(Xem: 1820)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2277)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

06.2-Các loại thắng trí.

02 Tháng Ba 201412:00 SA(Xem: 14608)

Chương 06.2

Các loại thắng trí


Vị hành giả sau khi đã đắc và làm chủ đệ tứ thiền, đôi lúc trong các bản Kinh trình bày là vị ấy sẽ tiến hành để đắc một vài loại thắng trí. Các loại thắng trí này được giới thiệu có hơi khác về con số trong Kinh Điển. Một số bài Kinh đề cập đến ba, gọi là Tam minh (tevijjā): Túc mạng minh (pubbenivāsānussatiñāṇa), Sanh tử minh (cutūpapātañāṇa) và Lậu tận minh (āsavakkhayañāṇa)[25]. Một số bài Kinh đề cập đến năm loại thắng trí (pañcābhiññā), đó là, Biến hóa thông (iddhividhañāṇa), Thiên nhĩ thông (dibbasotadhātuñāṇa), Tha tâm thông (cetopariyañāṇa), Túc mạng thông (pubbenivàsañāṇa) và Thiên nhãn thông (dibbacakkhuñāṇa)[26]. Những Kinh khác mở rộng năm thông này thành sáu (chalabhiññā) bằng cách thêm vào Lậu tận thông (savakkhayañāṇa)[27]. Trong trường hợp như vậy, năm loại đầu được gọi là năm thông hiệp thế (lokiya abhiññā), còn loại thứ sáu là thông siêu thế (lokuttara abhiññā). Cũng có những bản Kinh khác giới thiệu một hệ thống gồm tám loại thắng trí. Hệ thống này, vốn không có tên gọi đặc biệt, bao gồm sáu loại thần thông hay thắng trí vừa kể cộng thêm Chánh tri kiến (ñāṇadassana) và Ý hóa thông (manomayiddhiñāṇa)[28]. Chúng ta sẽ lần lượt bàn đến các loại thắng trí này, lấy lục thông làm căn bản để giải thích và sẽ tiếp tục bàn đến hai loại sau. Nhưng trước hết cũng cần phải biết một đôi điều về công việc chuẩn bị cho việc phát triển các thắng trí.

NHỮNG ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT CHO THẮNG TRÍ.

Muốn phát triển năm thần thông hiệp thế cũng như Ý hóa thông, hành giả nhất thiết phải đạt đến sự thành thục trong tám định chứng gồm tứ thiền sắc giới và tứ thiền vô sắc. Mặc dù các bản Kinh luôn luôn trình bày việc luyện tập các thần thông (thắng trí) diễn ra ngay sau khi chứng tứ thiền, không đề cập đến các định chứng vô sắc, song các bản Chú giải tuyên bố rằng bốn định chứng vô sắc cũng cần phải hiểu là những điều kiện cần thiết cho việc luyện thần thông. Lý do chúng không được đề cập là vì đã ngầm kể bằng đệ tứ thiền, là bậc thiền duy nhất dùng như căn bản trực tiếp cho việc luyện tập các thần thông. Tuy nhiên, các bậc thiền hiệp thế và những luyện tập (thần thông) dựa trên chúng vẫn không phải là những điều kiện cần thiết cho loại thần thông thứ sáu (Lậu tận thông), vì thông này là kết quả của tuệ hơn là định như chúng ta sẽ thấy dưới đây.

Đối với một hành giả muốn thành tựu các thần thông (abhiññā) cần phải hoàn tất tám định chứng ở mỗi trong số tám biến xứ (kasina): bốn biến xứ thuộc tứ đại (đất, nước, lửa, gió) và bốn biến xứ màu (xanh, vàng, đỏ, trắng). Sau đó hành giả còn phải đạt đến sự kiểm soát hoàn toàn tâm mình theo mười bốn cách dưới đây:

1. Hành giả phải đắc thiền trong tám kasina theo chiều thuận như đã mô tả trong Kinh, nghĩa là từ kasina đất, nước,… cho đến kasina màu trắng, làm nhiều lần như vậy trong mỗi kasina cho đến khi hoàn toàn tinh thông.

2. Sau khi đã tinh thông theo chiều thuận, hành giả phải đắc thiền đề mục kasina ấy theo chiều nghịch, nghĩa là từ kasina màu trắng lui lại cho đến kasina đất.

3. Kế tiếp, hành giả phải đắc thiền nhiều lần theo thứ tự thuận và nghịch, từ kasina đất đến kasina màu trắng, rồi từ màu trắng lui lại kasina đất.

4. Ở mỗi định chứng trong bát định chứng, hành giả phải đắc theo chiều thuận từ sơ thiền lên đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

5. Sau đó, hành giả phải tinh thông các bậc thiền theo chiều nghịch, nghĩa là từ Phi tưởng phi phi tưởng xứ trở lại sơ thiền.

6. Hành giả phải chuyển sang các bậc thiền theo cả hai chiều thuận và nghịch.

7. Hành giả phải nhảy cách bậc thiền trong khi vẫn duy trì cùng kasina, nghĩa là, với kasina đất làm đề mục, hành giả phải đắc sơ thiền, tam thiền, Không vô biên xứ và Vô sở hữu xứ; rồi từ kasina nước, hành giả nhảy cách bậc thiền như trên, cho đến kasina màu trắng.

8. Sau đó, hành giả phải nhảy cách kasina mà không nhảy cách bậc thiền, nghĩa là hành giả đắc sơ thiền trong kasina đất, lửa, màu xanh, màu đỏ, rồi lập lại như vậy đối với các bậc thiền khác.

9. Kế tiếp, hành giả tiến hành nhảy cách bậc thiền cùng với kasina một lượt. Đó là hành giả đắc sơ thiền trong kasina đất, tam thiền trong kasina lửa, rồi đắc Không vô biên xứ bằng cách loại bỏ kasina màu xanh và đắc Vô sở hữu xứ qua kasina màu đỏ.

10. Trạng thái kế tiếp, gọi là “hoán vị các thiền chi”, đòi hỏi hành giả phải đắc từ sơ thiền đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ trong cùng kasina.

11. Kế đó, hành giả đắc sơ thiền trong từng kasina, từ đất cho tới kasina màu trắng. Giai đoạn này gọi là “hoán vị các đối tượng”.

12. Kế tiếp, hành giả phải thông thạo cách “hoán vị các thiền chi và đối tượng” phối hợp, nghĩa là hành giả đắc sơ thiền trong kasina đất, nhị thiền trong kasina nước, tam thiền trong kasina lửa,… cho đến đắc Phi tưởng phi phi tưởng xứ trong kasina màu trắng, thay đổi sao cho các đối tượng và các thiền chi xứng hợp với nhau.

13. Bước kế tiếp, “xác định các thiền chi”, nghĩa là xác định từng bậc thiền trong tám bậc từ sơ thiền lên đến bát thiền (Phi tưởng phi phi tưởng xứ) bằng các thiền chi cấu hợp của nó, chẳng hạn như sơ thiền là năm chi, nhị thiền là ba chi, v.v…

14. Bước cuối cùng, “xác định đối tượng”, nghĩa là chỉ xác định đối tượng mà thôi, như “đây là kasina đất”, v.v… cho đến “đây là kasina trắng”.

Sau khi tinh thông mười bốn cách này, hành giả phải phát triển Tứ như ý túc – Dục (chanda), Cần (viriya), Tâm (citta), Thẩm (vimamsā) – trau dồi các pháp này tới mức độ cao nhất có thể được. Khi đã hoàn tất mọi điều kiện tiên quyết, hành giả phải hướng tâm đến loại thắng trí nào mà mình muốn đắc. Các thắng trí không xuất hiện như những kết quả của thiền một cách tự động mà đòi hỏi phải có một sự quyết định trước cùng với nỗ lực cương quyết của hành giả. Như đức Phật dạy, khi tâm người hành thiền đã định tĩnh và thuần tịnh, “vị ấy hướng tâm đến, dẫn tâm đến các loại thắng trí (thần thông)”.[29]


LỤC THÔNG (ABHIÑÑĀ)

I. Thần thông thứ nhất: Biến Hóa Thông(Iddhividhañāṇa).

 

Iddhi là một từ Pāḷi chúng ta thường dịch là “thần thông”, nghĩa đen là sự thành công hay sự hoàn thành. Ý chính mà từ này gợi lên là khả năng thực hiện những kỳ công vượt ngoài những hiện tượng tự nhiên của đời thường. Vì lý do này, iddhi đôi khi đã được giải thích như những năng lực siêu nhiên hay những phép mầu, song từ cách nhìn của đạo Phật, những năng lực này không xuất phát từ bất kỳ một nguồn lực siêu nhiên nào, mà có từ những tiềm lực tâm linh dựa trên sự thông hiểu những động lực nội tại của tự nhiên. Như vậy, những năng lực thần thông hoạt động hoàn toàn nằm trong cấu trúc của luật nhân quả và “những phép lạ” chúng tạo ra cũng hoàn toàn tự nhiên.

Các loại thần thông hay thắng trí mà một người hành thiền có thể luyện tập được mô tả trong các bản Kinh bằng đoạn văn quen thuộc sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị Tỳ kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng, mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cõi Phạm Thiên.”[30]

Trong đoạn Kinh này, tám năng lực thần thông đã được trình bày. Chúng ta sẽ nghiên cứu tóm tắt từng loại một.

TÁM NĂNG LỰC

1. Thần thông thứ nhất là từ một thân hiện ra nhiều thân hoặc từ nhiều thân hiện ra một thân[31]. Thần thông này có nghĩa là khả năng tạo ra nhiều thân từ chính mình, rồi làm biến hết các thân ấy để chỉ còn một thân. Muốn luyện thần thông này hành giả phải nhập vào đệ tứ thiền làm căn bản cho thắng trí và xuất khỏi thiền ấy. Kế đó, hành giả phải quyết định số lượng các hóa thân mình muốn tạo. Hành giả lại nhập đệ tứ thiền, xuất và quyết định. Cùng lúc với tâm quyết định, hành giả hóa hiện số thân mà mình đã quyết định – có thể là một trăm, một ngàn, v.v… theo ý muốn. Trong hầu hết các trường hợp có thể là khả năng tạo một số lượng các hóa thân tăng dần phải được thực hiện tuần tự. Trừ khi có một sự quyết định đặc biệt, bằng không, các hóa thân được tạo ra do năng lực thần thông sẽ chỉ xuất hiện y như nguyên bản và thực hiện những công việc giống như vị ấy đang làm vậy. Nhưng bằng một quyết định trước, hành giả có thể hiện ra nhiều hóa thân của mình với những hình dạng khác nhau và khiến họ thực hiện những công việc khác nhau. Trường hợp muốn trở lại một thân, hành giả phải lập lại thủ tục ban đầu, rồi quyết định trở thành một. Nhưng nếu ban đầu hành giả đã quyết định hóa hiện nhiều thân trong một thời hạn nào đó, các hóa thân ấy sẽ tự động biến mất khi thời hạn trôi qua.[32]

2. Thần thông thứ hai là hiện hình và biến hình.[33] “Hiện hình” nghĩa là làm cho một vùng tối trở thành sáng, làm cho những gì bị che khuất được thấy rõ, hoặc tự làm cho mình hay làm cho người khác dù ở rất xa cũng được thấy rõ. “Biến hình” nghĩa là làm cho một vùng sáng biến thành tối, làm cho những gì hiển hiện trở nên không thấy được, hoặc làm cho chính mình hay người khác dù ở gần cũng không ai thấy được. Phương thức tiến hành cũng như trong trường hợp luyện thần thông trước, ngoại trừ là quyết định được thay đổi lại cho hợp.

3. Muốn luyện tập thần thông đi ngang qua tường, qua vách, qua núi như đi ngang qua hư không[34], hành giả phải đắc đệ tứ thiền với kasina hư không. Sau đó, hành giả làm công việc chuẩn bị bằng cách tác ý đến vách, tường hay núi, v.v… và quyết định nó là hư không. Do quyết định này của hành giả, vật đó trở thành hư không và hành giả đi ngang qua đó không bị trở ngại.

4. Để có được thần thông độn thổ và trồi lên khỏi mặt đất như ở trong nước[35], hành giả phải đắc định với kasina nước. Hành giả nhập đệ tứ thiền trên đề mục nước ấy và xuất thiền. Sau đó, tác ý đến một phần đất và quyết định “đất này hãy là nước”, đất sẽ trở thành nước và hành giả có thể bước vào đó, tắm trong đó, uống nước đó, v.v… Đó là trường hợp hành giả chỉ quyết định một phần đất trở thành nước cho riêng mình, còn nếu hành giả muốn biến thành nước cho cả người khác thì hành giả phải quyết định đất sẽ trở thành nước cho cả người khác nữa.

5. Trường hợp hành giả muốn đi qua nước không chìm như đi trên đất[36] thì phải thiện xảo trong kasina đất, xuất thiền và quyết định “nước này hãy biến thành đất”. Hành giả lập lại thủ tục chuẩn bị như trước và quyết định nước trong một vùng quy định nào đó biến thành đất. Lúc đó, hành giả có thể đi trên đó mà không chìm .

6. Muốn phi hành qua hư không như chim[37], hành giả phải đắc định kasina đất và xuất thiền. Hành giả quyết định hư không ấy như là đất, nghĩ “hãy có đất”. Hư không lúc ấy đối với hành giả trở thành cứng như đất và hành giả có thể đi, đứng, ngồi, nằm trên đó như những người bình thường đi, đứng, ngồi, nằm trên đất vậy.

7. Thần thông kế tiếp, rờ chạm mặt trời, mặt trăng bằng tay của mình[38], không đòi hỏi phải có một kasina đặc biệt nào cả mà được hoàn thành đơn giản qua đệ tứ thiền dùng làm căn bản cho thắng trí. Hành giả hoặc có thể đi tới mặt trăng, mặt trời và sờ vào chúng, hoặc có thể làm cho chúng gần lại trong tầm tay bằng một sự quyết định trong tâm, hoặc làm như vậy bằng cách mở rộng tay. Nhưng, mặc dù hành giả làm tất cả những việc này, đối với những người khác, mặt trời và mặt trăng vẫn như vậy, không ảnh hưởng gì đến ánh sáng và sự di chuyển của chúng.

8. Thần thông cuối cùng là luyện tập làm chủ về thân cho đến tận Phạm Thiên giới[39]. Sau khi đã đắc thiền căn bản, hành giả muốn đi đến Phạm Thiên giới có thể quyết định Phạm Thiên giới là gần, nó sẽ trở thành gần như ước muốn. Hành giả có thể quyết định gần trở thành xa, nhiều trở thành ít hay ít trở thành nhiều. Hành giả có thể thấy sắc của Phạm Thiên với thiên nhãn của mình; nghe tiếng của Phạm Thiên với thiên nhĩ của mình và biết tâm của Phạm Thiên với tha tâm thông của mình. Hành giả có thể du hành đến Phạm Thiên giới với thân hữu hình hay vô hình và thực hiện nhiều pháp thần thông khác trước mặt Phạm Thiên.[40]

BA LOẠI THẦN BIẾN

Việc sở hữu iddhi (thần thông) được xem như một phẩm chất đáng mong ước nơi một vị Tỳ kheo, nó góp phần vào việc hoàn thiện sự toàn bích tâm linh của vị ấy. Tuy nhiên phô trương những năng lực thần thông để thu nạp tín đồ, thủ đắc lợi dưỡng hoặc để được thán phục đã bị đức Phật ngăn cấm. Trong luật tạng, việc phô diễn thần thông hay những năng lực siêu nhiên bị xếp vào tội tác ác (āpattidukkata)[41]. Tuy thế, trong khi đức Phật quở trách tôn giả Pindola Bhàradvàja về việc thi triển thần thông để lấy chiếc bát làm bằng gỗ trầm, Ngài lại tỏ ra tán thành việc vận dụng thần thông của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên)[42]. Lý do có sự khác biệt này là vì vị trước phô diễn thần thông của mình không thận trọng trước công chúng, trong khi Ngài Mục Kiền Liên dùng chúng một cách sáng suốt thận trọng. Đức Phật tán thành việc thi triển thần thông chỉ khi nào nó hỗ trợ sự diệt trừ phiền não trong tâm mọi người và giúp họ thoát khỏi những ám ảnh.

Đôi khi chữ iddhi xuất hiện trong sự phối hợp với một từ khác – pātihāriya vốn có nghĩa là “sự ngăn ngừa” hoặc “bảo hộ”, song lại tiếp nhận ý nghĩa “thần biến” hay “kỳ diệu”. Do đó mà hợp từ iddhi – pàtihàriya biểu thị sự thần biến của năng lực thần thông, gọi tắt là “thần biến”. Từ này xuất hiện trong các bản Kinh với tên gọi ba pháp thần biến gồm: Biến hóa thần biến (iddhipātihāriya), Ký thuyết thần biến (ādesanāpātihāriya), Giáo hóa thần biến (anusāsanipatihāriya)[43]. Loại thần biến thứ nhất đã được giải thích đơn giản qua đoạn Kinh quen thuộc nói về các năng lực thần thông. Ký thuyết thần biến bao gồm việc nói cho người khác biết tâm của họ đang nghĩ gì dựa trên cơ sở đọc tư tưởng, sự giải thích, hoặc những thông điệp tiếp nhận từ các chúng sanh khác, người hoặc phi nhân. Giáo hóa thần biến là khả năng hướng dẫn người khác trong việc phát triển tinh thần hoặc tâm linh của họ, như: “người nên nghĩ những điều này, không nên nghĩ những điều nọ; người nên tác ý như thế này, không nên tác ý như thế kia; người nên từ bỏ điều này; người nên chứng và trú như vầy…”. Trong ba loại thần biến này, đức Phật không tán thành việc sử dụng hai cách đầu để cảm hóa người khác theo Giáo Pháp của Ngài. Đức Phật nói rằng có một vài loại chú thuật hay ma thuật giúp cho con người có khả năng thực hiện những pháp thần thông hoặc đọc được tâm người khác. Vì vậy, những pháp thần biến này không thể được xem như những dấu chỉ của sự hoàn tất tâm linh thực thụ. Loại thần biến mà Ngài tuyệt đối tán thành là giáo hóa thần biến, pháp thần biến duy nhất có khả năng đưa đến sự giải thoát khổ.

Giải thích chi tiết về ý tưởng này, Patisambhidāmagga (Vô ngại giải đạo) nói rằng, những pháp thần thông nào thúc đẩy sự xuất ly, vô sân, chói sáng tâm, định tĩnh tâm, quyết định chân chánh, trí tuệ, an lạc, chứng đắc các thiền, v.v… cho đến Alahán đạo, được gọi là thần thông chân chánh vì chúng đem lại sự hoàn mãn và thành công thực sự. Các pháp nào hủy diệt tham dục, sân hận, hôn trầm – thụy miên, trạo cử – hối quá, hoài nghi, vô minh, chấp thủ, các triền cái và phiền não thì được gọi là chân thần biến (ptihriya) vì lý do chúng ngăn cản người hành đạo không rơi trở lại luân hồi (samsāra)[44]. Như vậy, đối với Phật Giáo Nguyên Thủy, việc thực hành Thánh đạo (Bát Thánh Đạo) thay vì chú trọng đến việc thực hiện các thần thông tạo thành sự hoàn tất hay thành công kỳ diệu thực sự.

II. THẦN THÔNG THỨ HAI: Thiên Nhĩ Thông (dibbasotadhātu)

Thiên nhĩ giới là khả năng nghe được những âm thanh của chư thiên cũng như của nhân loại, nghe được những âm thanh rất xa, ngay cả trong thế giới khác, cũng như những âm thanh rất gần như âm thanh của các sinh vật trong chính thân của mình. Kinh Điển mô tả Thiên nhĩ giới này như sau:

Vị ấy hướng tâm, dẫn tâm đến thiên nhĩ giới. Với thiên nhĩ thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy nghe cả hai loại âm thanh, âm thanh chư thiên và âm thanh loài người, âm thanh ở xa cũng như gần.[45]

Theo đúng thuật ngữ, thiên nhĩ giới liên quan đến khả năng đặc biệt thuộc tri kiến (knowledge), gọi là “nhĩ giới”, vì lý do nó thực hiện chức năng của lỗ tai bình thường, nghĩa là, tác hành như một căn bản cho việc nghe những âm thanh. Giới này được nói là “thiên” vì nó tương tự như nhĩ giới của các vị chư thiên, tức là rất hoàn chỉnh, không có những khuyết điểm và có khả năng tiếp nhận những âm thanh ở rất xa.

Muốn có được thiên nhĩ giới, hành giả phải đắc thiền căn bản cho thắng trí (tức đệ tứ thiền) rồi xuất khỏi thiền ấy. Giữ tâm ở mức định làm công việc chuẩn bị, hành giả trước tiên tác ý đến những âm thanh thô trong tầm nghe bình thường, rồi dần dần tác ý đến các âm thanh càng lúc càng vi tế hơn cho đến khi hành giả nghe được những âm thanh mà chỉ có thể nghe được với sự chú tâm cao độ. Hành giả phải tập trung vào mỗi hướng trong mười hướng, tác ý đến các “tướng” chính xác hoặc tác ý đến những tính chất của âm thanh nghe được ấy.

Khi hành giả tập trung tâm mình vào những âm thanh này với một ước mong mãnh liệt muốn đắc thiên nhĩ giới, đúng lúc ý môn hướng tâm sẽ khởi lên lấy một trong những âm thanh này làm đối tượng cho nó. Sự kiện này sẽ được theo sau bởi ba hoặc bốn tốc hành tâm (javana) thuộc giai đoạn chuẩn bị hay cận hành, và tốc hành tâm thứ tư hay thứ năm thuộc an chỉ của đệ tứ thiền. Tuệ căn (faculty of knowledge) khởi lên cùng với tâm an chỉ này được gọi là thiên nhĩ giới.

Nếu muốn nghe những âm thanh ở xa, hành giả phải bắt đầu bằng cách định ranh giới một vùng nhỏ, làm chủ khả năng nghe âm thanh trong vùng đó, rồi mở rộng tầm nghe của mình ra xa hơn theo từng mức độ. Khi khả năng nghe trở nên tốt hơn, hành giả có thể nghe rõ mọi âm thanh trên địa cầu này cũng như ở các cõi khác trong tam giới. Hơn nữa, nếu muốn, hành giả có thể xác định riêng từng âm thanh, ngay cả khi nó hòa lẫn với những âm thanh khác.

III. Thần thông thứ ba: Tha Tâm Thông (cetopariya ñāṇa, paracittavijnana).

Thần thông thứ ba là trí biết tâm người khác, khả năng thâm nhập vào tâm người khác bằng tâm của mình. Đức Phật mô tả thần thông này như sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, hành giả dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Hành giả sau khi phân biệt với tâm mình, vị ấy hiểu tâm của những người khác và biết được: tâm có tham biết tâm có tham, tâm không có tham biết rằng tâm không có tham; tâm có sân biết rằng tâm có sân, tâm không có sân biết rằng tâm không có sân; tâm có si biết rằng tâm có si, tâm không có si biết rằng tâm không có si; tâm chuyên chú biết rằng tâm chuyên chú, tâm tán loạn biết rằng tâm tán loạn; đại hành tâm (tâm đã đạt đến các thiền sắc giới và vô sắc giới) biết rằng đại hành tâm, không phải đại hành tâm biết rằng không phải đại hành tâm; tâm vô thượng biết rằng tâm vô thượng, tâm chưa vô thượng biết rằng tâm chưa vô thượng; tâm có định biết rằng tâm có định, tâm không định biết rằng tâm không định; tâm giải thoát biết rằng tâm giải thoát, tâm không giải thoát biết rằng tâm không giải thoát.”[46]

Theo sự giải thích trong Thanh Tịnh Đạo, vị hành giả muốn đạt đến thắng trí này trước phải đắc thiên nhãn (sẽ giải thích ở dưới). Hành giả phải dùng kasina ánh sáng để mở rộng ánh sáng, chiếu nó vào trong trái tim của những người mà hành giả muốn biết tâm của họ. Rồi với thiên nhãn, hành giả xem xét màu sắc của trái tim, là yếu tố cung cấp mấu chốt cho sự giải thích trạng thái tâm của người ấy. Theo Luận sư Buddhaghosa, khi ở trong một trạng thái tâm hân hoan, chất máu sẽ có màu đỏ như trái sung chín; khi một tâm trạng đi kèm với ưu có mặt, chất máu sẽ có màu đen như trái nho đen; và khi một tâm sanh cùng tịnh chỉ có mặt, chất máu sẽ trong như dầu mè.[47] Một khi hành giả đã thông thạo với việc đọc tâm trên cơ sở sắc máu này, hành giả có thể học cách thâm nhập trực tiếp vào tâm người khác mà không cần phải dựa vào một cơ sở vật lý nào để suy đoán. Tuy nhiên, cũng cần nói rõ rằng, một hành giả có tha tâm thông vẫn không thể thâm nhập vào tâm của những vị đắc chứng cao hơn. Như vậy, một phàm nhân với thắng trí hợp thế không thể nào thâm nhập vào tâm một vị Thánh để biết xem vị này đã thoát khỏi các phiền não như thế nào. Tương tự, một vị Nhập Lưu không thể thâm nhập tâm của vị Nhất Lai; một vị Nhất Lai không thể thâm nhập tâm của vị Bất Lai; một vị Bất Lai không thể thâm nhập tâm của vị Alahán; hoặc một vị Alahán không thể thâm nhập vào tâm của vị Độc giác Phật hay Toàn giác Phật. Tuy nhiên, có thể ngược lại, một vị ở cảnh giới cao hơn, nếu có tha tâm thông có thể biết được tâm của những vị ở cảnh giới thấp hơn.[48]

IV. THẦN THÔNG THỨ TƯ: Túc Mạng Thông (pubbenivāsānassatiñāṇa).

Túc mạng thông hay trí nhớ được các tiền kiếp được Kinh Điển giải thích như sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, hành giả hướng tâm, dẫn tâm đến túc mạng thông. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: ‘Tại chỗ kia ta có tên như vậy, dòng họ như vậy, giai cấp như vậy, thọ lạc khổ như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra ở chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, giai cấp như thế này, dòng họ như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.’ Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với những nét đại cương và các chi tiết.”[49] 

Một hành giả muốn trau dồi thắng trí này trước phải đắc đệ tứ thiền như một căn bản cho thắng trí rồi xuất khỏi thiền ấy. Sau khi đã xuất thiền hành giả bắt đầu nhớ đến các hành vi mới đây nhất của mình với những chi tiết càng chính xác càng tốt. Nếu hành giả không thể nhớ được chuyện gì thì nên nhập lại thiền căn bản, xuất thiền và tác ý. Kinh nghiệm của thiền sẽ làm tan đi những chướng ngại cho trí nhớ, nhờ thế các biến cố rõ ràng đã thất lạc sẽ trở nên hiển hiện như khi một ngọn đèn được thắp sáng vậy. Đầu tiên, hành giả tưởng lại những chuyện xảy ra trong phạm vi những khoảnh khắc rồi lần lần lui lại những đơn vị lớn hơn như ngày, tháng, năm, v.v… cho đến khi nhớ đến thời điểm tái sanh trong kiếp trước. Ở điểm này, hành giả hành giả nên tác ý đến tâm và thân trong kiếp trước của mình vào lúc chết (sát na tử). Nếu hành giả không thể nhớ lại đời sống trước của mình do sự phân cách giữa các kiếp sống, hành giả không nên từ bỏ cố gắng mà phải nhập lại thiền căn bản, xuất thiền và tác ý đi, tác ý lại nhiều lần nếu cần.

Khi khả năng hồi nhớ của hành giả đã thuần thục thì ý môn hướng tâm sẽ khởi lên lấy hợp thể thân tâm (danh – sắc) hiện hữu vào sát na tử thuộc đời trước làm đối tượng của nó. Tiến trình này được theo sau bởi bốn hoặc năm tốc hành tâm với cùng một đối tượng, tốc hành cuối cùng của chuỗi là một tốc hành tâm an chỉ thuộc đệ tứ thiền. Trí kết hợp với tâm đó là trí hồi nhớ các đời trước hay túc mạng thông. Như vậy, bắt đầu với sự hồi nhớ chỉ một đời, hành giả sẽ lập lại phương thức như trên với càng lúc càng nhiều đời quá khứ hơn nữa, cho đến khi có thể nhớ từng chi tiết những gì đã trải qua trong quá khứ với nhiều thành kiếp và hoại kiếp[50]. Đức Phật so sánh túc mạng trí này với trí nhớ của một người đi chu du từ làng này đến làng khác; khi đang ở một ngôi làng, người ấy có thể nhớ đến những ngôi làng khác mình đã đến thăm, đã làm gì ở mỗi làng với tất cả những chi tiết về những gì người ấy đã trải qua trong mỗi ngôi làng.[51]

V. THẦN THÔNG THỨ NĂM: Thiên Nhãn Thông (dibbacakkhu).

Thiên nhãn thông hay trí biết việc tử sanh của chúng sanh (cutpaptañāṇa) được giải thích như sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí biết việc tử sanh của các chúng sanh. Với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, vị ấy thấy các chúng sanh chết và tái sanh lại, tùy theo nghiệp của họ mà trở thành hạ liệt hoặc cao sang, xinh đẹp hoặc xấu xa, hạnh phúc hoặc khổ đau. Vị ấy thấy rõ những chúng sanh kia là những người phỉ báng các bậc Thánh, là những người có tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, vào lúc thân hoại mạng chung phải sanh vào cõi dữ, địa ngục. Ngược lại, những chúng sanh nọ làm những thiện hạnh về thân, khẩu và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, vào lúc thân hoại mạng chung, được sanh lên các cõi vui, thiên giới.”[52]

Thiên nhãn thông hay trí biết việc sanh tử của các chúng sanh là khả năng phi thường của sự thấy, được gọi là “thiên” vì nó tương tự như cái nhìn của các vị chư thiên, tức là nó có khả năng tiếp nhận những đối tượng ở rất xa cũng như có thể thấy được những vật bị che khuất sau các bức tường, v.v… Cái thấy này được nói là “thuần tịnh” bởi vì phạm vi của nó gồm cả sanh và diệt (tử), góp phần vào việc tịnh hóa tri kiến. Người chỉ thấy diệt mà không thấy sanh thường có khuynh hướng thiên về đoạn kiến, cho rằng người ta chết là hết. Còn người chỉ thấy sanh mà không thấy sự diệt trước đó thường có khuynh hướng quan niệm rằng chúng sanh này mới xuất hiện. Nhưng người thấy được cả hai có thể có được tri kiến thanh tịnh về việc tùy nghiệp tái sanh, như vậy, loại bỏ được hai tà kiến trên. Thanh Tịnh Đạo nêu rõ rằng, một người với thiên nhãn không thể thấy sự kiện tử – sanh vào những khoảnh khắc khi chúng xảy ra do tính chất ngắn ngủi và cực kỳ vi tế của những sự kiện này. Những gì vị ấy thấy là những chúng sanh sắp chết giờ đây sẽ chết, và những chúng sanh nào phải chịu tái sanh thì đã vừa xuất hiện vậy.

Các bản chú giải khuyên nên dùng ba loại kasina là kasina lửa, kasina màu trắng và kasina ánh sáng làm đề mục để phát triển thắng trí này. Tuy nhiên, trong ba loại, kasina ánh sáng vẫn được xem là có hiệu quả nhất. Sau khi xuất khỏi thiền căn bản, hành giả nên tập trung vào một trong ba kasina này, dừng ở mức cận định. Hành giả không nên nhập vào an chỉ định vì nếu làm vậy, hành giả sẽ không thể thực hiện được công việc chuẩn bị cho thắng trí. Ở mức cận định, hành giả phải mở rộng tướng của kasina đến một vùng đã định trước để cho ánh sáng của nó chiếu khắp khu vực và các hình thể trong không gian của nó xuất hiện trong tầm nhìn của hành giả. Nếu ánh sáng biến mất, hành giả nên nhập lại thiền căn bản, xuất thiền và bao quát khu vực với ánh sáng. Cứ như vậy hành giả sẽ phát triển được khả năng bao quát bất cứ vùng nào với ánh sáng và duy trì sự quan sát những hình thể thấy được ở đó suốt cả ngày. Khi các sắc (hình thể) nào không thể nhìn thấy được đối với nhục nhãn thông thường – như những vật bên trong thân, những vật bị che khuất sau các bức tường, những vật trong các cõi khác hay trong các hệ thống thế gian khác – lọt vào tiêu điểm nhãn trí của hành giả và được nhìn thấy một cách trực tiếp, đó là lúc thiên nhãn đã sanh. Muốn làm cho thiên nhãn này trở thành công cụ nhận thức việc tử – sanh của các chúng sanh, hành giả phải gắn cái nhìn chư thiên của mình vào đối tượng này cho đến khi nó hiện ra.

Thiên nhãn hay Sanh tử trí còn có hai loại trí phụ tùy là Vị lai phần trí (anāgatamsañāṇa) và Tùy nghiệp thú trí (yathākammūpagañāṇa)[53]. Vị lai phần trí là khả năng biết trước một người sẽ thọ sanh trong tương lai và cũng thấy trước được diễn tiến những sự kiện trong tương lai của họ. Tùy nghiệp thú trí là khả năng phân biện được nghiệp quá khứ nào đã đưa một chúng sanh đến sanh thú (nơi thọ sanh) đặc biệt ở hiện tại. Mặc dù hai loại trí này chỉ có thể thực hiện được nhờ thiên nhãn, song chúng vẫn khác với sanh tử trí ở chỗ sanh tử trí lấy hiện tại làm phạm vi hoạt động trong khi Vi lai phần trí lấy tương lai, còn Tùy nghiệp thú trí lấy quá khứ làm phạm vi hoạt động của chúng. Do đó, nếu kể riêng các loại thắng trí này ra thì con số các thần thông hiệp thế mà hành giả có thể đắc được tất cả có bảy loại. Song khi chúng được gộp chung trong thiên nhãn, như đã nói, thì chỉ có năm.

VI. THẦN THÔNG TỨ SẤU: Lậu tận thông (āsavakkhayañāṇa)

Lậu tận thông hay trí biết sự diệt tận của các lậu hoặc là thắng trí thứ sáu mà người hành thiền có thể đắc được. “Lậu hoặc”, tiếng Pāḷi là “āsava”, nghĩa đen là cái gì đó tiết rỉ ra, vì vậy đôi lúc còn được dịch là “lậu” (tiết rỉ). Āsava biểu thị cho một vài phiền não căn bản “tiết rỉ” từ tâm, duy trì tiến trình luân hồi (samsāra). Trong các bản Kinh có sớm nhất, lậu hoặc thường nói là có ba: dục lậu (kāmāsava), hữu lậu (bhavāsava) và vô minh lậu (avijjāsava). Ở một số Kinh khác, đặc biệt ở tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapitaka) thêm vào lậu hoặc thứ tư là kiến lậu (diṭṭhāsava).

Việc chứng lậu tận thông được các Kinh mô tả trong đoạn văn sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận thông (trí). Vị ấy biết như thật “đây là khổ”, biết như thật “đây là nhân sanh của khổ”, biết như thật “đây là khổ diệt”, biết như thật “đây là con đường đưa đến khổ diệt”. Vị ấy biết như thật “đây là những lậu hoặc”, biết như thật “đây là nhân sanh của lậu hoặc”, biết như thật “đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”, biết như thật “đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đã giải thoát. Vị ấy biết: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa.”[54]

Theo Chú giải, “Lậu tận trí” là tuệ căn thuộc Alahán đạo, giai đoạn cuối cùng trong bốn giai đoạn giác ngộ[55]. Như đoạn Kinh mô tả quen thuộc trên đã làm sáng tỏ, nội dung của trí này là Tứ Thánh Đế. Do tự mình biết và thấy Tứ Thánh Đế một cách rốt ráo với trực giác trí, hành giả trừ tuyệt mọi ô nhiễm trong tâm và đắc chứng viên mãn giải thoát. Vì sự chứng ngộ này xuất phát từ tuệ nên chúng ta sẽ bàn luận vấn đề này chi tiết hơn ở chương kế, liên quan đến các siêu thế đạo.

Ở phần nói về lục thông này có hai điểm cần được nhận định kỹ để làm sáng tỏ vấn đề. Thứ nhất, chúng ta phải nhớ rằng mặc dù Kinh Điển luôn luôn trình bày lậu tận trí này như một hệ quả tiếp nối sau việc đắc đệ tứ thiền, song đệ tứ thiền vẫn không tuyệt đối cần thiết cho việc chứng đắc của nó. Sự chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế có thể phát sanh với bất cứ bậc thiền nào làm căn bản cũng được, thậm chí Kinh Điển còn nhìn nhận rằng một số hành giả có thể thành tựu trí tuệ giải thoát mà không có bất kỳ một Kinh nghiệm trước nào trong các bậc thiền hiệp thế, duy chỉ nhờ vào năng lực tuệ căn của họ. Những gì được đòi hỏi trong mọi trường hợp chứng đắc Tứ Thánh Đạo chỉ là sự phát triển tuệ giác, hoặc có thể dựa trên một định chứng có trước nào đó, hoặc có thể tiến hành theo cách “càn tuệ” (chỉ có tuệ mà không có định) dựa trên sát na định liên hệ đến sự quán sát các hiện tượng (danh – sắc) với chánh niệm – tỉnh giác. Chính ở phương diện này thần thông thứ sáu khác với năm thần thông kia vốn đòi hỏi phải có sự thành thục trong bát định chứng thuộc an chỉ định.

Cũng vì lý do này, thần thông thứ sáu – Lậu tận thông – khác với năm thần thông trước ở phương diện thứ hai, đó là, Lậu tận thông được xem như một sở đắc chỉ có trong Giáo Pháp của đức Phật. Năm thần thông trước thuộc hiệp thế, dựa căn bản trên sự phát triển định. Bởi lẽ các phương pháp tu tập định cũng có trong giới luật của các truyền thống khác ngoài Phật giáo nên những người hành theo giới luật này và thành tựu năng lực định vừa đủ cũng có thể sở đắc các thần thông hiệp thế (ngũ thông). Tuy nhiên, Lậu tận thông là một chứng nghiệm siêu thế phát sanh từ tuệ thể nhập vào thực tánh của các pháp. Chính vì thế, Lậu tận thông chỉ có thể được đạt đến bởi chư Phật toàn giác, chư Phật độc giác (Paccekabuddha) và các bậc Alahán đệ tử Phật. Đối với chư Phật chánh đẳng Giác và Độc giác Phật, Lậu tân thông khởi lên từ trí tuệ tự giác của các Ngài. Còn các vị Thánh Thanh văn đệ tử, Lậu tận thông khởi lên do thực hành minh sát theo những hướng dẫn mà các Ngài tiếp nhận từ một vị Phật hoặc từ các vị thiền sư.

Do những khác biệt giữa thần thông thứ sáu và các thần thông khác này, các loại thần thông được sưu tập lại thành hai nhóm, tuy trùng nhau nhưng dễ hiểu. Một nhóm có năm thần thông (abhiññā) gồm năm loại thắng trí hiệp thế; nhóm kia có sáu thần thông, gồm năm thắng trí thế gian cộng với Lậu tận thông. Trong khi các thần thông hay thắng trí thế gian được xem như những món trang sức của một vị hành giả trong Giáo Pháp của Đức Phật thì thần thông thứ sáu – Lậu tận thông – được xem như mục tiêu tối thượng của đạo Phật.

CÁC LOẠI THẮNG TRÍ KHÁC

Ngoài sáu thần thông vừa kể, một vài bản Kinh còn đề cập đến hai loại thắng trí khác sau khi đắc đệ tứ thiền. Hai thắng trí này là “Chánh tri kiến” (ñāṇadassana) và “Ý hóa thông” (manomaya iddhi ñāṇa). Trong Kinh Điển, chúng được sắp liền trước lục thông, mặc dù tám thần thông này không được gom lại thành một nhóm với một tên gọi chung.[56]

“Chánh tri kiến” được mô tả theo truyền thống Kinh Điển như sau:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, hành giả dẫn tâm, hướng tâm đến chánh tri kiến (ñāṇadassana). Vị ấy biết: “Thân này của ta la sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ vật thực nuôi dưỡng, phải chịu vô thường, biến hoại, phân tán, đoạn tuyệt, hoại diệt. Thức này của ta nương gá thân ấy, trói buộc với thân ấy.”[57]

Theo Chú giải, “chánh tri kiến” trong đoạn Kinh này biểu thị trí tuệ minh sát. Sau khi xuất khỏi đệ tứ thiền, hành giả tác ý đến thân và tâm của mình. Trước tiên hành giả nhận thức rõ thân, thấy nó chỉ là sắc pháp, hữu vi, do duyên tạo thành, vô thường, phải chịu hoại diệt. Rồi hành giả tác ý đến tâm, thấy tâm khởi lên được là nhờ vào thân chia sẻ cùng bản chất hữu vi, vô thường và không thực thể với nó. Minh sát trí này, khi phát triển tột đỉnh sẽ dẫn đến lậu tận trí (thông).

Loại thắng trí phụ thứ hai là Ý hóa thông. Kinh mô tả:

“Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình thản như vậy, vị hành giả hướng tâm, chú tâm đến Ý hóa thông. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp do ý làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào.”[58] 

Một người hành thiền muốn tạo một thân ý – sanh phải xuất khỏi đệ tứ thiền căn bản, tác ý trên chính thân mình và quyết định là nó rỗng không. Khi thân dường như rỗng không đối với hành giả, hành giả phải làm công việc chuẩn bị rồi quyết định: “Hãy có thân khác trong thân này”. Khi ấy thân khác sẽ xuất hiện trong thân chính và hành giả có thể rút nó ra “giống như rút một cọng tranh ra khỏi vỏ bọc của nó hay như rút một thanh kiếm ra khỏi bao kiếm, hoặc như một con rắn rút ra khỏi lớp vỏ của nó”[59]

Vô ngại giải đạo (Patisambhidāmagga) mô tả một năng lực siêu phàm khác của loại biến hóa thần thông mặc dù không được đề cập rõ ràng trong các Kinh. Đó là Biến dạng thần thông (vikubbana iddhi) – khả năng biến đổi hình dạng của chính thân mình hoặc phô diễn những hình thể hão huyền khác.[60]

Muốn đắc thần thông này, hành giả trước phải quyết định sẽ xuất hiện trong một hình dạng đặc biệt nào đó, chẳng hạn như hình dạng một trẻ em, một vị chư Thiên, một con vật,… Rồi hành giả phải nhập và xuất thiền căn bản và tác ý đến tướng của mình trong hình dạng đã chọn. Một lần nữa hành giả nhập đệ tứ thiền, xuất và quyết định: “Ta hãy là một đứa bé, v.v… loại như vậy, như vậy”. Cùng với sự quyết định ấy, hành giả xuất hiện như một trẻ em hoặc như bất kỳ một hình dạng nào khác mà hành giả đã chọn. Tuy nhiên hành giả không nhất thiết phải thực hiện sự biến dạng ngay trên thân mình, mà có thể quyết định hóa hiện ra một hình thể nào đó, như một con ngựa, một con voi, v.v… và hình thể đó sẽ xuất hiện trước hành giả và mọi người.

THIỀN VÀ TÁI SANH.

Theo Phật Giáo, tất cả hữu tình chúng sanh nào còn vô minh và ái dục tất nhiên phải chịu tái sanh. Bao lâu còn có ước muốn hiện hữu trong một hình thức nào đó thì tiến trình luân hồi vẫn sẽ tiếp diễn không ngừng. Yếu tố đặc biệt quyết định nơi thọ sanh và những điều kiện tái sanh là nghiệp (kamma). Kamma hay nghiệp là hành động có chủ ý, nghĩa là những hành động, lời nói và ý nghĩ bộc lộ ra với sự chủ tâm, tính toán, có thể là thiện (kusala) hoặc bất thiện (akusala). Các nghiệp bất thiện là những hành động bắt nguồn từ tham, sân và si. Các nghiệp thiện là những hành động xuất phát từ vô tham, vô sân và vô si. Mỗi kamma hay hành động có chủ tâm mà con người thực hiện được tích lũy trong dòng tâm tương tục hay hữu phần của họ. Nơi đây, nó tồn tại như một sức mạnh có khả năng tạo quả (vipka) trong tương lai. Những quả báo này tương ứng với tính chất đạo đức của hành động. Các thiện nghiệp đem lại sự an vui và thành công, các bất thiện nghiệp đưa đến khổ đau và thất bại. Trong sự tương quan của nghiệp với tiến trình tái sanh, các thiện nghiệp đưa đến một sanh thú tốt đẹp, các bất thiện nghiệp dẫn đến một sự tái sanh xấu.

Thiền, như một loại thiện nghiệp, đóng vai trò then chốt trong tiến trình tái sanh. Trong vô số các nghiệp mà một người thực hiện suốt cuộc đời của mình, chỉ có một nghiệp xuất hiện vào lúc lâm chung để quyết định tình trạng tái sanh của người ấy. Những nghiệp đảm nhận vai trò quyết định này được xếp theo thứ bậc ưu tiên. Ưu tiên nhất được dành cho loại trọng nghiệp về phương diện đạo đức, tức là những hành động cực thiện hoặc cực ác. Những cực thiện nghiệp là các thiền chứng, còn cực ác nghiệp gồm ngũ nghịch đại tội: giết cha, giết mẹ, giết một vị Thánh nhân, làm thân Phật chảy máu và chia rẽ Tăng. Kế tiếp, trong thứ tự ưu tiên, đó là các hành động có ý nghĩa đạo đức thực hiện vào lúc sắp chết (cận tử nghiệp), rồi đến thường nghiệp và cuối cùng là những nghiệp linh tinh được tích chứa lại mà thuật ngữ thường gọi là tích lũy nghiệp.[61] Đối với những nghiệp không thực sự đưa đến tái sanh vẫn có thể tạo ra quả trong suốt cuộc đời của một người, hoặc làm nhiệm vụ hỗ trợ, hoặc gây chướng ngại, hoặc phá hủy hoàn toàn những kết quả của sanh nghiệp (rebirth generative kamma).

Theo vũ trụ quan Phật giáo, có rất nhiều cảnh giới sinh tồn, nơi đây các chúng sanh tùy theo nghiệp đã tạo của mình mà thọ sanh. Những cảnh giới này được nhóm lại thành ba cõi: dục giới (kāmāvacarabhūmi) là phạm vi tái sanh dành cho các nghiệp ác và thiện nghiệp không phải thiền; sắc giới (rūpāvacarabhūmi) là phạm vi tái sanh dành cho tứ thiền tế sắc hay tứ thiền sắc giới; vô sắc giới (arūpāvacarabhūmi) là phạm vi tái sanh dành cho tứ thiền vô sắc.

Nếu một bất thiện nghiệp trở thành nhân tố quyết định tái sanh, thì sự tái sanh sẽ xảy ra nơi một trong bốn cảnh giới: Địa ngục (niraya), Ngạ quỷ (pettivisaya), Súc sanh (tiracchānayoni) và Atula (asurakāya). Bốn trạng thái này được gọi chung là cảnh giới khổ (apāyabhūmi), khổ thú (duggati) và đọa xứ (vinipāta). Nếu một thiện nghiệp thuộc loại phi thiền (non – jhānic) quyết định tái sanh, nó sẽ cho quả tái sanh trong nhân giới (manussaloka) hoặc một trong sáu cảnh giới chư Thiên, đó là, Tứ đại thiên vương giới (Cātumahārājikadevaloka), Tam thập tam thiên giới (Tāvatamsa), Dạ ma thiên giới (Yama), Đâu suất thiên giới (Tusita); Hóa lạc thiên giới (Nimmānarati) và Tha hóa tự tại thiên giới (Paranimmitavasavatti). Bảy cảnh giới gồm nhân giới và sáu thiên giới này gộp chung lại tạo thành cõi vui dục giới (kāmāvacarasugatibhūmi).

Trên các cõi dục là các cõi sắc giới. Muốn tái sanh trong các cõi này phải chứng bốn bậc thiền sắc giới và thiền chứng ấy không bị hoại vào lúc chết. Mười sáu cảnh giới trong cõi này được sắp theo thứ tự tương quan với bốn bậc thiền. Những vị đắc sơ thiền ở mức thấp sẽ tái sanh nơi cảnh giới Phạm Chúng Thiên (Brahmapārisajja). Những vị đắc sơ thiền ở mức trung bình sẽ tái sanh nơi cảnh giới Phạm Phụ Thiên (Brahmapurohita). Và những vị đắc sơ thiền ở mức cao sẽ tái sanh nơi cảnh giới của Đại Phạm Thiên (Mahābrahma). Tương tự, đắc nhị thiền bậc hạ sẽ tái sanh trong Thiểu Quang Thiên giới (Parittābha); bậc trung trong Vô lượng Quang thiên giới (Appamānābha) và bậc thượng trong Quang âm Thiên giới (Ābhassara). Lại nữa, vị đắc tam thiền bậc hạ sẽ tái sanh trong Thiểu tịnh thiên giới (Parittasubha), bậc trung trong Vô lượng tịnh thiên giới (Appamānasubha) và bậc thượng trong Biến tịnh thiên giới (Subhakinha).

Tương xứng với đệ tứ thiền có ba cảnh giới: Quảng quả thiên giới (Vehapphala), Vô tưởng thiên giới (Asaññasatta) và Ngũ tịnh cư thiên giới (Suddhāvāsa). Bậc thiền này không tuân theo mô thức phân chia như trước. Dường như những vị thực hành và đắc đệ tứ thiền nhưng không đạt đến một quả chứng siêu thế nào đều sanh vào Quảng quả thiên giới mà không có sự phân biệt theo cấp độ tu tập thượng, trung, hạ như trước. Riêng vô tưởng thiên giới (cảnh giới chỉ có sắc mà không có tâm) dành cho những người sau khi đắc đệ tứ thiền dùng sức mạnh của thiền chứng ấy để tái sanh chỉ với sắc thân, các vị này không có thức cho đến khi hết phước ở cảnh giới ấy. Ngũ tịnh cư thiên gồm các cảnh giới Vô Phiền (Aviha), Vô Nhiệt (Atappa), Thiện Hiện (Sudassi), Thiện Kiến (Sudassa) và Sắc Cứu Cánh (Akanittha) chỉ mở ra cho các vị Bất lai (Anāgāmi), các vị Thánh đệ tử ở giai đoạn áp chót của sự giải thoát, đã đoạn trừ các kiết sử trói buộc họ vào dục giới và vì thế tự động tái sanh lên các cảnh giới cao hơn. Từ ở đây, họ đắc Alahán quả và nhập Niết bàn luôn.

Vượt qua các cõi sắc giới là các cõi vô sắc giới (arūpāvacarabhūmi). Cõi này có bốn: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ và Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Hiển nhiên đây là những cảnh giới tái sanh dành cho những hành giả đã đắc và thành thục một trong bốn bậc thiền vô sắc nhưng không bẻ gãy được các kiết sử từng trói buộc họ vào vòng luân hồi. Những hành giả thành thục một định chứng vô sắc nào đó vào lúc lâm chung sẽ tái sanh vào cảnh giới thích hợp. Nơi đây, họ trú cho đến khi nghiệp lực của bậc thiền ấy không còn. Lúc đó họ chết và tái sanh vào một cảnh giới khác tùy theo tích lũy nghiệp của họ quyết định.


[25] AN. 1 : 163 - 165

[26] SN. 2 : 216

[27] DN. 3 : 281

[28] DN. 1 : 76 - 77

[29] “Iddhividhāya cittam abhiniharati abhininnāmeti”.

[30] DN. I : 77

[31] “Eko pi hutvā bahudhāhoti, bahudhā pi hutvā eko hoti”.

[32] PP. p. 420 – 427. Vism., p. 323 – 328

[33] Āvibhāvatirobhāvam

[34] Tiro – kuddam tiro – pākāram tiro – pabbatam

[35] Pathaviya pi ummujja nimmujjam karoti seyyāha pi udake.

[36] Udake pi abhijjamāno gacchati seyyathā pi pathaviyam.

[37] Ākāse pi pallankena kamati seyyathāpi pakkhīsakuno.

[38] Ime pi candima – suriyā evam mahiddhike evam mahānubhāve pāninā parimassati parimajjati.

[39] Yva brahmalok pi kyena va samvatteti.

[40] Xem Pts, p. 387 – 388.

[41] Vimp., 2:112.

[42] SN. 4: 269.

[43] DN. 1: 212 – 215. Pts, p. 401 – 404.

[44] Pts., p. 401 – 404.

[45] PP., p. 446. DN. 1:79.

[46] Vajiranna, Buddhist Meditation, PP., 445 – 446. DN. 1:79

[47] PP., p. 449. Vism., p. 344 – 345.

[48] PP., p. 473. Vism., p. 364.

[49] Vajiranna, Buddhist Meditation. PP., 447 – 448. DN. 1: 81.

[50] PP., p. 453 – 455. Vism., p. 347 - 349

[51] DN., 1: 81 - 82

[52] Vajìranàna, Buddhist Meditation, p. 451. DN. 1:82

[53] PP., p. 477 – 478 Vism., p. 363, 367 – 368.

[54] DN. 1: 83 – 84

[55] DN. A. 1: 201.

[56] DN. 1:76-77. MN. 2: 17-18

[57] DN. 1:76

[58] DN. 1:77

[59] PP., p. 444. Vism., p.342

[60] Pts., p. 388

[61] Narada, Manual, p. 259-262.

 


 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn