(Xem: 1493)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

03-Sadhā (Đức Tin)

17 Tháng Sáu 201312:00 SA(Xem: 11170)

 

03-Sadhā (Đức Tin)

Giác ngộ là điều chắc chắn có thể được

 

Tôi không tin vào ý tưởng “không thể được.

 MUNINDRA

 Đối với Phật tử Nguyên thủy trong gần suốt một thời gian dài của thế kỷ hai mươi, việc một người có thể đạt giác ngộ thường được xem như chuyện thần thoại. Mặc dù kinh điển Pāli có kể ra nhiều, hết đoạn này đến đoạn khác về các đệ tử “ nhập vào giòng Thánh” (Chứng ngộ đạo quả nhập lưu hay Tu đà hoàn sotāpatti, tầng đầu tiên của bốn tầng đạt đến niết bàn nibbāna)nhưng đa số mọi người đều nghĩ rằng những kỳ công phi thường ấy chỉ đạt được ở thời xa xưa, chứ không thể ở thời buổi hiện đại này.

 Mãi đến giữa thế kỷ mười chín tại Miến điện, một phong trào phục sinh thiền Tứ Niệm Xứ được kết hợp với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân đã bắt đầu làm thay đổi thái độ đó. Ngài Munindra được hưởng phúc lạc từ chuyển biến này. Mặc dù có đức tin vững mạnh từ truyền thống gia đình, Ngài vẫn cảm thấy còn thiếu sót một điều gì đó. Cuối cùng Ngài đã tìm ra được điều đó tại Miến điện vào năm 1957.

Niềm tin từ gia đình Biến thành đước tin tuyệt đối.

 Cha mẹ của Ngài Munindra vốn là Phật tử thuần thành nên đã tập cho các con trau giồi đức tin Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng) từ hồi còn bé.

 Trời vừa rạng đông, người mẹ lo tưới nước mát cho gian nhà tranh vách đất, đặt lên bàn thờ một bát nước và đốt hương trong lò lửa để nhà thơm tho. Sau khi tắm rửa xong, cậu bé Munindra và mấy anh em ra mảnh vườn nhỏ hái hoa đặt lên bàn thờ. Rồi cả nhà cùng ngồi lại tụng kinh chung với nhau. Khi tụng niệm và cầu nguyện xong, mấy cậu bé cúi đầu lạy các người lớn để tỏ lòng tôn kính và nhận lời chúc phúc của họ. Vào buổi chiều khi các trẻ đi học về, họ lập lại nghi thức này một lần nữa.

 Khi Munindra được khoảng tám tuổi, người cha bắt đầu cho cậu học Dhamma-saṅgaṇī (Phân Loại Các Pháp hay Bộ Pháp Tụ) là bộ thứ nhất của Abhidhamma piṭaka (Vi Diệu Pháp tức tạng thứ ba của Tam Tạng Kinh Pāli), do một người bà con dịch sang tiếng Bengali. Vì còn quá nhỏ, Munindra không thể hiểu được ý nghĩa nhưng cậu rất thích và trân quý cuốn sách.

 Mặc dù từ lúc còn bé đã tin tưởng vào sự giác ngộ của Đức Phật, nhưng mãi đến những năm bốn mươi tuổi, đức tin bất thối chuyển (saddhā) vào Tam Bảo của Ngài Munindra mới thật sự chín muồi. Trước khi sang Miến điện, trong tâm Ngài vẫn còn vương vấn vài hoài nghi về Pháp bảo – vì chưa thể nghiệm được các điều đó – cho đến khi đạt thân chứng đầu tiên qua công năng hành thiền dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Mahāsi.

 Ngài Munindra kể lại, “Lần đầu tiên nếm được hương vị Pháp bảo, tôi thấy được sự thật y như nó là, tâm tôi tràn ngập niềm phấn khởi với đức tin bất thối chuyển nơi Giáo pháp. Pháp hành này đã làm sáng tỏ nhiều nghi vấn tôi từng cưu mang.”

 Thời gian còn lại của cuộc đời, Ngài Munindra khích lệ và hướng dẫn những người khác tu tập theo đường Đạo. Với Ngài, một đức tin bất thối chuyển không bao giờ chỉ là niềm tin đơn thuần nơi một truyền thống nào đó, mà là một niềm tin tưởng tuyệt đối vào giá trị thanh lọc và giải thoát của con đường mà Đức Phật đã đi.

 Từ kinh nghiệm thực chứng của mình, Ngài biết rõ điều gì có thể thực hiện được. David Johnson nói, “Ngài Munindra sẵn sàng trình bày cho bất cứ ai muốn nghe về Tam Tướng, tức ba đặc tánh chung của các pháp hữu vi (pháp chịu điều kiện) – vô thường anicca, khổ dukkha, và vô ngã anattā. Ngài như một nhà khoa học vừa hoàn tất một công trình khám phá và phải nói cho mọi người biết rằng điều mình vừa tìm kiếm được kỳ diệu biết bao, và rằng ai cũng có thể tự tìm kiếm được điều ấy.”

Tại sao không là bây giờ?

 Ngài Munindra nhấn mạnh rằng nếu giác ngộ là việc có thể được trong thời Đức Phật, thì tại sao không thể được ở thời bây giờ ?

 Ngài nhiệt tình trong xác quyết này đến nỗi có thể sách tấn các cư sĩ – Á cũng như Âu – hành thiền và chứng nghiệm Giáo pháp dù đang sống ngay giữa đời thường. Rồi các vị cư sĩ này lần lượt hỗ trợ người khác trên đường tu tập giải thoát. Chẳng hạn bà Dipa Ma đã tạo một ảnh hưởng sâu rộng cho một số phụ nữ nội trợ ở Calcutta – cho dù họ không có phước duyên hưởng được hương vị an tĩnh của một trường thiền – cũng như một số học trò ở Tây phương.

 Kamala Masters giải thích, “Tôi thấm nhuần lời dạy của Thầy rằng không cần phải thực hành một phương cách riêng biệt nào đó mới đạt được niết bàn. Thầy cho tôi thí dụ về những vị đã chứng ngộ trong lúc đang ăn hay đánh răng, hoặc bất cứ lúc nào. Tôi luôn luôn cảm nhận rằng khả năng này thật sự có, và nó vượt ra ngoài mọi hình thức hay khuôn khổ. Tôi đã thấy nhiều thiền sinh đạt được điều đó mà không cần phải qua Á châu tu học, và nhiều phụ nữ nội trợ thành tựu ngay trong vai trò này của mình.”

 Ngài cũng khích lệ người cháu gái Subhra Barua bằng những câu chuyện về những người như thế. “Thầy dạy tôi rằng ngay trong thế gian này, bây giờ đây, ta vẫn có thể chứng đắc chánh quả và chấm dứt khổ đau. Thầy luôn sách tấn tôi hành thiền vì giác ngộ là điều có thể đạt được.”

 Ngài Munindra chống lại chủ nghĩa bi quan về khả năng giác ngộ bất cứ lúc nào ai đó hỏi Ngài rằng có hay không những vị đã đạt các tầng Thánh Tu đà hoàn (Nhập lưu), Tư đà hàm (Nhất lai) và A na hàm (Bất lai) trong thời này. Ngài khẳng định là thật có những vị như vậy, nhưng không có dấu hiệu, hình tướng hay là hào quang nào biểu hiện cho sự chứng ngộ ấy. Lời xác quyết này đã thúc đẩy nhiều hành giả kiên cường tu tập.

 Vào cuối thập niên sáu mươi và đầu bảy mươi, khi Joseph Goldstein bắt đầu thiền tập với Ngài Munindra ở Bồ đề Đạo tràng, họ thường cùng đi bộ qua các làng mạc. Joseph nhớ Thầy đã chỉ cho ông những người dân chất phác từng là môn sinh của Thầy, nhiều người trong số đó đã đạt đến các tầng giác ngộ khác nhau. Joseph nói: “Tôi cảm thấy được khích lệ khi nhìn những vị ấy, vì nếu chỉ căn cứ theo bề ngoài thì sẽ không bao giờ đoán được chứng đắc tâm linh của họ. Họ có vẻ chỉ là những người dân làng bình dị đang làm công việc thường nhật. Tôi được trực tiếp, mắt thấy tai nghe, một chân lý hay được nhắc đến rằng giác ngộ không tùy thuộc vào trình độ học thức hay xã hội. Thầy đã kể rất nhiều trường hợp này, và đặc biệt là về bà Dipa Ma cùng các chứng đắc của Bà, khiến mọi người nung nấu và giữ vững trong lòng những nguyện ước cao cả nhất.”

 Uffe Damborg cũng đồng ý: “Tôi tin là mình đang hướng về niết bàn hay giác ngộ. Có thể không phải là ngay kiếp này, nhưng tôi vững tin rằng đời sống mình đã có hướng đi, và rằng mục tiêu này có thể đạt được. Niềm tin này bắt nguồn từ một thứ thân tình và gần gũi tâm linh mà tôi cảm nhận được qua mối liên hệ giữa Ngài Munindra và tôi.”

Sự hiện diện tràn đầy niềm tin. 

 Sự hiện diện đơn thuần của Ngài Munindra, một người ngập tràn niềm tin không lay chuyển nơi Giáo pháp, có khi là điều duy nhất cần thiết cho một số người. David Gelles gọi đó là một “nguồn khích lệ thật sự và bổ ích.” Thể theo lời giới thiệu của Ngài Munindra, David đến dự khóa thiền ở Dhamma Giri (một trung tâm thiền do Ngài Goenka sáng lập tại Igatpuri, Ấn độ, nơi Ngài Munindra đang thường trú). “Thầy cùng tôi đi bộ quanh khuôn viên, bàn về các dự án tương lai của Igatpuri. Thầy rất lạc quan và có tầm nhìn xa.”

  David đã có một khóa Thiền đầy gian khổ. Ông trải qua nhiều ngày cả thân cùng tâm đau đớn khủng khiếp. Tuy vậy ông nói, “Vượt qua được khóa thiền là một trong những ngày hạnh phúc nhất của đời tôi – không hiểu vì sao. Tôi không đạt được một trạng thái tâm đặc sắc nào mà tôi có thể duy trì được từ đó đến nay. Chỉ có nguyện lực và hành trì của tôi, và sự có mặt của Thầy – có Thầy minh chứng những gì tôi thể nghiệm được, cứ như Thầy đã nắm tay tôi bước vào và vượt qua khóa thiền vậy.”

Mặc dù Peter Martin là học trò và phụ giáo của Ngài Goenka, sự hiện diện của Ngài Munindra ở Dhamma Giri lúc nào cũng như một mẫu mực hỗ trợ tinh thần cho Peter, nhất là trong những giai đoạn gian khó của các khóa thiền dài tích cực.

 Peter kể: “Sự hiện diện của Thầy thật là vững chắc và thiết thực. Hễ đi ngang tu cốc của Thầy là tôi thấy những đôi dép để ngay ngắn ngoài cửa, hoặc chiếc y trắng của Thầy phơi trên giây. Ánh đèn từ phòng Thầy sáng tỏ lúc tôi đi đến thiền đường, vào bốn giờ sáng, cũng như khi tôi trở về phòng, đã về khuya. Thật yên ổn trong tâm khi biết rằng Thầy đang hiện diện.”

 Peter nói tiếp: “Đôi khi các khóa thiền dài ngày khá vất vả cho tôi. Những lúc nặng nề quá, tôi thường đi bộ ngang cốc của Thầy và tự trấn an với sự kiện trong đó có một chúng sanh này đây, chắc chắn là đang hành thiền hoặc đang rải tâm từ, hướng mọi ý nghĩ trong sạch và mong ước thiện lành đến tất cả Chúng sanh chung quanh – Tôi biết thầy luôn hành trì như thế. Được ở trong cùng một môi trường với một người đặc biệt như Thầy, thật là an tâm.”

 Ngài Munindra mang lại cho môn sinh đức tin để nối kết với giáo lý truyền thống. Peter nói tiếp, “Thầy là hiện thân của đạo pháp và là biểu hiện của những phẩm hạnh mà tôi đang cố gắng vun bồi, cũng như của con đường mà tôi chọn đi theo. Thầy không là một người thầy giảng dạy bằng lời nói – tôi không bao giờ nghe Thầy trịnh trọng ban pháp – nhưng bằng cung cách cư xử với mọi người, giới hạnh của Thầy, và cách thức Thầy nói chuyện. Thầy ban niềm tin cậy và thể hiện sự chân thật, hạnh xả ly, lòng hy sinh và tâm từ bi – những đức hạnh mà đối với tôi thật là quan yếu và tôi hằng cố gắng tu tập. Thầy đã thăng tiến được chúng qua tiến trình tu tập của chính mình.”

 Kamala Masters cũng được Thầy nâng cao niềm tin vào khả năng đi theo đường đạo cho đến mục tiêu tối hậu bởi vì “Thầy không chỉ giảng dạy bằng kinh sách, mà tự thân Thầy thật sự chính là những gì Thầy giảng dạy. Hạnh tôn kính, khiêm cung, từ ái, bi mẫn, độ lượng, nội tâm an tĩnh và trí huệ thâm sâu được thể hiện rõ ràng nơi Thầy. Thầy dạy bằng thân giáo. Khi ta thấy Giáo pháp thể hiện qua một người nào đó, ta được thực tại sinh động ấy truyền cho một niềm tin sâu sắc là ta cũng có khả năng tương tự. Và niềm tin ấy gắn bó chúng ta lại với nhau trong sự tu tập…”

 Với Kamal, "Gương thày đã đánh thức trong tôi lòng tự tin và sự quyết tâm để nhận rõ được những ước nguyện tâm linh của mình. Đây là lý do tôi nhận biết được Thầy chính là một vị thầy tâm linh của tôi.”

