(Xem: 1766)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2232)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

XIV. Chú giải Đức Phật tổ PIYADASSIN

02 Tháng Tám 201412:00 SA(Xem: 14960)

XIV. Chú giải Đức Phật tổ PIYADASSIN

Và tiếp theo sau Đức Phật Sujāta, một trăm ngàn đại kiếp trước đây, có ba Đức Phật xuất hiện đó là: Piyadassin, Dhammadassin và Atthadassin và cả ba được tái sanh trong cùng một đại kiếp.

Và tiếp theo sau Đức Phật Sujāta, một trăm ngàn đại kiếp trước đây, có ba Đức Phật xuất hiện đó là: Piyadassin, Dhammadassin và Atthadassin và cả ba được tái sanh trong cùng một đại kiếp.[342] Trong trường hợp này, sau khi đã chu tất các pháp Ba la mật, Đạo Sư có hồng danh là Piyadassin đã tái sanh nơi Cõi Trời Đâu Suất. Sau khi đã tịch diệt khỏi cõi đó, ngài giáng trần tái sanh trong lòng hoàng hậu Candā tại thành phố Sudhaññavat, diện mạo[343] của hoàng hậu giống như mặt trăng (canda). Bà là vợ nhiếp chính của nhà vua Sudassana. Sau mười tháng trong bụng mẹ, hoàng hậu đã đản sanh ngài ngay trong khu vui chơi giải trí Varuṇa. Vì có nhiều điềm lạ rất quý báu cho thế gian đã xuất hiện, thế nên vào ngày lễ đặt tên cho ngài họ hàng đã đơn giản đặt tên cho ngài là Piyadassin (Người nhìn thấy những điều thân thương).Ngài đã sống trong hậu cung khoảng độ chín ngàn năm. Người ta nói rằng ngài có ba toà lâu đài tên là Sunimmala[344] Vimala. Giribrah[345]. Có tới ba mươi ba ngàn phụ nữ hầu hạ Ngài có hoàng hậu Vimalā lãnh đạo.

Khi đã chứng kiến bốn hiện tượng và hoàng tử Kañcana[346] được hoàng hậu Vimalā hạ sanh ngài đã xuất gia trong một cuộc xuất gia vĩ đại trên một chiếc xe có ngựa thuần chủng kéo. Và ngài đã lên đường. Có khoảng mười triệu người cũng đã xuất gia theo gương của ngài. Vây quanh là đoàn người đông đảo đã đi theo, ngài đã quyết định tiến hành một cuộc phấn đấu khổ hạnh trong vòng sáu tháng và vào ngày rằm tháng Visākha ngài đã thọ cơm sữa ngọt do con gái thầy Bà la môn tên là Vasabha dâng cúng cho ngài ngay trong ngôi làng Varuṇ. Ngài đã trải qua một ngày tạm tú trong khu rừng Sāla. Nhận tám bó cỏ khô do Sujāta, một ẩn sĩ loã thể dâng tặng ngài. Ngài đã tiến tới cây Bồ Đề Kakudha và rải những nắm cỏ khô đó xuống một khoảng đất rộng năm mươi ba cubit. Ngồi thiền kiết già ngài đã thấu triệt trí toàn tri và thốt lên lời tuyên bố long trọng. Sau khi đã trải qua bảy tuần lễ khu rừng đó và biết rằng những chúng sanh đã xuất gia theo gương của ngài cũng đã có khả năng thấu triệt Thánh pháp. Ngài đã bay lên không trung và đáp xuống nơi vui chơi giải trí Usabhavana gần thành phố Usabhavatī.[347] Vây quanh là mười triệu các vị tỳ khưu ngài đã Chuyển Pháp Luân tại đó, thế rồi đã diễn ra một cuộc thấu triệt Pháp hội cho khoảng một trăm ngàn mười triệu chúng sanh. Đây là cuộc thấu triệt đầu tiên.

[209] Còn nữa, có một vị Thiên chủ tên là Sudassana đang cư trú trên núi Sudassana không xa thành phố Subhavatī là bao. Ngài chủ trương tà kiến. Hàng năm dân chúng trong Nam Thiện Bộ châu (jambudīpa) phải gom hàng trăm ngàn lễ vật để dâng cúng cho ông ta. Vị Thiên chủ Sudassana này đang ngồi trên cùng một chiếc ghế với vị vua chúng sanh trên thế gian, nhận lễ vật cúng của dân chúng đem lại. Thế rồi Đức Phật Sudassana suy tính, “Ta sẽ xua đuổi những tà kiến của vị Thiên chủ Sudassana kia”, ngài liền đi vào nhà của vị Thiên chủ đang lúc hắn ra ngoài tụ họp các Dạ-xoa (Yakkha) lại, lên kiệu hoàng cung, Ngài phát ra hào quang sáu màu, rồi ngồi xuống giống như mặt trời mùa thu trên núi Yugandhara. Các vị chư Thiên là những đồ đệ và trợ lý của vị Thiên chủ liền phủ phục kính lễ đức Như Lai Thập Lực cùng với vòng hoa, nước thơm và thuốc cao và đứng vây quanh lấy ngài. Thế rồi vị Thiên chủ Sudassana quay trở về sau khi đã đi qui tụ các dạ xoa và nhìn thấy hào quang sáu màu chiếu ra từ nơi cư trú của mình, hắn nghĩ. “Giờ đây, một vẻ vinh quang như thể luồng sáng chói có nhiều hào quang phát ra, điều này chưa hề xuất hiện trước đây bao giờ, kẻ nào đã dẫn xác đến đây? – chư Thiên hay thường dân đây?” Nhìn quanh hắn nhận ra vị Phật Tổ đang ngồi thiền và toả sáng với luồng sáng của hào quang sáu màu giống như mặt trời mùa thu mọc trên đỉnh núi. Hắn nghĩ. “Vị Sa môn đầu trọc đang ngồi trên kiệu vinh quang vây quanh là đoàn tuỳ tùng của ta.” Tâm trí của hắn nổi lên cơn tức giận và hắn nghĩ, “Thực vậy, giờ đến lượt ta sẽ chứng tỏ sức mạnh cho hắn thấy.” Và hắn đã biến cả ngọn núi thành một đám lửa cháy khủng khiếp.[348] Hắn nghĩ, “Chắc hẳn vị Sa môn đầu trọc kia hẳn sẽ bị ngọn lửa kia thiêu rụi thành than.” Nhìn quanh hắn trông thấy đức Như Lai Thập Lực lại chiếu sáng rực rỡ, thân hình vinh quang của ngài sáng chói với sự tỏa sáng rất nhiều hào quang, vẻ mặt[349] của ngài thanh tịnh với vẻ đẹp tráng lệ hiếm có, làn da của ngài đẹp đẽ biết bao. Hắn lại nghĩ. “Ngọn lửa hung hãn đang bừng bừng cháy kia đã không gây hề hấn gì cho tên Sa môn đó sao? Nào, ta sẽ cho nước dâng lên thành đại hồng thuỷ để giết chết tên Sa môn kia.” Và hắn đã tạo ra một trận lụt rất lớn trước cửa nhà. Nhưng ngay cả khi cơn lụt đó đã tràn khắp căn nhà vẫn không thể làm ướt ngay cả một sợi vải y cà sa của Đức Phật đang ngồi thiền trong căn nhà đó, hoặc ngay cả một sợi lông[350] trên cơ thể ngài cũng chẳng hề hấn gì. Bởi vậy tên Thiên chủ Sudassana lại suy nghĩ, “Chắc chỉ bằng cách này thì Sa môn mới bị ngạt thở[351] mà chết.” Nhưng khi hắn đã cho nước rút hết, nhìn quanh, hắn lại nhìn thấy Đức Phật đang ngồi vây quanh là chính đoàn đồ đệ của mình, ngài Toả sáng chói chan với biết bao nhiêu hào quang tỏa sáng giống như mặt trăng rằm mùa thu thấu qua các kẻ hở những đám mây đen. Không thể kiềm chế nổi tức giận hắn lại nghĩ, “Nào ta sẽ giết chết tên Sa môn kia.” Và rồi trong tức giận hắn cho đổ xuống một trận mưa gồm đến chín loại vũ khí.[352] Nhưng nhờ vẻ oai nghiêm của Đức Phật tất cả các loại vũ khí liền biến thành những vòng hoa đủ loại hương vị vô cùng ngọt ngào, sảng khoái rơi ngay xuống dưới chân Như Lai Thập Lực.

Khi Sudassana, Thiên chủ chứng kiến thấy điều lạ đó, hắn trở nên vô cùng bực tức, bằng cả hai tay hắn túm lấy chân đức Phật và muốn quẳng ngài ra khỏi nơi cư trú của mình. Hắn liền nhảy ra xa[353] và biến mất và khi đã vượt qua đại dương hắn đến ngọn núi trong vùng Cakkavāḷa. Thiên chủ nghĩ trong tâm, “Giờ đây, không hiểu tên ẩn sĩ khốn kiếp kia còn sống hay đã chết?” Nhìn quanh hắn lại thấy ngài vẫn ngồi thiền trên cùng chiếc kiệu đó và hắn nghĩ, “Ôi vị Sa môn này có sức mạnh phi thường oai nghiêm quá sức, ta không thể trục xuất ngài khỏi chỗ này được; nếu như có kẻ nào biết được điều này hẳn ta sẽ bị thiên hạ ruồng bỏ mất.

[210] Nhưng vì chẳng có ai chứng kiến thấy điều này, thế nên ta có thể ra đi và bỏ hắn lại đây.”

Thế rồi quán xét trạng thái tâm của Thiên chủ, đức Như Lai Thập Lực nhất quyết khiến cho toàn bộ chúng sanh và chư Thiên đều chứng kiến thấy tên vua quỷ quyệt đó.Và ngay ngày hôm đó một ngàn quốc vương trên khắp Nam Thiện Bộ châu đã tụ tập lại để dâng lên hắn ta một lễ vật. Các vị vua con người nầy nhìn thấy Thiên chủ Sudassana đang ngồi đó ôm chân vị Phật tổ, các vị vua chúng sanh liền nghĩ. “Thiên chủ của chúng ta đang kính phục dưới chân Đạo sư Piyadassin, là vua các vị hiền triết. Ôi Đức Phật thật tuyệt vời biết bao. Ôi, những ân đức đặc biệt của ngài vô cùng đặc sắc.” Và với tấm lòng đầy tin tưởng đối với Đức Phật, những vị vua nầy đều đứng lên kính lễ Đức Phật giơ tay cao trên đầu. Bởi vậy Đức Phật Piyadassin, để cho vị Thiên chủ Sudassana ngồi ngay phía trước mọi người, và diễn giải Giáo Pháp. Rồi có khoảng chín mươi ngàn mươi triệu gồm cả chư Thiên cũng như con người đã chứng đắc A-la-hán. Đây là cuộc thấu triệt Pháp hội thứ hai.

Còn nữa, trong thành phố Kumuda rộng khoảng chín do tuần (yojana) có vị Trưởng Lão Soṇa, giống như Devadatta, ngài đã tỏ ra không thân thiện với Đức Phật, họ đã cùng nhau tham khảo ý kiến với hoàng tử Mahāpaduma, là vị hoàng tử đã giết chết cha mình, rồi cũng còn nghĩ ra nhiều phương cách nhằm giết luôn cả Đức Phật Piyadassin.[354] Nhưng vì không thể thực hiện được điều đó, hoàng tử đã sai tên quản tượng Doṇamukha, vua các con voi hoàng gia. Hoàng tử đã điều và tán tỉnh hắn giải thích sự việc cho hắn biết: “Giờ đây, khi nào vị Sa môn Piyadassin vào thành phố khất thực, hãy thả voi Doṇamukha, vua các voi ra và để cho voi Doṇamukha giết chết vị ẩn sĩ Piyadassin” Thế rồi tên quản tượng, một người rất thân tình với đức vua, chẳng nghĩ gì đến điều xấu tốt[355] sẽ xảy ra, liền cân nhắc. “Rất có thể vị Sa môn này có thể khiến cho ta mất chức.[356] Và hắn đã đồng ý nói rằng. “Được rồi”

Vào ngày hôm sau, sau khi đã quan sát thời điểm đức Như Lai Thập Lực’ đi vào thành phố, hắn đã khiến cho chú voi[357] say khướt bằng cách cho ăn rất nhiều đồ ăn có tẩm dầu và khói trầm. Hắn đã điều con voi hung hăng nhất trong đoàn[358] tên là Ervaṇa,[359] để giết chết con voi vinh quang, con voi của các vị hiền triết. Khi còn đi lang thang đó đây, con voi hung hãn liền tiến lại gần làm khiếp sợ voi Antaka.[360] Đầu Trán voi[361] và thuỳ trán được trang hoàng rất đẹp. Hai bên hông sườn[362] dốc và có đường cong giống như chiếc cung nỏ, hai tai to tướng trải rộng ra, mắt nâu rất dịu dàng, lưng và hai u vai[363] được trang hoàng rất đẹp, hai bên thắt lưng rất dầy, là những gì được che khuất giữa hai đầu gối đồ sộ, hai chiếc ngà vô cùng xinh đẹp trông giống hệt hai chiếc lưỡi cày. Chiếc đuôi màu xanh đậm, con voi đã có được toàn bộ những đặc điểm rất tao nhã để ta chiêm ngắm. Giống như đại dương bao la vô bờ bến, giáng đi của con voi giống như chúa sơn lâm, rất uyển chuyển và mạnh mẽ. Cả môi trên và môi dưới đều mấp máy. Con voi vô cùng vững vàng, và tỏ dấu rất sung sức trong mọi tình huống.

Thế rồi con voi vinh quang[364] như thể đang trong cơn hung hãn, sau khi đã giết chết nhiều chú voi cũng như các con trâu rừng, ngựa và cả chúng sanh đàn ông cũng như đàn bà. Thân hình của nó hình như nhuốm màu máu của các nạn nhân đó,[365] mắt nó để lộ rõ một ánh sáng nội tâm chói chang, đã từng đập tan những gọng xe, cửa sổ cả những căn nhà có tháp nhọn, những cổng vào nhà và vườn tược. Đang đi lang thang đó đây có bầy quạ đói, diều hâu và chim kên kên đuổi theo. Khi đã bẻ gẫy các chi của trâu rừng, người, ngựa và những con voi[366] khác, chú voi đó đã giết chết các nạn nhân, bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến giống như Dạ xoa ăn thịt người. Ngay lúc đó nó đã nhìn thấy đức Như Lai Thập Lực xuất hiện từ xa đang tiến lại gần, vây quanh là đoàn các đồ đệ đi theo và con voi đã nhanh chóng tiến gần đến gặp Đức Phật tổ. Với vận tốc của một con chim phượng hoàng bay trên không trung. Thế rồi các cư dân sống trong thành phố tâm của họ tràn đầy khiếp sợ và hoảng loạn đã leo lên những căn nhà cao, những bức tường nhà và tường thành[367] và leo cả lên cây cao và đã nhìn thấy con voi đang phóng nhanh[368] về phía đức Như Lai phát ra những tiếng kêu khủng khiếp, “a ha, a ha”

[211] Nhưng một số đồ đệ đi theo lại bắt đầu kiểm chứng con voi với nhiều phương cách và phương pháp khác nhau.

Rồi bậc Long Tượng (voi = naga) đó, nhìn thấy chú voi naga[369] đang khi nó tiến lại gần ngài, tâm an tịnh toả ra một lòng bi mẫn, bao trùm lấy con voi với lòng từ bi. Bởi vậy con voi naga đó, biết rõ nhược điểm sân hận của mình, những căn nguyên sân hận trong lòng được làm dịu đi bằng lòng từ tâm đã lan toả lấy hắn. Không tài nào đứng vững trước Đức Phật do bởi xấu hổ chú voi liền phủ phục đầu xuống dưới chân Đức Phật như thể đang độn thổ vào lòng đất. Và đang khi nó phủ phục xuống đất như vậy thì toàn thân hình nó biến thành một khối đen ngòm và toả sáng ra giống như một đám biển tháo gổ gần một đỉnh núi chói chang vinh quang nhuốm màu ánh sáng ban chiều. Nhìn thấy con voi chúa[370] nằm phục xuống như vậy với đầu phục dưới chân vị vua hiền triết, cư dân trong thành phố, liền kêu lên những tiếng reo hò như tiếng sư tử. “hoan hô” tâm họ tràn đầy phỉ lạc tuyệt vời nhất. Họ liền kính lễ ngài bằng nhiều cách khác nhau với vòng hoa thơm phức, với gỗ dáng hương, nước hoa thơm, bột thơm và nhiều đồ trang sức quí hoá. Họ vẫy quần áo khắp tứ phía. Trên bầu trời tiếng trống các chư Thiên đang vang vọng lại. Rồi Đức Phật Tổ nhìn thấy con voi vinh quang[371] đang nằm phủ phục xuống dưới chân ngài như một ngọn núi không bị ràng buộc. Sau khi đã vỗ đầu con voi vinh quang[372] với bàn tay của ngài được tô điểm với những điều thôi thúc, biểu ngữ, lưới, chank. Bánh xe, ngài đã chỉ dạy cho voi bằng cách diễn giảng Giáo Pháp liên quan đến đặc tính ngoan ngoãn trong lòng:

Hãy lắng nghe những gì ta đã nói về con voi vinh quang và hãy nghe theo lời của ta là quan tâm đến hạnh phúc và thịnh vượng của chúng sanh. Rồi từ bỏ đi việc cướp bóc và thói nghiện ngập sát sanh, chứng đắc an tịnh, bố thí những gì là cảm khoái.

85

Vua tượng. thường gây hại cho các chúng sanh do tính tham lam và sân hận hay si mê vì những kinh nghiệm lâu ngày, nỗi thống khổ khủng khiếp trong địa ngục (Niraya) vì sát sanh.

86

Đừng bao giờ thực hiện hành vi như vậy nữa, hỡi voi thần,[373] do tính cẩu thả hoặc tính hão huyền. Vì thực hiện sát sanh ta chỉ rước lấy đau khổ phải chịu nơi địa ngục A Tỳ (Avīci) kéo dài hàng nhiều đại kiếp.

87

Sau khi đã chịu đựng nổi thống khổ khủng khiếp trong địa ngục (Niraya), nếu như người đó lại được tái sanh nơi cõi người này, người đó sẽ liên tục chỉ được tuổi thọ ngắn ngủi, vô duyên, tàn bạo, là người phải can dự vào nỗi thống khổ thái quá.[374]

88

Và bởi vì chúng sanh là những người vô cùng yêu quí, chính vì thế chúa tượng naga (voi), biết rõ như vậy là quần chúng rất quý báu đối với người khác. can dự vào phải xa lánh.

89

[212] Sau khi đã nhận ra có nhiều điều nơi sân hận và thói nghiện ngập làm hại cho người khác cũng như kiềm chế khỏi sát sanh. (thế thì) kiêng không sát sanh, bạn có thể ao ước[375] Šhạnh phúc mai hậu trên thiên đàng.

90

Kiềm chế không sát sanh, thuần hoá tốt. Chúng ta sẽ trở nên quí mến và được yêu thích trên đời này, và sau khi thân xác này đã tan biến Đức Phật dạy được cư ngụ trên thiên đàng.

91

Trên thế gian này không có ai lại ước muốn đau khổ cả. Tuy nhiên, tất cả mọi người sanh ra đều tìm kiếm hạnh phúc. Chính vì thế, voi vĩ đại, sau khi đã từ bỏ sát sanh, sẽ tu tập từ tâm và lòng bi mẫn luôn mãi.

92

Thế rồi sau khi con voi vinh quang, được đức Như Lai Thập Lực chỉ dạy như vậy, đã đạt được tính kiềm chế.[376] Con vật trở nên giống như người đồ đệ học hỏi được kỷ luật và chánh hạnh và được huấn luyện kỹ càng. Chính vì thế Đức Phật Tổ Piyadassin sau khi đã thuần hoá được con voi vinh quang Doṇamukha ngài đã thuyết giảng Giáo Pháp tại đó cho đại chúng, cũng giống như Đức Phật của chúng ta sau khi đã thuần hoá được Dhanapāla. Sau đó một cuộc thấu triệt Pháp hội cho tám mươi trăm ngàn mười triệu chúng sanh đã diễn ra. Đây là cuộc thấu triệt pháp hội thứ ba. Do vậy có lời nói về điều này như sau:

XIV. 1. Tiếp theo sau Sujāta, đã thấy xuất hiện Piyadassin, là vị lãnh đạo thế gian, vị tự hiện hữu, khó lòng có ai tấn công được ngài, tài năng khôn ví và tiếng tăm lừng lẫy.

2. Và Đức Phật đó trở nên nổi tiếng vang dội giống như mặt trời, tiêu diệt được hết mọi bóng tối u ám, ngài đã Chuyển Pháp Luân.

Và nơi ngài toả ra một nguồn sáng vô tận, đã xảy ra ba cuộc thấu triệt Pháp hội. Cuộc thấu triệt đầu tiên cho khoảng một trăm ngàn mười triệu người.

Sudassana, Thiên chủ, đã mắc phải tà kiến. Sau khi đã xua tan được hết tà kiến cho Sudassana, vị Đạo Sư đã diễn giải Giáo Pháp cho vị vua đó.

Sau đó Có một Hội chúng các bá tánh đông đảo vô tận và vĩ đại đã được tụ tập lại; cuộc thấu triệt Pháp hội thứ hai diễn ra cho khoảng chín mươi ngàn mười triệu người.

Khi bậc Điều Ngự Trượng phu đã thuần hoá được Doṇamukha đã diễn ra một cuộc thấu triệt Pháp lần thứ ba cho khoảng mười triệu tám mươi ngàn người.[377]

Trong thành phố Sumaṅgala con trai của nhà vua tên là Pālita và con trai của vị thầy tu tên là Sabbadassin, hai đứa trẻ đã là bạn chơi với nhau từ thời còn nhỏ. Nghe có vị Chánh Đẳng Giác, Piyadassin đến thăm thành phố. Đang khi ngài còn thực hiện một cuộc du hành, cả hai đã đến gặp ngài cùng với đoàn tuỳ tùng khoảng độ mười triệu một trăm ngàn người. Khi hai chàng trai nghe biết Giáo Pháp của ngài Phật Tổ

[213] và đã tổ chức một cuộc Đại thí trong vòng bảy ngày, hai chàng trai đã xuất gia vào ngày thứ bảy cùng với hơn mười triệu một trăm ngàn người vào buổi kết thúc lời chúc phước lành cho bữa ăn. Cả hai đã chứng đắc A-la-hán. Đức Phật đã tụng Giới Bổn giữa họ. Đây là Tăng Đoàn đầu tiên. Sau đó một thời gian vào một lần tụ tập dành cho Sudassana, Thiên chủ, có 10.090.000 người đã chứng đắc A-la-hán, họ vây quanh Đạo sư và ngài đã tụng Giới Bổn. Đây là Tăng Đoàn thứ nhì. Còn nữa, 10.080.000 người cũng đã xuất gia vào dịp ngài thuần hoá voi Doṇamukha và chứng đắc A-la-hán. Vị Phật Tổ đã tụng Giới Bổn ngay giữa họ. Đây là Tăng Đoàn thứ ba. Do vậy có lời nói rằng:

XIV 7. Và Đức Phật Piyadassin đã qui tụ được Tăng Đoàn. Tăng đoàn đầu tiên qui tụ khoảng 10.100.000 người.

8. Sau đó có 10.090.000 người hiền triết (sage) đã cùng nhau tụ tập lại. Tăng Đoàn thứ ba lại gồm tới 10.080.000 người.

Vào thời đó có vị Bồ Tát của chúng ta là một thanh niên Bà-la-môn tên là Kassapa; ngài đã thông thạo ba Phệ Đà với truyền thống huyền thoại là Phệ Đà thứ năm. Khi ngài được nghe giáo Pháp của Đạo Sư, bằng một hy sinh một khoản tiền gồm 10.100.000 ngàn ồng tiền vàng, ngài đã cho xây một thiền viện thật dễ thương dành cho Tăng Đoàn, và đã kiến lập nơi nương tựa và năm giới. Thế rồi vị Đạo sư đã thọ ký về ngài BồTát, “1800 đại kiếp sau kể từ lúc này ngài sẽ trở thành một Đức Phật có hồng danh là Cồ Đàm.” Do vậy có lời nói rằng:

XIV

9. Vào thời đó ta mới chỉ là một thanh niên[378] Bà-la-môn tên là Kassapa. một người trì tụng, là chuyên gia thần chú, tinh thông cả ba Phệ Đà[379].

Khi ta đã được nghe Giáo Pháp của ngài ta đã kiến lập được một niềm tin. Với hơn 10.100.000 đồng tiền vàng ta đã cho xây dựng một công viên cho Tăng Đoàn.

Sau khi đã bố thí cho Đức Phật Piyadassin công viên đó, ta cảm thấy vui sướng và phấn khởi trong tâm, ta đã Qui y và thọ trì năm giới khiến cho ta vững mạnh trong những giới hạnh đó.

Và cả Đức Phật[380] đó nữa khi ngài ngồi giữa tăng đoàn, đã thọ ký về ta như sau, “Sau 1800 đại kiếp nữa vị này sẽ trở thành một Đức Phật.

Khi ngài đã quyết định thực hiện một cuộc phấn đấu khổ hạnh....” “./... chúng ta sẽ đối mặt với người này.”

Khi ta nghe những lời này, càng ngày ta càng có khuynh hướng quyết tâm thực hiện. Ta nhất quyết tiếp tục tu luyện nhiều hơn nữa để hoàn tất được mười pháp Ba la mật.

[214] Và thành phố của Đức Phật đó có tên là Sudhañña, nhà vua cha ngài tên là Sudatta, mẹ ngài là hoàng hậu trong cung có tên là Sucandā. Pālita và Sabbadassin là tối thượng nam thinh văn của ngài. Vị thị giả cho ngài tên là Sobhita, Sujātā và Dhammadinnā là hai tối thượng nữ thinh văn của ngài. Cây Bồ Đề của ngài là cây Kakudha. Ngài có thân hình cao tám mươi cubit, tuổi thọ của ngài kéo dài chín mươi ngàn năm. Vīmalā là tên của người vợ chính của ngài, con trai của ngài tên là Kañcanvela. Ngài đã xuất gia trên một chiếc xe do con ngựa thuần chủng hoàng gia kéo. Do vậy có lời nói rằng:

XIV.

Sudhañña là tên thành phố,[381] Sudatta[382] là tên của vị Quí Tộc Sát Đế Lị, còn Sucandā[383] là tên của mẹ Đức Phật Piyadassin, vị Đạo sư.

Pālita và Sabbadassin là hai tối thuợng nam thinh văn, Sobhita là tên vị thị giả cho Đức Phật Pyadassin, vị Đạo sư.

Sujātā và Dhammadinnā là hai tối thượng nữ thinh văn của ngài. Cây Bồ Đề của vị Phật Tổ đó là cây đại thụ Kakudha[384].

Và Đức Phật đó vô cùng nổi tiếng đã có ba mươi hai tướng tốt. Cao tám mươi cubit, Ngài trông giống như một cây Sāla vương đế.

Chẳng có luồng sáng ngọn lửa, mặt trăng và mặt trời nào có thể sánh bằng hào quang của vị đại tiên ẩn sĩ và chẳng có gì sánh nổi.

24.Tuổi thọ của ngài kéo dài chín mươi ngàn năm.

Nhưng Đức Phật khôn ví đó, và những cặp không gì sánh kịp đó cũng đã biến mất. Thế chẳng phải tất cả các pháp hành đều trống rỗng cả hay sao?

11. Trong trường hợp này những nơi nương tựa và thọ trì năm giới: ý nghĩa ở đây là: Tam Qui và ngũ giới.[385]

12. 1800 đại kiếp có nghĩa là đến kỳ hạn 1800 đại kiếp kể từ đây.

23. Giống như cây Sāla vương đế. Có nghĩa là ngài xuất hiện giống như một vị vua các cây Sāla với thân cây[386] tròn trịa và cân đối, nhìn ngắm cây đó là điều thích thú vô cùng. Khi cây trổ lộc đâm bông.

23. Và những cặp đó có nghĩa là những cặp đó là những đôi tối thượng nam thinh văn v.v... của ngài.[387]

Tất cả những gì còn lại trong các đoạn kệ trên coi như đã quá rõ ràng.

Đến đây kết thúc phần Chú giải biên niên ký sự Đức Phật tổ Piyadassi.

Cũng kết thúc phần Chú giải biên niên ký sự Đức Phật tổ thứ mười bốn.

 


[342]. Đại kiếp Vara, xin đọc thêm trong bản văn tr. 191

[343]. Vadana, không có trong Tự điển Pāli-Anh (PED) theo ý nghĩa này, xin đọc trong M- W.

[344]. Bv Sunimala

[345]. Bv, Be ghi là Giriguhā

[346]. Bv, ghi là Kañcanavela, cả ở nơi khác nữa. Trong bản văn tr. 214 ngài có tên là Kañcanāvela

[347]. Ussāvana là tên ghi trong Phật Tông xiv. tr. 19

[348]. Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon ghi là ekajālamālaṃ, còn BvAB lại ghi là ekajālaṃ

[349]. Vadana

[350]. BvAC ghi là roma, còn BvAB ghi là loma

[351]. Nirassāsa, không thể thở được, không còn hơi, bị ngạt. Không thấy có trong Tự điển Pāli-Anh (PED)

[352]. Xin đọc chín loại vũ khí trong bản văn tr. 299,289 và năm loại vũ khí trong Miln 339

[353]. Ukkhipitvā không có nghĩa đúng ở đây. Tôi nghĩ là người đó bị túm lấy, cầm chắc đến nỗi tự mình phải vặn vẹo đi tự bay lên không.

[354]. Xin đọc câu chuyện về Ajātasattu, người phạm tội giết cha mình, và âm mưu giết Đức Phật Cồ Đàm của hắn.

[355]. Hitāhitavicāraṇarahita

[356]. Thānantara. Xin ọc tự điển Childers; cũng giống như trong Chú giải Trường Bộ Kinh (DA) I 297, Pháp cú kinh (Dhammapada) I 340

[357]. Ở đây và dưới này thì vārana chẳng phải là nāga

[358]. Arivāraṇavāraṇa, xin đọc bản văn tr. 245

[359]. Con voi của Thiên Chủ (Sakka), xin đọc bản văn tr. 245

[360]. Người gây ra chết chóc. Cái chết, đôi khi là một tính ngữ ám chỉ Ma-vương

[361]. Đọc là –nalāta trong BvAB còn BvAC thì ghi là -thala

[362]. Suṇḍa taṭa. không thấy có trong Tự điển Pāli-Anh (PED) xin đọc M-W- v.l sroṇi-taṭa

[363]. Khandhāsana

[364]. Dviradavaro. Xin đọc dirata dưới đây. và tr. 288, không thấy có trong Tự điển Pāli-Anh (PED) nhưng lại có trong tự điển Childers

[365]. Hata, những kẻ mà hắn đã giết chết.

[366]. Dirada.

[367]. Caya. xin đọc M-W- s.v. I ci, trong đó có nhiều ý nghĩa được đưa ra là những toà lâu đài nhiều loại khác nhau.

[368]. BvAC ghi là abhipatantaṃ. Còn BvAB ghi là abhidhāvāntaṃ

[369]. Hatthi-naga

[370]. Karirajā

[371]. Dirada

[372]. Gaja

[373]. Mātaṅga

[374]. Dukkhavisesabhāgī

[375]. Chú giải Lịch sử Chư Phật tiếng Ceylon ghi là icchaya tvaṃ, BvAB ghi là icchati te

[376]. Sañña từ Saṃ +yamati; Xin đọc VSm 57-asaṃyatassa V.1-asaññatassa do một người không biết kiềm chế”

[377]. 80 trăm ngàn như đã được đưa ra ở trên.

[378]. BvAC ghi là māṇavo, BvAB lu ý là trong đó Bv, Be giải thích là brāhmaṇo

[379]. Như trong IIA 6, 10

[380]. tadā  trên, Buddho trong Phật Tông

[381]. Sudhaññavat trong bản văn tr. 208 và BvAB, Anoma trong Ja i. 39

[382]. Sudassana trong bản văn tr. 208 bà Chú giải Lịch sử Chư Phật bản tiếng Miến, Sudinna trong Ja i. 39

[383]. Canda trong bản văn tr. 208, BvAB , Ja i. 39

[384]. Piyaṅgurukkha trong Ja i.39

[385]. Saraṇe pañcasle cāti tisaraṇāni ca pacaslāni cā ti attho

[386]. Samavattakkhandha, có vai rộng tròn trịa. Cũng là một trong 32 tướng tốt của một đại nhân; xin đọc bản văn tr 124, 204

[387]. Xin đọc bản văn tr 176

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn