Vấn Đề Khất Thực Trong Đạo Phật
Trong một dịp về thăm quê nhà gần đây, tôi thấy có một vị Sư đứng khất
thực tại trước cửa Đông chợ Bến Thành và vào một dịp khác ghé thăm khu Little
Saigon, miền Nam California, tôi cũng thấy có một vị Sư áo vàng đứng khất thực
trước cổng sau thương xá Phước Lộc Thọ. Tôi không biết đường lối khất thực của
nhà Phật như thế nào? Khất thực có phải là đi xin ăn hay đi xin tiền vì tôi
thấy có người bỏ tiền vào bình bát?
==Xin vui lòng giảng
giải cho tôi biết về pháp khất thực của nhà Phật như thế nào.

Việc
đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử
xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để
học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực
từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một
cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và
khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật
để tu hành nuôi tâm. Từ ban đầu, họ không phải là những nhà tu khổ hạnh tự
hành xác để sám hối và không xem lối sống đơn giản tự nó là cứu cánh mà chỉ là
phương tiện để giải thoát những phiền toái hàng ngày hầu có thể tập trung toàn
lực vào công việc quan trọng duy nhất là đạt giác ngộ cho mình và giúp ích cho
người.
Khất
thực có nghĩa là xin ăn. Cách nuôi thân một cách chân chính do Phật dạy cho
những đệ tử xuất gia. Đó là thực hành chính mạng thanh tịnh. Tưởng cũng nên nói
thêm ở đây là tu sĩ của một số tôn giáo khác ở xã hội Ấn Ðộ thời đức Phật còn
tại thế, thường dùng những phương tiện không chính đáng để mưu sinh, bởi lẽ
những công việc ấy nhẹ nhàng, dễ làm, không khó nhọc như các nghề coi bói toán,
xem tinh tú, bùa chú, xem ngày xấu, giờ tốt, xem phong thổ, địa lý, xây nhà,
đào ao, v…v... Ðức Phật nhận thấy đây là điều không thể chấp nhận và không phải
là việc làm của người tu sĩ Phật giáo, không phải là hành chánh mệnh thanh
tịnh.

Đi
khất thực còn gọi là đi bình bát hay trì bát. Chữ Bát có nghĩa là
đồ dùng để chứa đựng các thực phẩm chỉ đủ vừa sức ăn cho một người. Bình bát là
loại bình được làm bằng đá, bằng sành, bằng đất sét nung thật chín rồi tráng
men bên trong cho khỏi rỉ nước, chứ không được làm bằng vàng bạc hay tất cả
những kim khí quý, ... Nếu dùng bằng kim khí quý thì không đúng phẩm hạnh
của người xuất gia. Các vị đã phát tâm xuất gia tức là tập hạnh xả bỏ tất cả,
kể cả thân mạng nếu cần và đúng với chánh pháp, nghĩa là xả phú cầu bần, xả
thân cầu đạo. Ở các nước theo Nam Tông Phật giáo, chư Tăng đi khất thực nên
thường dùng bình bát. Các nước theo Bắc Tông Phật giáo thì không đi khất
thực nên chỉ dùng bình bát trong ba tháng an cư kiết hạ, có nơi còn ba
tháng kiết đông nữa; đồng thời, thỉnh thoảng có quý thí chủ phát tâm cúng dường
trai tăng thì cũng dùng bình bát để cúng Phật trước khi thọ trai.
Chuyến
đi khất thực bao giờ cũng diễn ra vào buổi sáng và chấm dứt trước giờ ngọ
tức trước lúc mặt trời đứng bóng. Các Tỳ-kheo đi một mình hay từng nhóm,
không đứng trước cửa chợ mà đi theo thứ tự, từ nhà này sang nhà khác, không
phân biệt, mắt nhìn xuống và yên lặng đứng đợi trước mỗi cửa nhà để xem thức ăn
có được đặt vào bình bát không. Các thí chủ chỉ cúng dường những thức ăn đã
được nấu sẵn, không cúng dường các vật liệu chưa làm thành món ăn, như cúng cơm
chứ không cúng gạo, cúng món rau xào chứ không cúng bó rau chưa nấu chín. Nếu
chưa đủ dùng, chư vị tiếp tục đi theo hàng dọc đến nhà bên cạnh nhưng không
được quá bảy nhà. Chư vị không được phép bỏ sót nhà nào, hoặc dành ưu tiên
cho phố xá ở các thị trấn phồn thịnh, các gia chủ giàu hay nghèo đều phải được
tạo cơ hội đồng đều để gieo trồng phước duyên, cũng không muốn gây cảm tưởng là
chư vị ham thích những khu phố giàu có vì thức ăn ngon hơn.
Khất
thực xong, các vị trở về tịnh xá để ăn trước khi mặt trời đứng bóng. Đây là bữa
ăn duy nhất trong ngày. Thông thường thức ăn được phân ra làm bốn phần: một
phần nhường lại cho các bạn đồng tu nếu thấy họ không có hay có ít, một phần
san sẻ cho người nghèo, một phần dành cho loại chúng sinh không phải là người
nhưng sống chung với người và cuối cùng còn lại là phần mình dùng. Khi thọ dụng
thức ăn các vị Tỷ kheo xem như là việc uống thuốc để duy trì sự sống mà tu
hành, ngon không ham, dở không bỏ. Thọ dụng cúng phẩm của người đời vừa khỏi
đói khát thì thôi, không được ham cầu cho nhiều, phá vỡ thiện niệm của họ. Sau
bữa ăn, các vị rửa bát, xếp gọn các y, ngơi nghỉ trong chốc lát, liền lại đến
một gốc cây hay căn nhà trống, hay tịnh thất ngồi thiền định như hành Tứ niệm
xứ hay niệm hơi thở vào, hơi thở ra.
Hằng năm, chư Tăng ni an
cư vào ba tháng mùa mưa. Tất cả trở về sống chung trong các tịnh xá lớn. Trong
thời gian này, chư Tăng không đi khất thực, đã có thiện nam, tín nữ, đến tịnh
xá "để bát" và lo tứ sự cúng dường. Cứ đến ngày lễ Bố-tát vào
ngày trăng tròn và ngày đầu trăng, chúng Tỳ kheo cùng sống trong một vùng phải
tập họp lại một chỗ gọi là giới trường để tụng đọc Giới bổn Ba La Đề Mộc Xoa.
Chư Ni thì có đại diện đến xin lãnh giới ở chư Tăng và trở về tịnh xá riêng của
Ni để tụng đọc Giới bổn Ni. Ngoài ba tháng an cư, chư Tăng được tung ra khắp
các phương hướng, đi đến các trú xứ khác nhau, trong các quốc độ, vừa khất thực
để độ nhật, vừa thuyết pháp độ sinh, và vừa nỗ lực tinh cần tiếp tục hành Thiền
để đoạn trừ tham sân si.
Pháp Khất thực do Phật truyền cho các đệ tử xuất gia phù hợp với
nguyên lý Trung đạo, tức là tránh xa hai
cực đoan: Thứ nhất là tránh xa sự sung sướng thái quá qua việc ăn thực phẩm do
người đời cúng dường để vào trong bình bát mà không dùng đũa ngọc, chén ngà,
bàn cao, ghế đẹp với thức ăn mỹ vị, và thứ hai là tránh xa sự khổ hạnh thái quá
qua chiếc bát đựng đồ ăn vừa đủ dùng, không giống như phái tu khổ hạnh lượm
trái cây, lượm đồ ăn dư thừa mà ăn.
Theo Kinh Phật, sự xin
ăn của tu sĩ đem lại lợi ích cho mình và cho chúng sinh:
Đối với vị Tỳ kheo khất
thực thì có năm điều lợi ích:
(1)
tâm trí được rảnh rang, ít phiền não,
(2) không bận rộn tâm và thân để kiếm kế sinh nhai,
(3) đoạn trừ tâm kiêu căng ngã mạn,
(4) đoạn trừ lòng tham, không thể tham ăn ngon và ăn
nhiều vì ai cho gì ăn nấy, không thể chọn lựa, thức ăn chỉ đầy bát chớ không
nhiều hơn nữa, tránh khỏi sự thâu trữ vật thực tiền của và
(5) có nhiều thì giờ tu hành.
Ngoài lợi ích cho riêng
mình, vị Tỳ kheo khất thực còn mang lại ba điều lợi ích cho chúng sinh như:
(1)
tạo cơ duyên cho người bố thí đoạn trừ lòng tham, tức là tạo phước duyên cho họ,
(2)
tạo cơ duyên giáo hoá chúng sinh, và
(3)
Nêu gương sống giản dị làm cho người đời bớt tham đắm của cải.
Theo
Kinh Phật, trước khi lên đường khất thực vị khất sĩ nguyện rằng: “Nguyện cho
các vị Khất gỉa thảy đều được no đủ và nguyện cho các thí chủ thảy đều được
phước báu vô lượng. Như nay tôi được món ăn là dùng để điều trị cái thân độc
hại này, để tu tập thiện pháp, lợi ích cho thí chủ.”
Trong
khi đi khất thực, vị khất sĩ giữ tâm bình đẳng: theo thứ tự nhà của dân
chúng mà xin ăn, không chỉ đến xin nơi nhà giầu, cũng không chỉ xin nơi nhà
nghèo. Có lần đức Phật quở Tôn gỉa Ca Diếp bỏ nhà giầu mà xin nhà nghèo, quở
Tôn gỉa Tu Bồ Đề bỏ nhà nghèo mà xin nhà giầu. Vì trước đó Tôn Giả Ca Diếp nghĩ
rằng "người nghèo thật đáng thương, ít phước, nếu không gieo trồng phước
lành cho họ thì đời sau lại càng khổ hơn, nên đến đó xin để nhờ đó họ bố thí
cúng dường mà được phước về sau". Trái lại, Tôn giả Tu-Bồ-đề lại cho rằng:
"Người giàu, nếu đời nay không gieo trồng phước lành thì đời sau lại nghèo
khổ." Mỗi vị đều trình bày lý do của mình, Đức Phật mới quở trách các vị
ấy là bậc A-la-hán có tâm phân biệt, không bình đẳng.

Khi
đi vị Khất sĩ không ngó qua ngó lại, không được mở miệng nói chuyện, đi hết
bảy nhà nếu không ai cúng dường cũng phải trở về với bát không và không ăn ngày
hôm đó. Khi đi khất thực, vị khất sĩ cũng không được để ý xem mình được cái
gì, và cũng không được thỏa mãn cũng như bất mãn. Nếu một người đàn bà cúng
dường đồ ăn, vị Khất sĩ không được nói, nhìn hay quan sát người ấy đẹp hay xấu.
Đồ ăn cúng dường cho Khất sĩ không phải luôn luôn nhiều hay ngon lành, hay tinh
khiết. Các chuyến đi khất thực đôi lúc cũng có thể gây nên những xáo trộn tình
cảm cho các Tỳ-kheo trẻ vì đa số thí chủ là đàn bà con gái. Do đó, việc tự điều
phục thân tâm phải được tăng cường là điều rất cần thiết trong lúc khất thực,
như đức Phật đã nhấn mạnh: “chỉ khi nào thân tâm được điều phục, thực
hành chánh niệm và phòng hộ các căn thì mới đi vào làng khất thực".
Ngày
nay, tại một số quốc gia theo truyền thống Phật giáo Nam Tông như Tích Lan,
Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào và một phần của miền Nam Việt Nam chư Tăng
vẫn tiếp tục theo truyền thống khất thực này. Ở Trung Hoa, Triều Tiên và Tây
Tạng truyền thống khất thực dường như đã hoàn toàn biến mất. Dưới Triều nhà
Đường ở Trung Hoa, một tông phái đặc biệt, Luật Tông, được thành lập với mục
đích làm sống lại truyền thống khất thực xưa, và đem ra thực hành những giới
luật nghiêm ngặt của Luật Tạng. Dưới triều đại nhà Tống, các Thiền Sư thực hành
khất thực và sự thực hành này còn tồn tại nơi những Thiền Sư Nhật Bản. Tuy
nhiên ở Nhật Bản, khất thực không phải là nguồn sinh sống chính mà chỉ là một
sự tập luyện kỷ luật cho những vị sơ tu hay là một cách lạc quyên vào những dịp
đặc biệt và cho những mục đích từ thiện. Đối với Phật giáo phương Tây, vì hoàn
cảnh xã hội không giống như hoàn cảnh các quốc gia phương Đông, nên pháp Khất
thực khó thực hiện. Đa số các Tăng ni không đi khất thực nên các nhu cầu ăn
uống đều do các Phật tử tại gia cúng dường.
. . . Các vị này phải hành trì đúng chánh pháp, đúng luật qui
định của giới khất sĩ, tức là chỉ đi khất thực từ 8 giờ đến 10 giờ sáng.
Sau 10 giờ sáng là phải trở về trú xứ. Chỉ được thọ nhận vật thực, không
được nhận tiền bạc. Về hành trang chỉ gồm có một chiếc bình bát duy nhất,
không được mang theo túi hay đãy. Ðối với Ni giới, khi đi khất thực, phải đi từ
hai vị trở lên, không được đi một mình riêng lẻ.
Nói
tóm lại, vì nhu cầu tu học, nên vấn đề ăn uống cần phải được giản dị, thực phẩm
phải được xem như là dược thực, vì thế Tăng đoàn thời Đức Phật phải đi khất
thực. Khất thực là chính sách thực hành giáo pháp, là truyền thống của chư
Phật. Các thầy Tỳ kheo phải giữ tâm bình đẳng mà đi khất thực từng nhà,
không phân biệt giầu nghèo sang hèn để tạo cho đủ mọi tầng lớp dân chúng đều có
cơ duyên thực hành hạnh bố thí cầu phước, nhân dịp đó quý thầy nói pháp
khuyên dạy mọi người tu hành. Khi đi không ngó qua ngó lại, không được mở miệng
nói chuyện, luôn điều phục thân tâm trong chánh niệm, đi theo thứ lớp: Nếu hàng
Phật tử thỉnh thọ trai thì không cần theo thứ lớp, cứ đi thẳng đến nhà thí chủ
thỉnh mình. Còn khất thực phải theo thứ lớp. Ai cho gì ăn nấy, không được
phân biệt thức ăn tốt xấu, ngon dở, chay mặn, không được qui định người thí chủ
phải cúng dường như thế nào, mà là tùy điều kiện khả năng và phát tâm của thí
chủ. Đó mới gọi là trí không phân biệt. Cũng vậy khi ăn thì phải trộn các
món ăn với nhau để không còn phân biệt món này với món khác, món ngon món dở và
không phân biệt mùi vị. Mục đích để không còn luyến ái mùi vị thơm ngon, mà chỉ
cần ăn để nuôi sống xác thân mà tu hành giải thoát.
Ban Biên Tập TVHS