 Manisha Talukbar ghi nhận, “Thuyết pháp thì dễ; ai cũng có thể làm được. Nhưng Thầy là hiện thân của Pháp bảo qua cách sống trong đời thường và cách thăng tiến đức hạnh trên đường Đạo. Thầy là nguồn cảm hứng, khích lệ cho chúng ta. Mỗi khi gặp một trở lực nào, tôi nhớ đến Thầy và rồi có thêm sự dũng cảm, sức mạnh để đối mặt với vấn đề. Thầy luôn luôn làm cho mọi việc trở nên đơn giản, khiến ta tin rằng, đúng vậy, ta thật có thể sống cuộc đời đúng theo Giáo pháp.”

 Itamar Sofer nói, “Thầy lúc nào cũng hướng môn sinh về niềm tin ‘đúng, đúng là ở đây và bây giờ, không phải ở chỗ nào khác xa xôi.’”

Ta có thể đi bao xa.

 Như Rebecca Kushins kể lại, cô học được từ Thầy rằng “nếu tôi thực sự muốn nhìn vào từng chi tiết nhỏ của đời mình và hiểu thế nào là đang sống, thấy được những gì đang diễn ra trong đời sống bí ẩn này và hiểu rõ tâm của tôi, tôi thật có thể làm được điều đó. Trong sự hiện diện và với lời khuyến khích của Thầy, tôi thấy mình quả muốn điều ấy một cách chân thành. Tôi không chút hoài nghi khi Thầy nói rằng tôi thực sự có thể chứng ngộ. Như theo một định luật vật lý nào đó – khi ta khởi động cho một vật có quán tính lăn đi, nó sẽ cứ tiếp tục lăn – tôi có cảm tưởng đã được Thầy thúc đẩy tôi tiến lên, và giờ đây tôi vẫn đang tiếp tục đi.”

 Thông điệp của Ngài Munindra là ta có thể tiếp tục thực hành cho đến khi đạt được mục đích. Danny Taylor nói về Ngài như sau: “Thầy hiện thân cho sự thăng tiến trên đường Đạo, cho ta cảm nhận được mình có thể đi bao xa. Sự kỳ diệu của Giáo pháp thật vô tận – hãy sẵn sàng cho đích kế tiếp.”

 Rồi Danny nói thêm về ảnh hưởng của Thầy: “Nếu bạn cảm giác có ai đang nhìn mình, dù chỉ trong khoảnh khắc, bạn sẽ thấy như mình đang nằm trong tầm quan sát của họ, cũng giống như việc ai cho bạn đức tin. Tôi cảm nhận được điều này thật nhiều từ Thầy, từ những bức thư Thầy viết cho tôi. Những tiếp xúc với Thầy đã giúp tôi gầy dựng một sức bật mạnh mẽ, không biết tự bao giờ…”

 Danny tiếp lời: “Tựa như trong một cuộc đua xe đạp khi các tay đua di chuyển thành từng đoàn, có một tay đua dẫn đầu, làm thành hàng rào chắn gió, tất cả các tay đua khác cứ thế đạp theo sau. Chạy sau người dẫn đầu như thế sẽ dễ dàng hơn vì được luồng hơi đằng sau một vật chuyển động trợ lực. Ngài Munindra mang đến luồng hơi trợ lực này, khiến ta cảm giác ta có thể tiến xa mà không nặng nhọc.”

 Heather Stoddard vẫn nhớ mình đã được “kéo vào” như thế nào trong chuyến viếng thăm Bodh Gaya lần đầu, năm 1966. Bà đã rất thích thú tìm hiểu và đọc các sách về Phật giáo trước khi được đến ngồi dưới Cội Bồ Đề để hành thiền theo cách riêng của mình. Bà nhớ lại, “Tôi ngồi được một lúc thì có một người đàn ông đi đến, mặc đồ toàn trắng với một chiếc khăn trắng quấn đầu. Ông ta nói, ‘Đi theo tôi.’ Thế là tôi đứng dậy và đi theo. Giản dị như thế đó. Tôi trao đổi với ông vài câu ngắn gọn. Ông nói , ‘Cô nên tham dự một khóa thiền ba tuần.’ Tôi trả lời, "Vâng, được."

 Bà cười và ghi nhận, “Ở Ấn độ, thường ta không đi theo một người đàn ông chưa hề quen biết. Nhưng tôi đi theo ông không chút do dự, như là một việc hết sức tự nhiên, chẳng có ngăn ngại gì. Khóa thiền trôi qua thật suông sẻ. Tôi đã học được nhiều điều trong ba tuần ấy hơn là trong cả đời tôi. Sau đó tôi không bao giờ được gặp lại ông, nhưng quả là một sự kiện vô cùng quan trọng và kỳ diệu cho tôi được ông dẫn dắt.”

Muốn biết.

 Nhiều người tò mò muốn biết Ngài Munindra đã hiểu biết những gì. Cái gì làm Ngài thật tươi vui, trầm tĩnh và tràn đầy lòng thương yêu như vậy? Từ thuở bé, Ngài cũng đã hiếu kỳ như vậy về Đức Phật.

 Oren Sofer là một trong nhiều người Tây phương hay thắc mắc, “Ngài đã giác ngộ chưa? Ngài có thực sự kinh nghiệm điều này không? Điều này có là sự thật không?” Một ngày kia, Oren hỏi thẳng Ngài Munindra rằng Ngài đã giác ngộ rồi chưa. Ngài nghiêng người ra phía trước, nhìn thẳng vào mắt Oren, và nói với ông rằng, “Ngay cho là tôi đã giác ngộ, làm sao tôi có thể nói cho bạn biết được?”

 Oren nhớ, “Tôi cảm nhận được một xác định ngầm rằng đó là điều có thật, rằng trong tâm Ngài chẳng có một nghi ngờ về điều ấy. Ngài như đang nói với tôi, ‘Phải – và tôi không thể nói với bạn được. Bạn phải tự tìm hiểu cho chính bạn. Giác ngộ có thể đến bất cứ lúc nào.’ Đó là một sách tấn cho khả năng “có thể thành tựu” nơi tôi. Thật vô cùng khích lệ!”

 Đôi khi thiền sinh nghĩ họ đã biết được thế nào là giác ngộ, cho đến khi vấn hỏi Ngài Munindra thì khám phá ra rằng không phải vậy. Jeffrey Tipp nếm được hương vị của đức tin khi ông bàn luận với Ngài về một kinh nghiệm thiền tập đạt được ở IMS. Sau khi diễn tả cho Ngài xong, ông hỏi, “Thưa Thầy, đó có phải là một khai ngộ thực sự không? Đó có phải là một thoáng thấy được Phật tánh không?” Và Munindra trả lời, “Không, không phải đâu!”

 Đối với Jeffrey sự kiện đó đánh dấu một bước ngoặc quan trọng. “Ngài chỉ nói ngắn gọn, rồi cho qua như là một trong những kinh nghiệm thiền tập vậy thôi, nhưng câu trả lời của Ngài rõ ràng và quả quyết một cách nhẹ nhàng, từ ái. Việc này đã dạy tôi một bài học: Nó cắt đứt sự dính mắc của tôi với những hiện tượng xảy ra trong tâm, và giúp tôi nhận thức chiều sâu thậm thâm của cái tôi đang nỗ lực vun bồi, một chiều sâu mà tôi không thể thấu đáo được với bất cứ kinh nghiệm nào tôi đã có. Nó nâng tiêu chuẩn thành đạt. Tôi bắt đầu nhận ra rằng, ‘Ồ, mình thật phải tu tập tinh tấn và kiên trì nhiều hơn nữa, vì kinh nghiệm chứng đắc vượt ngoài tầm mức suy tưởng của mình.’”

 Câu trả lời đơn giản ấy tác động như một lời truyền đạt mạnh mẽ: “Trước kia, tôi chấp chặt vào ý niệm thế nào là giác ngộ, thế nào là một con người giác ngộ, và thế nào là một kinh nghiệm về Phật tánh. Tôi đã đọc qua thật nhiều kinh sách, đã thiền tập gần tám năm trời, đã từng là giáo thọ dạy Thiền Siêu việt (Transcendental Meditation) và đã là một tu sĩ Thiên Chúa giáo. Tôi nghĩ mình có cả một bụng đầy pháp hành và biết rõ mục tiêu của mình. Câu trả lời của Ngài cho tôi thấy là mình thực sự chưa nắm vững một chìa khóa nào cả, và rất cần phải nương vào một bậc thầy đã chứng ngộ.”

 Jeffrey nói tiếp, “Cuộc trao đổi trên chỉ ngắn trong giây lát, nhưng Thầy đến từ một nơi không có hoài nghi, chỉ có đức tin trọn vẹn, và chỉ nói trực tiếp từ thân chứng. Giống như khi bạn uống nước và biết nước đó lạnh, cái biết như thế nằm trong lời nói của Thầy, truyền đạt một đức tin vô bờ bến. Thầy tập trung hoàn toàn vào những lời tôi đang nói và hiểu rõ được tâm ý tôi lúc bấy giờ, và Thầy biết nó sắp chín muồi. Đó là lúc mà tôi có thêm một nhận định về vai trò của một vị thầy, rằng đó không phải là bất cứ một ai biết thuyết pháp và hướng dẫn một khóa thiền, nhưng còn là người dẫn dắt bạn đi vào nội tâm. Cách dẫn dắt này không có trong sách vở – đó là Giáo pháp sống thực.” 

Đức tin như một niềm say mê đạo pháp.

 Đức tin của Ngài Munindra thật nồng nhiệt và dễ truyền lan sang người khác. Sara Schedler nói, “Cách Thầy cống hiến trọn vẹn cho đạo pháp thật là bình dị, không khoa trương, giả tạo, đại ngôn. Ngược lại, tôi được trưởng dưỡng trong một gia đình mà đức tin là một cái gì thật phức tạp, bởi vì cha tôi đã truyền lại một tín ngưỡng Thiên Chúa giáo chính thống. Dù Ngài Munindra cũng có giảng về chư thiên hoặc về những cảnh giới khác, nhưng luôn luôn kết luận: " Những chuyện ấy có thật, nhưng đừng vội tin vào lời tôi.’ Một thái độ thật nhẹ nhàng, không giống với đức tin đầy tính thưởng phạt nặng nề mà tôi quen thuộc từ nhỏ.”

 Lòng tin yêu Giáo pháp nồng nhiệt có khi khiến các pháp thoại của Ngài kéo dài đến mấy tiếng đồng hồ. Vài môn sinh thấy rằng việc nghe các bài thuyết giảng đó là cả một thử thách cho sức kham nhẫn của họ.

 Nhưng Matthias Barth lại nghĩ khác, “Pháp của Thầy rất hay và thoáng. Thầy có thể khởi đầu hầu như từ bất cứ ở một điểm nào, và chỉ trong chốc lát, đi ngay trọng tâm của một luận bàn Phật pháp rộng lớn nhưng thật rõ ràng, chính xác. Mỗi người ngồi nghe trong phòng đều có cảm tưởng là Thầy đang hướng về mình, đang giải quyết vấn đề cho riêng mình. Niềm tin Tam Bảo vô bờ ấy đánh động mạnh mẽ vào tâm mọi người đang lắng nghe.”

 Với Robert Beatty, lòng nhiệt tâm của Munindra là một gương mẫu để noi theo. Ông nhớ mãi một câu đặc biệt mà Ngài từng nhiều lần thiết tha, hùng tráng thốt lên, “Ánh sáng đã bừng lên từ Bodh Gaya và tỏa tràn ra khắp thế giới.”

 Howard Cohn nhận định, “Dấu ấn sâu đậm nhất là hiện thân của Đạo pháp nơi Thầy: lòng từ ái, nhiệt tâm sách tấn, cùng cách sống bình dị, sáng trong. Lòng kính yêu Giáo pháp và sự tận tụy hướng dẫn cốt lõi pháp hành vipassanā của Thầy có sức tác động mãnh liệt hơn tất cả phương cách giảng dạy khác. Tôi luôn nghĩ về Thầy như thế và cảm thấy thật là một phước báu được tu học với Thầy, được sống trong từ trường của Thầy, được hưởng một cảm giác an toàn và tin tưởng.” 

Thể hiện bao la.

 Niềm tin tưởng mạnh mẽ vào đường Đạo của Ngài Munindra thể hiện bao la hơn là chỉ trong phạm vi thiền định. Có lần Jack Engler hỏi: “Thưa Thầy, thế nào là Giáo pháp?” Không hề do dự, Ngài trả lời ngay bằng giọng Anh-Ấn của Ngài, “Giáo pháp là sống viên mãn đời mình.”

 David Brody tả lại tầm rộng bao la của Đạo, phản ảnh từ Ngài Munindra, đã gây chấn động trong tâm mình như thế nào ở Bodh Gaya, “Tôi nhớ Thầy đang giảng về những trạng thái lúc tâm thinh lặng. Lúc đó, Thầy tuy tuổi đã già, cũng bằng ông tôi, nhưng vẫn ngồi tham dự những khóa thiền mà tôi, hai mươi tuổi, không thể làm được vì nhiều lý do khác nhau. Hình ảnh ấy dạy tôi rằng khả năng thực hiện được và thành tựu được trong đạo Phật quả là rộng lớn, ngoài sự suy tưởng của tôi.”

 David tiếp lời: “Thầy gieo niềm tin phục cho mọi người qua cách sống an lạc và nhẹ nhàng của mình, thể hiện thật rõ nét ngay từ lúc đầu được tiếp cận với Thầy. Ở cạnh Thầy cho tôi thấy sống cuộc đời đúng theo lời Đức Phật dạy là một con đường cao thượng. Nhiều người đã sống như vậy từ hàng ngàn năm nay, và còn sẽ tiếp tục như vậy mãi, vì cách sống ấy được đặt trên nền tảng của Chân Lý.”

 David nhớ lời Thầy dạy: “Khi bạn đã hoàn toàn chấp nhận chân lý cao thượng thứ nhất về sự khổ – Khổ Đế, bạn không thể nào trở lui được nữa. Nói cách khác, bất cứ ai đã thật sự kinh nghiệm được Pháp bảo sẽ không thể trở lui lại sự không hiểu biết. Ngay cả khi bạn rời xa nó, bạn cũng không thể giả vờ như mình chưa bao giờ biết.”

Giáo Pháp Không bị sự sa sánh làm suy chuyển

 Tầm nhìn rộng lớn của Ngài Munindra càng thâm sâu hơn sau quá trình rèn luyện với Hòa thượng Mahāsi. Được Hòa thượng cho phép, Ngài đến viếng các trung tâm thiền vipassanā ở Miến điện, mỗi nơi dạy một phương pháp khác nhau.

 Sau khi làm quen với ít nhất bốn mươi kỹ thuật hành trì thiền tuệ, Ngài thấy rõ là pháp hành không giới hạn chỉ trong một cách thức thực tập duy nhất. Ngài tin rằng tất cả các phương pháp, từ cốt lõi, đều có thể dẫn đến tuệ giác. Có lẽ vì vậy mà Ngài không bao giờ tranh đua cũng như không hề lo âu về việc mất các môn sinh về phía những vị thầy hay truyền thống khác.

 Sharon Salzberg ghi nhận rằng, khi các người tầm đạo Tây phương bắt đầu đến Ấn độ vào cuối thập niên sáu mươi, xứ sở này đã có (và hiện nay vẫn vậy) rất nhiều vị trưởng giáo và vô số trường phái tâm linh với đủ mọi sắc thái và hình thức. Đối tượng lựa chọn quá thừa thãi có thể gây hoang mang và mâu thuẫn cho người tầm đạo, khiến họ cứ phải tiếp tục đi thăm dò, trông mong có một người hay một pháp nào đó đáp ứng được sự tìm cầu của mình.

Một số thiền sinh trình với Ngài Munindra là họ muốn được thọ giáo một vị thầy khác hoặc tìm hiểu một pháp hành khác hơn vipassanā. Ngài luôn giữ sự cởi mở và khuyến khích. Họ thường ngạc nhiên trước phản ứng này và xin Ngài giải thích.

 Với sự trầm tĩnh cố hữu và đức tin vô bờ vào công năng chuyển hóa chúng sanh của Đạo pháp, Ngài nói: “Giáo pháp không bị sự so sánh làm suy suyển.” Đạo pháp và đạo sư không cần sở hữu bất cứ điều gì hay một ai. Có lần Ngài nói với Oren Sofer, “Đây không phải là pháp của Munindra mà là Pháp của Đức Phật. Tôi không dạy pháp của Munindra. Chỉ có một Giáo pháp.”

 Gregg Galbraith thuật lại, “Nếu thấy ai có tiềm năng, Thầy thường tìm hiểu về họ trước rồi sau đó bảo mọi người, ‘Hãy đến để nghe những điều họ nói,’ thay vì giới hạn các phương pháp giảng dạy hoặc bảo người ta phải theo học pháp này hay pháp nọ. Ngài hết sức cố gắng giương cao toàn vẹn ngọn buồm Đạo pháp ở phương Tây. Mặc dù Ngài luôn nỗ lực truyền dạy pháp hành của Hòa thượng Mahāsi, nhưng Ngài không chủ trương chỉ có một phương pháp duy nhất. Ngài tin chắc rằng dù hành thiền theo Zen, theo Tây tạng, hay theo các thứ thiền khác, nếu bạn nắm vững được cốt lõi của Chánh pháp, thì cách dạy ở đâu cũng có thể mang lại kết quả giống nhau, đừng hoang mang trước những pháp môn khác nhau nhưng mang được Đạo lại cho ta.”

 Về sau, khi Joseph Goldstein viết về đề tài này trong cuốn sách Chỉ Một Giáo pháp (One Dhamma), ông nói đã học được ở Ngài Munindra rằng “tất cả mọi kỹ thuật trong pháp hành chỉ là những phương tiện thiện xảo.”

 Ngài Munindra cũng học điều này từ chính thầy của mình. Khi Ngài đến xin phép Hòa thượng Mahāsi được đến học hỏi ở các trường thiền khác tại Miến điện, Hòa thượng dạy, “Một khi đã hiểu rõ bản chất của tâm và cốt lõi của Chánh pháp thì không còn khó khăn gì nữa. Hãy đi gặp tất cả các thiền sư. Thấy biết được Đạo ở nhiều góc cạnh khác nhau là điều rất nên làm.”

 Gregg Galbraith nói, “Một trong những điều tôi học hỏi từ Thầy là phải nhìn bên trong chính mình để tìm thấy Pháp. Vì thế Thầy hay gửi học trò đi khắp nơi, học bất cứ pháp môn nào, để khỏi bị trói cột vào định kiến hoặc quy ước. Nhờ vậy tôi học hỏi được nhiều hơn, vì cũng giống như các môn sinh khác, tôi hay đi tìm câu trả lời rốt ráo và kiếm con đường đúng, và thường ta lại tìm kiếm một giải đáp bao phủ bởi truyền thống, nghi thức hay giáo điều. Thầy dạy rằng ta có thể học hỏi từ những điều ấy, nhưng đó không phải là Đạo. Như Đức Thế Tôn đã tuyên dạy, "Hãy là ngọn đuốc cho chính mình.”

 Với Gregg: “Thầy Munindra đã trực tiếp và gián tiếp truyền bá điều đó thật khéo léo, vì Thầy đã khơi được nguồn ánh sáng và đem cái thiện lành ở bên trong mọi người ra. Ít khi được ở gần Thầy mà không thấy mình tốt đẹp hơn bởi vì Thầy không bao giờ hạ thấp ai hay phê phán ai.” 

Biểu lộ tín tâm.

 Ngài Munindra cũng biểu lộ tín tâm qua thái độ hành xử không chấp ngã của mình đối với người khác.

 Erik Knud-Hansen làm sáng tỏ điều đó: “Tôi không bao giờ thấy Thầy tỏ ra mình là một ‘bậc thầy tâm linh’. Thầy không áp đặt ai tin vào Đạo hay một pháp môn nào. Với Thầy, trưởng dưỡng đức tin là một hành trình nội tâm tự do, không bị cản trở bởi điều nào đó từ bên ngoài cố thuyết phục ta: ‘Ồ, bạn nên biết giới hạn, nên biết kiềm chế mình; bạn phải thực hành đúng.’ Về điểm này, tôi thật sự kính phục Thầy. Thầy thanh thoát và tự nhiên, không kiềm tỏa bất cứ điều gì, bất cứ ai.”

 Với Erik, “Thầy cũng là điển hình của một người không ngại trình bày giáo lý, cả những khi người nghe không còn kiên nhẫn với những bài pháp dài của mình. Thầy tin rằng dù người nghe phải chịu đựng như vậy, thì cũng phải thế. Thầy tự cho phép mình phục vụ nhu cầu tâm linh mà không phải cố gắng làm sao cho mọi người được dễ chịu, thoải mái.” Erik cười và nói rằng đối với Thầy, “được nghe Pháp càng nhiều càng tốt.”

 James Baraz bổ túc, “Cung cách đó thật giản dị, hồn nhiên nhưng vô cùng dũng cảm. Thầy không hề nao núng bởi những suy nghĩ, phê phán của người khác, vì Thầy có niềm tin kiên định và mạnh mẽ nơi Giáo pháp hơn là niềm tin nơi một người nào. Tuy nhiên, Thầy rất tôn trọng người khác – nơi nào ta tìm được sự thật, nơi ấy là Đạo pháp.”

Tin vào người khác.

 Ngài Munindra cũng bày tỏ đức tin vào oai lực của Pháp bảo qua lòng tin cậy vào khả năng của các môn sinh, ngay cả khi họ chưa đủ tự tin vào chính mình.

 Peter Meehan nhớ có lần Thầy đến gặp anh trong khóa thiền riêng tại Trung tâm Thiền Quốc tế ở Bodh Gaya cuối năm 1979: “Tôi nhớ có nói đại khái như, "Tôi không biết điều này’, và Thầy nói, ‘Đừng lo, điều đó tốt cho bạn thôi. Cứ tiếp tục.’ Thầy không luôn luôn cho tôi một giải thích, như các thiền sư bên Âu Mỹ, nhưng vẻ tin tưởng của Thầy đã thúc đẩy tôi tiến tới.”

 Rồi một ngày khi Peter và Karen Sirker ngồi trong phòng của Thầy ở một tu viện tại Bodh Gaya, họ được Thầy sách tấn bằng cả một tấm lòng nhiệt thành. Vừa nhận được một lá thư của một môn sinh Tây phương hiện đang tu học ở Trung tâm Mahāsi, Thầy quay sang Peter và Karen và bất ngờ nói, “Các bạn nên đi Miến điện.” Peter sửng sốt, “Chắc là Thầy quên rằng con mới bắt đầu tập hành thiền sao? Qua Miến điện để làm gì chứ?” Không lùi bước, Thầy nói: “Không, đến lúc rồi! Đây là một cơ hội hiếm có. Bạn phải đi! Tôi biết điều này có thể xảy ra!”

 Peter kể, “Chúng tôi còn quá non nớt để biết năng lực của mình, còn Thầy thì chao ôi, Thầy dễ dàng tin tưởng nơi khả năng người khác, thế nên cuối cùng chúng tôi nói, “Có lẽ chúng con nên đi Miến điện… Đúng rồi, chúng con sẽ đi Miến điện!” Thầy có cái nhiệt tình dễ lây lan cho người khác như thế đó.

 Peter mang theo lời khuyến khích của Thầy đến Miến điện. “Mới tập sự thiền thật khổ sở làm sao! Hai đầu gối tôi như đặt trên lửa và tôi không thể ngồi trọn một thời thiền. Rồi tôi lại còn được nghe các thiền sinh khác tường trình về thời thiền đứng dài bốn tiếng của họ nữa chứ!” Nhưng Peter nhớ lại nụ cười và lòng tin của Thầy và nghe lời Thầy nói, “Sẽ tốt thôi, cứ tiếp tục cố gắng. Đừng lo nghĩ gì về những chuyện ấy.”

 Khi Peter và Karen trở về Bodh Gaya, Thầy hết sức phấn khởi cho họ, nhất là vì họ đã tham dự trọn khóa thiền ở Miến điện. Gregory Pai cũng ghi nhận như vậy, “Thầy có khả năng tuyệt vời ấy là chỉ đơn giản chặt đứt bất cứ thái độ dè dặt, lưỡng lự, hoài nghi, hay chướng ngại nào mà ta vướng mắc.”

 Kamala Masters giải thích rằng không phải là Thầy xóa tan được hết hoài nghi nơi người khác, nhưng Thầy có thể làm cho họ thấm nhuần lòng tự tin qua đạo lực vững mạnh của Thầy: “Họ nương theo đức tin mãnh liệt của Thầy ngay cả khi họ chưa hiểu biết cặn kẽ các lời dạy thâm sâu của Thầy. Niềm tin ấy cho họ thời gian để tự khám phá cho chính mình.”

Thúc đẩy.

 Ngài Munindra biểu lộ lòng tin tưởng vào khả năng của các môn sinh không chỉ bằng những sách tấn nhẹ nhàng mà còn bằng cách bất thình lình đặt họ vào vị trí phải trình bày sự hiểu biết và kinh nghiệm trước công chúng.

 Fred von Allmen hồi tưởng lại phương cách Thầy hướng dẫn các khóa thiền ở Bodh Gaya những năm đầu thập niên bảy mươi. Chẳng hạn, Thầy bắt đầu một khóa thiền bốn hoặc sáu tuần, rồi chừng hai ba ngày sau, Thầy thông báo, “Bây giờ nếu có câu hỏi nào, xin các bạn cứ hỏi Joseph (Goldstein). Như vậy đó mà rồi Joseph bắt đầu chính thức giảng dạy cho đại chúng. Đó là nơi tôi được nghe Joseph giảng lần đầu tiên về sự chú tâm đơn thuần và vài đề tài tương tự.” Grahame White cũng ghi nhận rằng, nếu Thầy không thúc đẩy như vậy, có lẽ rất lâu sau đó Joseph mới bắt đầu việc giảng dạy.

 Khi Alan Clements, lúc ấy là tỳ kheo, từ Miến điện đến Calcutta năm 1980, Ngài Munindra mời Sư dự một buổi sinh hoạt mà họ sẽ được dâng lễ trai tăng. Alan kể lại, “Tôi đã từng thấy biết nhiều về tín tâm của Phật tử Á châu, nhưng thật là kinh ngạc khi chứng kiến cả năm trăm người đứng đó, tung rải những cánh hoa xuống hai bên lối đi. Thầy Munindra được tôn vinh như trong các cảnh trời. Rồi chúng tôi ngồi xuống nhận thực phẩm cúng dường. Sau khi thọ trai, thông thường thì vị niên trưởng chủ tọa sẽ ban một bài pháp ngắn. Thầy nhìn tôi và nói, "Tới giờ Sư thuyết pháp rồi đó.’”

 Trước nay Alan chưa bao giờ ban pháp thoại: “Tôi tưởng chừng như mình bỗng phát sốt như đột ngột lên cơn ban, đôi tay xuất mồ hôi. Tôi nói ‘Thưa Thầy, rõ ràng Sư đâu có nói được tiếng Bengali…’ Thầy Munindra tự trỏ vào mình, và nói với một nụ cười: ‘Còn thông dịch viên nào hơn!’”

 Alan nói tiếp: “Và vì vậy, xin cám ơn Thầy, đã cho tôi cơ hội làm một việc ngỡ như không thể làm được. Phải nói đó là một trong những kinh nghiệm gay go nhất đã mở tung được cánh cửa mà tôi không hề chạm đến trong hai năm hành thiền tích cực ở Miến điện. Bất cứ tầng bậc nào tôi đã chứng đạt được cũng không bằng lần vượt qua bức thành của tâm sợ hãi này. Tôi không biết việc ấy đã được sắp đặt trước hay do Thầy nghĩ đó sẽ là một bước tiến quan trọng cho tôi, nhưng tôi vẫn cung kính dành bài pháp đầu tiên của mình để dâng lên Thầy.”

 Ngài Munindra cũng đặt tin tưởng mạnh mẽ vào các hành giả nữ giới. Christina Feldman ghi nhận rằng, “Thầy hoàn toàn công bình trong mọi tiếp xử.” Robin Sunbeam nói thêm, “Tôi không bao giờ cảm thấy mình là thứ yếu khi được ở gần Thầy. Thầy luôn đối đãi với tôi như một thiền sinh đầy triển vọng.” Trong thực tế, hai thiền sinh thân cận nhất của Thầy đều là phụ nữ: Bà Dipa Ma, một nữ thiền sư đã tự thân chứng đạt xuất sắc và được kính mến vô cùng, và Bà Krishna Barua đã cùng Thầy đi du giảng khắp nơi từ năm 1979 đến 1989. 

Truyền bá giáo pháp.

 Tín tâm nồng nhiệt và lòng tôn kính Giáo pháp đã dẫn dắt Ngài Munindra du hành rộng rãi khắp nơi trên thế giới để chia sẻ giáo huấn của Đức Phật. Ngài chân thành tin tưởng Phật pháp có thể giúp ích cho mọi người nên đã không ngần ngại thuyết giảng cho bất cứ ai, không phân biệt nguồn gốc tín ngưỡng của họ. Với lòng tin tưởng nơi môn sinh của mình, Ngài hết lòng nâng đỡ và sách tấn họ cùng truyền bá Đạo pháp, hoặc bằng sự nghiệp giảng dạy, hoặc thành lập các trung tâm rèn luyện tăng ni, hay xây dựng các trường thiền cho cư sĩ.

 Erik Knud-Hansen nhận xét, “Rõ ràng là các môn sinh của Thầy như Joseph Goldstein, Sharon Salzberg đã tạo một ảnh hưởng rất lớn cho nhiều người tham gia. Yếu tố quan trọng nhất là do nhiệt tình giúp đỡ và cổ võ của Thầy vào trào lưu của những người đã từng tu học với Thầy ở Ấn độ nay trở lại đây cùng chia sẻ và khơi dậy nguồn hứng khởi tu tập. Thầy đã trọn đời cống hiến cho Đạo pháp, và người khác cũng đã hết lòng tận tụy với Thầy cũng như với Đạo. Với Thầy, Giáo pháp là trên hết, còn lòng thành tín dành cho Thầy như một vị thầy thì không quan trọng.”

Xóa Tan Hoài Nghi

 Vì đã chứng đạt được tuệ giác bằng nỗ lực của chính mình, Ngài Munindra tin tưởng rằng ai cũng có thể vượt qua mọi hoang mang nghi ngờ.

 Michael Liebenson Grady nhớ lại về phương cách Ngài giúp xóa tan được phần lớn những dè dặt của ông, “Tôi là người phấn đấu kiểu cổ điển. Điều này tạo ra nhiều căng thẳng và hoài nghi vì những kinh nghiệm trên gối thiền thật khác xa với kinh nghiệm đời thường. Đường tu tập của tôi có nhiều đứt đoạn, cách này cách khác.”

 Lieberson thuật tiếp: “Mãi đến khi được hành thiền với Thầy Munindra tại IMS vào khoảng năm 1983, tôi mới chuyển hướng tu tập và có niềm tin mới mẻ vào Giáo pháp. Mặc dù Thầy chỉ giảng dạy phương pháp hành thiền giới hạn trong cách thức của Ngài Mahāsi, nhưng hướng đi trên đường Đạo và trong đời thường của Ngài có phần thư thái, cởi mở hơn, đó là điều mà tôi cần nhất trong lúc đó.”

 Ngài Munindra thường nhấn mạnh về sự rõ ràng chính xác, “Bạn phải thật nắm vững về pháp hành và hiểu vì sao bạn hành thiền. Mọi câu hỏi liên quan đến việc tu tập và những gì mình đang làm đều phải được sáng tỏ. Không nên có một hoài nghi nào trong tâm về sự hành thiền.” 

Dĩ nhiên là có thể được.

 Ngài Munindra nói, “Tôi không tin vào ý tưởng ‘không thể được’. Bởi vì đã thực chứng nhiều lãnh vực Đạo pháp, ở nhiều khía cạnh khác nhau, tôi biết giác ngộ là điều có thật, là điều có xảy ra trong thực tế. Nếu bạn thật sự thành tâm muốn kinh nghiệm Giáo pháp, thì sẽ có cách. Điều ấy có thể thực hiện được ngay trong kiếp sống này. Đây là một việc cần huân tập và ôn luyện. Đức Phật dạy rằng tất cả những gì về con đường đạo đều hết sức rõ ràng, không một hoài nghi nào hết.”

 Những lời sách tấn của Ngài luôn bao hàm một niềm ưu tư khẩn thiết về tâm linh (saṁvega), đặc biệt là vào những năm cuối cùng trong đời. Từ kinh nghiệm thực chứng, Ngài thấu hiểu được chân lý của Đức Phật dạy: “Những ai đặt lòng tin vào Tám Thánh Đạo, họ đặt lòng tin vào điều tối thượng; những ai đặt lòng tin vào điều tối thượng, họ được quả tối thượng.” (Tăng Chi Bộ Kinh 4.34). Vì vậy, Ngài vô cùng nhiệt thành với cứu cánh cuộc đời cho chính mình và cho mọi người:

 Tôi mong muốn có những người thực tâm hành đạo nghiêm túc – họ nhất định sẽ kinh nghiệm được Đạo. Họ đang đi đúng đường. Đời sống sẽ trở nên rất dễ dàng, giản dị và kỳ diệu, một tài sản cho mọi chúng sanh. Nếu họ hành trì theo đúng Chánh pháp, trong một thời gian ngắn thôi, điều ấy sẽ đến. Không có giới hạn thời gian, và mỗi bước sẽ dẫn đến gần mục tiêu hơn. Họ phải biết làm sao để sống trong hiện tại. Không nên làm hư hoại kiếp sống này trong vô nghĩa, không bỏ lỡ cơ hội tu tập. Đời sống con người thật là quý giá. Một khi quay lùi sẽ thật khó khăn để tiến bước trở lại. Cho nên họ phải biết vận dụng thời gian có được trong kiếp sống này.

Nghiệp duyên.

 Định luật nghiệp quả và những tác động của nó qua nhiều đời kiếp có lẽ không dễ cho người Tây phương chấp nhận, nhưng đối với Ngài Munindra giáo lý đó không có gì là huyền bí – nó là một phần của bầu không khí mà Ngài hít thở. Những môn sinh Á đông lớn lên trong gia đình có truyền thống Phật giáo cũng không hoài nghi thuyết duyên nghiệp như người Tây phương.

 Dhammaruwan Chandrasiri kể rằng, “Thầy tin chắc chắn rằng chúng tôi đã là bạn với nhau trong một kiếp trước. Cả Thầy và tôi đều không nghi ngờ gì về điều đó.” Khi còn là một cậu bé ở Tích Lan, Dhammaruwan đã nói với cha mẹ rằng có một người nào đó là bạn của cậu trong tiền kiếp và hiện giờ đang ở bên Ấn độ, gần Cội Bồ Đề, và mặc đồ toàn trắng. Cha cậu bé sang Bodh Gaya và tìm thấy Ngài Munindra, giống hệt như người mà con trai ông đã tả.

 Denise Till kể rằng Ngài Munindra tin tưởng mãnh liệt vào sự trọng yếu của Bodh Gaya và ngôi Đại Tháp Mahabodhi, “Thầy luôn dạy rằng chúng ta không thể thật sự thấy được tầm ảnh hưởng của việc đến viếng Bodh Gaya trên cuộc đời ta như thế nào, rằng mỗi lần đến viếng thăm là một lần nghiệp duyên ta thay đổi, rằng ta không thể đến nơi này mà lại không thọ hưởng được một hình thức thanh lọc tâm nào hoặc không được tăng trưởng một loại phước báu nào.”

 Vì Bodh Gaya là nơi Đức Phật thành đạo nên đối với tất cả Phật tử đó là một nơi chốn thiêng liêng, là trung tâm của vũ trụ. Ngài Munindra bảo Denise, “Cách đây hàng trăm, hàng nghìn năm, biết bao nhiêu người đã trải qua bao gian nan để đến được nơi đây, và nhiều người đã chết trên đường hành hương. Bây giờ ta chỉ cần một chuyến xe lửa và xe bus là đến được đây. Thật đáng khâm phục cho những ai đã đến được đây vì họ phải có nhiều thiện nghiệp và đủ phước duyên.” Có lẽ vì thế mà Ngài Munindra rất ưu ái với khách ngoại quốc đến Bodh Gaya. Chắc Ngài đã thấy họ qua lăng kính đó, cảm nhận được mối nối kết duyên nghiệp với họ, và nhận lãnh trách nhiệm hướng dẫn họ.

 Càng nghiên cứu về triết học và vũ trụ học Phật giáo, Ngài Munindra càng trân quý Đạo. Ngài có thể mô tả khúc chiết nhiều loại thế giới khác nhau. Hay bị vướng mắc vào óc phân biệt giữa niềm tin tâm linh và khoa học thực nghiệm, người Tây phương tưởng rằng Ngài đang vẽ ra một ảo tưởng do tín ngưỡng, nhưng Ngài đã mạnh dạn nói, “Quý vị không cần phải tin, nhưng đó là sự thật.”

 Joseph DiNardo xác nhận, “Sống bên Thầy, tôi biết được Thầy là một cá nhân hiếm có trên đời đã hoàn toàn tin tưởng nơi tầm nhìn vào vũ trụ của mình – không phải là niềm tin do tri thức mà là niềm tin trong tim. Nói cách khác, tất cả những gì Đức Phật thuyết giảng đều là sự thật đối với Thầy, và Thầy đã xây dựng và thể hiện đời mình với tất cả những phẩm tính từ bi và trí tuệ đó.”

Đức tin và niềm lạc quan bất biến.

 Ngài Munindra không bao giờ xa rời – dù chỉ trong một sát na ngắn ngủi – đức tin mãnh liệt vào tiềm năng chuyển hóa của Chánh pháp. Ngài gieo rắc niềm tin ấy vào tương lai của mỗi người và tất cả:

Giáo pháp phổ quát này có thể được phục hồi, được thực hành trở lại, tốt đẹp cho tất cả chúng sanh, đem đến một xã hội, một thế giới, một địa cầu hoàn hảo hơn. Không những chỉ cho một hành tinh này mà còn cho nhiều hành tinh khác nữa. Giáo pháp đem đến hòa hợp, đoàn kết. Mọi người sẽ hạnh phúc, khỏe mạnh, an lạc, sống lâu và giúp đỡ lẫn nhau. Mọi quốc gia có thể tương trợ cho nhau. Một Giáo pháp, cùng chung một đường Đạo, cho mọi người, mọi nước.

Mặc dù có một tín tâm vững chắc như vậy, hay có thể vì vậy, Ngài sung: Munindra rất thực tế. Ngài bổ  sung:

Nhưng cần có thời gian, và mỗi người đều phải đóng một vai trò trong đó, phải có trách nhiệm. Ngay chỉ với một người được ánh Đạo sáng soi, người ấy cũng trở thành tài sản cho chính mình, cho xã hội, cho toàn thế giới. Đó là tinh hoa của toàn thể giáo huấn cao thường: từ bi, thiện mỹ, sức khỏe, hạnh phúc, thịnh vượng. Khi tâm được trong sạch sẽ có yêu thương; bạn sẽ thấy rõ thế nào là thiện lành, thế nào là bất thiện lành. Bạn sẽ tự mình kinh nghiệm.

 

 Đức tin là hạt giống, Thực hành là mưa,

Trí tuệ là ách và đất cầy, Chánh niệm là lưỡi cày và gậy thúc,

Của Như Lai.

 Phật Ngôn

Tương Ưng Bộ Kinh 1.4 & 7.11

 


 

saddhā: từ sam (tốt) + dah (thiết lập, đặt vào, để vào).

 Trong thực tế, saddhā là niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng). Dù thường được dịch là “đức tin” nhưng saddhā thực sự không có nghĩa là lòng tin theo lý thuyết hay triết lý theo truyền thống tư tưởng Tây phương. Saddhā không phải là sự tin tưởng không suy xét, không điều kiện mà là một niềm tin chắc chắn ở bên trong, phát xuất từ sự thẩm xét và hiểu biết trực tiếp về sức mạnh của Giáo pháp để tự thanh lọc và giải thoát.

 Đức tin có suy xét đó được trưởng dưỡng qua các kinh nghiệm trực tiếp chứng minh được những gì Đức Phật đã giảng dạy. Saddhā trở nên xác quyết khi hành giả đạt được tầng thánh đầu tiên - nhập lưu (sotāpatti), và mọi hoài nghi đều tan biến. Tín và huệ làm việc chặt chẽ và hài hòa với nhau nên tín không phải là xúc cảm mù quáng, và huệ cũng không phải là kiến thức suông về tinh thần hay lý thuyết.

 Saddhā là chất xúc tác chuyển hóa các kinh nghiệm về khổ (dukkha) hướng về con đường giải thoát (nibbāna). Saddhā là một trong bốn nguồn phước báu (puññādhāra), trong ngũ căn (indriya) và ngũ lực (bala), trong năm chi của tinh tấn (padhāniyanga) và trong bảy tài sản cao quý (dhana).

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn