(Xem: 1489)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Đâu là ý nghĩa chân thật của NIỆM được Đức Phật dạy

10 Tháng Bảy 201312:00 SA(Xem: 20438)

 

 

Đâu là ý nghĩa chân thật của NIỆM được Đức Phật dạy
Alan Wallace
Thanh Hòa biên dịch
(Theo Tạp chí Tricycle số Mùa xuân 2008)



blank

Giáo sư Alan Wallace là một học giả đã từng viết và dịch nhiều văn liệu Phật giáo. Là một tiến sĩ tôn giáo học của Đại học Stanford (Hoa Kỳ), ông đã dành nhiều thời gian nghiên cứu các truyền thống tu tập và triết lý Phật giáo và mối liên hệ của chúng đối với khoa học hiện đại. Ông đã có một bài thảo luận sâu sắc về một phương pháp tu tập quan trọng nhưng lại bị hiểu lầm rộng rải trong Phật giáo: Thiền Chánh Niệm (Mindfulness Meditation).


Tôi đã từng trao đổi với nhiều giảng viên Phật giáo về đề tài niệm. Do đâu khiến tôi chú trọng vào đề tài này?

Nhiều năm qua, tôi đã từng lúng túng bởi sự khác nhau giữa những giải thích về niệm (mindfulness) của nhiều thiền sư Thiền Minh Sát (Vipassana) hiện đại và nhiều nhà tâm lý học có gia tâm tìm hiểu so với những định nghĩa về niệm mà chúng tôi tìm thấy trong các văn hiến Phật giáo Đại Thừa cũng như Nguyên Thủy. Tôi để tâm đến sự không nhất trí này lần đầu tiên cách đây khoảng 30 năm, khi đó tôi nghĩ có lẽ do sự khác nhau giữa Phật giáo Nguyên Thủy và Đại Thừa. Nhưng càng tìm hiểu tôi càng thấy những tài liệu truyền thống của Nguyên Thủy và Đại Thừa phần lớn tương hợp với nhau, và chính những miêu tả của thời hiện đại về niệm mới thực sự đi xa cả hai truyền thống.

Những văn kiện hiện đại miêu tả khác theo cách nào?

Trong khi niệm (sati) thường được đồng nhất với sự chú tâm thuần túy, những trao đổi của tôi với hai nhà tu hành thông tuệ Bhikkhu Bodhi và Bhikkhu Analayo, và Rupert Gethin - chủ tịch Hội Kinh Tạng Pali (Pali Text Society), cũng như những công trình nghiên cứu gần đây của họ dẫn tôi đến kết luận rằng chú tâm thuần túy hầu như tương đương với thuật ngữ manasikāra trong Pali, một từ thường được dịch là sự “chú tâm”, hay “tác ý”. Từ này chỉ cho sát na đầu tiên của sự nhận thức thuần túy một đối tượng, trước khi bắt đầu phân biệt, nhận định và khái niệm hóa; và trong những văn liệu Phật giáo, nó không được xem là một tâm sở thiện. Nó là vô ký - trung lập xét về diện đạo đức. Mặt khác, ý nghĩa nguyên thủy của sati là nhớ lại, không quên. Điều này bao gồm sự hồi tưởng về những việc trong quá khứ, nhớ việc cần làm trong tương lai, và ghi nhớ ngay trong hiện tại theo ý nghĩa duy trì sự chú tâm liên tục đến thực tại hiện tiền. Ngược lại với niệm là thất niệm (hay quên), cho nên niệm, chẳng hạn được áp dụng cho hơi thở, bao hàm sự chú tâm liên tục, không dao động đến hơi thở ra vào. Niệm có thể được dùng để giữ sự chú tâm thuần túy (manasikāra - tác ý) nhưng trong văn liệu Phật giáo truyền thống không có chỗ nào đồng nhất niệm với sự chú tâm như thế.

Đức Phật đã bao giờ đề cập đến từ manasikāra trong khi dạy về niệm?

Điều đó tôi không biết. Từ này xuất hiện khá rõ trong A-tì-đàm - những luận giải căn bản về tâm lý học Phật giáo. Trong các hướng dẫn thực hành của đức Phật về cả Thiền Chỉ (samatha) lẫn Thiền Minh Sát (vipassana), từ sati (niệm) và sampajañña (tri) xuất hiện thường xuyên nhất. Sampajañña trong Pali thường được dịch là “biết rõ ràng”, nhưng loại biết này luôn luôn có đặc tính phản kỷ: Nó lúc nào cũng đòi hỏi một sự trắc lượng trạng thái thân hoặc tâm, đôi khi liên đới đến ngoại cảnh. Do vậy, tôi muốn dịch từ sampajañña là “nội quán” (introspection), ở đây từ này đòi hỏi một sự quán sát sâu sắc không chỉ tâm mà còn cả các hoạt động thuộc thân và khẩu.

Có những nguy cơ nào trong việc xem thiền đơn giản như là một quá trình chú tâm thuần túy?

Một khi niệm được đánh đồng với sự chú tâm thuần túy, nó dễ dàng dẫn đến sự nhận thức lệch lạc rằng việc tu tập niệm không liên quan với giới hay với sự tu dưỡng các tâm thiện và sự gạn trừ các tâm bất thiện. Không thể đi quá xa sự thật. Trong A-tì-đàm thuộc tạng Pali, niệm được liệt kê như một tâm thiện, không miêu tả nó như là sự chú tâm thuần túy mà như một tâm sở phân biệt rõ ràng tâm thiện với tâm bất thiện, nghiệp thiện với nghiệp bất thiện. Và nó được vận dụng để hỗ trợ các trạng thái tâm thiện cũng như đối trị những tâm bất thiện.

Vậy thì vai trò của sự chú tâm thuần túy (tác ý) là gì?

Tôi luyện sự chú tâm thuần túy (tác ý) có rất nhiều giá trị, và có một bộ phận ngày càng lớn nghiên cứu những lợi ích của nó để chữa trị những rối loạn tâm sinh lý. Thế nhưng đồng nhất nó với niệm là không đúng, và càng sai lầm tệ hại hơn khi nghĩ rằng Thiền Minh Sát (vipassana) chỉ là bấy nhiêu đó. Nếu đúng như thế, tất cả giáo huấn của đức Phật về giới, định, và tuệ sẽ không thích đáng. Những người cho rằng sự chú tâm thuần túy là tất cả những gì thiền hướng đến luôn luôn bác bỏ những cái còn lại của Phật giáo như là những thứ hoa ngữ và huyễn hoặc. Những giáo lý cốt yếu bị loại bỏ thay vào đó là thiên kiến cá nhân.

Có một ý kiến thường được viện đến nói rằng sự giác sát [tri nhận] thuần túy (bare awareness) sẽ tự động ngăn chặn không cho các tư tưởng bất thiện khởi lên. Liệu có cơ sở nào cho ý kiến này ở trong kinh điển không?


Tri nhận đơn thuần, như là sự nhận biết tịch tĩnh, vô phân biệt đối tượng thiền quán, đóng một vai trò tiên quyết trong việc thực tập chỉ (samatha), nó làm muội lược những tâm lý não hại như tham, sân, thụy miên, trạo cử và nghi. Cũng có nhiều ghi nhận trong kinh Phật về những người đạt được trí tuệ giải thoát, thâm sâu thông qua những cái có vẻ như là sự chú tâm đơn thuần. Có lẽ trường hợp được biết đến nhiều nhất chính là nhà khổ hạnh Bāhiya. Sau thời gian tu tập tinh chuyên, ông tưởng mình đã chứng quả A-la-hán, nhưng rồi nhờ một thiên thần chỉ cho biết ông vẫn chưa chứng đắc quả giải thoát, và khuyên ông đến tìm Phật xin sự chỉ giáo. Đức Phật nói với ông ta rằng: “với cái được thấy, sẽ chỉ là cái được thấy; với cái được nghe, sẽ chỉ là cái được nghe; với cái được cảm thọ, sẽ chỉ là cái được cảm thọ; với cái được nhận thức, sẽ chỉ là cái được nhận thức. Đó là những gì ông cần tu tập” (Bahiya Sutta, UD I.10.). Và Bāhiya lập tức chứng quả A-la-hán.

Từ câu chuyện đó chúng ta có thể dễ dàng kết luận rằng sự chú tâm thuần túy là tất cả những gì cần thiết cho thiền giác ngộ. Nhưng chúng ta phải nhớ rằng trường hợp Bāhiya là đặc biệt. Ông ta đã thành tựu được một trình độ tâm linh rất cao trước khi gặp Phật, vì thế những hướng dẫn tinh tủy này là đủ cho ông ta hoàn toàn gạn sạch những phiền não trong tâm. Đối với những người như chúng ta, sự đa dạng của lý thuyết và thực hành trong Phật giáo có thể hỗ trợ cho ta rất lớn. Sự tri nhận đơn thuần có thể đóng một vai trò quan trọng, và đôi lúc nó thực sự có khả năng ngăn chặn không cho những tâm lý bất thiện khởi lên. Nhưng nếu chúng ta chỉ khư khư chấp lấy sự chú tâm thuần túy thôi, nó cũng có thể ngăn cản không cho các tâm thiện sinh khởi! Chẳng hạn, thiền quán tu tập tứ vô lượng tâm từ, bi, hỷ, và xả đều dựa trên niệm chứ không phải sự chú tâm đơn thuần. Sự chú tâm không phải là một phương pháp hoàn thiện, và riêng rẽ mà nói, nó có ích nhưng vẫn còn rất hạn chế.

Các định nghĩa khác nhau về niệm có ý nghĩa thực tập nào không hay chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa?

Đó không phải chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa học. Theo cách dùng thông thường, từ mindfulness trong tiếng Anh có ý nghĩa đơn giản là biết, hay lưu ý. Sati có ý nghĩa phong phú hơn, vì thế những ai muốn thực hành thiền Phật giáo cần phải hiểu rõ từ này và những từ liên quan khác dựa trên những văn liệu có thẩm quyền nhất có thể có được. Nếu không, thiền Phật giáo sẽ nhanh chóng phát triển thành một loại tư tưởng “đây và bây giờ” hồ đồ, mà nơi đó, sự thâm sâu và phong phú của những truyền thống thiền Phật giáo siêu việt sẽ bị mai một.

Có nên chăng tiêu chuẩn hóa ý nghĩa của niệm?

Vì sự tôn trọng tính nguyên bản của mỗi truyền thống, cho nên ép buộc tất cả các hình thái vào một khuôn khổ nhất định là không phải. Điều quan trọng là phải nhận biết được sự khác biệt giữa những trường phái khác nhau. Nhưng trong phạm vi những kinh điển của Phật và các luận giải quan trọng nhất trí với nhau về ý nghĩa của niệm, Phật tử của tất cả các trường phái nên thừa nhận giá trị đó.

Trong tác phẩm Thanh tịnh đạo (The Path of Purification) vào thế kỷ V, ngài Giác Âm (Buddhaghosa) - vị luận sư uy tín nhất trong truyền thống Nguyên Thủy - giải thích rằng: “niệm là tâm sở nhờ nó ta nhớ lại, hoặc chính nó nhớ lại” (The Path of Purification, C. XIV, 141.). Đặc tính của nó, ngài Buddhaghosa nói, là “không dao động”, nhờ đó tâm gắn chặt với đối tượng quán sát. Nhiệm vụ của nó là “không tuột mất”, ngụ ý rằng niệm giúp ta duy trì được sự chú tâm mà không quên mất. Biểu hiện của nó là “canh giữ” hay trạng thái “xúc tiếp với đối tượng”, ngụ ý rằng “rợi dây ghi nhớ” duy trì sự chú mục một cách vững chắc trên đối tượng được hướng đến, cho dù đó là một đối tượng đơn lẻ, tương đối độc lập hay là một chuỗi các sự kiện liên đới nhau. Nền tảng của nó là “sự chú ý mạnh mẽ”, ý nói đến phẩm chất rõ ràng của nó, phẩm chất này hết sức cần thiết khi thực tập các niệm xứ (satipaṭṭhāna) - niệm về thân, thọ, tâm, và pháp. Như ngài Buddhaghosa nhận định, niệm cần được xem như cái trụ cắm vào trong đối tượng của nó, hoặc như người gác cửa canh giữ các cánh cửa nhận thức. Trên nền tảng của luận giải nổi tiếng có thẩm quyền này, chúng ta có thể dễ dàng thấy được tại sao niệm lại cần thiết cho Thiền Chỉ (samatha) và Thiền Minh Sát (vipassana) nói riêng, và cho sự tu tập tâm nói chung. Theo truyền thống, thiền chỉ (samatha) là phương pháp chủ yếu để tu tập niệm, trong khi với sự tu tập Thiền Minh Sát (vipassana), hành giả sử dụng cả tâm và tuệ lên thân, thọ, tâm, và pháp.

Với vai trò tâm lý như là sự hồi tưởng, sati là một năng lực tinh thần bình thường mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hằng ngày. Một số thực hành trong sự tu tập niệm xứ, chẳng hạn như quán niệm về các bộ phận của cơ thể, không thể được thực hiện với sự chú tâm đơn thuần - ví dụ, khi niệm xứ được sử dụng trong sự thực hành về quán niệm các sắc tưởng. Trong hầu hết mọi trường hợp, khi nó được vận dụng trong sự tu tập tâm, niệm được ứng dụng với trí tuệ sắc bén, thường quán sát các pháp trong khuôn khổ các phạm trù Phật giáo như ngũ uẩn. Điều này hiển nhiên trong bản kinh quan trọng của Phật về Niệm Xứ (satipatthana), nó vượt lên trên sự chú tâm đơn thuần.

Có sự khác nhau nào giữa niệm và chánh niệm? Có cái gọi là tà niệm hay không?

Một tay súng nấp mình trong bụi cây, chờ đợi kẻ thù, có thể nhận biết một cách tinh tường những gì đang khởi lên trong mỗi khoảnh khắc trôi qua. Nhưng bởi vì anh ta đang âm mưu sát hại, cho nên anh ta đang thực hành tà niệm. Thực vậy, cái anh ta đang trải qua là sự chú tâm thuần túy nhưng thiếu vắng yếu tố giới. Nói chung, chánh niệm phải được kết hợp với sampajañña (sự biết rõ mang tính phản kỷ theo tinh thần của giới) - mặt khác, nội quán phải bao gồm sự nhận thức rõ - và chỉ khi nào 2 yếu tố này hoạt động cùng nhau thì chánh niệm mới có thể hoàn thiện mục đính nó hướng đến. Đặc biệt, trong sự tu tập Tứ Niệm Xứ, chánh niệm phải hoạt động trên nền tảng Bát Chánh Đạo: chẳng hạn, nó phải được hướng đạo bởi chánh kiến, khích lệ bởi chánh tư duy, đặt cơ sở trên chánh giới (ngữ, nghiệp, mạng), và được tu tập cùng với chánh tinh tấn. Nếu không có chánh kiến hay chánh tư duy, có thể chúng ta đang thực tập sự chú tâm đơn thuần mà không bao giờ có sự tiến bộ thành chánh niệm. Cho nên, chú tâm thuần túy hoàn toàn không mô tả được ý nghĩa hoàn thiện của Thiền Minh Sát, nó chỉ tương ứng với giai đoạn đầu trong quá trình thực tập thiền chánh niệm.

Có khuynh hướng thiên vị thiền minh sát (vipassana) hơn thiền chỉ (samatha) ở trong một số nhóm, chuyện đó như thế nào?

Thuật ngữ samatha, được chuyển dịch là “an tịnh” hay “tịnh chỉ”, chỉ cho một mức độ rộng rải các phương pháp thực hành nhằm thành tựu định (samadhi), hay trạng thái nhất tâm. Cả niệm lẫn nội quán đều cần thiết cho mọi phương pháp thực tập chỉ, và trạng thái nhất tâm mà hành giả đạt được thông qua sự tu tập ấy có thể ứng dụng vào bất kỳ loại đối tượng nào: nhỏ hoặc lớn, đơn giản hoặc phức tạp, tương đối bền vững hoặc thay đổi. Việc thực tập chỉ (samatha) thường bị bỏ qua hoặc xem là thứ yếu trong nhiều trường phái Phật giáo đương đại, bao gồm cả Thiền Tông, Nguyên Thủy, và Phật giáo Tây Tạng. Với sự nhấn mạnh vào “đốn ngộ”, Thiền Tông không dạy chỉ (samatha) như một pháp tu riêng rẽ. Thay vào đó, nó được kết hợp vào trong sự thực tập thiền tọa và công án. Xu hướng tương tự như thế gần đây đã thâm nhập vào truyền thống Thiền Minh Sát, nó không còn chú trọng đến chỉ (samatha) nữa.

Thế nhưng trong văn hiến truyền thống của Nguyên Thủy và Đại Thừa, các phương pháp thực tập chỉ (samatha) chiếm giữ vai trò trung tâm trong tam vô lậu học giới - định - tuệ. Hơn nữa, trình tự tu tập Phật giáo được dạy trong chủ đề định bao trùm diện rộng hơn chứ không chỉ để phát triển trạng thái nhất tâm. Mục đích của những phương pháp thực tập này là tu luyện những trạng thái an định thân tâm, và tất cả mọi loại thiền tuệ giác đều được thực hành một cách tối ưu dựa trên nền tảng đó. Nếu không có niệm, định không thể đạt được. Và nếu không có sự định tĩnh và minh hiển của sự chú tâm đạt được thông qua việc thực hành chỉ (samatha), sự tu tập trí tuệ của Phật giáo nhất định bị chướng ngại bởi trạo cử, hôn trầm và nhiều triền cái khác. Giới và định hỗ trợ lẫn nhau, Thiền Chỉ và Thiền Minh Sát cũng như thế.

Phương pháp thực tập niệm thường được gắn kết với truyền thống Nguyên Thủy, trong Kim Cương Thừa nó giữ vai trò như thế nào?

Niệm, như một năng lực duy trì sự chú tâm liên tục trên đối tượng, là không thể thiếu đối với tất cả các loại thiền. Ở nhiều phương pháp quán tưởng trong các loại thiền của Kim Cương Thừa, niệm giúp hành giả duy trì sự minh định trên quán ảnh. Kim Cương Thừa còn gồm cả thiền Đại Viên Mãn và Đại Thủ ấn, và ở đây, một lần nữa, sự chú tâm minh định, vô phân biệt rất được chú trọng, giống như trong Thiền Tông vậy. Tuy nhiên, cơ sở cho những thực hành tuệ giác này vẫn là sự tu tập định, bao gồm sự chú tâm tịch tĩnh và minh hiển.

Trong phương pháp Đại Thủ Ấn (Mahāmudra)chẳng hạn, trước tiên hành giả phải tu học giáo lý nền tảng Tứ diệu đế, bao gồm tu tập giới , định, và tuệ. Sau đó hành giả tiến lên các giáo lý Đại thừa, đặc biệt là tư tưởng Bồ-tát đạo, quan điểm của Bát Nhã Ba La Mật về không và duyên khởi, và Phật tánh. Trên nền tảng đó, hành giả được hướng dẫn đi vào Phật giáo Kim Cương Thừa với những phương pháp đặc thù của riêng nó như biến nhập thân, khẩu, ý của mình vào trong thân, khẩu, ý của Phật. Cuối cùng, hành giả được tôi luyện trong quan điểm, thiền định, và lối sống đặc thù của truyền thống Đại Thủ ấn. Pháp thiền này cần một loại “vô tác” gốc, ở đó hành giả an trú trong sự cảnh giác thả lỏng, không để tâm đến tất cả các hình thái cảm thọ, ức niệm và tư tưởng. Kết quả là, tất cả các kinh nghiệm từ từ khởi lên giúp cho sự giác ngộ tâm linh của hành giả, và cuối cùng tất cả các pháp được nhận thức như là sự thể hiện của bản thức, hay Phật tánh.

Giai đoạn đầu tiên của thiền Đại Viên Mãn (Dzogchen), được biết đến như là “đột phá”, rất giống với Đại Thủ ấn, và mới xem qua chúng có vẻ dường như đồng nhất với sự chú tâm thuần túy trong Thiền Minh Sát hiện đại và Thiền Tông. Nhưng như chúng ta đã ghi nhận trong phần nói về chánh niệm, bối cảnh thực hành hết sức quan trọng, và phương pháp bề ngoài có vẻ giống nhau nhưng bên trong tiềm ẩn những dị biệt rất lớn. Theo truyền thống, chẳng hạn các thiền sư Thiền Tông thông thường sẽ phải tu tập giới và học tập các bộ luận tiêu biểu trong nhiều năm trước khi họ chuyên tâm vào thiền định. Điều này cũng đúng với Phật giáo Nguyên thủy và Tây Tạng. Mỗi truyền thống thực hành thiền theo quan điểm của mình mà nó đã được nhận biết sâu sắc bởi tuệ giác Phật giáo.

Có những yếu tố khác biệt nào trong nhân sinh quan Đại Thừa và Kim Cương Thừa khiến họ sử dụng niệm theo cách khác với truyền thống Nguyên Thủy?

Chánh niệm xuất hiện chỉ khi nào có mặt chánh kiến và chánh tư duy, và mỗi một trường phái Phật giáo có lối giải thích riêng của mình về hai chi này ở trong Bát Chánh Đạo. Trong Phật giáo Nguyên Thủy, chánh kiến chú trọng vào 3 chủ đề vô thường, khổ, và vô ngã. Chánh tư duy là động lực thúc đẩy sự tu tập dựa trên sự nhận thức về bản chất và nguyên nhân của khổ đau; và ước muốn giải thoát mãi mãi khỏi những phiền não đang cắm sâu trong gốc rễ khổ đau. Một số thiền giả Minh Sát thời nay hiếm khi chú trọng đến chánh kiến hay chánh tư duy, và tôi thực sự nghi ngờ rằng liệu chỉ thực hành niệm làm sao có thể mang lại bất kỳ sự giác ngộ siêu việt nào! Vả lại, nếu niệm, như được nhiều người thời nay quan niệm, là tất cả những gì cần thiết để đạt được giải thoát, thì khi ấy, toàn bộ Phật pháp còn lại sẽ trở nên vô nghĩa.

Trong Phật giáo đại thừa, chánh niệm được tu tập cùng với các kiến giải về không, duyên khởi, và Phật tánh, cộng thêm ý nguyện thành tựu chánh giác vì lợi lạc mọi loài. Nếu không có nhận thức và nguyện lực như thế, sự tu tập niệm và mọi hình thái thiền liên quan được cho là sẽ không đưa đến Phật quả. Trong truyền thống Kim Cương Thừa, chánh kiến bao gồm “tịnh kiến” nhận thức các pháp như là sự biểu hiện của bản thức, và chánh tư duy là từ bi nguyện lực cầu quả vị chánh giác sớm thành để lợi lạc chúng sanh. Nguyện lực này cũng giống như trong Đại Thừa, nhưng có phần gấp rút hơn.

Trong mỗi trường hợp, niệm có một dáng vẻ riêng, cũng giống như thế nếu nó được ứng dụng với quan điểm duy vật và mục đích thế gian, nghĩa là chỉ đơn giản để làm lắng dịu áp lực cuộc sống và tìm kiếm niềm hạnh phúc lớn hơn ở trong đời này thôi. Khi sự chú tâm thuần túy được thực hành trong phạm vi của một quan điểm hiện đại, duy vật, sẽ không có cơ sở để tin rằng nó sẽ mang lại một kết quả tương tự như khi nó được áp dụng trong bối cảnh Phật giáo Nguyên Thủy, Đại Thừa hay Kim Cương Thừa.

Trong suốt thế kỷ qua, Phật giáo chứng kiến sự cải cách của Tin lành, cùng với sự suy yếu của nếp sống tự viện trong Phật giáo và tính phổ biến ngày càng tăng của thiền giữa những Phật tử tại gia. Thật là kỳ diệu khi nhiều người ngày nay đang kết hợp thiền Phật giáo vào đời sống thường nhật. Tuy nhiên, điều quan trọng là không được coi nhẹ giá trị của việc dành nhiều năm học và thực hành thiền như là sự nghiệp duy nhất. Nói cho cùng, chúng ta sẽ không giao răng của mình cho ai đó mà họ chỉ mở qua loa vài cửa hàng nha cụ và hành nghề khoảng chừng mỗi ngày một giờ, cũng như thế, chẳng lẽ chúng ta không nên cân nhắc khi giao tâm mình cho những thiền sư mà chưa từng trải qua năm tháng chuyên tâm rèn luyện về giáo lý và thực hành thiền sao?

Tất cả đều phụ thuộc vào quan điểm và mục đích của chúng ta đối với thiền. Nếu thứ ta muốn là một loại liệu pháp thiền để giúp ta giảm stress, giải quyết những rắc rối tâm lý riêng tư, và có một đời sống cân bằng hơn, thế thì chúng ta không cần những thiền sư được đào tạo bài bản. Nhưng nếu chúng ta đặt mục đích cao hơn - giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sinh tử - khi đó chúng ta cần dựa vào những vị đã được đào tạo chuyên môn trong nhiều năm về lý thuyết và thực hành thiền. Đứng về mặt truyền thống, những vị tu sỹ đóng một vai trò chủ yếu trong vấn đề này, và tôi hy vọng họ tiếp tục làm như thế trong tương lai. Nhưng để điều đó xảy ra, họ cần sự hỗ trợ của những người tại gia, như họ đã từng như thế trong quá khứ.

Với những Phật tử không chuyên như ở trong các cộng đồng phương Tây, chúng ta không thể có được những bậc thầy giác ngộ?

Nếu chúng ta chỉ có những nhà khoa học không chuyên, thế thì không ngành khoa học nào có thể tiến bộ đến mức độ tinh tế như hiện nay. Cũng thế, nếu chúng ta chỉ có những bác sĩ và nhà trị liệu tâm lý không chuyên, chúng ta sẽ gặp nhiều rắc rối hơn nhiều trong lãnh vực chăm sóc sức khỏe thể xác lẫn tinh thần. Rộng hơn, hãy tưởng tượng thế giới chỉ toàn những thợ máy, thợ điện, nông dân, và giáo viên không chuyên. Nếu chúng ta giao những công việc quan trọng vào trong tay của những người nghiệp dư, nền văn minh hiện đại sẽ trở nên nghèo nàn đáng sợ.

Con đường giác ngộ là sự thách thức lớn nhất đối với tất cả nỗ lực của loài người và đòi hỏi một sự chuyển hóa sâu sắc của con người từ một sinh vật dối gian, bần tiện thành một hiền giả giác ngộ. Nếu chúng ta muốn có những bậc giác ngộ trong xã hội hiện đại, thì những ai muốn toàn tâm toàn ý dâng hiến cuộc đời mình cho con đường này - dù họ muốn xuất gia hay không - những người ấy cần được hỗ trợ tối ưu. Điều này sẽ là món quà vĩ đại nhất của chúng ta dành cho những thế hệ mai sau.

 

 

 


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 78235)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 80771)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 74722)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 51604)
Những lời Kinh tụng có linh nghiệm hay không? Sám hối có hết tội không? Làm sao để biết có sự linh nghiệm khi chúng ta tụng Kinh hoặc sám hối? Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại
(Xem: 152085)
Thời gian an cư là 16/6 ÂL đến 15/9 ÂL, còn gọi là Tiền An cư (purimika vassūpanāyika). Nhờ có sự an cư kiết hạ mà chư Tăng, Ni mới làm cho Phật pháp được sống còn, vì có an cư kiết hạ mà Giới, Định, Tuệ mới có điều kiện phát huy. Nơi nào còn Giới, Định, Tuệ, nơi đó mới còn Phật pháp
(Xem: 32111)
45 năm, 45 mùa an cư kiết hạ của Đức Thế Tôn đã trải qua. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại được nhưng những bước chân của Ngài và chư Tăng trên khắp nẻo đường để thuyết pháp tế độ chúng sanh vẫn lưu lại. Đó là hình ảnh đẹp, tấm gương sáng về một bậc vĩ nhân duy nhất trong tam giới này.
(Xem: 112256)
Quyết định chọn ngày lễ Tam Hợp như là ngày lễ Đức Phật Đản Sanh đã được nghi thức hoá tại hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới - World Fellowship of Buddhists (W.F.B.) diễn ra tại Tích Lan vào năm 1950, mặc dù ngày nay các ngày lễ Phật giáo trên thế giới đã có truyền thống từ hàng thế kỷ nay.
(Xem: 24715)
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu nhân, phàm ra thánh. Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được gọi là Appamannà (vô lượng). Gọi như vậy bởi vì Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn bao la, không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định.
(Xem: 21858)
Kinh văn Pāli có ý nghĩa rõ ràng, không phải là mật chú. Người đọc tụng các bài Kinh Pāli nếu hiểu được ý nghĩa thì tín tâm sẽ được hun đúc, trí tuệ sẽ được phát triển, và phước báu càng thêm tăng trưởng. Nhờ vậy thời công phu tụng Kinh sẽ được thành tựu oai lực trọn vẹn, không những có kết quả hộ trì trong thời hiện tại, mà còn là nhân duyên để không bị xu huớng theo tà kiến ngoại đạo, để được gặp Phật, rồi nhờ vào thiện pháp đã tích lũy mà được thoát khỏi các nỗi khổ đau, và thành tựu quả vị giải thoát không còn sanh tử luân hồi trong ngày vị lai
(Xem: 26623)
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy - Nam Tông, câu kệ lễ Phật "Namo Tassa bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa" (phiên âm theo tiếng Việt: Ná-mô tá-sá phá-gá-vá-tô á-rá-há-tô sâm-ma sâm-bút-thá-sá) được dịch nghĩa theo kinh tụng Phật giáo Nam tông Việt Nam là "Con đem hết lòng thành kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy"
(Xem: 22850)
12 nhân duyên sanh tử luân hồi được hình thành hay cụ thể hoá trong vòng bánh xe luân hồi. Sau này đối với bên Hán học bên Bắc Tông cụ thể là HT Minh Châu dịch là Duyên Khởi và sau này đối với Ngài Tịnh Sự thì đôi khi Ngài dịch là Duyên Sinh, đôi khi Ngài dịch là Liên Quan Tương Sinh, rồi sau cuối cùng của đời Ngài dịch là Y Tương Sinh
(Xem: 21838)
Sau ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày kết thúc an cư mùa mưa, chư Tăng phải hội lại tại trú xứ mà mình nhập hạ để làm lễ tự tứ (pavāraṇā). Ngày Tự tứ có thể thực hiện vào ngày rằm tháng 9, cuối tháng 10 hoặc là trễ lắm là vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, nghĩa là phải làm lễ tự tứ trong thời gian mùa mưa, không được quá mùa mưa. Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu hay nói cách khác là sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ khưu đương sự thấy lỗi của mình mà sửa sai và hoàn thiện bản thân.
(Xem: 19697)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
(Xem: 24859)
Đây là lễ hội hàng năm duy nhất của Phật giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế. Đối với những người dân theo Phật giáo Nguyên thủy, đại lễ dâng y kathina mang một ý nghĩa hết sức to lớn, vừa thể hiện thiện tâm của người phật tử đối với việc hộ trì tăng đoàn, vừa tạo nên niềm vui lớn trong mùa lễ hội cho người phật tử tại gia, đồng thời đại lễ dâng y cũng còn nhắc nhở cho tứ chúng, cả hàng phật tử xuất gia và tại gia, luôn nhớ về và trân trọng tấm lòng của đàn tín.
(Xem: 92668)
Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á.
(Xem: 30161)
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần. Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng
(Xem: 36681)
Có một hành giả học giả (vì biết vị này có ngồi thiền và cũng có nghiên cứu Kinh điển) làm research cho biết rằng: Ở bản dịch Trung Bộ Kinh có tới 232 chữ chánh niệm, còn chữ sammāsati (23) sammāsatiyā (3) sammāsatiṃ (2) sammāsatissa (2), chỉ gặp có 30 lần. Cũng như đã gặp ở 1 đề tài gần đây về chữ satimā (được dịch là “chánh niệm”, thay vì CÓ NIỆM. khiến số lượng các chữ “chánh niệm” nhiều hơn đến 202 lần. Trong ngôn ngữ thường ngày hình như chữ “chánh niệm” được sử dụng cũng nhiều, ví dụ như vị Trụ Trì của Sư ngày xưa thường hay nhắc nhở rằng: “Mấy Sư phải có chánh niệm một chút.” Vậy nên hiểu NIỆM VÀ CHÁNH NIỆM như thế nào đây ?
(Xem: 105002)
Tỉnh thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức, ngay cả trong lúc thở, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v. Mục đích của sự chú tâm là kiểm soát và làm lắng dịu tâm. Đây là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái mình muốn.
(Xem: 101784)
Phương pháp tu thiền vipassana là con đường dẫn đến giải thoát mọi ràng buộc khổ đau; nó đoạn trừ tham, sân, si là nguyên nhân của mọi khổ đau. Hành giả vipassana tu tập để dời đi, một cách tuần tự, căn nguyên của khổ và thoát ly sự đen tối của những căng thẳng từ trước để dẫn đến cuộc sống sung túc, lành mạnh và hạnh phúc
(Xem: 26753)
Là những hành giả thiền Quán, quý vị cần phải hiểu rõ ràng và chính xác sự khác biệt giữa Khái niệm và Thực tại, vì chỉ một trong hai điều này là đối tượng của thiền Minh sát (Vipassana).