- -Mục Lục-Lời nói đầu
- * 1.1-Vi-Diệu-Pháp là danh-từ gọi pháp nào?
- * 1.2-Tâm (Citta)
- * 1.3-Bất-Thiện-Tâm (Akusalacitta
- * 1.4-Dục-Giới Tịnh-Hảo-Tâm (Kāmāvacarasobhaṇacitta)
- * 2.1-Vô-Nhân-Tâm (Ahetukacitta)
- * 2.2-Tâm Với Tâm-Sở
- * 2.3-Nghiệp Và Quả Của Nghiệp
- * 3.1-Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm(Kāmāvacarakusalacitta)
- * 3.2-Quả Của 8 Dục-Giới Đại-Thiện-Tâm
- * 3.3-Nhận Xét Về 3 Hạng Người Trong Đời
- * 3.4-Tái-Sinh Kiếp Sau ( Paṭisandhi)
- * 4- Đoạn Kết
Vi Diệu Pháp - Hiện thực trong cuộc sống
Phần – 2.1
Vô-Nhân-Tâm (Ahetukacitta)
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với nhân.
Hetu: Nhân có 6 nhân chia ra 2 loại:
1- Akusalahetu: Bất-thiện nhân có 3 nhân là lobhahetu: nhân tham, dosahetu: nhân sân, mohahetu: nhân si.
2- Kusalahetu: Thiện nhân có 3 nhân là alobhahetu: nhân vô-tham, adosahetu: nhân vô-sân, amohahetu: nhân vô-si (trí-tuệ).
Tâm hợp với bất-thiện nhân hoặc thiện nhân thì gọi là sahetukacitta: Hữu-nhân-tâm, và tâm không hợp với nhân nào trong 6 nhân thì gọi là ahetukacitta: vô-nhân-tâm.
Ahetukacitta: vô-nhân-tâm có 18 tâm chia ra làm 3 loại:
1- Akusalavipākacitta: Bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm có 7 tâm, là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm.
2- Kusalavipākāhetukacitta: Thiện-quả-vô- nhân-tâm có 8 tâm, là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm.
3- Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm, là tâm làm phận-sự, không có quả..
1- Akusalavipākacitta
Akusalavipākacitta: Bất-thiện-quả vô-nhân-tâm có 7 tâm là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ cakkhuviññānaṃ.
Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng.
2- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ sotaviññānaṃ.
Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh không hay, không đáng hài lòng.
3- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ ghānaviññānaṃ.
Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương mùi hôi, không đáng hài lòng.
4- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ jivhāviññānaṃ.
Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị không ngon, không đáng hài lòng.
5- Dukkhasahagataṃ akusalavipākaṃ kāyaviññānaṃ.
Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ khổ, là quả của bất-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thân khổ, không đáng hài lòng.
6- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ sampaṭicchanacittaṃ.
Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, tiếp nhận 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu, không đáng hài lòng.
7- Upekkhāsahagataṃ akusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của bất-thiện-nghiệp, suy xét trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu, không đáng hài lòng.
2- Kusalavipākāhetukacitta:
Kusalavipākāhetukacitta:Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 tâm là quả 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm như sau:
1- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ cakkhuviññānaṃ.
Nhãn-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
2- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ sotaviññānaṃ.
Nhĩ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nghe đối-tượng thanh hay, đáng hài lòng.
3- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ ghānaviññānaṃ.
Tỷ-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, ngửi đối-tượng hương thơm, đáng hài lòng.
4- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ jivhāviññānaṃ.
Thiệt-thức-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
5- Sukhasahagataṃ kusalavipākaṃ kāyaviññānaṃ.
Thân-thức-tâm đồng sinh với thọ lạc, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, xúc-giác đối-tượng xúc thân an lạc, đáng hài lòng.
6- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ sampaṭicchanacittaṃ.
Tiếp-nhận-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, tiếp nhận trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
7- Upekkhāsahagataṃ kusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, suy xét trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
8- Somanassasahagataṃ kusalavipākaṃ santīraṇacittaṃ.
Suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp, suy xét 1 trong 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) tốt, đáng hài lòng.
3-Ahetukakiriyacitta:
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm là tâm phát sinh làm phận sự của mình, tâm này không hợp với bất-thiện-nhân (akusalahetu) cũng không hợp với thiện-nhân (kusalahetu), nên không phải là bất-thiện-tâm cũng không phải là thiện-tâm, cũng không phải là quả-tâm của tâm nào cả, nên tâm này gọi là vô-nhân-duy-tác-tâm chỉ có làm phận sự, mà không có quả.
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm:
1- Upekkhāsahagataṃ pañcadvāravajjanacittam:
Ngũ-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, tiếp xúc 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc) trong ngũ môn, để ngũ môn lộ-trình-tâm phát sinh.
2- Upekkhāsahagataṃ manodvāravajjanacittam:
Ý-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, tiếp xúc 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trong ý môn để ý môn lộ-trình-tâm phát sinh, hoặc là tâm làm phận-sự quyết định 5 đối-tượng trong ngũ môn, để ngũ môn lộ-trình-tâm phát sinh.
3- Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ:
Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ.
Giảng Giải 18 Vô-Nhân-Tâm
1- 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm, có 2 tên gọi: viññāṇaṃ và cittaṃ
* Gọi viññāṇa có 5 tâm là:
- Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nhãn-môn, làm phận-sự thấy đối-tượng sắc xấu.
- Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ nhĩ-môn, làm phận-sự nghe đối-tượng thanh không hay.
- Ghānaviññāṇa: tỷ-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ tỷ-môn, làm phận-sự ngửi đối-tượng hương mùi hôi.
- Jivhāviññāṇa: thiệt-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ thiệt-môn, làm phận-sự nếm đối-tượng vị không ngon.
- Kāyaviññāṇa: thân-thức-tâm là tâm phát sinh do nương nhờ thân-môn, làm phận-sự xúc-giác đối-tượng xúc cứng, …
* 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu, không đáng hài lòng.
Danh từ chế định gọi 5 thức tâm này là cakkhuviññāṇa,… do nương nhờ nơi 5 môn (cakkhudvāra, …) và 5 nơi sinh (cakkhu-vatthu,...) của 5 thức-tâm đều là sắc-pháp (rūpadhamma) nên gọi là viññāṇa cho dễ hiểu.
* Gọi cittaṃ có 2 tâm là:
- Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm,
- Santīraṇacitta: Suy-xét-tâm,
Danh từ chế định gọi 2 tâm này do nương nhờ phận-sự của tâm (kicca) thuộc về danh-pháp (nāmadhamma) nên gọi là citta.
* Vedanā: thọ đồng sinh với 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc xấu, không đáng hài lòng, có 2 loại thọ là thọ xả (upekkhāvedanā) và thọ khổ (dukkhavedanā).
*Cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa, jivhāviññāṇa, sampaṭicchanacitta, santīraṇacitta gồm có 6 tâm này đồng sinh với thọ xả (upekkhāsahagata) (không khổ không lạc), bởi vì 6 tâm này phát sinh do nương nhờ sắc-phụ-thuộc tiếp xúc với sắc-phụ-thuộc (upādāyarūpa) như đối-tượng sắc tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc, v.v… nên không có đủ cảm giác khổ hoặc lạc. Ví như bông gòn tiếp xúc với bông gòn rất nhẹ.
* Kāyaviññāṇa là thức-tâm đồng sinh với thọ khổ (dukkhasahagata), bởi vì thân-thức-tâm phát sinh do nương nhờ đối-tượng xúc xấu thô (3 đại: địa-đại, hoả-đại, phong-đại (trừ thuỷ-đại) tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (kāyapasāda-rūpa), nên có cảm giác khổ. Ví như cái búa đập mạnh bông gòn đặt trên tấm đá.
2- 8 thiện-quả vô-nhân-tâm là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm, cũng có 2 tên gọi: viññānaṃ và cittaṃ, giải thích tương tự như 7 bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Vedanā: thọ đồng sinh với 8 thiện-quả vô-nhân-tâm tiếp nhận 5 đối-tượng sắc, thanh, hương,vị, xúc tốt, đáng hài lòng, có 3 loại thọ là thọ xả (upekkhāvedanā), thọ lạc (sukhavedanā) và thọ hỷ (somanassavedanā).
* Cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa, jivhāviññāṇa, sampaṭicchanacitta, gồm có 5 tâm này đồng sinh với thọ xả (upekkhāsahagata) (không khổ không lạc) giải thích như bất-thiện-quả vô-nhân-tâm.
* Kāyaviññāṇa là thức-tâm đồng sinh với thọ lạc (sukhasahagata), bởi vì thân-thức-tâm phát sinh do nương nhờ đối-tượng xúc tốt mềm mại tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (kāyapasādarūpa), nên có cảm giác an lạc.
* Thiện-quả-vô-nhân-tâm có 8 quả-tâm nhiều hơn bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm 1 quả-tâm, bởi vì santīraṇacitta là thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt, đáng hài lòng, là quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp có 2 loại đối-tượng tốt:
1- Iṭṭhamajjhattārammaṇa: Đối-tượng tốt trung bình,
2- Ati-iṭṭhārammaṇa: Đối-tượng tốt đặc biệt.
* Nếu khi thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt trung bình thì tâm này không đủ để đồng sinh với thọ hỷ, chỉ đồng sinh với thọ xả, nên gọi là upekkhāsahagataṃ santīraṇakusalavipākacittaṃ: thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm đồng sinh với thọ xả.
* Nếu khi thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét đối-tượng tốt đặc biệt thì tâm này đồng sinh với thọ hỷ, nên gọi là somanassa-sahagataṃ santīraṇakusalavipākacittaṃ: thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm đồng sinh với thọ hỷ.
Nhưng bất-thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét dù đối-tượng xấu trung bình (aniṭṭhamajjhattārammaṇa) dù đối-tượng xấu thậm tệ (ati-aniṭṭhārammaṇa) thì tâm này cũng chỉ đồng sinh với thọ xả mà thôi, bởi vì bất-thiện-quả-vô-nhân-suy-xét-tâm làm phận sự suy xét dù đối-tượng xấu thậm tệ (ati-aniṭṭhā-rammaṇa) thì tâm này cũng không thể đồng sinh với thọ ưu (domassavedanā) được, bởi vì thọ ưu chỉ có đồng sinh với 2 sân-tâm mà thôi.
Vì vậy, bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm chỉ có 7 quả-tâm mà thôi.
Cách gọi chung cakkhuviññāṇa, sotaviññāṇa, ghānaviññāṇa kāyaviññāṇa thuộc về 5 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm và 5 thiện-quả-vô-nhân-tâm gom lại gọi là dvipañcaviññāṇacitta: 10 thức-tâm phát sinh do nương nhờ nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn.
Nhận Xét Về Bất-Thiện-Nghiệp Và Dục-Giới Đại-Thiện-Nghiệp Cho Quả
* Bất-thiện-nghiệp có 12 nghiệp chỉ cho quả là akusalavipākacitta: bất-thiện-quả vô-nhân-tâm, có 7 quả-tâm thuộc về vô-nhân-tâm (ahetukacitta) mà thôi, bởi vì 12 bất-thiện-nghiệp trong 12 bất-thiện-tâm đều có phóng-tâm tâm-sở (uddhacca-cetasika) làm giảm năng lực cho quả của 12 bất-thiện-nghiệp không có khả năng cho quả là hữu-nhân-tâm (sahetuka).
Vì vậy, 12 bất-thiện-nghiệp chỉ có cho quả là 7 bất-thiện-quả-vô-nhân-tâm thuộc về vô-nhân-tâm (ahetukacitta) mà thôi.
2- 8 Thiện-quả vô-nhân-tâm (ahetukakusala-vipākacitta) là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp quá-khứ do tác-ý không hoàn toàn trong sạch có 1 trong 3 thời-kỳ: trước khi tạo phước-thiện, đang khi tạo phước-thiện, sau khi đã tạo phước-thiện, làm cho dục-giới đại-thiện-nghiệp có ít năng lực, nên cho quả là vô-nhân-tâm (ahetukacitta).
8 Dục-giới đại-quả-tâm (mahākusalacitta) cũng là quả của 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp quá-khứ do tác-ý hoàn toàn trong sạch trong 3 thời-kỳ: trước khi tạo phước-thiện, đang khi tạo phước-thiện, sau khi đã tạo phước-thiện, làm cho dục-giới đại-thiện-nghiệp có nhiều năng lực, nên cho quả là hữu-nhân-tâm (sahetukacitta).
Như vậy, 8 dục-giới đại-thiện-nghiệp trong 8 dục-giới đại-thiện-tâm cho quả có 16 quả-tâm là 8 thiện-quả vô-nhân-tâm và 8 dục-giới đại-quả-tâm.
Tất cả chúng-sinh nói chung, mỗi người nói riêng trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài từ vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại này, trải qua vô-số kiếp, phần thân (sắc-uẩn) thay đổi theo từng mỗi kiếp tuỳ theo quả của nghiệp của mỗi chúng-sinh, phần tâm (danh-uẩn) vẫn sinh rồi diệt liên tục không ngừng từ kiếp này đến kiếp khác, từ kiếp vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại này đều tích-luỹ tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi bất-thiện-nghiệp dù nặng dù nhẹ không sót một nghiệp nào. Trong mỗi kiếp:
* Trong kiếp-hiện-tại, nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì nhãn-thức-tâm hợp với thọ xả nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng, v.v… thân-thức-tâm hợp với thọ lạc xúc-giác đối-tượng xúc tốt, đáng hài lòng, v.v… Hoặc nếu có ác-nghiệp nào có cơ-hội cho quả thì nhãn-thức-tâm nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng, v.v… thân-thức-tâm hợp với thọ khổ xúc-giác đối-tượng xúc xấu, không đáng hài lòng, v.v…
Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả trong kiếp-hiện-tại thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).
* Trong kiếp-kế-tiếp (kiếp sau), nếu có dục-giới đại-thiện-nghiệp nào có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau làm người hoặc làm chư-thiên trong 6 cõi trời dục-giới thì hưởng mọi sự an lạc trong cõi ấy, cho đến khi mãn quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy, mới chuyển kiếp (chết); hoặc nếu có ác-nghiệp nào có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau trong 4 cõi ác-giới: cõi địa-ngục, cõi a-su-ra, cõi ngạ-quỷ, loài súc-sinh thì chịu quả khổ của ác-nghiệp ấy, trong cõi ấy cho đến khi mãn quả của ác-nghiệp ấy (chết), mới thoát khỏi cõi ấy.
Nếu dục-giới đại-thiện-nghiệp ấy hoặc ác-nghiệp ấy không có cơ-hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì nghiệp ấy trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma).
* Còn từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, trước khi tịch diệt Niết-bàn, tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp không có nghiệp nào gọi là vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosikamma) cả, cho nên nếu bất cứ nghiệp nào có cơ-hội thì nghiệp ấy cho quả của nó.
* Nhưng đến khi bậc Thánh-A-ra-hán tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam-giới, thì chỉ có khi ấy, tất cả mọi dục-giới đại-thiện-nghiệp, mọi ác-nghiệp đã được tích-luỹ từ kiếp vô-thuỷ cho đến kiếp-hiện-tại mới thật sự trở thành vô-hiệu-quả-nghiệp (ahosi-
kamma) mà thôi.
Người nào có chánh-kiến sở-nghiệp của riêng mình (kammassakatā sammādiṭṭhi), có đức-tin trong sạch nơi Tam-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp. Nếu khi quả của dục-giới đại-thiện-nghiệp của mình phát sinh làm cho thân an lạc thì người ấy hưởng quả an lạc ấy, hoặc nếu khi quả của ác-nghiệp của mình phát sinh làm khổ thân thì người ấy cũng chấp nhận quả khổ ấy.
Người ấy có trí-tuệ sáng suốt chấp nhận quả của nghiệp của mình như người thừa-kế quả của nghiệp (kammadāyado).
Như vậy, người ấy chính là bậc đại-thiện-trí có trí-tuệ sáng suốt, có đức-tính công-bằng với chính mình, với mọi người, mọi chúng-sinh khác, không hề có tính thiên vị.
3- Vô-nhân-duy-tác-tâm (Ahetukakiriyacitta) là tâm phát sinh làm phận sự không hợp với nhân.
Vô-nhân-duy-tác-tâm chỉ phát sinh làm phận-sự, không phải là thiện-tâm, cũng không phải là bất-thiện-tâm, cũng không phải là quả-tâm của tâm nào cả.
Ahetukakiriyacitta: Vô-nhân-duy-tác-tâm có 3 tâm:
1- Upekkhāsahagataṃ pañcadvāravajjanacittam:
Ngũ-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, suy xét 5 đối-tượng trong ngũ môn.
2- Upekkhāsahagataṃ manodvāravajjanacittam:
Ý-môn-hướng-tâm đồng sinh với thọ xả, suy xét 6 đối-tượng trong ý môn, hoặc quyết định 5 đối-tượng trong ngũ-môn-lộ-trình-tâm.
3- Somanassasahagataṃ hasituppādacittaṃ:
Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ phát sinh trong 6 môn. (không phát sinh đối với các chúng-sinh khác).
Giảng Giải 3 Vô-Nhân Duy-Tác-Tâm
1- Pañcadvārāvajjanacitta: Ngũ-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả làm phận sự tiếp nhận, 1 trong 5 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu hoặc tốt tiếp xúc tương-xứng với môn (dvāra), mở cửa cho ngũ-môn-lộ-trình-tâm(pañcadvāravīthicitta) tương-xứng phát sinh.
Ví dụ: * Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng sắc mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với nhãn-môn, mở cửa cho nhãn-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn-hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng thanh mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với nhĩ-môn, mở cửa cho nhĩ-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng hương mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với tỷ-môn, mở cửa cho tỷ-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng vị mới tiếp xúc xấu hoặc tốt tương xứng với thiệt-môn, mở cửa cho thiệt-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ngũ-môn hướng-tâm làm phận sự tiếp nhận đối-tượng xúc mới xấu hoặc tốt tiếp xúc tương xứng với thân-môn, mở cửa cho thân-môn-lộ-trình-tâm phát sinh.
2- Manodvārāvajjanacitta Ý-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả làm phận sự tiếp nhận, 1 trong 6 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) xấu hoặc tốt cho ý môn (manodvāra) mở cửa cho ý môn lộ-trình-tâm phát sinh.
* Ý-môn hướng-tâm đồng sinh với thọ xả còn làm phận sự quyết-định (voṭṭhabbanakicca) đối-tượng xấu hoặc tốt cho ngũ-môn-lộ-trình-tâm.
3- Hasituppādacitta: Tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán đồng sinh với thọ hỷ phát sinh trong 6 môn. (không phát sinh đối với các chúng-sinh khác).
Bậc Thánh-A-ra-hán có thiên-nhãn-thông (dibbacakkhu-abhiññā) nhìn thấy loài ngạ-quỷ có thân hình kỳ dị với duy-tác-thần-thông-tâm 1 sát-na-tâm, tiếp theo suy xét với dục-giới đại-duy-tác-tâm hợp với trí-tuệ rằng: “Loài ngạ-quỷ như thế này không còn đối với ta được nữa.”
Sau khi suy xét như vậy, tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán (hasituppādacitta) phát sinh.
Bậc Thánh-A-ra-hán đã chứng đắc tiền-kiếp-thông (pubbenivāsānusatiñāṇa), vị-lai-kiến-thông (anāgataṃsañāṇa) thiên-nhãn-thông dibbacakkhu-
ñāṇa) dễ dàng có hasituppādacitta: tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán phát sinh.
Mỉm Cười Và Cười
Mỉm cười và cười có 6 loại:
1- Sita: Tâm mỉm cười trên mặt không lộ hàm răng, đó là sự mỉm cười của Đức-Phật.
2- Hasita: Tâm mỉm cười lộ chút ít hàm răng, đó là sự mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán.
Ngoài bậc Thánh-A-ra-hán ra, tâm mỉm cười của bậc Thánh-Bất-lai, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Nhập-lưu, hoặc hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si).
3- Vihasita: Tâm cười ra tiếng nho-nhỏ phát sinh đối với 3 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai, hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với thiện-nhân (vô-tham, vô-sân, vô-si).
4- Atihasita: Tâm cười ra tiếng lớn phát sinh đối với 2 bậc Thánh-nhân: bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, hạng thiện-trí phàm-nhân đều hợp với nhân (hetu).
5- Apahasita: Tâm cười làm cho thân mình nghiêng ngả chỉ phát sinh đối với hạng phàm-nhân mà thôi.
6- Upahasita: Tâm cười làm trào ra nước mắt chỉ phát sinh đối với hạng phàm-nhân mà thôi.
Mỉm cười và cười có 6 loại, 2 loại mỉm cười:
* Tâm mỉm cười trên mặt không lộ hàm răng gọi là sita, đối với Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác,
* Tâm mỉm cười lộ chút ít hàm răng gọi là hasita, đối với chư bậc Thánh-A-ra-hán.
Hai loại tâm mỉm cười này phát sinh làm phận sự, mà không chấp thủ nơi đối-tượng, nên tâm này có năng lực yếu đặc biệt phát sinh không hợp với nhân (hetu), gọi là hasituppāda-citta, thuộc về loại vô-nhân-tâm.
* Bốn loại tâm cười còn lại, tâm có năng lực mạnh, chấp thủ nơi đối-tượng, nên tâm này phát sinh hợp với nhân (hetu) gọi là sahetukacitta: tâm có nhân.
Saṅkhāra Trong Ahetukacitta
Trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha, Ngài Đại-Trưởng-lão Anuruddha trình bày trong phần ahetukacitta: vô-nhân-tâm có 18 tâm, không trình bày thuộc về loại asaṅkhārikacitta hoặc sasaṅkhārikacitta nào cả.
Theo các bộ khác có ý kiến khác nhau về saṅkhārika trong ahetukacitta được tóm lược theo 3 cách như sau:
* Trong bộ Mūlaṭīkā và bộ Abhidhammattha-vibhāvinīṭīkā có ý kiến rằng: “Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm đều là saṅkhāravimutti, 18 vô-nhân-tâm đều là không có saṅkhāra nào cả”, bởi vì trong bộ Abhidhammatthasaṅgaha không trình bày asaṅkhārikacitta và sasaṅkhārikacitta nào cả.
* Trong bộ Paramatthadīpanīṭīkā có ý kiến rằng: “Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm có asaṅkhārikacitta hoặc sasaṅkhārikacitta.”
* Bậc Tiền-bối có ý kiến rằng:“Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm có 18 tâm thuộc về asaṅkhārika-citta”, bởi vì nhãn-thức-tâm tự nhìn thấy đối-tượng sắc, nhĩ-thức-tâm tự nghe đối-tượng thanh,
tỷ-thức-tâm tự ngửi đối-tượng hương, thiệt-thức-tâm tự nếm đối-tượng vị, thân-thức-tâm tự xúc-giác đối-tượng xúc, v.v… do nương nhờ upattihetu: nhân-duyên khiến cho tâm ấy phát sinh, cho nên 18 vô-nhân-tâm này thuộc về asaṅkhārikacitta.
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không có 6 nhân (hetu): 3 bất-thiện nhân: nhân tham, nhân sân, nhân si, và 3 thiện nhân: nhân vô-tham, nhân vô-sân, nhân vô-si (trí-tuệ). 6 nhân này gọi là sampayuttahetu: nhân hợp với tâm.
Nếu tâm nào có bất-thiện nhân (akusalahetu) hoặc thiện nhân (kusalahetu) hợp với tâm ấy thì tâm ấy gọi là sahetukacitta: hữu-nhân-tâm.
Ahetukacitta: Vô-nhân-tâm là tâm không hợp với sampayuttahetu: nhân hợp với tâm, nhưng tất cả các pháp đều phát sinh do từ nhân (hetup-pabhava), nhân này không phải là sampayutta-hetu (6 nhân hợp với tâm), nhưng là nhân-duyên khiến cho tâm phát sinh gọi là upattihetu.
Cho nên, 18 ahetukacitta: vô-nhân-tâm phát sinh đều do nương nhờ upattihetu: nhân-duyên khiến cho mỗi tâm phát sinh.
Upattihetu Của 18 Ahetukacitta
Nhân-duyên khiến cho mỗi vô-nhân-tâm phát sinh cần phải hội đủ nhân-duyên của mỗi tâm, nếu trường-hợp thiếu 1 nhân-duyên nào thì vô-nhân-tâm ấy không thể phát sinh được.
Theo bộ Abhidhammatthasaṅgaha: Vi-diệu-pháp-yếu-nghĩa giảng giải rằng:
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Nhãn-Thức-Tâm
* Cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Cakkhupasāda: Nhãn-tịnh-sắc tốt (mắt không bị bệnh),
2- Rūpārammaṇa: Đối-tượng sắc rõ ràng tiếp xúc với nhãn-tịnh-sắc (mắt) ,
3- Āloka: Ánh sáng rõ ràng,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng sắc ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì nhãn-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc ấy.
* Nhãn-thức-tâm có 2 tâm:
- Nhãn-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc xấu, không đáng hài lòng,
- Nhãn-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nhìn thấy đối-tượng sắc tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Nhĩ-Thức-Tâm
Sotaviññāṇa: nhĩ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Sotapasāda: Nhĩ-tịnh-sắc tốt (tai không bị điếc),
2- Saddārammaṇa: Đối-tượng âm-thanh rõ ràng tiếp xúc với nhĩ-tịnh-sắc (lỗ tai),
3- Vivarākāsa: Khoảng trống không gian không có vật cản,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng âm-thanh ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì nhĩ-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nghe đối-tượng âm-thanh ấy.
* Nhĩ-thức-tâm có 2 tâm:
- Nhĩ-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh dở, không đáng hài lòng,
- Nhĩ-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nghe đối-tượng âm-thanh hay, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Tỷ-Thức-Tâm
Ghānaviññāṇa: Tỷ-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Ghānapasāda: Tỷ-tịnh-sắc tốt (mũi không bị bệnh),
2- Gandhārammaṇa: Đối-tượng hương rõ ràng tiếp xúc với tỷ-tịnh-sắc (lỗ mũi),
3- Vāyodhātu: Phong-đại (gió) thổi đưa mùi hương đến mũi,
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn-hướng tâm đến đối-tượng hương ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì tỷ-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự ngửi đối-tượng hương ấy.
* Tỷ-thức-tâm có 2 tâm:
- Tỷ-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng mùi hôi, không đáng hài lòng,
- Tỷ-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp ngửi đối-tượng hương thơm tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Thiệt-Thức-Tâm
Jivhāviññāṇa: Thiệt-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Jivhāpasāda: Thiệt-tịnh-sắc tốt (lưỡi không bị bệnh),
2- Rasārammaṇa: Đối-tượng vị rõ ràng tiếp xúc với thiệt-tịnh-sắc (lưỡi) ,
3- Āpodhātu: thuỷ-đại (nước miếng trong miệng),
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn hướng tâm đến đối-tượng vị ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì thiệt-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự nếm đối-tượng vị ấy.
* Thiệt-thức-tâm có 2 tâm:
- Thiệt-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp nếm đối-tượng vị dở, không đáng hài lòng,
- Thiệt-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-nghiệp nếm đối-tượng vị ngon, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 2 Thân-Thức-Tâm
Kāyaviññāṇa: Thân-thức-tâm có 2 tâm phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Kāyapasāda: Thân-tịnh-sắc tốt (thân khoẻ mạnh không bị bại liệt),
2- Phoṭṭhabbārammaṇa: Đối-tượng xúc (cứng, mềm, nóng, lạnh, căng, phồng) rõ ràng tiếp xúc với thân-tịnh-sắc (thân),
3- Thaddhapaṭhavīdhātu: Địa-đại cứng, …
4- Manasikāra: Chú tâm đó là ngũ-môn hướng tâm đến đối-tượng xúc ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì thân-thức-tâm với 7 tâm-sở phát sinh làm phận sự xúc-giác đối-tượng xúc ấy.
* Thân-thức-tâm có 2 tâm:
- Thân-thức-tâm là quả-tâm của bất-thiện-tâm xúc-giác đối-tượng xúc xấu, không đáng hài lòng,
- Thân-thức-tâm là quả-tâm của dục-giới đại-thiện-tâm xúc-giác đối-tượng xúc tốt, đáng hài lòng.
* Nhân Duyên Phát Sinh 3 Ý-Tự-Tánh
Manodhātu: ý-tự-tánh-tâm gồm có 3 tâm:
- Pañcadvārāvajjanacitta:Ngũ-môn-hướng-tâm
- Sampaṭicchanacitta: Tiếp-nhận-tâm có 2 tâm.
3 tâm này phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Pañcadvāra: 5 môn đó là nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn tốt,
2- Pañcārammaṇa: 5 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc),
3- Hadayavatthu: Ý-sắc-căn là nơi nương nhờ của tâm để phát sinh,
4- Manasikāra: Chú tâm đến đối-tượng ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì mano-dhātu có 3 tâm, mỗi tâm phát sinh tuỳ theo nhân-duyên, làm phận sự của mình đối với đối-tượng ấy.
* Manodhātu có 3 tâm:
- Ngũ-môn-hướng-tâm phát sinh làm phận sự tiếp nhận 1 trong 5 đối-tượng mới (sắc, thanh, hương, vị, xúc) xấu hoặc tốt tiếp xúc tương-xứng với môn (dvāra), mở cửa cho ngũ-môn lộ-trình-tâm (pañcadvāravīthicitta) tương-xứng phát sinh.
- Tiếp-nhận-tâm là quả-tâm của bất-thiện-nghiệp tiếp nhận đối-tượng xấu, không đáng hài lòng,
- Tiếp-nhận-tâm là quả-tâm của dục-giới đại thiện-nghiệp tiếp nhận đối-tượng tốt, đáng hài lòng,
* Nhân Duyên Phát Sinh 5 Ý-Thức-Tự-Tánh
Manoviññāṇadhātu:[1] ý-thức-tự-tánh gồm có 5 tâm trong 18 vô-nhân-tâm là
- Manodvāravajjanacitta: Ý-môn-hướng-tâm,
- Santīraṇacitta: suy-xét-tâm gồm có 3 tâm,
- Hasituppādacitta: tâm mỉm cười của bậc Thánh-A-ra-hán. 5 tâm này phát sinh do hội đủ 4 nhân-duyên:
1- Dvāra: 6 môn đó là nhãn-môn, nhĩ-môn, tỷ-môn, thiệt-môn, thân-môn, ý-môn,
2- Ārammaṇa: 6 đối-tượng (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
3- Hadayavatthu: Ý-sắc-căn là nơi nương nhờ của tâm để phát sinh,
4- Manasikāra: Chú tâm đến đối-tượng ấy.
Nếu khi hội đủ 4 nhân-duyên này thì mano-viññāṇadhātu có 5 tâm, mỗi tâm phát sinh tuỳ theo nhân-duyên làm phận-sự của mình.
Cho nên, 18 vô-nhân-tâm là tâm không hợp với sampayuttahetu (6 nhân hợp với tâm), nhưng mỗi vô-nhân-tâm phát sinh đều do nhân-duyên gọi là upattihetu: nhân-duyên phát sinh.
Như vậy, cakkhuviññāṇa: nhãn-thức-tâm phát sinh làm phận sự nhìn thấy đối-tượng sắc hình dáng là do hội đủ 4 nhân-duyên của nhãn-thức-tâm, nếu trường-hợp thiếu nhân-duyên nào thì nhãn-thức-tâm không thể phát sinh được.
Cũng như vậy, mỗi tâm với tâm-sở phát sinh đều do hội đủ nhân-duyên của tâm ấy. Tất cả các pháp-hữu-vi phát sinh đều do từ nhân-duyên, cho nên, tất cả các pháp-hữu-vi đều là pháp-vô-ngã (anattā), không phải là ta, không phải là người, không phải là đàn ông, không phải là đàn bà, không phải là chúng-sinh nào cả, tất cả các pháp chỉ là thật-tánh của danh-pháp hoặc sắc-pháp mà thôi.
Sở dĩ các hàng phàm-nhân thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh, v.v… là vì do vô-minh (avijjā) che phủ thật-tánh của danh-pháp hoặc sắc-pháp, do tà-kiến (diṭṭhi) thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, là người, là đàn ông, là đàn bà, là chúng-sinh, v.v…
Như vậy, ta hoặc ngã không có thật, nên không có phương pháp diệt ngã. Tà-kiến (diṭṭhi) là một tâm-sở có thật, nên có phương pháp diệt tà-kiến.
Khi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng-ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 2 loại phiền-não là tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu vĩnh viễn không còn có tà-kiến thấy sai chấp lầm nơi danh-pháp hoặc sắc-pháp cho là ta, ngã, là người, là đàn ông, đàn bà, là chúng-sinh nào nữa.
Bậc Thánh-Nhập-lưu đã diệt-đoạn-tuyệt được tà-kiến (diṭṭhi) và hoài-nghi (vicikicchā) có nghĩa là đã diệt-đoạn-tuyệt được 4 tham-tâm hợp với tà-kiến và 1 si-tâm hợp với hoài-nghi gồm có 5 bất-thiện-tâm, còn lại 7 bất-thiện-tâm là 4 tham-tâm không hợp với tà-kiến, 2 sân-tâm và 1 si-tâm hợp với phóng tâm chưa diệt-đoạn-tuyệt được.
Ngoài bậc Thánh-nhân ra, còn lại các hạng phàm-nhân đều có tà-kiến thấy sai chấp lầm.