, nếu như vậy thì bần đạo có thể thực hiện được.

Đức Vua trời Sakka đảnh lễ Ngài thiện trí đạo sĩ Dukūla, rồi ngự trở về cõi trời Tam thập tam thiên.

Khi ấy, vị Đạo sĩ Dukūla thuật lại cho vị nữ đạo sĩ Pārikā nghe rằng:

- Này nữ đạo sĩ Pārikā! Đức Vua trời Sakka ngự đến đây báo cho bần đạo biết rằng: “Bần đạo và nữ đạo sĩ sẽ bị tai nạn đều làm mù đôi mắt, không còn nhìn thấy gì nữa. Đức Vua trời Sakka khuyên bần đạo và nữ đạo sĩ nên có một đứa con, để sau này người con ấy chăm lo săn sóc phụng dưỡng hai chúng ta trong lúc đui mù.

Đức Vua trời Sakka hướng dẫn bần đạo chỉ cần lấy bàn tay vuốt nhẹ lên bụng của vị nữ đạo sĩ trong thời kỳ sau kinh nguyệt mà thôi. 

Bần đạo đã tâu với Đức Vua trời Sakka rằng:“Nếu như vậy thì bần đạo có thể thực hiện được.”

 Như vậy, bần đạo và nữ đạo sĩ nên thực hành theo lời khuyên của Đức Vua trời Sakka.

Đức Bồ Tát Đầu Thai

Một hôm, vị Đạo sĩ Dukūla lấy tay vuốt nhẹ lên trên bụng của nữ đạo sĩ Pārikā. Khi ấy, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama chuyển kiếp (chết) từ cõi trời Tam thập Tam thiên, thiện nghiệp cho quả tái sinh đầu thai vào lòng nữ đạo sĩ Pārikā.

Thời gian trải qua 10 tháng, nữ đạo sĩ Pārikā sinh ra một bé trai có màu da như vàng ròng, do đó đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā đặt tên đứa con trai là Suvaṇṇasāmakumāra: Bé Suvaṇṇasāma. Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có những tướng tốt của bậc đại nhân, được nuôi nấng dễ dàng trong hoàn cảnh rừng núi.

Hằng ngày, nữ đạo sĩ Pārikā tắm Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma xong, đặt nằm trong cốc lá. Khi nào hai vị đạo sĩ đi vào rừng tìm các thứ trái cây, khi ấy các con Kinnarī [1] sống quanh rừng núi đến làm phận sự như bà vú nuôi (nhũ mẫu) chăm sóc Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, các cô Kinnarī ẵm Đức Bồ Tát xuống suối tắm xong, rồi lại ẵm lên đỉnh núi, đặt Đức Bồ Tát nằm trên tảng đá, các cô đi hái các loài hoa đem về trang điểm Đức Bồ Tát, chăm sóc Đức Bồ Tát cho đến khi biết hai vị đạo sĩ đã tìm được các thứ trái cây trở về.

Khi ấy, các cô Kinnarī mới ẵm Đức Bồ Tát trở về cốc lá, để cho nữ đạo sĩ Pārikā cho Đức Bồ Tát bú sữa.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma được hai vị đạo sĩ cha mẹ chăm sóc nuôi nấng lớn lên trưởng thành. Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thực hành pháp hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sanh vô lượng.

Cho nên, các loài thú dữ trong rừng tiếp nhận được tâm từ của Đức Bồ Tát, đều trở thành các con thú thuần tính, không còn làm khổ lẫn nhau nữa, các loài thú lớn nhỏ đều đến quanh quẩn gần gũi chơi với Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma như những người bạn thân thiết.

Hằng ngày, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma lo giúp đỡ những công việc như quét dọn sạch sẽ xung quanh hai cốc lá của hai vị đạo sĩ cha mẹ, mang bình bát đi xuống sông Migasammatā lấy nước uống, nước dùng cho hai vị đạo sĩ cha mẹ.

Các con thú lớn nhỏ từng đàn, từng đàn đi theo sau, Đức Bồ Tát đặt cái bình nước trên lưng một con thú lớn, lực lưỡng khỏe mạnh đi xuống sông Migasammatā, khi lấy nước xong lại đặt bình nước trên lưng con thú lớn lực lưỡng khoẻ mạnh ấy mang nước về hai cốc lá của hai vị đạo sĩ cha mẹ, cho nên, nước dùng, nước uống lúc nào cũng đầy đủ để cho hai vị đạo sĩ cha mẹ dùng.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trưởng thành lên mười sáu tuổi, hằng ngày có khả năng đỡ đần mọi công việc cốc lá cho hai vị đạo sĩ cha mẹ.

Hai Vị Đạo Sĩ Bị Mù Đôi Mắt

Một hôm, sau khi tìm các thứ trái cây trong rừng núi xong, hai vị đạo sĩ từ trong rừng trở về gần đến cốc lá chỗ ở của mình, thì trời đổ mưa lớn, hai vị đạo sĩ đi vào gốc cây lớn để trú mưa. Tại dưới gốc cây lớn ấy, có một con rắn độc nằm trong hang, trận mưa lớn, nước mưa thấm ướt vào người hai vị đạo sĩ, nước chảy xuống đất thấm vào trong hang rắn độc, nước mưa có lẫn mồ hôi người của hai vị đạo sĩ, ngửi mùi mồ hôi người, con rắn độc nổi giận bò lên phun hơi nọc độc vào đôi mắt của hai vị đạo sĩ làm cho đôi mắt của hai vị đạo sĩ đều bị mù không còn thấy đường về cốc lá của mình.

Khi ấy, vị đạo sĩ Dukūla gọi nữ đạo sĩ Pārikā rằng:

- Này nữ đạo sĩ Pārikā! Đôi mắt của bần đạo đều bị mù không nhìn thấy đường nữa.

Vị nữ đạo sĩ Pārikā cũng thưa với vị đạo sĩ Dukūla rằng:

- Kính thưa Ngài Đạo sĩ Dukūla, đôi mắt của nữ bần đạo cũng bị mù không còn thấy đường nữa.

Nữ đạo sĩ Pārikā khóc than rằng:

Sinh mạng của chúng ta sẽ bị chết tại nơi đây, mà Suvaṇṇasāma con yêu quý không hay biết.

Vấn: Quả của ác nghiệp nào mà làm cho đôi mắt của vị đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā cùng bị mù một lúc? 

Đáp: Tiền kiếp của hai vị đạo sĩ đã từng là hai vợ chồng với nhau, người chồng làm thầy thuốc chữa trị bệnh mắt.

Thời ấy, một người giàu sang phú quý có nhiều của cải, có đôi mắt bị mù, không thấy đường nữa. Gia đình mời vị thầy thuốc chữa trị bệnh mắt đến nhà, chữa trị cho người nhà giàu bị mù đôi mắt ấy.

Qua một thời gian vị thầy chữa trị, đôi mắt của người nhà giàu ấy được khỏi bệnh, đôi mắt sáng trở lại, có thể nhìn thấy rõ được mọi vật.

Vị thầy thuốc đòi tiền thuốc chữa trị đôi mắt, thì người nhà giàu ấy không chịu trả tiền số tiền ấy. Vị thầy thuốc tức giận trở về nhà nói lại cho vợ biết sự việc như vậy. Người vợ cũng tức giận nói với người chồng rằng:

Bây giờ, chúng ta không cần tiền của nó nữa, anh bào chế một món thuốc nhỏ mắt có chứa chất độc, đem lại cho nó nhỏ vào đôi mắt. Một thời gian sau, chất độc thấm vào làm mù đôi mắt của nó.

Nghe vợ nói như vậy, người chồng cũng đồng ý, bào chế một món thuốc nhỏ mắt có chất độc, đem lại cho 

người nhà giàu nhỏ vào đôi mắt.

Quả nhiên một thời gian sau, đôi mắt của người nhà giàu ấy bị mù, không còn nhìn thấy gì nữa.

Trong kiếp hiện tại, vị đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā [2] bị mù đôi mắt, không thấy đường. Đó là quả của ác nghiệp làm mù đôi mắt của người nhà giàu, mà tiền kiếp của hai vị đạo sĩ đã tạo trong quá khứ.


1] Kinnarī là loại chúng sinh thân phần trên giống loài người, thân phần dưới giống loài chim có cánh.

[2]Kiếp chót của vị đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā trong thời kỳ Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian, cũng là hai vợ chồng với nhau, cả hai vợ chồng đều xuất gia trở thành Tỳ khưu, Tỳ khưu ni cũng điều chứng đắc bậc thánh A-ra-hán.


Đi Tìm Cha Mẹ

Tại cốc lá, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nghĩ rằng:“ Mỗi ngày, cha mẹ của ta, giờ này đã trở về cốc rồi. Hôm nay, một trận mưa lớn vừa qua cũng đã tạnh từ lâu, vì sao cha mẹ của ta chưa trở về, chắc chắn có điều tai nạn gì đã xảy đến với cha mẹ của ta.”

Nghĩ xong, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đi theo con đường mòn mà hai vị Đạo sĩ cha mẹ thường đi hằng ngày, vừa đi vừa gọi tên cha mẹ rằng:

- Cha mẹ ở đâu ? xin lên tiếng cho con biết ! ...

Nghe tiếng gọi của đứa con yêu quý, hai Đạo sĩ lên tiếng ngăn cấm rằng:

- Này con yêu quý, đôi mắt của cha mẹ bị mù cả rồi!

Ở đây có rắn độc nguy hiểm, con chớ nên đến gần cha mẹ con nhé! 

Đức Bồ Tát thưa rằng:

- Kính thưa cha mẹ, nếu vậy, thì xin cha mẹ cầm lấy đầu cây này.

Đức Bồ Tát đưa đầu cây dài đến tận tay của cha mẹ, rồi cha mẹ của Đức Bồ Tát lần theo cây đến Đức Bồ Tát.

Đức Bồ Tát thưa rằng:

- Kính thưa cha mẹ, do nguyên nhân nào mà làm cho đôi mắt của cha mẹ bị mù như thế này?

Hai vị Đạo sĩ cha mẹ bảo cho Đức Bồ Tát biết rằng:

- Này con yêu quý! trên đường về đến chỗ ấy, một trận mưa lớn vừa qua, cha mẹ vào trú mưa dưới cội cây ấy, không biết dưới cội cây ấy có hang rắn độc, nước mưa thấm ướt toàn thân chảy xuống miệng hang, ngửi mùi mồ hôi người, con rắn độc nổi giận bò lên phun nọc độc vào đôi mắt của cha mẹ. Đó là nguyên nhân làm cho đôi mắt của cha mẹ bị mù không còn nhìn thấy gì nữa.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma Khóc Và Cười

Lắng nghe cha mẹ thuật lại sự việc xảy ra như vậy, nhìn thấy cha mẹ bị mù đôi mắt nên vô cùng xúc động Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma khóc vì thương yêu cha mẹ, rồi nghĩ lại về bổn phận của mình, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cười vì hoan hỷ có được cơ hội tốt chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù.

Cha mẹ của Đức Bồ Tát hỏi rằng:

- Này Suvaṇṇasāma con yêu quý! Tại sao con khóc, rồi con lại cười như vậy ?

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thưa rằng:

- Kính thưa cha mẹ, sở dĩ con khóc là vì con không nén được nỗi xúc động nhìn thấy cha mẹ bị mù đôi mắt không nhìn thấy gì nữa.

Và sở dĩ con cười là vì con cảm thấy vui mừng là từ ngay bây giờ về sau, con có cơ hội tốt chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ được an lạc.

- Kính xin cha mẹ an tâm, con cố gắng hết sức mình để làm tròn bổn phận người con đối với cha mẹ.

Đức Bồ Tát thưa lời an ủi cha mẹ xong, cầm tay dẫn cha mẹ trở về lại cốc lá.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cột dây từ mỗi cốc lá của cha mẹ dẫn đến chỗ ngồi ăn, chỗ rửa mặt, chỗ tắm rửa chỗ đi tiểu tiện, đại tiện, chỗ đường đi kinh hành, chỗ ngồi nghĩ mát, v.v…

Đức Bồ Tát sắp đặt mọi thuận lợi cho cha mẹ khi cần.

Kể từ hôm ấy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma làm tròn bổn phận người con biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ một cách chu đáo. Đức Bồ Tát thức dậy sớm thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng.

Mỗi buổi sáng, Đức Bồ Tát quét dọn sạch sẽ chỗ ở, giặt các bộ y phục của cha mẹ xong, vào đảnh lễ cha mẹ, rồi đem bình nước cùng đàn thú đi xuống sông Migasammatā lấy nước dùng, nước uống, sắp đặt các loại trái cây ngon lành để cha mẹ dùng bữa sáng.

Sau khi cha mẹ dùng xong, Đức Bồ Tát dùng phần trái cây còn lại, làm xong mọi công việc, Đức Bồ Tát vào đảnh lễ cha mẹ, xin phép đi vào rừng núi, mang giỏ đi cùng với các đàn thú vào rừng núi, để tìm các loại trái cây lớn nhỏ các loại củ, các thứ rễ.

Đức Bồ Tát hái trái cây ở chỗ thấp, còn các trái cây chín ở trên cao, thì có các chú khỉ leo lên hái đem xuống, mỗi đàn thú đi theo giúp đỡ Đức Bồ Tát tìm hái trái cây lớn nhỏ, các loại củ, các loại rễ cây, tuỳ theo khả năng của mỗi loài thú. Khi đầy đủ các thứ, các con thú lực lưỡng khoẻ mạnh có phận sự vận tải đem về cốc lá.

Về đến cốc lá, vào buổi chiều, Đức Bồ Tát vào đảnh lễ cha mẹ, dắt dẫn cha mẹ đi tắm sạch sẽ, đem bộ y phục sạch đến cha mẹ thay bộ y phục cũ, sắp đặt các thứ trái cây, kính dâng cha mẹ dùng buổi chiều, và sắp đặt các trái cây còn lại dành để dùng buổi sáng ngày hôm sau.

Đức Bồ Tát mang bình nước cùng với các đàn thú đi đến sông Migasammatā để lấy nước dùng, nước uống đem về.

Vào mùa lạnh, Đức Bồ Tát nấu nước ấm để cho cha mẹ tắm, và làm tròn bổn phận phục vụ cha mẹ một cách chu đáo như mỗi ngày, 

Buổi tối, Đức Bồ Tát đến mỗi cốc lá xoa bóp chân tay, thân mình của cha mẹ. Khi trời trở lạnh Đức Bồ Tát đốt lò sưởi ấm đặt trong mỗi cốc lá của cha mẹ.

Hằng ngày, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma vô cùng hoan hỷ làm tròn mọi phận sự chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ một cách chu đáo và cung kính với thiện tâm hoan hỷ, không bao giờ phàn nàn một điều gì cả.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma coi trọng việc chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, đó là bổn phận thiêng liêng của người con đối với cha mẹ của mình.

Đức Vua Pīḷiyakkha

Trong thời kỳ ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha ngự tại kinh thành Bārāṇasī trị vì đất nước Kāsi, vốn có thú vui săn bắn thú rừng ăn thịt, Đức Vua Pīḷiyakkha một mình mang khí giới cung tên ngự vào rừng núi Himavanta đến bến sông Migasammatā.

Nhìn thấy nhiều dấu chân nai ở tại bến sông này, Đức Vua ngồi ẩn mình trong bụi cây lấy mũi tên tẩm thuốc độc vào mũi tên rồi chờ đợi, quan sát từ xa thấy Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đi xuống sông tắm, Đức Vua nghĩ rằng: “Ta đã ngự vào trong khu rừng núi Himavanta này đã nhiều lần, nhiều ngày chưa từng bao giờ gặp một người nào cả.

Vậy, người kia có phải là người thật hay không? hay là chư thiên hoá ra thành người, hay là long vương hoá ra thành người?.

Nếu chư thiên hoặc loài long hoá ra thành người, khi ta đến gần thì vị ấy biến mất. Ta muốn biết vị ấy thuộc hạng chúng sinh nào.”

Đức Vua quan sát nhìn thấy các đàn thú xuống bến sông uống nước xong, lên bờ đứng chờ, đến lượt Đức Bồ Tát tắm xong lên bờ, mặc y phục vỏ cây một tấm, choàng một tấm, cúi xuống nâng bình nước lau sạch đặt lên vai, rồi đi tự nhiên, các đàn thú đi theo sau.

Khi ấy, Đức Vua đưa cây cung lên nhắm thẳng vào người Đức Bồ Tát mà bắn, mũi tên trúng Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma xuyên từ bên phải sang bên trái. Các đàn thú biết Đức Bồ Tát bị bắn, nên chúng hoảng sợ chạy thoát thân.

Tuy Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma bị mũi tên đâm vào thân mình, nhưng vẫn bình tĩnh giữ bình nước không bị đổ, từ từ đặt bình nước xuống đất, định hướng chỗ ở của cha mẹ, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nằm quay đầu về hướng cha mẹ, với thiện tâm trong sáng thốt lên rằng:

“Tôi không có oan trái với bất cứ ai trong rừng núi Himavanta này!

Cha mẹ tôi cũng không có oan trái với ai trong rừng núi Himavanta này!

Vậy, ai là người bắn mũi tên trúng vào tôi đang đem nước về cho cha mẹ tôi?

Người nào bắn tôi, có được sự lợi ích gì?

Bởi vì thịt của tôi không ăn được, da của tôi cũng không lấy làm gì được?

Vậy, do nguyên nhân nào mà bắn mũi tên đâm vào thân tôi?

Tôi muốn biết người ấy là ai ? Ở nơi nào ? Xin mời đến gặp tôi.”

Nghe lời lẽ tha thiết của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Người bị ta bắn bằng mũi tên tẩm thuốc độc vô cùng đau đớn, người ấy không mắng nhiếc chửi rủa ta mà nói bằng lời ngọt ngào tha thiết đáng yêu, làm cho ta cảm động vô cùng, ta phải ngự đến gặp y ngay.”

Nghĩ xong, Đức Vua Pīḷiyakkha ngự đến đứng gần Đức Bồ Tát rồi truyền bảo rằng:

- Này cậu bé thân yêu! Trẫm là vua nước Kāsi, tên là Pīḷiyakkha, Trẫm vốn có thú vui ngự vào rừng núi Himavnata này săn bắn nai để ăn thịt.

- Này cậu bé thân yêu! Tên của cậu gọi là gì? Cậu là con của ai ở trong rừng này vậy?

Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền hỏi như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, tiện dân tên là Suvaṇṇasāma là con của đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā.

- Muôn tâu Đại Vương, thông thường người ta giết con cọp để lấy da cọp, giết con voi để lấy đôi ngà, giết nai để ăn thịt nai.

Vậy, do nguyên nhân nào mà Đại Vương bắn mũi tên thấm độc đâm vào thân hình của tiện dân như thế này ?

Nghe Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma hỏi như vậy, Đức Vua lúng túng trả lời dối rằng:

- Này cậu Suvaṇṇasāma! Đàn nai đang ở trong tầm mũi tên của Trẫm. Nhìn thấy cậu xuất hiện, chúng hoảng sợ chạy vào rừng trốn thoát. Đó là nguyên nhân làm cho Trẫm nổi cơn tức giận, nên Trẫm quay đầu mũi tên bắn vào cậu.

Nghe Đức Vua truyền bảo không thật, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Từ khi kẻ tiện dân sinh ra trong rừng núi Himavanta này, các đàn thú rừng dù là loài thú dữ cũng trở thành loài thú thuần tính đến chơi quanh quẩn với kẻ tiện dân này như những người bạn thân thiết, khi kẻ tiện dân đi vào rừng núi tìm hái các loại trái cây lớn nhỏ, đào các loại củ, hái các thứ lá cây, khi xuống sông lấy nước, các đàn thú rừng đều đi theo giúp đỡ kẻ tiện dân này.

Như vậy, đàn nai thấy kẻ tiện dân, nên hoảng sợ chạy vào rừng trốn thoát. Đó là điều không thể xảy ra đối với kẻ tiện dân trong khu rừng núi này được ?

Nghe lời lẽ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma như vậy, Đức Vua cảm thấy ăn năn hối hận rằng:

Ta đã tạo ác nghiệp bắn cậu Suvaṇṇasāma vô tội, ta lại còn tạo thêm ác nghiệp nói dối nữa.”

Vậy, ta nên thú thật tội lỗi của ta, Đức Vua truyền bảo rằng:

- Này cậu Suvaṇṇasāma! Sự thật, đàn nai không phải thấy cậu rồi hoảng sợ chạy vào rừng trốn thoát. Đó chỉ là điều mà Trẫm nói dối với cậu mà thôi, Trẫm đã tạo ác nghiệp bắn mũi tên độc đâm vào thân thể của cậu và còn tạo thêm ác nghiệp nói dối với cậu nữa.

- Này cậu Suvaṇṇasāma! Cậu đang ở với ai trong khu rừng này. Xin cậu nói cho Trẫm biết.

Nghe Đức Vua Pīḷayakkha hỏi như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cố gắng nhẫn nại chịu đựng nỗi đau đớn vì mũi tên độc, khạc nhổ máu trong miệng ra rồi tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân đang ở với cha mẹ là vị đạo sĩ Dukūla và nữ đạo sĩ Pārikā đều bị mù đôi mắt, không nhìn thấy gì cả.

Hằng ngày, kẻ tiện dân này đi vào rừng tìm hái các loại trái cây lớn nhỏ, các loại củ, các thứ rau, đem về phụng dưỡng cha mẹ mù.

Chiều nay, kẻ tiện dân mang bình đi lấy nước tại bến sông Migasammatā này đem về cho cha mẹ của kẻ tiện dân dùng.

Tâu đến đây, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nghĩ đến cha mẹ mù đôi mắt, rồi khóc than rằng: “Những thứ trái cây, các thứ củ, các loại rau… mà con đã tìm về hôm nay, cha mẹ dùng những thứ ấy, rồi có thể duy trì sinh mạng được sáu ngày, nhưng cha mẹ không có nước uống, thì cha mẹ sẽ chết, vì khát nước mà thôi.

Sự đau khổ vì mũi tên độc này, không phải là sự đau khổ cùng cực của con. Con không được hầu hạ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ mới thật là nỗi đau khổ cùng cực nhất của con.

Vào mỗi buổi tối, con thường đến xoa bóp cho cha mẹ ngủ ngon. Đêm nay, không có con, cha mẹ sẽ nhớ con, rồi khóc than suốt đêm nay, sức khoẻ sẽ bị hao mòn rồi sẽ bị chết khô.

Ôi! Mũi tên thứ hai này mới thật làm cho con đau khổ cùng cực nhất, bởi vì con sẽ chết tại nơi đây, không còn nhìn thấy cha mẹ nữa, cha mẹ cũng không biết được con chết tại nơi đây.”

Nghe lời khóc than của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Cậu Suvaṇṇasāma là người hành phạm hạnh cao thượng, biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ một cách chu đáo, dù cậu đang chịu đựng nỗi đau khổ cùng cực như vậy, vẫn còn nhớ tưởng đến cha mẹ. Ta đã làm hại cậu Suvaṇṇasāma, con người cao thượng này.”

Đức Vua Pīḷiyakkha tự phán xét mình rằng: “Ta đã tạo ác nghiệp nặng, tội lỗi lớn đối với cậu Suvaṇṇasāma này, ác nghiệp này khó mà tránh khỏi tái sinh trong cõi địa ngục.

Vậy, ngai vàng ngôi báu có giúp được gì cho ta đâu !

Nếu cậu Suvaṇṇasāma chết, thì ta phải nên thay thế cậu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ đui mù của cậu, như cậu Suvaṇṇasāma thực hành hằng ngày đêm.”

Khi ấy, Đức Vua an ủi cậu Suvaṇṇasāma rằng:

- Này cậu Suvaṇṇasāma kính yêu! Cậu chớ nên khóc than nữa, Trẫm hứa sẽ thay thế cậu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ cậu, như cậu đã chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ hằng ngày đêm.

- Này cậu Suvaṇṇasāma kính yêu! Cha mẹ của cậu hiện đang ở chỗ nào. Xin cậu chỉ cho Trẫm biết.

Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền bảo như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, nếu như vậy thì xin Đức Vua ngự con đường theo hướng đầu nằm của kẻ tiện dân này, ngự đến nơi có hai cốc lá, đó là chỗ ở của cha mẹ tiện dân này.

Kính xin Đại Vương có tâm bi thương xót tế độ cha mẹ mù của kẻ tiện dân này.

Sau khi chỉ con đường dẫn đến hai cốc lá chỗ ở của cha mẹ, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma ráng cố gắng hết sức chịu đựng nỗi đau khổ chắp hai tay lên ngực tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân này chắp tay thành kính Đức Vua xứ Kāsi, khi Đức Vua ngự đến gặp cha mẹ của kẻ tiện dân, xin Đức Vua chuyển lời của kẻ

tiện dân này rằng:

Kính thưa cha mẹ, con hết lòng thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của cha mẹ, con xin phép vĩnh biệt cha mẹ”.

Sau khi dứt lời cuối cùng, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chết ngất, tắt thở không còn nói lời nào nữa, vì năng lực của chất độc đã thấm vào tim, đôi môi ngậm lại, đôi mắt nhắm lại, toàn thân cứng, nằm trên vũng máu của mình.

Khi ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Cậu Suvaṇṇasāma vừa mới nói chuyện với ta tại sao nằm làm thinh bất động, Đức Vua đưa tay đặt lên hai lỗ mũi xem xét thấy hơi thở ra vào của Đức Bồ Tát không còn nữa, toàn thân thể cứng đơ, nhìn thấy mọi sự việc xảy ra trước mắt, Đức Vua mới biết cậu Suvaṇṇasāma đã chết rồi.”

Đức Vua Pīḷiyakkha vô cùng kinh ngạc, nỗi sầu não cực độ phát sinh, đưa hai bàn tay ôm đầu, Đức Vua Pīḷiyakkha hét lên khóc than thành tiếng lớn vô cùng thảm thiết, bởi vì ăn năn hối hận, vì thương tiếc một cậu Suvaṇṇasāma có đức hạnh cao thượng.

Đức Vua Pīḷayakkha khóc than rằng: “Ta cứ tưởng không già, không chết, nhưng có ngờ đâu có già, có chết. Thật vậy, cậu Suvaṇṇasāma còn trẻ vừa mới nhờ ta kính lời đảnh lễ cha mẹ của cậu và lời vĩnh biệt xong thì cậu đã chết rồi.

Chính ta đã chứng kiến cậu Suvaṇṇasāma là bậc đại thiện trí cao thượng chết ngay trước mặt ta. Ta đã tạo ác nghiệp nặng bắn chết cậu Suvaṇṇasāma bậc đại thiện trí hành pháp hạnh cao thượng.

Trước đây, ta đã từng tạo ác nghiệp giết các loài thú rừng và cũng đã từng truyền lệnh giết những kẻ tội phạm theo luật của triều đình.

Nay, chính ta đã tạo ác nghiệp giết cậu Suvaṇṇasāma hoàn toàn vô tội, là bậc đại thiện trí hành phạm hạnh cao thượng. Chắc chắn mọi người sẽ chê trách ta là vị vua tàn nhẫn độc ác giết người vô tội, sẽ nguyền rủa ta.

Nhưng trong rừng núi hoang vu này có ai thấy có ai biết đâu mà chê trách ta, nguyền rủa ta !”

Đức Vua Pīḷayakkha khóc than thảm thiết đủ điều, vừa tự trách mình vừa tự an ủi mình. 

Vị Thiên Nữ Bahusundharī

Khi ấy, vị thiên nữ Bahusundharī thường trú tại núi Gandhamādana, tiền kiếp của vị thiên nữ đã từng là mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thứ 7, kể từ kiếp hiện tại trở về trước, vị thiên nữ Bahusundharī thường trông nom săn sóc theo dõi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma với tình thương yêu của người mẹ đối với con.

Hôm ấy, vị thiên nữ Bahusundharī đi dự đại hội chư thiên, nên không trông nom săn sóc, không theo dõi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. Vừa sực nhớ đến Đức Bồ Tát con của mình, vị thiên nữ Bahusundharī với thiên nhãn của mình quan sát xem xét thấy rõ Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma bị chết ngất vì mũi tên thấm thuốc độc, đang nằm trên vũng máu tại bãi cát bên bờ sông Migadammatā, còn Đức Vua Pīḷiyakkha bắn mũi tên độc ấy đang ngồi khóc than thảm thiết vì ăn năn hối lỗi của mình, vì thương tiếc đến Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, vị thiên nữ Bahusundharī nghĩ rằng: “ Nếu ta không vội đến kịp ngay chỗ ấy, thì Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma con của ta sẽ chết thật, Đức Vua Pīḷayakkha cũng vỡ tim chết, cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cũng chết, vì đói khát.

Vậy, ta mau đến kịp thời, khuyên Đức Vua Pīḷiyakkha mang bình nước đến gặp cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi thông báo cho hai vị Đạo sĩ biết rằng:

Cậu Suvaṇṇasāma con của hai vị đã bị bắn chết rồi. Cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma yêu cầu Đức Vua dẫn dắt hai vị đến thăm con Suvaṇṇasāma.

 Khi ấy, cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện bằng lời chân thật, làm cho chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma sẽ tiêu tan, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma con của ta sẽ sống trở lại như thường, và đặc biệt Đức Vua Pīḷiyakkha sẽ được nghe Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thuyết pháp.

 Sau khi nghe Đức Bồ Tát thuyết pháp xong, Đức Vua Pīḷayakkha trở thành Đức Vua biết thực hành theo thiện pháp.”

Sau khi xem xét như vậy, vị thiên nữ Bahusundharī xuất hiện đến bên bờ sông Migasammatā nơi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đang nằm chết ngất, vị thiên nữ Bahusundharī đứng trên hư không tâu với Đức Vua Pīḷayakkha rằng:

- Muôn tâu Đức Vua Pīḷayakkha, Đức Vua đã tạo ác nghiệp bắn mũi tên độc vào thân thể của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, bậc đại thiện trí hành pháp hạnh cao thượng, với mũi tên độc ấy không chỉ giết chết một Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma mà còn làm cho hai vị đạo sĩ mù là cha mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma cũng chết, vì đói khát nữa.

Như vậy. Đức Vua đã tạo ác nghiệp nặng có tội lỗi lớn.

- Muôn tâu Đức Vua Pīḷayakkha, tôi sẽ hướng dẫn Đức Vua tạo mọi thiện nghiệp, tạo cho mình một con đường tái sinh lên cõi trời.

Vậy, kính xin Đức Vua đem bình nước uống ngự đến gặp cha mẹ mù của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi Đức Vua nên thay thế Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma mà chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trong rừng núi này. Tôi tin chắc rằng:

Do nhờ mọi thiện nghiệp ấy, sau khi Đức Vua băng hà có thể tránh khỏi tái sinh trong cõi địa ngục, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh lên cõi trời.

Nghe lời khuyên của vị thiên nữ, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Nếu sau khi ta băng hà, để tránh khỏi ác nghiệp cho quả tái sinh trong cõi địa ngục thì nay từ bỏ ngôi vua, ta nên thay thế cậu Suvaṇṇasāma mà chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù của cậu Suvaṇṇasāma. Sau khi băng hà, thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời.”

Suy nghĩ xong, Đức Vua Pīḷayakkha cảm thấy hoan hỷ, tỏ sự cung kính và thương tiếc cậu Suvaṇṇasāma, rồi đem bình nước ngự theo con đường đi thẳng đến chỗ ở của cha mẹ cậu Suvaṇṇasāma.

Lắng nghe tiếng bước chân của Đức Vua Pīḷiyakkha ngự đến gần cốc lá, vị Đạo sĩ Dukūla nhận biết rằng:

“ Không phải là bước chân của Suvaṇṇasāma con của ta, bởi vì bước chân của Suvaṇṇasāma đi điều đặn và nhẹ nhàng.”

Vậy, ai đến rừng núi này, vị Đạo sĩ Dukūla thưa rằng:

 - Kính thưa vị khách quý, bần đạo mù xin hỏi Ngài là ai đến thăm bần đạo nơi rừng núi hoang vu này?

Đặt bình bát xuống nền, Đức Vua Pīḷiyakkha đứng trước vị Đạo sĩ mù truyền bảo rằng:

- Thưa Ngài đạo sĩ kính yêu, Trẫm là vua nước Kāsi này, tên là Pīḷiyakkha, Trẫm vốn thích đi săn băn thú rừng, duyên may ngự đến thăm Ngài đạo sĩ.

Vị Đạo sĩ Dukūla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kính xin Đại Vương tha tội thất lễ, vì bần đạo mù không biết nghi lễ đón tiếp Đại Vương cho đúng phép.

- Muôn tâu Đại Vương, kính mời Đại Vương chọn lựa những loại trái cây ngon lành mà dùng, kính mời Đại Vương dùng nước mát của con sông Migasammatā.

Lắng nghe lời tâu mời đón tiếp thân tình của vị Đạo sĩ Dukūla. Đức Vua nghĩ rằng: “Ta chưa nên nói cho vị đạo sĩ biết cậu Suvaṇṇasāma đã chết.”

Đức Vua Pīḷiyakkha thưa rằng:

- Kính thưa đạo sĩ, Ngài bị mù đôi mắt không thấy được gì trong rừng này. Vậy, ai là người đi tìm hái những loại trái cây lớn nhỏ đem về, rồi sắp đặt từng mỗi loại đàng hoàng như người sáng mắt như thế này ?

Vị đạo Dukūla tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Suvaṇṇasāma đứa con yêu quý của chúng tôi, buổi sáng nó thức dậy sớm quét dọn sạch sẽ chỗ ở của cha mẹ xong, đem bình đi lấy nước cho cha mẹ dùng, rồi nó đi vào rừng cùng với các các đàn thú đi tìm hái các trái cây lớn nhỏ, đào các thứ củ, hái các loại rau… đem về sắp đặt từng mỗi loại đàng hoàng xong, rồi đem bình nước cùng với các đàn thú đi đến sông Migasammatā lấy nước uống, nước dùng.

Chiều nay, nó đã đem bình lấy nước lâu rồi, chắc nó sắp về.

Khi ấy, Đức Vua Pīḷayakkha truyền bảo rằng:

- Thưa Ngài Đạo sĩ, đứa con nhỏ tên Suvaṇṇasāma yêu quý của Ngài, là bậc đại thiện trí thực hành phạm hạnh cao thượng. Cậu Suvaṇṇasāma đã bị Trẫm bắn mũi tên độc chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Trước khi chết, cậu Suvaṇṇasāma có nhờ Trẫm thưa lại với Ngài rằng:

Kính thưa cha mẹ, con hết lòng thành kính đảnh lễ dưới đôi bàn chân của cha mẹ, con xin phép vĩnh biệt cha mẹ”.

Cốc lá của nữ đạo sĩ Pārikā ở không xa nơi đó, nữ đạo sĩ ngồi nghe rõ chuyện Suvaṇṇasāma bị bắn chết, muốn biết rõ chuyện xảy ra như thế nào, vị nữ đạo sĩ Pārikā đứng dậy bước ra khỏi cốc lá, lần theo sợi dây đi đến cốc lá của vị Đạo sĩ Dukūla bèn hỏi rằng.

- Kính thưa bậc thiện trí đạo sĩ Dukūla, Ngài đang nói chuyện với vị nào mà tôi nghe rằng: “Cậu Suvaṇṇasāma đã bị bắn mũi tên độc chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā, làm cho tôi khổ tâm cùng cực.”

Vị đạo sĩ Dukūla khuyên nữ đạo sĩ Pārikā rằng:

- Này nữ đạo sĩ Pārikā! Người đang nói chuyện với bần đạo là Đức Vua nước Kāsi. Đại Vương đã bắn mũi tên độc trúng Suvaṇṇasāma con yêu quý của chúng ta đã chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Suvaṇṇasāma con yêu quý của chúng ta đã chết rồi. Chúng ta không nên xúc phạm đến Đại Vương.

Nữ đạo sĩ Pārikā khóc than rằng: “Suvaṇṇasāma là người con yêu quý nhất của chúng ta, là người con chí hiếu biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ trong khu rừng núi hoang vu này, làm sao tôi không khổ tâm thương tiếc được!”

Vị Đạo sĩ Dukūla khuyên dạy an ủi rằng:

- Này nữ đạo sĩ Pārikā! Thật vậy, Suvaṇṇasāma là người con yêu quý nhất của chúng ta, là người con chí hiếu biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ trong khu rừng hoang vu này. Đó là sự thật, nhưng chúng ta không nên phát sinh tâm sầu não.

- Này nữ đạo sĩ Pārikā! Chư bậc thiện trí tán dương ca tụng người không phát sinh tâm sân trong đối tượng không đáng hài lòng, trong trường hợp bất bình. Bởi vì tâm sân thuộc về ác pháp, phiền não có thể dắt dẫn tái sinh trong cõi địa ngục.

Nghe lời khuyên dạy an ủi của vị thiện trí Đạo sĩ Dukūla, nữ đạo sĩ Pārikā ngẹn ngào xúc động quá, không sao ngăn nỗi thống khổ cùng cực, hai bàn tay ôm mặt khóc than kể lễ đến đức tính chí hiếu của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma.

Chứng kiến cảnh cảm động đau lòng ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha truyền lời an ủi đến hai vị đạo sĩ rằng:

- Kính thưa hai vị đạo sĩ kính yêu, xin hai Ngài nguôi bớt cơn sầu não, xin đừng than khóc nữa, cậu Suvaṇṇasāma đã bị Trẫm bắn chết rồi. Nay, Trẫm thay thế cậu Suvaṇṇasāma làm mọi phận sự chăm lo săn sóc phụng dưỡng hai Ngài, như cậu Suvaṇṇasāma.

Kính xin hai Ngài an tâm, xin hai Ngài bớt buồn khổ.

Khi ấy, hai vị đạo sĩ tâu với Đức Vua rằng:

- Muôn Tâu Đại Vương, Đại Vương không nên truyền bảo như vậy, bởi vì Đại Vương là Đức Vua trị vì toàn cõi đất nước Kāsi, còn hai bần đạo chúng tôi chỉ là tiện dân nhỏ bé trong nước của Đại Vương mà thôi, không đáng để Đại Vương phải bận tâm.

Nghe lời tâu của hai vị Đạo sĩ, Đức Vua Pīḷayakkha nghĩ rằng: “Thật là phi thường! Đối với bậc xuất gia  hành phạm hạnh cao thượng. Ta đã bắn chết người con yêu quý duy nhất của hai Ngài đạo sĩ mà hai Ngài không hề thốt ra lời thô tục, xúc phạm đến ta, mà còn nói những lời đạo đức, ôn hoà có tâm từ với ta. Hai Ngài thật đáng kính, thật đang khâm phục biết dường nào!”

Đức Vua Pīḷiyakkha thành kính thưa với hai Ngài đạo sĩ với tấm lòng chân thành rằng:

- Kính thưa hai Ngài đạo sĩ khả kính, hai Ngài là bậc đại thiện trí thực hành pháp hạnh cao thượng có tâm từ vô lượng rải khắp mọi chúng sinh .

- Kính thưa hai Ngài đạo sĩ khả ái, Trẫm kính xin hai Ngài đạo sĩ Dukūla làm phụ thân của Trẫm và kính xin Ngài nữ đạo sĩ Pārikā làm mẫu thân của Trẫm.

- Kính xin hai Ngài đạo sĩ nhận Trẫm là con của hai Ngài. Trẫm xin cố gắng làm tròn bổn phận người con, làm mọi phận sự chăm lo săn sóc phụng dưỡng thân phụ và mẫu thân một cách chu đáo như Suvaṇṇasāma.

Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền bảo như vậy, hai vị đạo sĩ chắp tay tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương nước Kāsi, hai chúng tôi thành kính đội ơn Đại Vương.

- Muôn tâu Đại Vương, cầu xin Đại Vương trị vì đất nước Kāsi cho an lành thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp.

- Hai bần đạo chúng tôi chắp tay khẩn khoản kính xin Đại Vương dẫn hai bần đạo chúng tôi đến tận nơi chỗ nằm của Suvaṇṇasāma, để hai bần đạo chúng tôi tiếp xúc trực tiếp toàn thân thể của Suvaṇṇasāma, người con yêu quý của chúng tôi, rồi hai bần đạo chúng tôi sẽ được chết cùng với Suvaṇṇasāma tại nơi ấy, Đại Vương không phải bận tâm vì hai bần đạo chúng tôi nữa.

Khi nghe hai vị đạo sĩ khẩn khoản tâu như vậy, Đức Vua Pīḷiyakkha nghĩ rằng: “Bây giờ lúc mặt trời lặn, nếu bây giờ hai vị đạo sĩ mù này đi đến chỗ nằm của Suvaṇṇasāma, tiếp xúc tử thi Suvaṇṇasāma thì trái tim của hai vị đạo sĩ sẽ bị vỡ rồi chết, bởi vì quá thương yêu. Như vậy, cả ba người đều chết bởi vì ta, chắc chắn ta sẽ khó tránh khỏi bị xa vào cõi địa ngục.”

Đức Vua Pīḷiyakkha tìm cách trì hoãn nên thưa rằng:

- Kính thưa hai Ngài đạo sĩ kính yêu, cậu Suvaṇṇa-sāma chết nằm trên bãi cát bên bờ sông Migasammatā. Bây giờ trời tối trong rừng có nhiều thú dữ, vì vậy, kính xin hai Ngài đạo sĩ ở tại cốc trong đêm nay, sáng ngày mai Trẫm sẽ dẫn hai Ngài đến tận chỗ nằm của Suvaṇṇasāma.

Hai vị Đạo sĩ tha thiết khẩn khoản tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, dù trong rừng núi có hằng trăm, hằng ngàn thú dữ, hai bần đạo vẫn không bao giờ biết sợ cả.

- Muôn tâu Đại Vương, hai bần đạo chúng tôi tha thiết khẩn khoản Đại Vương dẫn hai bần đạo chúng tôi đi đến chỗ nằm của Suvaṇṇasāma ngay bây giờ, để cho hai bần đạo chúng tôi tiếp xúc với thân thể của Suvaṇṇasāma người con yêu quý nhất của chúng tôi.

Biết không thể nào trì hoãn được, nên Đức Vua Pīḷiyakkha nắm tay dẫn hai vị đạo sĩ mù đến tận chỗ nằm của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma. Đức Vua Pīḷiyakkha truyền rằng:

- Kính thưa hai Ngài đạo sĩ kính yêu, đây là thi thể Suvaṇṇasāma.

Khi ấy, vị đạo sĩ Dukūla phụ thân của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đỡ cái đầu Đức Bồ Tát lên đặt lên trên vế của mình và nữ đạo sĩ Pārikā mẫu thân của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma đỡ đôi chân của Đức Bồ Tát lên đặt trên vế của mình, rồi khóc than kể lễ đến đức tính tốt chí hiếu của Đức Bồ Tát, đã tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù trong khu rừng núi hoang vu này.

Nữ đạo sĩ Pārikā đưa tay sờ vào ngực của Suvaṇṇa-sāma có cảm giác còn có hơi ấm, nên nghĩ rằng: “Suvaṇṇasāma con của chúng ta còn có hơi ấm, có lẽ nó chỉ bị chết ngất vì chất độc mà thôi.”

Vậy, ta nên phát nguyện bằng lời chân thật để làm cho tiêu tan chất độc trong thân của Suvaṇṇasāma con của chúng ta, ngay bây giờ.

 Năng Lực Của Lời Phát Nguyện

* Nữ đạo sĩ Pārikā mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇ-ṇasāma cố gắng làm nguôi cơn sầu não, phát sinh đại thiện tâm trong sạch phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

“Suvaṇṇasāma là người con đại thiện thường thực hành các pháp hạnh cao thượng.

“Suvaṇṇasāma là người con đại từ thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh .

“Suvaṇṇasāma là người con đại trí thường nói lời chân thật.

“Suvaṇṇasāma là người con đại chí hiếu tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù một cách chu đáo.

“Suvaṇṇasāma là người con đại khiêm tốn biết kính trọng cha mẹ và tất cả mọi chúng sinh.

“Suvaṇṇasāma là người con đại đức có đủ hai đức tính tri ơn và báo ơn.

“Suvaṇṇasāma là người con yêu thương nhất của mẹ.

Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma con yêu quý của mẹ xin hãy tiêu tan ngay. 

Do năng lực lời phát nguyện với lời chân thật của vị nữ đạo sĩ Pārikā, mẹ của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma khiến cho thân hình của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trở mình sang một bên rồi nằm yên.

* Tiếp theo, vị đạo sĩ Dukūla, cha của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nguôi bớt cơn sầu não, phát sinh đại thiện tâm trong sạch phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

“Suvaṇṇasāma là người con đại thiện thường thực hành các pháp hạnh cao thượng.

“Suvaṇṇasāma là người con đại từ thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ vô lượng đến tất cả chúng sinh .

“Suvaṇṇasāma là người con đại trí thường nói lời chân thật.

“Suvaṇṇasāma là người con đại chí hiếu tận tâm chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ mù một cách chu đáo.

“Suvaṇṇasāma là người con đại khiêm tốn biết kính trọng cha mẹ và tất cả mọi chúng sinh.

“Suvaṇṇasāma là người con đại đức có đủ hai đức tính tri ơn và báo ơn.

“Suvaṇṇasāma là người con yêu thương nhất của cha.

Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Suvaṇṇasāma con yêu quý của cha xin hãy tiêu tan ngay. 

Do năng lực lời phát nguyện với lời chân thật của vị đạo sĩ Dukūla, cha của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma khiến cho thân hình của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma trở mình sang một bên rồi nằm yên.  

* Tiếp theo, vị thiên nữ Bahusundharī (đã từng là mẹ của tiền kiếp thứ 7 của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma) trú núi Gandhamādana xuất hiện ra tại chỗ nằm Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

“Tôi trú tại núi Gandhamādana trải qua suốt thời gian lâu dài, không có ai mà tôi thương yêu hơn Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma.

“Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma là người mà tôi thương yêu nhất, cũng như núi Gandhamādana có toàn những cây có mùi thơm.

Do lời chân thật này, chất độc trong thân thể của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, xin hãy tiêu tan không còn dư sót.

 Sau khi vị thiên nữ Bahusundharī phát nguyện vừa chấm dứt, thì Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma người con có màu da như vàng ròng, khôi ngô tuấn tú đứng dậy ngay tức khắc, mũi tên rơi xuống đất, không để lại dấu vết, nỗi đau khổ không còn nữa.

Do oai lực của chư thiên, mọi sự phi thường xảy ra cùng một lúc không trước không sau là.

* Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma hồi sinh tự nhiên.

* Đôi mắt của vị đạo sĩ Dukūla và vị nữ đạo sĩ Pārikā

 sáng trở lại tự nhiên.

* Đúng lúc rạng đông bắt đầu một ngày mới.

* Bốn vị là Đức Vua Pīḷiyakkha, Đạo sĩ Dukūla, vị nữ Đạo sĩ Pārikā và Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma được hiện diện tại cốc lá.

Bốn sự kiện này được hiện hữu cùng một lúc, không sau không trước do oai lực của chư thiên.

Hai vị đạo sĩ Dukūla và vị nữ đạo sĩ Pārikā có đôi mắt sáng trở lại, nhìn thấy mọi vật, cho nên hai vị đạo sĩ cảm thấy vô cùng hoan hỷ.

Khi ấy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thưa rằng:

- Kính thưa cha mẹ, con là Suvaṇṇasāma người con mà người cha mẹ thương yêu nhất đã sống trở lại rồi. Con rất vui mừng thấy cha mẹ có đôi mắt sáng trở lại, xin cha mẹ không nên buồn khổ nữa, con cầu mong cha mẹ thân tâm thường an lạc.

Kính xin cha mẹ nói chuyện với con bằng những lời hay với tâm từ như trước.

Nhìn thấy Đức Vua Pīḷiyakkha, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương đã ngự đến nơi đây thật là điều tốt lành đối với cha mẹ tôi.

Kính xin Đại Vương lựa chọn các thứ trái cậy ngon mà dùng, kính mời Đại Vương dùng nước mát đem từ con sông Migasammatā.

Đức Vua Pīḷiyakkha đã chứng kiến những điều xảy ra thật phi thường chưa từng có, nên thưa rằng:

- Thưa bậc thiện trí Suvaṇṇasāma, Trẫm vô cùng ngạc nhiên chứng kiến những điều xảy ra, thật phi thường chưa từng có như thế này: 

- Bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma đã chết rồi, nay hồi sinh sống trở lại tự nhiên, không có gì thay đổi. 

- Hai vị đại thiện trí đạo sĩ bị mù đôi mắt, nay có đôi mắt sáng trở lại tự nhiên.

Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha truyền thưa như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nghĩ rằng: « Đức Vua Pīḷayakkha tưởng ta đã chết rồi. » Ta nên giải thích điều này cho Đức Vua biết, nên tâu câu kệ rằng:

Api jīvaṃ mahārāja,  purisaṃ gāḷhavedanaṃ.

Upanītamanasaṅkappaṃ,  jīvantaṃ maññate mataṃ.

Api jīvaṃ mahāraja,  purisaṃ gāḷhavedanaṃ.

Taṃ nirodhagataṃ santaṃ, jīvantaṃ maññate mataṃ.

- Tâu Đại Vương, nếu người còn sống phải chịu đựng nỗi thống khổ cùng cực, tâm bị chìm xuống dòng hộ kiếp tâm (bhavaṇgacitta), thì người ấy vẫn còn sống, mà người đời tưởng đã chết. (chỉ chết ngất mà thôi).

- Tâu Đại Vương, nếu người còn sống phải chịu đựng nỗi thống khổ cùng cực, hơi thở ra vào bị ngưng (diệt), thì người ấy vẫn còn sống mà người đời tưởng đã chết.

(Giống như trường hợp Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma)

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thuyết pháp dạy Đức Vua Pīḷiyakkha rằng:

- Tâu Đại Vương, người nào biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, bạn bè một cách chu đáo, thì chư thiên, nhân loại theo hộ trì người ấy.

- Tâu Đại Vương, người nào biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, bạn bè một cách chu đáo, chư bậc thiện trí tán dương ca tụng người ấy trong kiếp này, sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời .

Lắng nghe lời dạy của Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, Đức Vua Pīḷayakkha suy nghĩ rằng: “Thật phi thường chưa từng thấy! Chư thiên chữa trị vết thương của Suvaṇṇasāma, người con biết chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ.

Bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma thật đáng kính trọng."

Đức Vua Pīḷiyakkha chắp tay thưa rằng:

- Thưa bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma, Trẫm là người tối mê lầm lạc. Nay, Trẫm kính xin nương nhờ nơi bậc đại thiện trí Suvaṇṇasāma.

Kính xin Ngài Suvaṇṇasāma là nơi nương nhờ của Trẫm, tế độ Trẫm, để sau khi Trẫm băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

Nghe Đức Vua Pīḷiyakkha thưa như vậy, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, nếu Đại Vương muốn kiếp sau được tái sinh lên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc thì kiếp hiện tại này, Đại Vương nên thực hành đầy đủ 10 pháp hành của Đức Vua (Dasa rājadhamma) như sau:

10 Pháp Vương (Rājadhamma)

- Muôn tâu Đại Vương,

1- Xin Đại Vương nên thực hành pháp phụng dưỡng Đức Phụ Vương và Mẫu Hậu một cách chu đáo, khi đã thực hành thiện nghiệp ấy trong kiếp hiện tại này.

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

2- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ nuôi dưỡng hoàng hậu, các cung phi, các hoàng tử, các công

 chúa một cách chu đáo…

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

3- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các hoàng gia, các quan, các bạn hữu, một cách chu đáo.. … 

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

4- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các bộ binh các con voi, con ngựa, một cách chu đáo…

 Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

5- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với dân chúng trong kinh thành, các tỉnh thành, một cách chu đáo…

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

6- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với dân chúng trong đất nước, các vùng biên giới, một cách chu đáo…

 Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

7- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với chư Sa-môn, Bà-la-môn, một cách chu đáo…

 Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

8- Xin Đại Vương nên thực hành pháp tế độ đối với các loài thú, các loài chim, một cách chu đáo… 

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời. 

9- Xin Đại Vương nên thựờng hành mọi thiện pháp trở thành thói quen đem lại sự an lạc trong kiếp hiện tại.

Sau khi Đại Vương băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau trên cõi trời.

10- Xin Đại Vương nên thực hành mọi thiện pháp, bởi vì các Đức Vua Trời, chư thiên, chư phạm thiên trên các tầng trời, tiền kiếp của các vị ấy đã từng thực hành mọi thiện pháp. Xin Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp.

Đó là 10 pháp vương của các Đức Vua trị vì trong đất nước của mình.

Từ nay về sau, Đại Vương không nên dể duôi trong mọi thiện pháp, nên làm phước thiện bố thí, nên giữ gìn ngũ giới cho được trong sạch và trọn vẹn, nên thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng, nên thực hành nghiêm chỉnh 10 Pháp vương, để trị vì đất nước cho được phồn vinh, thần dân thiên hạ sống được sống an cư lạc nghiệp. 

Sau khi thuyết giảng 10 pháp hành của Đức Vua xong, Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma hướng dẫn Đức Vua Pīḷiyakkha thọ trì ngũ giới, rồi khuyên Đức Vua giữ gìn ngũ giới của mình cho được trong sạch và đầy đủ trong kiếp hiện tại. Đó là thiện pháp cơ bản, sau khi Đức Vua băng hà, thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh kiếp sau lên cõi trời, an hưởng mọi sự an lạc.

Khi ấy, Đức Vua Pīḷiyakkha chắp hai tay thành kính đảnh lễ Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, rồi kính xin sám hối những tội lỗi của mình. 

Đức Vua Pīḷiyakkha đảnh lễ Ngài đạo sĩ Dukūla-paṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā, rồi xin từ giã hồi cung trở về kinh thành Bāranasī.

Từ đó về sau, Đức Vua Pīḷiyakkha cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện nghiệp như bố thí, giữ ngũ giới trong sạch và đầy đủ, thực hành 10 pháp hành của Đức Vua trị vì đất nước Kāsi được thanh bình thịnh vượng, thần dân thiên hạ được an cư lạc nghiệp.

Đức Vua Pīḷiyakkha thực hành mọi thiện pháp cho đến suốt đời. Sau khi Đức Vua Pīḷayakkha băng hà, thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm chư thiên trên cõi trời, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, thực hành pháp hành thiền định tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới và chứng đắc ngũ thông (thần túc thông, nhãn thôn, nhĩ thông, túc mạng thông, tha tâm thông).

Ngài đạo sĩ Dukūlapaṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā thực hành pháp hành thiền định tứ vô lượng tâm, chứng đắc các bậc thiền sắc giới, và chứng đắc ngũ thông.

Sau khi hai vị đạo sĩ chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên.

Sau khi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chết, sắc giới thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm vị phạm thiên trên cõi trời sắc giới phạm thiên. 

Sau khi Đức Thế tôn thuyết về tích Suvaṇṇasāma tiền kiếp của Ngài xong, Đức Thế Tôn thuyết dạy chư Tỳ khưu rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Người con chí hiếu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ. Đó là truyền thống của chư bậc thiện trí tiền bối xưa.

Đức Thế Tôn thuyết về tứ Thánh đế, vị Tỳ khưu chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ ấy chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Nhập Lưu Thánh Đạo-Nhập Lưu Thành Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Nhập Lưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama.

Các vị Tỳ khưu khác cũng chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc Thánh Đạo-Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh nhân thấp hoặc cao tuỳ theo năng lực của pháp hạnh Ba-la-mật của mỗi vị.

  Tích Suvaṇṇasāmajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Suvaṇṇasāmajātaka này, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm con của 2 vị đạo sĩ: đạo sĩ Dukūlapaṇḍita và nữ đạo sĩ Pārikā, trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Suvaṇṇasāmajātaka liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

- Vị đạo sĩ Dukūlapandita, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa.

- Vị nữ đạo sĩ Pārikā, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Bhaddākāpilāni.

- Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha.

- Đức Vua Pīḷayakkha, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Ānandā.

- Vị thiên nữ Bahusundarī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā.

- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama.

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật.

 Tóm lược tích Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma là tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung đồng thời các pháp hạnh Ba-la-mật khác cũng được thành tựu như sau:

1- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma chăm lo săn sóc phụng dưỡng cha mẹ, đó là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

2- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma giữ gìn giới, đó là pháp hạnh giữ gìn Ba-la-mật.

3- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma xuất gia đạo sĩ, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật.

4- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có trí tuệ sáng suốt, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

5- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có sự tinh tấn, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

6- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

7- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma phát nguyện, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

8- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật.

9- Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma có tâm xả, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật đồng thời thành tựu cùng với pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung này.

 Nhận Xét Về Tích Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma 

Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung, cũng là 1 trong 30 pháp hạnh Ba-la-mật mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác ( Sammāsambuddha).

Pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật đó là tâm sở vô sân (adosacetasika) đồng sinh với các thiện tâm có đối tượng chúng sinh đáng yêu, đáng mến, cầu mong sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc đến tất cả chúng sinh không phân biệt.

Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lượng không phân biệt, cho nên, các loài thú trong rừng đều yêu mến Đức Bồ Tát, chúng thường đi theo quanh quẩn với Đức Bồ Tát như bạn.

Khi Đức Bồ Tát Suvaṇṇasāma tuy bị mũi tên độc đâm vào thân thể đau đớn vô cùng, nhưng Đức Bồ Tát vẫn nhẫn nại chịu đựng, không hề phát sinh tâm sân. Đó là do nhờ năng lực tâm từ đè nén, chế ngự được tâm sân.

Hành giả thường thực hành pháp hành thiền định niệm rải tâm từ đến tất cả chúng sinh vô lươngj không phân biệt, trở thành thói quen, thì thiện tâm có tâm từ mát mẻ, không nóng nảy bực bội.

(Xong pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật bậc trung)

 



[1] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần dukanipāta, Tích Arakajātaka.

[2] Bộ Jātakaṭṭhakathā, phần Mahānipāta, Tích Suvaṇṇasāmajātaka

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn