(Xem: 1741)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2184)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

IV. Chú giải Đức Phật MAṄGALA

02 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 15523)

IV. Chú giải Đức Phật MAṄGALA

Ngay sau khi đạo Sư Koṇḍañña đã chứng đắc Níp Bàn, Giáo Pháp của ngài vẫn còn được tiếp tục lan truyền khoảng độ một trăm ngàn năm nữa.

Ngay sau khi đạo Sư Koṇḍañña đã chứng đắc Níp Bàn, Giáo Pháp của ngài vẫn còn được tiếp tục lan truyền khoảng độ một trăm ngàn năm nữa. Sau khi các đồ đệ của Phật Koṇḍañña[151] biến mất thì Giáo Pháp của ngài cũng biến mất theo. Và tiếp theo sau đức Phật Koṇḍañña, chỉ sau một A-tăng-kỳ trôi qua có tới bốn đức Phật được khởi sanh trong cùng một đại kiếp, đó là Maṅgala, Sumana, Revata, Sobhita.[152] Trong đó có đức Phật Maṅgala [153] là lãnh tụ thế gian, sau khi đã hoàn tất toàn bộ những pháp Ba la mật trong suốt mười sáu (A-tăng-kỳ) và một trăm ngàn đại kiếp. Ngài được hạ sanh tại thành phố cõi trời đâu suất và cư ngụ tại đó trong suốt cuộc đời của ngài (tuổi thọ). Có một náo động về Đức Phật[154] (lời đồn thổi) nổi lên với năm điềm báo.[155] Bởi vây các chư Thiên thuộc Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới đã tụ tập lại trên cõi đời này mà yêu cầu ngài, nói rằng:

[142] Đây chính là thời điểm dành cho ngài: vị đại anh hùng, hãy giáng sanh vào trong bụng mẹ. Giúp đỡ con người cũng như chư Thiên vượt qua mọi lụt lũ, mong rằng ngài được Giác Ngộ pháp bất tử.[156]

Sau khi các chư Thiên đã yêu cầu như vậy, ngài liền tịch diệt khỏi nhóm cõi Trời Đâu Suất và ngài đã thực hiện năm điều thẩm sát vĩ đại[157]. Ngài đã giáng sanh trong lòng hoàng hậu tên là Uttarā trong hậu cung của một vị vua có một không hai (anuttara) tên là Uttara tại thành phố Uttara, trổi vượt hơn trên hết mọi thành phố. Thế rồi có muôn vàn điềm lạ xuất hiện – điều này nên được hiểu một cách chính xác theo như phương pháp được đề cập đến trong Ký Sự Niên Đại về đức Phật Dipaṅkara[158]

Kể từ thời gian khi Đại Nhân Maṅgala, một điềm lành cho toàn thể thế giới, đã giáng sanh trong cung lòng đại hoàng hậu Uttarā, vẻ đẹp lộng lẫy thân hình hoàng hậu, lan tỏa khắp vùng ngày cũng như đêm ở mức độ tám mươi cubit, luôn tồn tại không bao giờ tắt cùng với ánh sáng mặt trời mặt trăng. Và vẻ đẹp lộng lẫy nơi cơ thể của ngài đã đẩy lùi hoàn toàn bóng tối không còn một vệt sáng nào khác, luôn di chuyển đó đây khi hoàng hậu được sáu mươi tám bà mẹ nuôi chăm sóc. Họ cho là với sự trợ giúp của các chư Thiên cuối cùng hoàng hậu đã Đản sanh sau mười tháng mang thai Đại Nhân Maṅgala ngay trong nơi vui chơi giải trí Uttara-madhura. Ngay sau khi Đại Nhân được Đản sanh, đang khi quán xét khắp tứ phương thiên hạ và bước đi bảy buớc hướng về phía bắc, ngài đã thốt lên một câu hết sức uy nghi.[159] Trong khi đó các vị chư Thiên thuộc Thập Vạn Đại Thiên tà bà Thế Giới cũng có mặt lộ nguyên hình với thân hình và tay chân các ngài được trang điểm với các vòng hoa chư Thiên, miệng luôn phát ra những lời chiến thắng, những điềm lành và những lời ngợi khen. Và lại xuất hiện những điều lạ lùng như đã được đề cập đến ở trên.2 Và đến ngày lễ đặt tên cho ngài những người giải thích điềm lạ nói rằng: “Ngài đã giáng trần với toàn bộ vẻ huy hoàng rực rỡ của một điềm lành.” Thế nên người ta đã đặt tên cho ngài là Maṅgala (có nghĩa là điềm lành).

Ngài có ba toà lâu đài có tên lần lượt như sau: Yasavā. Sucimā, Sirīmā. Có tới ba mươi ngàn vũ nữ hầu hạ ngài đứng đầu là Yasavatī. Trong khoảng chín ngàn năm Đại Nhân đã trải qua hạnh phúc tại đó, giống như niềm hạnh phúc do chư Thiên đem lại. Ngài đã sanh hạ một người con trai tên là Sīlava do người vợ của ngài tên là Yasavatī. Khi ngài đã nhận ra bốn điềm lạ và đã xuất gia thông qua một đại xuất ly trên một chiến mã có vẻ đẹp thật rực rỡ, được trang hoàng kỹ lưỡng có tên là Paṇḍara. Thế là ngài đã xuất gia trong hoàn cảnh đó, trong một cuộc xuất gia quy có đến ba vạn triệu. Những người xuất gia theo gương của ngài đã vây quanh Đại Nhân và cố gắng thực hiện phấn đấu khổ hạnh trong tám tháng.

Và rồi sau khi đã dùng bữa ăn cơm sữa ngọt gồm chất dinh dưỡng chư Thiên đã được đem đến hầu ngài vào ngày rằm tháng Visākha do Uttarā dâng cúng, nàng là con gái một thương gia tên là Uttara đang cư ngụ tại làng Uttara, ngài đã trải qua một ngày tạm trú trong khu rừng Salā. Ngài đã nhận tám bó cỏ khô do Uttara, một ẩn sĩ sống lõa thể dâng cúng ngài và đi tiếp tục giống như một con voi động dục bao vây quanh cây Bồ Đề Nāga (kim-mộc). Ngài đứng về phía đông bắc và trải những nắm cỏ khô xuống một khoảng rộng tới năm mươi tám cubit. Ngồi thiền kiết già tại đó, ngài quyết tâm một cách dứt khoát dựa trên tinh tấn đạt đến được bốn yếu tố tinh cần,[160] ngài đã đập tan Ma-Vương cùng với đoàn quân của hắn. Chứng đắc Túc mạng minh và thiên nhãn minh. Nghiền ngẫm về những trạng thái nhân duyên,

[143] quán xét ngũ uẩn có liên quan đến vô thường v.v..., đến đúng thời gian quy định ngài chứng đắc Chánh Đẳng Giác có một không hai và thốt lên những lời tuyên bố long trọng sau đây:

“Thông qua biết bao nhiêu lần tái sanh nơi kiếp luân hồi... ta đã chứng đắc huỷ diệt mọi ái dục [161]

Vẻ rực rỡ thân hình Maṅgala, đấng Chánh Đẳng Giác, còn trổi vượt hơn cả vẻ rực rỡ của Đức Phật Cồ Đàm. Vì trong khi vẻ rực rỡ nơi thân hình Đức Phật chỉ do được tám mươi cubit hay một luồng sáng chung quanh thân hình, còn của Đức Phật Maṅgala lại tồn tại vĩnh viễn tỏa sáng tới Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới. Cả cây cối, đồi núi, vách đá, tường thành dầy, cổng thành cứng v.v.. Đều có thể xuyên qua tựa như che phủ bằng một miếng vải vàng. Tuổi thọ của ngài kéo dài chín mươi trăm ngàn năm. Đối với toàn bộ những người cùng thời tuổi thọ chỉ kéo dài vào khoảng chín ngàn năm trở lại. Đối với toàn bộ thời gian có ánh sáng rực rỡ của mặt trăng, mặt trời, và các ngôi sao, v.v... lại không rõ ràng. Cũng như sự phân định giữa ngày và đêm[162] Vào ban ngày chúng sanh đi đây đi đó làm đủ thứ mọi công việc nhờ hào quang liên tục của vị Chánh Đẳng Giác soi chiếu như thể ánh sáng mặt trời và chúng sanh nhận ra được sự phân định giữa ngày và đêm theo cách hoa nở vào ban sáng và chim kêu vào buổi tối. Nhưng chẳng còn đức Phật nào có được uy quyền này hay sao? Họ không thể có được như vậy đâu, cho dù những vấn đề này có nhiều đức Phật muốn được tỏa sáng khắp Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới hay vượt trội hơn cả về ánh sáng nữa. Chỉ có vẻ rực rỡ thân xác của Đức Phật Maṅgala mới tồn tại liên tục tỏa sáng hàng trăm ngàn Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới như vậy. Ngay cả chỉ là vẻ rực rỡ của một hào quang nơi Chư Phật khác cũng chỉ là vẻ rực rỡ khoảng độ một sải tay so với ước ao của đức Phật Maṅgala vẫn tồn tại vĩnh viễn tỏa sáng khắp cõi Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới ngay cả vầng sáng của một vầng hào quang của các vị khác chính là vầng sáng chỉ vào khoảng một sải dựa trên ước vọng tiền kiếp mà ra.

Người ta nói rằng vào một thời điểm ngài còn là một vị Bồ Tát với đặc tính cá nhân giống hệt như Bồ tát Vessantara, ngài đang sống với vợ và các con trên đỉnh một ngọn núi có tên gọi là Vaṅka.[163] Thế rồi có một con yêu tinh ăn thịt người[164] tên là Kharadāṭhika đã quấy rối liên tục tất cả mọi chúng sanh, nghe thấy khuynh hướng của vị Đại Nhân đối với việc bố thí, yêu tinh liền giả đò thành một người Bà-la-môn và hỏi ngài về hai đứa nhỏ. Vị Đại Nhân suy nghĩ, “Ta sẽ đưa cho người này hai ứa con của ta chăng.” Ngài đã vui vẻ và hoan hỷ trao hai ứa con cho yêu tinh, ngay lập tức đất rung chuyển đến tận bờ đại dương. Thế rồi đang khi Đại Nhân vẫn còn nhìn thấy con yêu tinh, nó liền bỏ chân tướng là người Bà la môn và túm lấy hai đứa nhỏ rồi bóp chúng thành một nhúm rễ sen có thể ăn được. Hai con mắt đỏ ngầu vì không thoả mãn và rất hăng hái hung dữ, những chiếc răng khủng kiếp rất thô bạo và dài, thân hình nó giống như một khúc gỗ dài bằng tám thân cây dừa. Khi Vị Đại Nhân nhận ra con yêu tinh và nhìn thấy cái mồm trống trơn của nó đầy máu ướt xũng giống như những ngọn lửa tắt ngấm. Ngay cả đến lúc này ngài chẳng có mảy may buồn sầu nhỏ nhoi[165] nào nổi lên cả.[166] Trái lại lòng nhiệt tình và sung sướng lại tràn đầy thân xác ngài. Ngài liền có lời ước, “Kết quả của việc này chớ gì ánh hào quang phát ra từ ta cũng như vậy trong tương lai.” Ngay tức khắc kết quả của lời ước này được thể hiện, những tia hào quang xuất phát ra từ thân xác ngài sau khi ngài trở thành một đức Phật và tràn ngập cả một vùng ở mức độ chúng ta đã nói đến ở trên.

Và lại có một biến cố[167] khác nữa xảy ra. Người ta kể lại rằng: khi ngài Bồ Tát nhìn thấy thánh điện của đức Phật[168]

[144] ngài đã suy nghĩ “Ta phải hy sinh mạng sống của ta cho ngài.” Rồi ngài lấy vải quấn chặt vòng quanh thân mình giống như tay cầm một cây đèn nhỏ được bọc quanh lại, và rồi ngài đổ đầy bơ tươi bóng láng trên đó giống như đổ bơ vào chiếc bình vàng được nạm đá quý trị giá cả hàng trăm ngàn đồng tiền vàng (Kahapana), rồi lấy lửa thắp lên một trăm ngàn chiếc tim đèn và ngài dự tính lấy lửa đốt cháy toàn bộ thân xác của mình từ đầu xuống chân. Ngài đã đi vòng quanh điện thờ trong tình trạng như thế. Nhưng đang khi phấn đấu như vậy cho tới sáng, thì chẳng có mảy may một lỗ chân lông của ngài bị cháy xém cả, như thể trong thời gian đó ngài đã đi vào trong bụng một đoá hoa sen[169]. Thực vậy chính Giáo Pháp này đã bảo vệ ngài và ngài cũng tự bảo vệ chính mình. Kết quả ngài nói như sau:

“Pháp thực sự bảo vệ người hành trì Pháp.
Thực hiện Pháp sẽ đem lại hạnh phúc.
Đây là lợi ch đang khi tu tập Pháp.
Người hành trì Pháp sẽ không rơi vào khổ cảnh.*”

Và được coi như là một kết quả nghiệp thắp sáng thân xác của Đức Phật còn duy trì lan tràn ra cả mười ngàn Đại Thiên ta bà Thế Giới, Do đó người ta nói rằng:

l. Tiếp theo sau đức Phật Koṇḍañña là một vị lãnh tụ hồng danh là Maṅgala đã giơ cao ngọn đuốc Phật Pháp tận diệt mọi buồn sầu khắp thế gian

2. Ánh sáng rực rỡ của ngài thật là vô địch. Trổi vượt lên trên các vị Chiến Thắng khác., làm tắt lịm cả ánh sáng mặt trời và mặt trăng. Ngài toả sáng trên mười ngàn ta bà thế giới.

1. Về điểm này mọi buồn sầu có nghĩa là cảnh đen tối[170] trên thế gian này và cả những buồn rầu trong lòng nữa.

*1. Thag 303, được trích trong Ja 54. 496 xin đọc Mhvu ii 81.
*2M iii 243. A I 257.đoạn này cũng thấy trong MA. I 175.
*3 Ja vi 189. 437.

1. Ngọn đuốc Phật Pháp:giờ thì từ ‘chiếc đuốc” Ukka” nên được coi như có nhiều nghĩa khác nhau, như trong nồi[171] nấu kim loại của người thợ bạc v.v... như có lời nói rằng: “Sau khi đã kẹp chắc vàng với những chiếc kẹp người thợ bạc đã nhúng vàng vào trong chiếc nồi đang sôi sục. (ukka-mukkhe)” *1 - trong đoạn chuyển xuống lò nấu: “Chúng ta nên hiểu là sửa soạn lò đun; sau khi đã sửa soạn lò rồi người ta chất lửa vào trong chiếc lò đun bình nung chảy.”*2 đây chính là chiếc quạt của người thợ bạc trong đoạn được trích dưới đây: “Như chiếc lò của người thợ bạc đang cháy bên trong, chứ không cháy bên ngoài” *3 đây chính là lò lửa của người thợ bạc. Trong đoạn đã trích sau:

Như vậy kết quả sẽ rơi vào tất cả những vị đang nổi lên như cồn *4 người đang nổi lên ở đây mang ý nghĩa là sức mạnh của gió[172]. Trong đoạn văn truyền lại rằng: “Khi họ đang mang đuốc (ukkā)”*5 đuốc (ukkā) ở đây được coi như là chiếc đèn. Ở đây cũng vậy ngọn đuốc (ukkā) có nghĩa là chiếc đèn. Chính vì thế người đó giơ cao ngọn đuốc (ukkā, hay là ngọn đèn) gồm có Pháp. Ý nghĩa ở đây là: người đó mang chiếc đuốc gồm có Pháp để che phủ hết bóng đêm vô minh thế gian đang bị bóng tối vô minh chế ngư.

[145] 2. là vô song có nghĩa là vô địch[173] hoặc đây chính là một cách giải thích. Ý nghĩa ở đây là không có đức Phật nào khác có thể sánh bằng.

2. Đối với các vị Chiến Thắng khác có nghĩa là đối với những người thắng trận khác.

2. Làm lu mờ vẻ đẹp lộng lẫy của mặt trời và mặt trăng có nghĩa là làm lu mờ toàn bộ ánh sáng của mặt trời và mặt trăng.[174]

2. Chiếu sáng trên cõi Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới có nghĩa là ngài toả sáng trên Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới chỉ đơn giản bằng ánh sáng của một đức Phật không phải bằng ánh sáng của mặt trời hay mặt trăng.

Sau khi Maṅgala, đấng Chánh Đẳng Giác, chính ngài đã tự đạt đến trí Giác Ngộ, ngài đã trải qua bảy tuần lễ ngay tại gốc cây Bồ Đề. Sau khi đã đồng ý với yêu cầu của vị Phạm Thiên về thuyết Pháp, và suy nghĩ “Ta phải giảng dạy Giáo Pháp cho ai đầu tiên?” Ngài đã nhận ra có tới ba vạn triệu các vị tỳ khưu đã xuất gia cùng với mình đang được phú cho những ân đức tốt.[175] Thế rồi lại xảy đến với ngài là: “Những người con trai của các gia đình đáng kính trọng này, cũng được ban cho những ân đức tuyệt vời, cũng lại xuất gia khi ta xuất gia, nhưng ta đã đuổi họ vào ngày rằm tháng Visākha chính vì thái độ tách rời, họ lại đang sống gần thành phố Sirivaḍḍha trong cánh rừng trồng gỗ. Hãy lại đây nào, đến đó ta sẽ giảng giải Giáo Pháp cho họ.” Sau khi lấy bát khất thực và y cà sa và bay lên bầu trời giống như những con ngỗng hoàng gia màu đỏ hung. Ngài đáp xuống cánh rừng trồng gỗ Siri. Và khi những vị tỳ khưu này đã kính lễ đức Phật và đã thực hiện những bổn phận của các đồ đệ[176] họ liền ngồi vây quanh đức Phật. Đức Phật Maṅgala liền dẫn giải cho họ bài thuyết pháp về chuyển Pháp Luân theo như cách tu luyện của toàn bộ chư Phật. Bởi vậy hơn ba vạn triệu vị tỳ khưu này đã đạt đến bậc A-la-hán. Đã diễn một cuộc thấu triệt Pháp hội lên tới một trăm ngàn vạn triệu người kể cả chư Thiên lẫn con người. Do vậy người ta nói rằng:

*4. D i 10, 68; xin đọc Ja I 374, vi 1 476, SnA 362, Miln 178
*5. D i 49, xin đọc Pháp cú kinh (Dhammapada) i 42, 205

IV 3. Đức Phật này cũng diễn giải Tứ Diệu Đế vô cùng quang vinh. Tất cả những ai đã uống được dòng nước diện đế này đều loại bỏ được bóng tối u ám.

4. Sau khi ngài đã đạt đến Giác Ngộ không gì hoan hỷ vào lúc giảng dạy Phật Pháp lần đầu tiên đã diễn ra vào Pháp hội cho khoảng một trăm ngàn vạn triệu chúng sanh.

3. Trong trường hợp này bốn có nghĩa là tứ[177]

3. Chân đế vô cùng vẻ vang, có nghĩa là chân lý vinh quang chính là những chân đế vinh quang. Ý nghĩa ở đây là chân đế thật cao siêu. “Tứ Diệu Đế cao siêu vô cùng” cũng là một cách diễn giải. Ý nghĩa ở đây là bốn chân lý vinh quang của ngài vô cùng cao siêu.

3. Tất cả những ai[178] có nghĩa là những chư Thiên và con người được Đức Phật dẫn dắt.

3. Chất cốt chân đế có nghĩa là họ đã uống chất cốt bất tử về thấu triệt tứ diệu đế.

3. Được loại bỏ khỏi bóng tối u ám có nghĩa là họ loại bỏ được, họ xua tan được bóng tối hỗn loạn là điều cần lọại bỏ bằng cách này cách khác.

4. Đã đạt tới có nghĩa là đã thấu triệt được.

4. Giác Ngộ: giờ đây trong trường hợp này từ Giác Ngộ (bodhi) có nghĩa là: Thánh đạo, thánh quả và Níp Bàn ở cây Bồ Đề, cũng như sự định danh. Và trí toàn tri thì quả nhiên từ bodhi đã được truyền đạt lại[179].

[146] [180] Trong luồng văn cảnh như vậy như “Giác Ngộ được hiểu là trí về bốn đạo”*1 được truyền đạt xuống như cách sau. “Điều đó dẫn đến an tịnh, thắng trí, Giác Ngộ (sambodhayā) níp-bàn”*2  đây được hiểu là thánh quả. “Sau khi đã chứng đắc Giác Ngộ, bất tử và vô vi.”*3 Ở đây ta phải hiểu chính là Níp Bàn. “Giữa Bodhi và Gayā *4 Về điểm này đây chính là Cây Assattha “ Thái tử Bodhi Bồ Đề Kính lễ xụp lạy đầu xuống tận chân Đức Phật”*5. – Đây chính là một cách định danh. “Vinh quang, thông minh tuyệt vời. Ngài đã chứng đắc Chánh Đẳng Giác.” *6 – Về vấn đề này đây chính là trí toàn tri. Ở đây cũng vậy trí toàn tri nên được hiểu là “trí về thánh đạo A-la-hán” cũng không sai.[181]

4. Không địch nổi (vô địch) có nghĩa là thiếu đối thủ. vượt quá mức; ý nghĩa ở đây là: không thể đo lường được ý nghĩa nên được hiểu như sau: Sau khi Đức Phật đã chứng đắc Chánh Đẳng Giác và đang diễn giải Giáo Pháp ngay trong cuộc diễn giải Giáo Pháp đầu tiên.

Và khi Đức Phật đang đứng gần cổng thành Citta ngay tại gốc cây Champak - giống như Đức Phật của chúng ta đứng dưới gốc cây Gaṇḍamba[182] ngài đã thực hiện Song thông nhằm để khống chế niềm kiêu hãnh và tính tự phụ của các nhóm giáo phái khác. (Rồi) ngồi trên một phiến đá được trang hoàng ngay tại gốc cây Hương Trầm (Coral) trong nơi trú ngụ của Tam Thập Tam, trong một nơi cư trú vinh quang như vậy gồm có vàng bạc rực rỡ và trong một nơi cư trú tuyệt vời của các vị chư Thiên trẻ tuổi và các vị A tu la.[183] ngài diễn giảng một bài về Vi Diệu Pháp.

*1. Ndt 456. xin đọc MA iii 326
*2 Vin. I 10, S iv 331, A I 30 v.v...
*3 (?) xin đọc Ap 388, đoạn kệ 13.
*4 Vin I 8, M I 170
*5 M. ii. 91
*6. D iii. 159

Bởi vây đã diễn ra một cuộc thấu triệt Pháp hội cho một trăm ngàn vạn triệu Chư Thiên. Đây lại là cuộc thấu triệt Pháp hội lần thứ hai. Và tại thành phố Surabhi,[184] có một vị chuyển luân vương tên là Sunanda đã hoàn tất các nhiệm vụ của chuyển luân vương, ngài đã đắc thủ được bảo luân xa. Người ta nói rằng: khi Maṅgala, đức Như Lai Thập Lực nổi lên trên thế gian này, Nhà vua Sunanda đã nhìn thấy Bảo luân xa quay trở lại từ nơi cư trú. Niềm hạnh phúc của ngài đã bị giảm sút, ngài liền đặt câu hỏi các vị Bà-la-môn, nói rằng: “Tại sao Bảo Luân Xa này do tài khéo và sức mạnh của tôi tạo ra lại quay trở lại chỗ ở cũ? “Chính vì thế họ giải thích cho nhà vua rằng tuổi thọ của vua chuyển luân vương sắp mãn hay từ khi ngài thực hiện xuất gia hay từ lúc có sự xuất hiện của đức Phật này thì Bảo luân xa đã quay trở lại chỗ cũ.” Khi họ nói như vậy thì lại nói tiếp rằng: Nhưng thưa ngài, đây không phải là việc tịch diệt tuổi thọ của ngài vì ngài có tuổi thọ quá lâu. Chính là vì Maṅgala, vị Chánh Đẳng Giác đã nổi lên trên thế gian này mà Bảo Luân Xa của ngài đã quay trở lại[185]

Khi ngài đã nghe điều này Sunanda, vua chuyển luân vương cùng với các thần dân đang kính lễ Bảo Luân Xa cúi đầu xuống chạm đất, cầu khẩn Bảo Luân Xa rằng: Cho đến khi nào tôi có thể nhờ vào uy quyền của ngài thưa ngài Maṅgala đáng kính, đức Như Lai Thập Lực. Xin làm ơn đừng biến mất: rồi Bảo Luân Xa đó đứng yên đúng chỗ cũ.

Rồi Sunanda, chuyển luân vương lại cảm thấy hạnh phúc tột đỉnh trở lại một đoàn người trải dài gần ba mươi sáu do tuần (yojana) bao vây xung quanh. Đã tiến lại gần Maṅgala, đức Như Lai Thập Lực, một điềm lành dành cho hết mọi người trên thế gian này, ngài đã dâng cúng cho vị đạo sư cùng vơi Tăng Đoàn của ngài một cuộc bố thí rất lớn. Ngài đã ban tặng y nhuộm màu vàng nghệ cho khoảng một trăm ngàn vị A-la-hán và ban tặng tất cả những nhu cầu cần thiết cho đức Như Lai. Kính lễ đức Phật đó đã khiến cho toàn thể cõi thế gian này phải kinh ngạc. Sau khi đã tiến lại gần Maṅgala, vị bảo vệ toàn cõi thế gian, kính lễ ngài

[147] cùng nhau vỗ tay tán thưởng ngài giống như những búp sen không bị vết nhơ, vô tỳ vết mười móng tay của ngài đụng nhau,[186] ngài đã đưa tay lên khỏi đầu và ngồi xuống ở một khoảng cách kính lễ đồng thời để nghe Phật Pháp. Và con trai của ngài, tên là Hoàng Tử Anurāja, cũng ngồi xuống và lắng nghe Phật Pháp như vậy.

Rồi Đức Phật thực hiện một cuộc nói chuyện rất từ tốn với họ, có cả Sunanda, vua chuyển luân vương, đứng đầu nhóm người nghe. Sunanda, vua chuyển luân vương, cùng với một đoàn người đi theo đã chứng đắc A-la-hán với những tuệ phân tích. Rồi vị đạo sư, nhìn thấy việc thiện[187] họ đã thực hiện trong quá khứ và cũng nhận ra những phẩm chất nơi bát khất thực và y cà sa đã ợc thực hiện do tiềm năng sức mạnh thần thông, liền giơ cánh tay phải ra được trang hoàng bằng những bánh xe rực rỡ.[188] Rồi lên tiếng nói rằng, “Thiện lai tỳ khưu” Vào ngay lúc đó toàn bộ họ đã xuống tóc chỉ còn dài[189] hai đốt ngón tay, họ mang theo bát khất thực và mặc y cà sa một cách lạ lùng bằng chính sức mạnh thần thông tiềm ẩn giống như các vị trưởng Lão danh tiếng cả hàng trăm năm. Và rất thích hợp để được mặc y cà sa như vậy. Sau khi đã kính lễ vị đạo sư, là Đức Phật Maṅgala, họ vây quanh ngài. Đây chính là cuộc Thấu Triệt Pháp hội lần thứ ba. Do vậy người ta nói rằng:

IV. 5. Khi Đức Phật Maṅgala thuyết Pháp tại nơi cư trú chư Thiên của chính thủ lãnh chư Thiên, đã diễn ra cuộc Thấu Triệt Pháp hội lần thứ hai cho chín ngàn vạn triệu chúng sanh[190]

Khi Ngài Sunanda, vua chuyển luân vương, đến gặp vị Chánh Đẳng Giác, Tức thì ngài liền vỗ chiếc trống Phật Pháp quang vinh tối thượng.

Đám đông đi theo Sunanda lên đến con số chín mươi ngàn vạn triệu người. Và [191] tất cả những vị ấy không loại trừ một người nào đã xuất gia theo mệnh lệnh “Thiện lai tỳ khưu”[192]

5. Trong trường hợp này tại nơi cư trú chư Thiên của vị thủ lãnh Chư Thiên lại có ý nghĩa: tại nơi trú ngụ của vị Thiên tử.[193]

Vỗ trống có nghĩa là đánh trống. [194]

6. Vinh quang tột độ có nghĩa là vinh quang chính là Đức Phật Maṅgala vinh quang, còn tột đỉnh chính là Trống Phật Pháp tối thượng.

Những kẻ đi theo có nghĩa là những người đồ đệ theo hầu sẵn sàng phục dịch[195]

7. nghĩa là đã có[196] “thế rồi[197] đã có tới chín mươi vạn triệu” cũng là một cách giải thích. Đám đông thuộc về ngài[198]. Đám đông có bao nhiêu người? Ý nghĩa ở đây là chín mươi vạn triệu.

Rồi người ta nói rằng đang khi ngài Maṅgala, người bảo vệ thế gian đang lưu lại thành phố Mekhala, Sudeva và Dhammasena, có đến mười ngàn người Bà-la-môn[199] vây quanh cũng đã xuất gia trong cùng thành phố đó bằng lời kêu gọi “Thiện lai tỳ khưu” (đây là công thức xuất gia) đã xuất gia ngay trước sự chứng kiến của Đức Phật Maṅgala.

Khi hai tối thượng thinh văn và đoàn tuỳ tùng của họ đã chứng đắc A-la-hán vào ngày rằm tháng Giêng Magha, bậc Đạo sư đã tụng Giới Bổn ngay giữa Tăng hội đi theo lên tới một trăm ngàn vạn triệu vị tỳ khưu. Đây chính là Tăng đoàn lần thứ nhất. Còn nữa, ngay tại thành phố không thể sánh bằng Uttarārāma chính trong một cuộc qui tụ những người họ hàng thân thuộc, ngài cũng đã tụng Giới Bổn cho một Tăng hội khoảng một ngàn vạn triệu người[200] xuất gia. Trong một cuộc tụ tập (vây quanh?) Sunanda, là chuyển luân vương, Ngài cũng đã tụng Giới Bổn trước sự chứng kiến của hàng chín mươi ngàn vạn triệu[201] các tỳ khưu. Đây chính là Tăng Đoàn thứ ba. Do vậy người ta đã nói rằng:

[148] IV. 8. Nhà ẩn sĩ vĩ đại Maṅgala đã qui tụ được ba Tăng Đoàn: Tăng Đoàn thứ nhất có tới một trăm ngàn vạn triệu người tham dự

9. Tăng Đoàn thứ hai khoảng độ một ngàn vạn triệu người[202] Tăng đoàn thứ ba cũng gồm cả chín mươi ngàn vạn triệu người đã đoạn tận các lậu hoặc và đã trở nên vô tỳ vết.

Vào thời đó, Bồ Tát của chúng ta là một người bà la môn Suruci trong một ngôi làng người Bà la môn Suruci. Ngài là thầy thấu đáo được ba Phệ Đà[203], tinh thông từ ngữ và các nghi lễ cùng với tinh thông Âm vị và diễn giải. Và theo truyền thuyết dân gian là người thứ năm: ngài rất tinh thông các tục ngữ ca dao, thấu hiểu ngữ pháp, tinh thông triết học dân gian và đọc được các tướng của Đại Nhân. Ngài liền tiến đến gặp vị đạo sư, nghe ngài thuyết pháp một bài. Sau khi đã quy y ngài đã mời Đức Phật và Tăng Đoàn của ngài, nói rằng: “Thỉnh ngài đến thọ trai nhà con, vào ngày mai” Đức Phật nói “Này Bà la môn, ngài có thể mời được bao nhiêu các vị tỳ khưu đến dự?” ngài hỏi. “Nhưng có bao nhiêu các vị tỳ khưu trong đoàn tuỳ tùng của ngài?” Hình như chỉ là Tăng đoàn đầu tiên qui tụ lại. Chính vì thế ngài nói. “Khoảng độ một trăm ngàn vạn triệu người.” Bà la môn Suruci liền ngỏ lời mời, nói rằng. “Nếu có bao nhiêu người như vậy xin ngài hãy đến và dùng bữa với tôi cùng với tất cả họ nữa.” Rồi vị đạo sư đồng ý.

Khi Bà la môn mời Đức Phật đến dùng cơm vào ngày hôm sau và đến tận nhà của ông, ông ta nghĩ: “Tôi có khả năng cung cấp một bữa tiệc gồm cơm sữa ngọt, cơm và y cho tất cả các vị tỳ khưu này, nhưng làm sao có chỗ để cho họ ngồi?” Họ cho là ý nghĩ này của ngài đã khiến cho hòn đá trang hoàng của vị Thiên vương Ngàn Mắt trở thành nóng lên ngay trên đỉnh núi Meru cao khoảng tám mươi tư do tuần (yojana). Thế rồi Thiên Chủ (Sakka), vua các vị chư Thiên. Sau khi đã nhận ra chỗ ngồi của Ngài nóng lên, liền nghĩ “Giờ đây, ai là người đã muốn tôi xuống khỏi chỗ này?” Lý giải về điều gì đã xảy ra, ngài nhìn thấy thế giới loài người với một nhãn quang chư Thiên và nhìn thấy vị Đại Nhân ngài nghĩ. “Người này đã mời tăng đoàn các vị tỳ khưu với vị Chánh Đẳng Giác dẫn đầu nghĩ đến lợi ích cho ngài và liên quan đến việc có thể chia sẻ công đức.” Thiên Chủ (Sakka) liền giả dạng là một người thợ mộc, cầm rìu và búa trong tay xuất hiện trước vị Đại Nhân và nói “Ngài có cần thuê ai làm nghề thợ mộc chăng? Sau khi nhìn thấy Thiên Chủ (Sakka) vị Đại Nhân nói, “Ông có thể làm được loại công việc nào?” “Chẳng có nghề nào mà ta không làm được, bất kỳ người nào muốn làm công việc gì: một tòa đại sảnh, hay một hoàng cung hay bất kỳ nơi cư ngụ nào thì ta đều có khả năng thực hiện cho người đó ngay tức khắc.” Thôi được rồi, ta cần làm một công việc đây” “là gì vậy thưa ngài?” “ngày mai ta sẽ mời một trăm ngàn vạn triệu vị tỳ khưu đến dự trai tăng nhà ngươi phải xây cho ta một toà đại sảnh làm chỗ cho họ ngồi” “Ta có thể thực hiện được công việc này nếu ngài có thể trả tiền công cho ta.” Ta có thể làm được, thưa ngài.” Tốt lắm, ta sẽ xây cho ông.” Thiên Chủ (Sakka) nói vậy rồi nhìn quanh xem cảnh quang tìm chỗ xây toà đại sảnh. Đã có một chỗ rất thích hợp rộng khoảng mười hai do tuần (yojana), bề mặt bằng phẳng giống như một vòng tròn kasiṇa[204] Nhìn lại một lần nữa, Thiên Chủ (Sakka) nghĩ “Trong một phần cảnh quang này sẽ xuất hiện một toà đại sảnh tuyệt vời nhất từ xưa đến giờ. Gồm tới bảy loại đá quý.”

[149] Bởi vây có một toà đại sảnh nổi lên ngay tức khắc từ lỗ nẻ mặt đất xuất hiện có kích cỡ ngang với một toà đại sảnh. Có những chữ viết hoa bằng bạc ghi trên những chiếc cột bằng vàng, và chữ bằng vàng lại ghi trên cột bằng bạc, các chữ hương trầm ghi trên cột bằng đá quý còn chữ bằng đá quí lại ghi trên cột bằng gỗ hương trầm, lại có các chữ hoa được làm bằng bảy loại đá trên những chiếc cột làm bằng bảy loại đá quí.

Bởi vậy ngài đã nhìn ngắm và có suy nghĩ, “Hãy treo trong sảnh đường những chuỗi chuông nhỏ kêu leng keng treo xen kẽ với nhau” Khi ngài đang chiêm ngắm những chuỗi chuông nhỏ đang kêu leng keng treo xen kẽ nhau, từ đó khi có luồng gió nhẹ nhàng làm lay động phát ra những tiếng kêu ngọt ngào rất dễ thương giống như năm loại nhạc cụ. Cảnh tượng đó giống như thời gian tụng Kinh đang diễn ra. Ngài lại nghĩ, hãy treo xen kẽ những chiếc chuông nhỏ đó nhiều tràng hoa ngào ngạt hương thơm thần tiên, những tràng hoa, những tràng lá, những xâu đá quí nữa.”. Với suy nghĩ đó tức khắc những xâu hoa được treo xen kẽ vào đó. Ngài nghĩ: “Chớ gì ghế và chỗ ngồi thích hợp và quí giá được bày ra cho các vị tỳ khưu đủ cho khoảng một trăm ngàn vạn triệu vị xuất hiện từ đất mà lên.” Toàn bộ những thứ đó đã nổi lên từ mặt đất ngay tức thì. Ngài lại ước, “Chớ gì chậu nước rửa tay nổi lên kê ở khắp mọi góc sảnh đường.” Ngay lúc đó những bình nước nổi lên, miệng những chiếc bình đó có lá chuối che phủ và được đổ đầy với nước lạnh, ngọt ngào, tinh khiết, có mùi hương thơm ngọt ngào và thích hợp cho từng người sử dụng. Đấng Ngàn Mắt, sau khi đã thực hiện toàn bộ những công việc này, liền đến gặp một thầy Bà la môn và nói “Thưa ngài, hãy đến mà xem đại sảnh đường, và trả tiền công xây dựng cho ta.” Vị Đại Nhân đến xem toà sảnh đường đó và chiêm ngắm rất kỹ, và khi Ngài thực hiện như vậy thì toàn thân xác của Ngài trào dâng năm loại phỉ lạc.[205]

Thế rồi, đang khi ngài ngắm nhìn toà đại sảnh thì xảy ra nơi ngài: “Toà đại sảnh này không do con người thực hiện. do ý định của ta mà ra, lẽ đương nhiên đó là do ân đức đặc biệt của ta mà có, là nơi cư trú của Thiên Chủ (Sakka), vua Thiên tử, trở nên ấm áp hơn. Chính vì thế tòa đại sảnh này là do Thiên Chủ (Sakka), vua Thiên chủ tạo nên. Một điều không đúng đắn chút nào nếu ta thực hiện bố thí trong tòa đại sảnh này chỉ kéo dài trong một ngày. Ta sẽ thực hiện bố thí trong vòng một tuần.”

Nhưng việc bố thí những của cải vật chất bề ngoài cho dù có to lớn đến cỡ nào, cũng không thể khiến cho tâm vị Bồ Tát của chúng ta hân hoan. Nỗi hoan hỷ của vị Bồ Tát lại tùy thuộc vào nghi lễ họ thực hiện trong cuộc bố thí - cho dù phải cắt đầu, móc mắt xé nát tâm can.[206] Tại Sivijātaka[207] đang khi vị Bồ Tát của chúng ta hàng ngày đang dốc hầu bao ra khoảng năm trăm ngàn kahāpaṇas để phân phát bố thí ngay tại bốn cổng thành và ngay giữa thành phố thì cuộc bố thí này cũng không thể làm trào dâng nơi ngài niềm hân hoan hy tế khi ngài đang thực hiện bố thí được. Nhưng mặt khác, khi Thiên Chủ (Sakka), Thiên tử, giả dạng thành một Bà la môn xuất hiện và hỏi xin đôi mắt của Ngài, rồi Ngài móc đôi mắt của Ngài bố thí cho ông ta. Sự hoan hỷ đã phát sinh khi ngài đang thực hiện bố thí và chẳng có điều gì trái ngược trong tâm trí ngay cả ngài chỉ bố thí phần nhỏ nhoi chỉ bằng đầu sợi tóc. Như vậy vị Bồ Tát không hề thoả mãn với việc bố thí.

Chính vì thế khi Đại Nhân cũng nghĩ là ngài phải thực hiện bố thí cho các vị tỳ khưu với con số lên tới một trăm ngàn vạn triệu người. Ngài cho những vị ấy ngồi lại trong sảnh đường đó một tuần và bố thí cho họ của bố thí gọi là gavapāna.[208] Gavapāna

[150] có nghĩa là, đổ đầy sữa vào những chiếc bình và đem lại lò nướng, thêm những hạt gạo đã xay vỏ từng chút một vào sữa đó cho đến khi đặc laị, khi đã nấu xong, bữa ăn được sửa soạn bằng cách thêm vào đó một hỗn hợp mật, đường thốt nốt và bơ tươi. Bữa ăn này đơn giản cũng được gọi là “bữa ăn được dọn với bốn món đồ ngọt.[209] Duy chỉ đàn ông thôi thì không thể nào phục dịch được cho những vị ấy; mà cần cả đến các chư Thiên nữa, từng người một bên cạnh một vị tỳ khưu và phục vụ cho họ. Nhưng địa điểm đó cho dù có rộng tới mười hai do tuần (yojana) cũng không đủ sức chứa toàn bộ các vị tỳ khưu cho đủ; ấy vậy các vị tỳ khưu phải tự động ngồi xuống mỗi người theo cách do chính vẻ oai nghi thần thông của họ tạo ra. Vào ngày cuối cùng Bà la môn (Suruci) cho rửa toàn bộ bát khất thực cho các vị tỳ khưu và sau khi đã đổ đầy trong các bát đó với bơ tươi, bơ, mật ong, mật đường v.v... Được dùng làm thuốc trị bệnh, vị ấy còn trao cho mỗi vị tỳ khưu ba y cà sa. Các vị tỳ khưu mới được thụ phong trong Tăng Đoàn cũng nhận được y cà sa và y khoác ngoài trị giá hàng trăm ngàn [210] đồng tiền (kahāpaṇas).

Khi vị đạo sư đang được thực hiện cuộc bố thí ngài nghĩ, “Giờ đây, con người này là ai mà lại thực hiện một cuộc bố thí lớn lao đến như vậy?” Đang khi ngài còn quán xét như vậy ngài đã nhìn thấy người đó và suy nghĩ trong tâm, “Trong tương lai khoảng độ một trăm ngàn đại kiếp và hai A-tăng-kỳ thì người đó sẽ trở thành một đức Phật có hồng danh là Cồ Đàm.” Nói với vị Đại Nhân này, ngài thọ ký. “Khi khoảng thời gian này qua đi, ngài sẽ trở thành một đức Phật có hồng danh là Cồ Đàm. Khi vị Đại Nhân nghe lời thọ ký của Đức Phật, trong lòng trào dâng phấn khởi tột độ. “Vì ngài đã nói ta sẽ trở thành đức Phật một ngày gần đây thì ta chẳng còn cần đến cuộc sống ngoài đời làm chi nữa; ta sẽ xuất gia.” và từ bỏ hết của cải giống như một bãi nước miếng. Ngài đã tiến hành xuất gia trước sự hiện diện của đạo sư. Khi nghe biết được lời của Đức Phật và chứng đắc thắng trí và tám thiền chứng, ngài tiếp tục sống trong suốt cuộc đời còn lại, chăm chú nhập thiền liên tục không ngơi. Ngài được tái sanh trong cõi Phạm thiên[211] Do vậy có lời nói rằng:

IV. 10. Vào lúc ta còn là một người Bà la môn tên là Suruci, một người đọc tụng, và là chuyên gia giải thần chú và thông thạo Tam Phệ Đà.[212]

11. Tiến lại gần ngài, quy y nơi đạo sư, ta kính lễ Tăng Đoàn với vị Chánh Đẳng Giác đứng đầu với đủ thứ hương thơm và vòng hoa. Khi ta đã kính lễ họ với hương thơm và vòng hoa ta cảm thấy như lòng được tươi mát hơn với gavapāna.

12. Và đức Phật, Maṅgala tối cao trong số con người, cũng đã thọ ký về ta như sau: “ Vô số đại kiếp sau con người này sẽ trở thành một đức Phật.”

13. Khi ngài đã thực hiện cuộc phấn đấu liên tục, thực hành những điều khổ hạnh....” ....thì chúng ta sẽ được gặp mặt vị này.”

Có tám đoạn kệ cần được diễn giải.[213]

14. Khi ta đã nghe được lời của ngài, ta càng thực hiện quyết tâm nhiều hơn. Ta đã quyết tâm tu tập để chứng đắc mười pháp Ba la mật.

[151] 15. Gia tăng[214] nhiệt tâm rồi để đạt đến được Chánh Đẳng Giác vinh quang. Ta đã từ bỏ tài sản thế gian lại cho Đức Phật và xuất gia trước sự hiện diện của ngài.

16. Sau khi đã học hỏi thấu suốt Tạng Kinh và Tạng Luật và toàn bộ giáo pháp chín chi của vị đạo sư, ta được khai sáng toàn bộ Giáo Pháp của vị Chiến Thắng.

17. Trong vấn đề này, đang khi sống chuyên cần, tu luyện và phát triển Phạm Thiên, sau khi đã đạt đến được toàn hảo nơi thắng trí ta đã tiến tới thế giới các đấng Phạm Thiên.[215]

11. Trong trường hợp này với hương thơm và vòng hoa[216] có nghĩa là với hương thơm[217] cũng như với cả các vòng hoa nữa.[218]

11. Với cả gavapāna: điều này vừa được nói tới; [219] một số đọc là ghatapāna[220].

14. Ta được tươi mát có nghĩa là ta thấy tỉnh táo[221] hẳn lên.

14. Ta nhất quyết thực hiện tu tập thêm nữa có nghĩa là ta quyết tâm tu luyện nhiều hơn nữa. Vì mục tiêu hoàn tất được mười Pháp Ba la mật[222]

15. Lòng nhiệt tình có nghĩa là sự phấn chấn trong tâm hồn.

15. Gia tăng thêm [223] có nghĩa là tiến tới.

15. Để chứng đắc Chánh Đẳng Giác quang vinh có nghĩa là nhằm chứng đắc quả Phật.

15. Ta cống hiến cho Đức Phật có nghĩa là ta hy sinh cho Đức Phật.

15. Tài sản vật chất của ta có nghĩa là của cải thế gian[224] Ý nghĩa là: sau khi đã hy sinh toàn bô tài sản cho Đức Phật, Đức Thế Tôn, nhằm phục vụ cho bốn nhu cầu cần thiết cho các vị tỳ khưu.

17. Về vấn đề này có nghĩa là nơi giáo Pháp của Đức Phật

17. Brahma Phạm thiên có nghiã là tu luyện phát triển những Phạm trú.

Và Thành phố Đức Phật Maṅgala cư trú có tên là Uttara, và cha của ngài là quốc vương Quí Tộc Sát Đế Lị cũng có tên gọi là Uttara. Mẹ của ngài cũng có tên là Uttara. Sudeva và Dhammasena là hai tối thượng nam thinh văn của ngài, một người trợ lý người đời tên là Pālita; Sīvalā và Asokā là hai tối thượng nữ thinh văn của ngài. Và cây Bồ Đề của ngài là cây Nāga.[225] Thân thể của ngài cao khoảng tám mươi tám cubit. Tuổi thọ[226] của ngài kéo dài chín mươi ngàn năm; và vợ của ngài tên là Yasavatī con trai của ngài tên là Sīlava[227]; ngài xuất gia trên lưng ngựa và trụ trì trong ngôi Chùa tên là Uttara, và thị giả trong thiền viện của ngài tên là Uttara. Đức Thế Tôn đã trải qua[228] chín mươi ngàn năm và khi ngài viên tịch Níp Bàn chung cuộc nơi cõi Thập Vạn Đại Thiên ta bà Thế Giới chỉ trong một giây lát đã chìm ngập trong bóng tối và nơi toàn bộ các ta bà thế giới đều than van khóc lóc và buồn khổ nơi các con người, do vậy có lời nói rằng:

IV. 18. Tên thành phố là Uttara. Uttara cũng là tên của vị Quí tộc sát đế lị Uttarā cũng là tên của mẹ đức Phật Maṅgala, là ẩn sĩ vĩ đại.

23. Sudeva và Dhammasena là tối thượng nam thinh văn. Pālita là tên của người trợ lý chăm sóc cho Maṅgala, vị đại ẩn sĩ.

24. Sīvalā và Asokā là hai tối thượng nữ thinh văn của ngài, cây Bồ Đề của Đức Phật được cho là cây Nāga.

[152] 26. Vị đại hiền triết cao khoảng tám mươi tám ratana. Xuất phát ra từ ngài hàng trăm hàng ngàn hào quang không thể đếm hết.

Tuổi thọ bình thường của ngài kéo dài chín mươi ngàn năm. Sống lâu như vậy ngài đã khiến cho nhiều người vượt qua được gềnh thác bộc lưu.

Giống như ta không thể đếm được sóng biển đại dương cũng vậy ta không thể đếm được số đệ tử của ngài.

Vì bao lâu vị lãnh tụ có tên gọi là Maṅgala, vị Chánh Đẳng Giác vẫn còn sống ngài vẫn chưa thể dứt điểm được các phiền não hiện hữu nơi giáo pháp.

 Đang khi mang ngọn đuốc Phật Pháp và tạo ra cho biết bao nhiêu chúng sanh vượt qua được bộc lưu, với một đoàn tuỳ tùng đông đảo, ngài đã chiếu sáng rực rỡ giống như một cột lửa và tàn lụi đi.

Sau khi đã chỉ ra cho chúng sanh và chư Thiên bản chất cơ bản của pháp hành. Tỏa sáng giống như một khối lửa cháy rực. Như mặt trời đang lặn.

26. Về vấn đề này, xuất phát ra từ ngài có nghĩa là xuất phát từ thân thể của ngài Maṅgala.

26. Xuất phát ra từ ngài có nghĩa là toả ra có sự thay đổi về “con số”[229] ở đây cũng nên được hiểu.

26. Những tia sáng phát ra có nghĩa là những hào quang[230].

26. Vô số hàng trăm hàng ngàn có nghĩa là vô số hàng trăm hàng ngàn[231].

28. Sóng biển có nghĩa là sóng to, sóng cồn, sóng bạc đầu[232].

28. Đếm có nghĩa là đếm con số.[233] Ước tính. Vì có một số lượng sóng biển lớn lao đến như vậy nơi đại dương đến nỗi không thể nào đếm được. Cũng vậy không thể nào đếm được số lượng đồ đệ của ngài. Chính vì thế ý nghĩa ở đây là: vượt quá khả năng tính toán.

29. Vì càng lâu càng có nghĩa là cần nhiều thời gian đến như vậy.

29. Chết đi với các phiền não (hiện hữu) có nghĩa là: với những phiền não như: với phiền não hiện hữu nơi họ; chết với các phiền não hiện hữu chính là chết cho người nào đó với các phiền não hiện hữu. Không thấy có được trong thời gian hiện tại. Có nghĩa là, toàn bộ đồ đệ nơi Phật Pháp của Đức Phật đều chứng đắc Níp Bàn chung cuộc sau khi đạt đến bậc A-la-hán, và không chết như những người bình thường hay như những người nhập lưu v.v... một số người giải thích là “chết trong tình trạng rối loạn hiện nay.”

30. đuốc Phật Pháp[234] có nghĩa là chiếc đèn Phật Pháp.

30. Cột lửa [235] được cho là lửa bốc cháy. Nhưng ở đây ta phải hiểu là ngọn đèn. Chính vì thế ý nghĩa là: toả sáng giống như một ngọn đèn ngài đã tàn lụi đi.

30. Có đoàn tuỳ tùng đông đảo[236] có nghĩa là có một số người tuỳ tùng rất đông. Một số người cho là Ngài với số đồ đệ đông đảo đến như vậy đã tàn lụi đi.

31, Về Pháp hữu vi có nghĩa là những gì được tạo lên. những gì nổi lên khi có điều kiện đầy đủ.

[153] 31. Bản chất cơ bản. có nghĩa là những tướng vô thường v.v... Được nhận ra nơi cuộc sống Sa môn.

31. Giống như mặt trời lặn có nghĩa là giống như hàng ngàn tia sáng mặt trời[237] xua tan bóng tối[238] chiếu sáng rực rỡ và khiến cho toàn thế giới sáng ngời lên, lại đi đến chỗ tàn lụi đi, cũng giống vậy mặt trời Maṅgala, đã khiến cho ngay cả một vùng đầm sen nở rộ, xua tan bóng tối bên trong và bên ngoài toả sáng rực rỡ từ chính cơ thể của ngài và đi đến chỗ tàn lụi đi

Phần còn lại các đoạn kệ đã quá rõ ràng dưới mọi khía cạnh.

Đến đây kết thúc phần Chú giải Đức Phật Maṅgala

Cũng kết thúc Chú giải Biên Niên Ký đức Phật thứ Ba.

 


[151] Xin đọc chú thích đầu tiên về Đức Phật Koṇḍañña như đã nêu ở trên

[152]. Một Đại kiếp Sarāmaṇda, xin ọc bản văn tr. 191

[153]. Chuyện kể về Mandala được ghi lại trong Mhvu I 248-252

[154]. Có ba loại kolāhala, tin ồn (náo động) được đưa ra trong BvAC 272, năm loại trong KhA 120

[155]. Xin đọc It 76, Chú giải Bộ Pháp Tụ (Asl) 33 khi một vị chư thiên sắp sửa qua đời khỏi một nhóm chư thiên thì có năm dấu hiệu xuất hiện: vòng hoa của ngài tàn lụi đi, quần áo của ngài trở nên cũ kỹ v.v...xin đọc Divy 193

[156]. Như trong bản văn tr. 53 v.v...

[157]. Xin đọc bản văn tr. 54, 273

[158]. Phật Tông IIA 83tt

[159]. Xin đọc bản văn tr. 132

[160]. Xin đọc bản văn tr. 81, 133, 161, 172, 236

[161]. Giống như trong bản văn tr. 133

[162]. Xin đọc thêm DBK, Ch I đoạn 4, thuộc lòng từ tâm.

[163]. Vessantara sống tại đó.

[164]. Xin đọc bản văn tr. 125 để phát ra âm thanh của Thiên Chủ (Sakka): ở đây đó là manussabhakkha mahesakkha yakkha.

[165]. Appamatta, A v.1 và Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến giải thích là kesaggamatta, nhẹ tựa lông hồng

[166]. Có lẽ biến cố này ám chỉ đến biến cố trong Ja iv. 13

[167]. Pubbacariya, xin đọc bản văn tr. 147.

[168]. Ekassa Buddhassa, Đức Phật “đã tuyên bố” về ngài (?)

[169]. Xin đọc Ja iii 53 trong Sasajataka làm điển hình cho Bố Thí Ba la mật.

[170]. Tama....andhakara là hai từ đồng nghĩa cả hai đều ám chỉ mù quáng tâm cũng như bóng tối bình thường.

[171]. Mūsā

[172]. Vātavego. Xin đọc Tự điển Chú giải Pāli (CPD) s.v ukkā “vatāvega (? Chỉ có nghĩa là “người bỗng nổi tiếng như cồn. DAT I 167 coi điều này như là điều sáng giá của vô số những người nổi tiếng đụng chạm vào nhau vì sức gió.

[173]. Atul’āsī ti atuly’āsi

[174]. Jineh aññeh ti jinehi añehi

[175]. Candasuriyappabhaṃ hantvā ti candasuriyānaṃ pabhaṃ abhihantvā

[176]. Upanissaya; ba lần trong Vism 533tt

[177]. Caturo ti cattāri. Về đoạn này tôi theo cách dịch của BvAB vì rõ hơn là cách dịch của BvAC

[178]. Te te

[179]. Vì tôi không thấy đoạn kệ này nơi các tác phẩm Chú giải khác về từ Bodhi, tôi chỉ ướm thử đưa ra con số như thể là điều rất kỳ cục đối với Chú giải Lịch sử Chư Phật (BvA)

[180]. Về đoạn này xin đọc ở trên bản văn tr. 55

[181]. Như trong bản văn tr. 56 với MA I 54 nhưng một số khác cũng cho là đó là trí toàn tri.

[182]. Xin đọc td. Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) 57

[183]. Surasurayuvati.

[184]. Không có trong Tự điển Pāli-Anh (PED)

[185]. Xin đọc Miln 218, 285, 327 về các kho báu đã hành động khớp với nhau khi có điều kiện thích hợp.

[186]. Xin bản văn tr. 10 cách giải thích trên chính là dasanakhasamodhānasamujjalaṃ vimala-kamalamakulasamaṃ ajaliṃ sirasi katvā

[187]. Pubbacariya, phẩm hạnh và tái sanh hoặc cách sống tiền kiếp (nơi vòng luân hồi).

[188]. Cakkajāla, Jāla có thể có nghĩa vừa là lưới như trong từ jālahatthapāda (một trong 32 tướng của Đại Nhân: chân tay bọc lưới) và rực rỡ. Từ cấu trúc từ và theo truyền thống cho biết thì thân xác Maṅgala luôn toả sáng, hình như muốn ám chỉ nghĩa thứ hai.

[189]. Chiều dài này, hay tu luyện trong hai tháng, dành cho vị Tỳ khưu theo như trong Vin ii. 107 xin đọc nt 133.

[190]. Một trăm ngàn vạn triệu.

[191]. Phật Tông, Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến pi, va ở trên.

[192]. Ehi bhikkhukā; ở trên, etha bhikhavo.

[193]. Surindadevabhavane ti puna devindabhavane ti attho.

[194]. Như trong bản văn tr. 193.

[195]. Baddhacarā từ này không có trong Tự điển Pāli-Anh (PED) cho ta thấy từ paddhacara. Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến giải thích là nibaddhacarā, chắc chắn, đệ tử kiên định.

[196]. sun ti ahesum.

[197]. Tadāsi thay cho tadāsuṃ

[198]. si

[199]. Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến giải thích là māṇāvaka mānavakasahassaparivāro, thầy Bà la môn, đoàn tuỳ tùng của họ lên tới một ngàn Bà la môn. BvAC: dasamāṇavakasahassehi parivutā

[200]. Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến một trăm ngàn vạn triệu

[201]. Hình như thế nếu “một ngàn” có sự nhầm lẫn ở đây

[202]. Là một trăm ngàn vạn triệu.

[203]. Kittakehi te bhikhuhi attho, rất có thể theo nghĩa đen thì hơn.

[204]. Được sử dụng trong việc luyện tập thiền đề mục kasiṇa

[205]. Xin đọc Vism 143

[206]. Xin đọc Pháp cú kinh (Dhammapada) I 5; cũng như Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) ii 465

[207]. Jā No. 499; xin đọc thêm Cp I 8

[208]. Nghĩa đen có nghĩa là uống sữa bò

[209]. Xin đọc ThigA 68 có thể tham khảo bữa ăn được đặt trong bát khất thực điều này được gọi là catumadhura, bốn món ngọt như ở trên.

[210]. Hay một trăm ngàn

[211]. Xin đọc bản văn tr. 137

[212]. Xin đọc thêm II A 6

[213]. Xin đọc iii 12-15, 18 -21

[214]. Anubrūhanto. Cũng đọc trong Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến, nhưng xin đọc thêm Tự điển Chú giải Pāli (CPD) s.v. anubrūheti

[215]. Xin đọc thêm iii. 23, 24

[216]. Đọan kệ 16, 17 cũng như trong xiii 18, 19,xix 12, 13 xin đọc thêm iii. 23,24, xii 16,17

[217]. Gandhamalena, số ít.

[218]. Gandhehi...mālehi, số nhiều

[219]. Xin đọc bản văn tr. 150

[220]. Ghata là một từ để giải thích bơ (butter)

[221]. Tappayin ti tappesim

[222] . Dasapāramipūriyā ti dasannaṃ pāramīnaṃ pūraṇatthāya

[223]. Ở đây là anubrūhento

[224]. Maṃ Gehan ti mama gehaṃ. Từ geha nghĩa là nhà, nhưng Comy lại làm rõ không được hiểu theo nghĩa đen.

[225]. Cây Kim mộc, Mesua ferrea

[226]. Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến giải thích là yuparimāṇaṃ thay cho āyu  trên

[227]. Phật Tông Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến giải thích là Sīvala

[228]. Tasmiṃ navutivassasahassāni ṭhatvā. Có điều gì không ổn ở đây, tuổi thọ đã được nêu lên ở trên. Nhưng có thể phải được coi là thời gian người đó sống trong cuộc sống gia đình cụ thể là 9000 năm (xin đọc đoạn kệ 19) cả từ Tasmin rất có thể cũng nên hợp với một số danh tự, hay có thể được giải thích là ngài đã sống (hay cư trú) tại Uttarāma trong 90.000 năm. Những Đức Phật khác đã trở nên nổi tiếng không những đã du hành ở vùng quê nhưng còn đi thăm cả cõi các vị chư thiên nữa.

[229]. Từ số ít sang số nhiều. Liên quan đến động từ niddhāvatī ti niddhāvanti, xuất phát ra những tia sáng phát ra.

[230]. Raṃsī ti rasmiyo, số ít và số nhiều liên quan đến số ít và số nhiều của động từ.

[231]. Anekasatasahassiyo ti anekasatasahassā

[232] bốn từ này là mi vīciyo taraṅgā

[233]. Gaṇetuye ti gaṇetuṃ

[234]. Xin đọc bản văn tr. 144

[235]. Dhūmaketu, trướng làm khói

[236]. Mahāyasa, xin ọc bản văn tr. 160, 257; cũng xin đọc amitaya, bản văn tr. 135

[237]. Sahassakiraṇo divasakaro

[238]. Tamagata, Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến ghi tamagaṇa vi v.1 -gata

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn