(Xem: 1493)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Pháp hành Thiền

01 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 12947)

 

Pháp hành thiền (BHĀVANĀ)

Chương IX: Bhāvanā: Pháp-Hành-Thiền là chương tiếp theo chương VIII: Pāramī: Pháp Hạnh Ba-La-Mật đã được trình bày trong quyển VI (gồm có 3 tập) của bộ Nền-Tảng-Phật-Giáo. 

Chương IX: Bhāvanā: Pháp-Hành-Thiền này là quyển VII gồm có 2 phần, có 2 tập:

- Tập 1: Phần I: Pháp-hành-thiền-định, 

- Tập 2: Phần II: Pháp-hành-thiền-tuệ. 

Định Nghĩa Bhāvanā

 “Kusaladhamme bhāveti uppādeti vaḍḍhatī’ti bhāvanā.” Trạng-thái nào làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên, rồi làm cho thiện-pháp ấy phát triển, trạng-thái ấy gọi là bhāvanā: pháp-hành-thiền.

Định nghĩa bhāvanā có 2 đoạn:

1- Đoạn đầu: Kusaladhamme bhāveti uppādeti:

Trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát sinh lên đầu tiên.

2- Đoạn sau: Kusaladhamme bhāveti vaḍḍhati:

Trạng-thái làm cho thiện-pháp bậc cao phát triển, và tăng trưởng.

Bhāvanā có 2 loại:

1- Samathabhāvanā: Pháp-hành-thiền-định có trong Phật-giáo và có ngoài Phật-giáo.

2-Vipassanābhāvanā: Pháp-hành-thiền-tuệ chỉ có trong Phật-giáo, từ khi Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác xuất hiện trên thế gian mà thôi, không có ngoài Phật-giáo.

 

PHẦN I

 

Pháp hành Thiền Định (SAMATHABHĀVANĀ)

Pháp-hành-thiền-định (Samathabhāvanā) là pháp-hành làm cho định-tâm an trú trong một đề-mục-thiền-định duy nhất, dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm, hưởng sự an-lạc trong bậc thiền ấy trong kiếp hiện-tại và hưởng quả của bậc thiền ấy trong kiếp sau kế tiếp.

Pháp-hành-thiền-định này đã có trước khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Thật vậy, theo tiểu sử của Đức-Phật Gotama, kiếp chót là kiếp Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha của Đức-vua Suddhodana và Chánh- cung Hoàng-hậu Mahāmayādevī.

Năm 16 tuổi, Đức-Bồ-Tát Thái-tử Siddhattha được Đức Phụ vương truyền ngôi lên làm vua, và kết hôn cùng với công-chúa Yasodharā. Đức-vua Bồ-Tát Siddhattha làm vua ngự tại kinh thành Kapilavatthu được 13 năm.

Năm 29 tuổi, Đức-vua Bồ-Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng, trốn đi xuất gia tìm con đường giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, ngay vào nửa đêm rằm tháng sáu (âm lịch), mặc dù Ngài nghe tin Chánh-cung Hoàng-hậu Yasodharā sinh hạ hoàng-tử Rāhula.

Đức-Bồ-Tát Thọ Giáo Pháp-Hành-Thiền-Định

Đức-Bồ-Tát Siddhattha trước tiên tìm đến thọ giáo với vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta. Vị Đạo-sư hân hạnh tiếp nhận Đức-Bồ-Tát, rồi truyền dạy pháp-hành-thiền-định. Đức-Bồ-Tát Siddhattha thực-hành pháp-hành-thiền-định trong thời gian không lâu, Ngài đã chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới, và chứng đắc đến đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là Vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm (Akiñcañ-ñāyatanajjhānakusalacitta) ngang bằng bậc thiền mà vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta đã chứng đắc. 

Vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta tán dương ca tụng tài đức của Đức-Bồ-Tát Siddhattha rằng:

- Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới nào, thì hiền giả cũng chứng đắc được bậc thiền vô-sắc-giới ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới nào, thì tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới ấy.

- Này hiền giả, từ nay, hai chúng ta cùng làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: “Bậc đệ tam 1thiền vô-sắc-giới, vô-sở-hữu-xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái sinh lên cõi vô-sắc-giới Phạm-thiên, cõi Vô-sở-hữu-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 60.000 đại-kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái, không diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, không chứng đắc Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài”.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha không bằng lòng với sở đắc của mình, nên Ngài xin từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Ālāra Kālāmagotta, Đức-Bồ-Tát Siddhattha tìm đến vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta xin thọ giáo. Vị Đạo-sư hân hoan tiếp nhận Ngài, rồi truyền dạy pháp-hành-thiền-định. Đức-Bồ-Tát thực-hành pháp-hành-thiền-định qua một thời gian không lâu, Ngài chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới và chứng đắc đến đệ tứ thiền vô-sắc-giới tột đỉnh gọi là: Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm (Nevasaññānāsaññāyatanaj-jhānakusalacitta)bậc thiền tột đỉnh cõi vô-sắc-giới, ngang bằng với bậc thiền mà vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta đã chứng đắc.

Vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta tán dương ca tụng Đức-Bồ-Tát Siddhattha rằng:

- Này hiền giả! Tôi đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, thì hiền giả cũng chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy. Hiền giả chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh nào, tôi cũng đã chứng đắc bậc thiền vô-sắc-giới tột đỉnh ấy.

- Này hiền giả, tôi xin thỉnh hiền giả làm Đạo-sư dạy dỗ nhóm đệ tử này.

Đức Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: “Bậc đệ tứ thiền vô-sắc-giới, Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiền thiện-tâm này sẽ cho quả tái sinh lên cõi trời vô-sắc-giới Phạm-thiên, cõi Phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ-thiên, có tuổi thọ sống lâu đến 84.000 đại-kiếp, không phải là pháp dẫn đến sự nhàm chán ngũ-uẩn, không diệt-đoạn-tuyệt được tham-ái, không diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, không chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không chứng đắc Niết-bàn, không giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử, không giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong tam giới”.

Sau khi suy xét như vậy, Đức-Bồ-Tát Siddhattha xin từ giã Đạo-sư Udaka Rāmaputta khả kính, để đi tìm pháp môn khác, hầu mong giải thoát khổ sinh, lão, bệnh, tử.

Đức-Bồ-Tát Hành Pháp Khổ-Hạnh (Dukkaracariyā)

Sau khi từ giã vị Đạo-sư Udaka Rāmaputta, Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngự đến khu rừng Uruvelā gần con sông Nerañjarā, nơi đây có nhóm 5 Tỳ-khưu: Ngài Trưởng- lão Koṇḍañña là trưởng nhóm cùng với Ngài Vappa, Ngài Bhaddiya, Ngài MahānāmaNgài Assaji xin theo hộ độ Đức-Bồ-Tát Siddhattha.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha tinh tấn thực-hành pháp-hành khổ-hạnh (Dukkaracariyā) là pháp-khó-hành như phương-pháp nín thở ra, thở vào bằng miệng và mũi, hơi thở thoát ra ở hai lỗ tai; rồi tiếp tục nín thở ra, thở vào bằng miệng, bằng mũi và ngăn không để hơi thoát ra hai lỗ tai, hơi đâm lên trên đầu đau dữ dội, hơi đâm xuống bụng đau tức tối, hơi nóng phát ra toàn thân kinh khủng đến nỗi làm cho Đức-Bồ-Tát chết ngất.

- Số Chư-thiên tưởng rằng:“Sa-môn Gotama đã chết rồi!”

- Số khác tưởng rằng: “Sa-môn Gotama đang gần chết!”

- Số khác cho rằng: “Sa-môn Gotama không phải chết, cũng không phải đang gần chết, mà Sa-môn Gotama đang hành pháp của bậc Thánh-A-ra-hán!”

Đức-Bồ-Tát tiếp tục giảm vật thực dần dần, ban đầu độ vật thực chỉ vừa lòng bàn tay, từ từ giảm xuống chỉ còn bằng hạt sen… Vì vậy, kim thân của Đức-Bồ-Tát gầy ốm chỉ còn da bọc xương, đến nỗi sờ da bụng, thì đụng phải đường xương sống.

Trước kia kim thân của Đức-Bồ-Tát có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có làn da màu vàng sáng ngời. Đến nay, các tướng tốt của bậc Đại-nhân và các tướng tốt phụ đã biến mất, còn làn da đã trở thành màu đen sẫm.

Một hôm, Đức-Bồ-Tát Siddhattha suy xét rằng: “Ta đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành này suốt 6 năm trường ròng rã, đến chỗ cùng tột rồi.

Trong quá-khứ, chưa từng có Sa-môn, Bà-la-môn nào đã thực-hành pháp-hành khổ-hạnh đến mức như ta đang thực-hành. Hiện-tại và vị-lai cũng sẽ không có Sa-môn, Bà-la-môn nào có thể thực-hành pháp-hành khổ-hạnh như ta, thế mà, ta không thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Như vậy, chắc chắn còn có một pháp-hành nào khác”.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha hồi tưởng lại: “Khi còn nhỏ, ta cùng đi với Đức Phụ-vương ra đồng làm lễ hạ điền, Đức Phụ-vương để ta ngồi trong một chiếc lều vải dưới gốc cây mận. Ta đã ngồi niệm đề-mục hơi thở vào, hơi thở ra, và ta đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. Vậy, chắc chắn pháp-hành-thiền-định này làm nền tảng, để cho ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác cũng nên”.

Ngài suy xét rằng: “Bây giờ, thân thể của ta gầy ốm, sức khỏe của ta yếu đuối, ta không thể thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra này được. Vậy, điều tốt hơn hết, ta nên thọ thực trở lại, để phục hồi sức khỏe, rồi ta mới có thể thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định niệm hơi thở”.

Đức-Bồ-Tát Từ Bỏ Pháp-Hành Khổ-Hạnh

Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã thực-hành pháp-hành khổ- hạnh là pháp-khó-hành suốt 6 năm trường ròng rã, mà không đạt đến mục đích trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, nên Ngài từ bỏ pháp-hành khổ-hạnh, Đức-Bồ-Tát mang bát vào xóm nhà Senā đi khất thực, độ vật thực trở lại trải qua một thời gian sức khoẻ hoàn toàn hồi phục trở lại như xưa. 

Trong thời kỳ thực-hành pháp-hành khổ-hạnh là pháp-khó-hành, 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ của Đức-Bồ-Tát Siddhattha biến mất.

Nay, kim thân của Đức-Bồ-Tát Siddhattha lại hiện rõ 32 tướng tốt của bậc Đại-nhân và 80 tướng tốt phụ, có nước da màu vàng sáng ngời như trước.

Vào ngày 14 tháng tư âm lịch, canh chót đêm ấy, Đức-Bồ-Tát Siddhattha nằm thấy 5 điều đại mộng (Mahāsupina).

Qua 5 đại mộng này, Ngài đoán biết rằng: “Ngài chắc chắn sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”. 

Sáng hôm rằm tháng tư âm lịch, Đức-Bồ-Tát ngự đến ngồi dưới gốc cây da, để chờ đến giờ đi vào xóm khất thực. Tại nơi đây, hằng năm, vào ngày rằm tháng tư này, nàng Sujātā thường đem lễ vật đến cúng dường, tạ ơn Chư-thiên, theo lời nguyện của nàng.

Nàng Sujātā là con gái của ông phú hộ Mahāsena ở làng Senā gần khu rừng Uruvelā, khi nàng trưởng thành có đến gốc cây da này cầu nguyện: “Khi tôi trưởng thành được kết duyên với người cùng dòng dõi, cùng giai cấp và sinh được một đứa con trai đầu lòng. Nếu tôi được toại nguyện, thì hằng năm vào ngày rằm tháng tư (âm lịch), tôi sẽ làm lễ cúng dường tạ ơn Chư-thiên cội cây này”.

Lời cầu nguyện của nàng được thành tựu như ý, cho nên, hằng năm vào ngày rằm tháng tư âm lịch, nàng Sujātā thường đem cơm sữa đến cúng dường tạ ơn Chư-thiên cội cây này.

Từ sáng sớm, nàng Sujātā đã thức dậy vắt sữa tinh khiết của 8 con bò, khi nàng đem nồi đựng sữa để gần vú con bò thứ nhất, thì dòng sữa tự nhiên chảy ra một mạch. Thật là một việc lạ thường chưa từng có bao giờ! Lần lượt 7 con bò còn lại, dòng sữa cũng chảy ra một mạch như vậy.

Khi nàng đổ sữa vào nồi nấu cơm, sữa sôi xoay tròn bên phải, không một giọt nào chảy tràn ra bên ngoài, còn lửa củi cháy đều không có một làn khói nào bốc lên.

Sở dĩ, có những việc lạ thường như vậy, là vì buổi sáng hôm ấy có Tứ-đại-Thiên-vương trông coi lò lửa, Vua-trời Sakka cõi Tam-thập-Tam-thiên,lấy củi bỏ vào lò, Đức-vua Trời Phạm-Thiên che dù, tất cả Chư-thiên đem những chất bổ dưỡng do năng lực của mình bỏ vào nồi cơm sữa. Nàng Sujātā đem chiếc mâm bằng vàng để đựng cơm, khi nàng đặt mâm gần nồi cơm, thì cơm sữa trong nồi tự nhiên viên lại thành vắt bằng trái thốt nốt lăn ra tuần tự từ nồi sang mâm đúng 49 vắt, thì vừa đầy mâm. Nàng lại chứng kiến thêm một việc lạ thường chưa từng có bao giờ. Nàng lấy một chiếc mâm khác đậy lại rồi phủ lên một lớp vải trắng tinh.

Hôm ấy, nàng Sujātā trang điểm bằng những đồ trang sức quý giá, rồi đội mâm cơm sữa cùng người con gái Puṇṇā ([1]) đi theo sau đến gốc cây đa.

Nhìn thấy Đức-Bồ-Tát có đầy đủ tướng tốt của bậc Đại-nhân và tướng tốt phụ, hào quang tỏa ra từ kim thân của Ngài sáng chói khắp vùng.

Thấy vậy, nàng Sujātā lại càng phát sinh đức tin trong sạch và vô cùng hoan hỷ chưa từng có bao giờ, bởi vì nàng tưởng rằng: “Đức-Bồ-Tát Siddhattha là vị thiên thần cội cây hiện ra, để thọ nhận phẩm vật cúng dường tạ ơn của nàng”.

Nàng Sujātācung kính đến gần Đức-Bồ-Tát  Siddhattha, đặt chiếc mâm vàng đầy cơm sữa và bình nước, hoa quả, vật thơm, … gần Đức-Bồ-Tát, đảnh lễ cung kính dâng lên Ngài.

Khi ấy, cái bát của Ngài bỗng nhiên biến mất, Ngài nhìn nàng Sujātā. Nàng liền bạch rằng:

- Kính bạch Đức Thiên-thần, con thành kính dâng lên Ngài chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này. Kính xin Ngài từ bi hoan hỷ thọ nhận chiếc mâm vàng đầy phẩm vật này, để cho con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an-lạc lâu dài. Con được toại nguyện như thế nào, kính xin Ngài cũng được toại nguyện như thế ấy.

 Đức-Bồ-Tát Siddhattha đưa hai tay ra nhận lấy chiếc mâm vàng đầy phẩm vật cúng dường ấy.

Đức-Bồ-Tát Thọ Nhận Cơm Sữa Của Nàng Sujātā

Sau khi thọ nhận mâm vàng đầy cơm sữa của nàng Sujātā xong, Đức-Bồ-Tát đứng dậy rời khỏi gốc cây da, tay cầm chiếc mâm vàng đầy cơm sữa đi đến bến sông Nerañjarā, nơi mà chư Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác kiếp chót quá-khứ, trước khi trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cũng đều ngự đến tại bến sông này để tắm, nên bến sông này gọi là bến Supaṭitthita. Ngài đặt mâm vàng đầy cơm sữa tại bến Supaṭitthita, rồi ngự xuống dòng sông Nerañjarā, để tắm.

Sau khi tắm xong, Đức-Bồ-Tát mặc y-cà-sa tượng trưng lá cờ chiến thắng của chư Thánh-A-ra-hán, đoạn Ngài ngồi quay mặt về hướng Đông, độ hết 49 vắt cơm sữa, rồi uống hết bình nước. (từ đó về sau suốt 7 tuần lễ gồm 49 ngày, Đức-Phật không độ vật thực và nước, chỉ an hưởng hương vị giải thoát Niết-bàn).

Sau khi độ cơm xong, Ngài đứng trên bờ sông, cầm chiếc mâm vàng phát nguyện: “Hôm nay, nếu tôi được trở thành Đức-Phật-Chánh Đẳng-Giác thì xin cho chiếc mâm vàng này sẽ trôi ngược dòng nước; nếu không được thì chiếc mâm vàng này sẽ trôi xuôi theo dòng nước”.

Phát nguyện xong, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ném chiếc mâm vàng xuống dòng sông Nerañjarā.

 Thật phi thường thay! Chiếc mâm vàng cắt ngang dòng nước đang chảy, trôi ra giữa sông, rồi từ đó trôi ngược dòng nước một cách vô cùng mau lẹ, khoảng một đoạn khá xa, rồi chiếc mâm vàng chìm sâu xuống đáy nước, đụng phải ba chiếc mâm vàng của ba Đức-Phật quá-khứ: Đức-Phật Kakusandha, Đức-Phật Koṇā-gamana Đức-Phật Kassapa, phát ra một âm thanh vang dội, làm cho Long vương Kālanāga tỉnh giấc nghĩ rằng: “Hôm qua một Đức-Phật đã xuất hiện, hôm nay sẽ có một Đức-Phật nữa xuất hiện”, rồi thức dậy tán dương ca tụng hằng trăm bài kệ.

Trưa hôm ấy, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nghỉ trong khu rừng Sāla, những cây Sāla trong khu rừng bên bờ sông Nerañjarā, đua nhau nở hoa, để cúng dường đến Ngài.

Chiều hôm ấy, trên đường Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngự đến cội cây Assattha ([2]),dọc theo hai bên đường Chư-thiên trang hoàng những đoá hoa trời rất xinh đẹp, các hàng Chư-thiên ở các cõi trời đua nhau cúng dường hương thơm cùng với thiên nhạc vang rền khắp 10 ngàn thế giới chúng-sinh.

Cùng lúc ấy, một người cắt cỏ Sotthiya, trên đường đi ngược chiều lại phía Đức-Bồ-Tát, nhìn thấy Ngài, liền phát sinh đức tin trong sạch, nên dâng cúng Ngài tám nắm cỏ. Đức-Bồ-Tát cầm tám nắm cỏ ngự thẳng đến cội cây Assattha.

Khi đứng hướng Nam của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Bắc, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Nam bị chìm sâu xuống cõi địa ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới hướng Bắc được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ: “Đây không phải là chỗ ngồi để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

Ngài ngự đi sang đứng hướng Tây của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Đông, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Tây bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Đông được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh. Ngài nghĩ: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

Ngài ngự sang đứng hướng Bắc của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng hướng Nam, cũng như vậy, Ngài có cảm giác mất thăng bằng, như toàn cõi thế giới hướng Bắc bị chìm sâu xuống cõi điạ ngục Avīci, còn toàn cõi thế giới ở hướng Nam được nổi lên đến cõi trời sắc-giới Phạm-thiên tột đỉnh, Ngài nghĩ: “Đây cũng không phải là chỗ ngồi, để ta có thể trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác”.

Ngài ngự sang đứng hướng Đông của cội cây Assattha, Đức-Bồ-Tát nhìn thẳng về hướng Tây. Thật phi thường thay! Ngài có cảm giác toàn khắp cõi thế giới đều ở trạng-thái thăng bằng, nên Ngài nghĩ: “Chính đây là chỗ ngồi, để ta có thể chứng đắc thành bậc Chánh-Đẳng-Giác”.

Ngôi Bồ Đoàn Toàn Thắng Ác-Ma-Thiên

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trải tám nắm cỏ tại hướng Đông của cội cây Assattha.

Thật phi thường thay! Tại ngay chỗ ngồi ấy bỗng nhiên hoá thành ngôi bồ-đoàn quý báu, có chiều cao 14 hắc tay thật nguy nga lộng lẫy, mà không có một nhà kiến trúc mỹ thuật nào có thể tạo nên một ngôi bồ-đoàn đẹp tuyệt vời như vậy. Bởi vì, ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do thiện-nghiệp 30 pháp hạnh Ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Đức-Bồ-tát Chánh-Đẳng-Giác ngồi kiết già vững vàng trên ngôi bồ-đoàn quý báu, mặt quay về hướng Đông rồi phát nguyện: “Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác thì ta cũng không bao giờ chịu rời khỏi ngôi bồ-đoàn quý báu này”. Lúc ấy, từ cung trời Tha-Hoá-Tự-Tại-Thiên, Ác-Ma- Thiên hoá ra hàng ngàn cánh tay đều cầm khí giới, cỡi voi trời Girimekhala dẫn đầu đoàn thiên ma tướng, thiên ma binh rầm rộ hiện xuống vây quanh cội cây Assattha, kéo dài 12 do tuần. Bên trên hư không, chúng thiên ma dày đặc 9 do tuần, chúng la hét âm thanh vang dội kinh khủng làm chấn động khắp mọi nơi, quyết tâm tranh giành ngôi bồ-đoàn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha.

Vừa mới đây, Chư-thiên, Phạm-thiên từ 10 ngàn thế giới đến cung kính cúng dường, tán dương ca tụng Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha. Khi thoáng nhìn thấy Ác-Ma-Thiên cùng với thiên ma binh, thiên ma tướng trùng trùng điệp điệp từng đoàn, từng lớp hiện xuống, tất cả Chư-thiên, Phạm-thiên đều bay xa lánh mặt, trở về chỗ của mình, chỉ còn một mình Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vẫn điềm nhiên ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu, một cách an nhiên tự tại.

Ác-Ma-Thiên đã sử dụng đủ mọi loại vũ khí và phép thuật cực kỳ nguy hiểm, quyết sát hại Đức-Bồ-Tát, để chiếm đoạt ngôi bồ-đoàn quý báu ấy, với mục đích ngăn cản không cho Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Do oai lực 30 pháp hạnh Ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha sắp trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, nên không có một loại phép thuật hay vũ khí nguy hiểm nào có thể sát hại Ngài được.

Quả thật như vậy! Do oai lực 30 pháp hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác, các loại vũ khí, phép thuật của Ác-Ma-Thiên đều hóa thành những vật cúng dường Ngài.

Ngồi trên lưng voi trời Girimekhala, Ác-Ma-Thiên vô cùng căm uất chỉ tay về Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nói như ra lệnh rằng:

- Này Sa-môn Gotama! Nhà ngươi hãy mau mau rời khỏi ngôi bồ-đoàn ấy, vì ngôi bồ-đoàn ấy là của ta, không phải của ngươi!

Đức-Bồ-Tát từ tốn đáp lại:

- Này Ác-Ma-Thiên! Ngôi bồ-đoàn quý báu này phát sinh do thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh Ba-la-mật, 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành mà Như-Lai đã thực-hành từ vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại này. Vì vậy, ngôi bồ-đoàn này thuộc về của Như-Lai, không phải của ngươi.

Khi ấy, chỉ một mình Đức-Bồ-Tát Siddhattha ngồi ngự trên bồ-đoàn quý báu, ngoài ra, không còn có một ai bên cạnh Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha cả, nên Ác-Ma-Thiên đặt câu hỏi bắt bí Đức-Bồ-Tát rằng:

- Thưa Sa-môn Gotama! Ngài nói rằng: “Ngôi bồ- đoàn quý báu ấy thuộc về của Như-Lai.”

Vậy, ai làm chứng cho Ngài!”

Nhìn xung quanh đều không có một Chư-thiên, Phạm-thiên nào cả, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha bèn đưa bàn tay phải ra, rồi dùng ngón trỏ chỉ xuống mặt đất như truyền dạy bằng lời chân thật rằng: “Trong vô số tiền kiếp của Như-Lai đã từng thực-hành 30 pháp-hạnh Ba-la-mật, 5 hạnh đại-thí, 3 pháp-hành. Bây giờ, tại nơi đây không có chúng-sinh nào đứng ra làm chứng cho Như-Lai, chỉ có mặt đất, mặt đất không có tâm thức này có thể làm chứng cho Như-Lai được không?”

Thật phi thường thay! Lời chân thật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha vừa chấm dứt. Ngay tức khắc, mặt đất chuyển mình, rung động, phát ra những tiếng sấm sét long trời lở đất, làm cho Ác-Ma-Thiên kinh hoàng khiếp đảm, giục voi trời Girimekhala bỏ chạy trở về cõi Tha-Hóa-Tự-Tại-Thiên; còn đám thiên ma binh, thiên ma tướng thì vô cùng khiếp sợ, hốt hoảng chạy tán loạn theo Ác-Ma-Thiên trở về cõi trời.

 Khi ấy, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngồi ngự trên ngôi bồ-đoàn quý báu dưới cội cây Assatthađã toàn thắng Ác-Ma-Thiên, vừa đúng lúc mặt trời sắp lặn hướng Tây, mặt trăng ló dạng hướng Đông. Khắp mười ngàn thế giới chúng-sinh, Chư-thiên các cõi trời dục-giới, Phạm-thiên các cõi trời sắc-giới, Long vương dưới long cung… toàn thể Chư-thiên, Phạm-thiên vui mừng reo hò vang dội khắp các tầng trời, tán dương ca tụng oai lực Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát rằng:

- Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã toàn thắng rồi!

- Ác-Ma-Thiên đã hoàn toàn thất bại rồi!

Cho nên, ngôi bồ-đoàn quý báu này được phát sinh do quả của thiện-nghiệp 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha nên gọi là Aparājitapallaṅka” nghĩa là Ngôi bồ-đoàn quý báu nơi toàn thắng Ác-Ma-Thiên.

Chư-thiên, Phạm-thiên đem những phẩm vật quý báu nhất từ cõi trời đến cúng dường, tán dương ca tụng 30 pháp-hạnh Ba-la-mật của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha Chứng Đắc Tam-Minh

Sau khi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã toàn thắng Ác-Ma-Thiên, vào canh đầu đêm rằm tháng tư âm lịch, Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-định (samathabhāvanā) với đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (anāpānassati) tuần tự chứng đắc 4 bậc thiền sắc-giới làm nền tảng để chứng đắc Tam-minh.

Tam-Minh (Tevijja)

1- Tiền-Kiếp-Minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa)

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, định-tâm trong sáng thanh tịnh, thiền-tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc tiền-kiếp-minh: Trí-tuệ nhớ rõ lại tiền kiếp, từ một kiếp đến hằng trăm kiếp, hằng ngàn kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp… cho đến vô lượng kiếp không giới hạn.([3])

Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ nhớ rõ tiền kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, trong cõi giới nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, thực-hành thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, thực- hành pháp hạnh Ba-la-mật như thế nào, thọ lạc, thọ khổ, tuổi thọ, v.v… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

Tiền-kiếp-minhminh thứ nhấtĐức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào canh đầu đêm rằm tháng tư (âm lịch).

2- Thiên-Nhãn-Minh (dibbacakkhuñāṇa)

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha có đệ tứ thiền sắc-giới, định-tâm trong sáng thanh tịnh, thiền-tâm không lay động, làm nền tảng để Ngài hướng tâm đến chứng đắc thiên-nhãn-minh: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh hơn thiên nhãn của Chư-thiên, Phạm-thiên.

Thiên-nhãn-minh có 2 loại:

* Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa):Trí-tuệ thấy rõ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng-sinh muôn loài trong các cõi giới, do nghiệp nào, do quả của nghiệp nào.

* Vị-lai-kiến-minh (Anāgataṃsañāṇa): Trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh trong muôn loài trong tam-giới.

Chư Phật dùng vị-lai-kiến-minh này để thọ ký, xác định thời gian của chúng-sinh trong những kiếp vị-lai xa xăm, còn lại thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, hoặc Đức-Phật Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-Văn-Giác…

Thiên-nhãn-minh là minh thứ nhì mà Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha đã chứng đắc vào lúc canh giữa đêm rằm tháng tư (âm lịch).

3- Trầm-Luân-Tận-Minh (Āsavakkhayañāṇa)

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha dùng đệ tứ thiền sắc-giới làm nền tảng, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ suy xét thấy rõ các pháp Thập-nhị-duyên-sinh (Paṭiccasamuppāda)đối-tượng pháp-hành-thiền-tuệ của chư Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

* Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- duyên-sinh theo chiều thuận như sau:

- Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh,

 (Avijjāpaccayā saṅkhārā)

- Do hành làm duyên, nên thức sinh,

 (Saṅkhārapaccayā viññāṇaṃ)

- Do thức làm duyên, nên danh sắc sinh,

 (Viññāṇapaccayā nāmarūpaṃ)

- Do danh sắc làm duyên, nên lục-nhập sinh,

 (Nāmarūpapaccayā saḷāyatanaṃ)

- Do lục-nhập làm duyên, nên lục-xúc sinh,

 (Saḷāyatanapaccayā phasso)

- Do lục-xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh,

 (Phassapaccayā vedanā)

- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh,

 (Vedanāpaccayā taṇhā)

- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh,

 (Taṇhāpaccayā upādānaṃ)

- Do tứ-thủ làm duyên, nênnhị-hữu sinh,

 (Upādānapaccayā bhavo)

- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái sinh sinh,

 (Bhavapaccayā jāti)

- Do tái sinh làm duyên, nên lão tử… sinh.

 (Jātipaccayā jarāmaraṇaṃ…)

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- duyên-sinh theo chiều thuận, chiều sinh, để trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh của mỗi pháp, trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý Khổ-Thánh-đếNhân-sinh- Khổ-Thánh-đế.

* Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác suy xét Thập-nhị- nhân-diệt theo chiều nghịch, chiều diệt như sau:

- Do diệt tận vô-minh, nên diệt các hành,

(Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhāranirodho)

- Do diệt hành, nên diệt thức,

 (Saṅkhāranirodhā viññaṇanirodho)

- Do diệt thức, nên diệt danh sắc,

 (Viññāṇanirodhā nāmarūpanirodho)

- Do diệt danh sắc, nên diệt lục-nhập,

 (Nāmarūpanirodhā saḷāyatananirodho)

- Do diệt lục-nhập, nên diệt lục-xúc,

 (Saḷāyatananirodhā phassanirodho)

- Do diệt lục-xúc, nên diệt lục-thọ,

 (Phassanirodhā vedanānirodho)

- Do diệt lục-thọ, nên diệt lục-ái,

 (Vedanānirodhā taṇhānirodho)

- Do diệt lục-ái, nên diệt tứ-thủ,

(Taṇhānirodhā upādānanirodho)

- Do diệt tứ-thủ, nên diệt nhị-hữu,

 (Upādānanirodhā bhavanirodho)

- Do diệt nhị-hữu, nên diệt tái sinh,

 (Bhavanirodhā jātinirodho)

- Do diệt tái sinh, nên diệt lão tử….

 (Jātinirodhā jarāmaraṇaṃ… nirodho)

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác quán xét Thập-nhị- nhân-diệt theo chiều nghịch, chiều diệt, để trí-tuệ-thiền tuệ thấy rõ, biết rõ “sự diệt” của mỗi pháp, trí-tuệ-thiền- tuệ chứng ngộ chân-lý Diệt-Khổ-Thánh-đếPháp-hành-dẫn-đến-Diệt-Khổ-Thánh-đế.

Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha không thầy chỉ dạy tự mình suy xét Thập-nhị-duyên-sinh và thập-nhị-nhân-diệt theo chiều thuận - chiều nghịch; chiều sinh - chiều diệt, nên trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ sự sinh - sự diệt của mỗi sắc-pháp, mỗi danh-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên không thầy chỉ day, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được 4 pháp-trầm-luân (āsava),đồng thời diệt-đoạn-tuyệt được mọi tham-ái, mọi phiền-não, và tất cả mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt, diệt-đoạn-tuyệt được tất cả mọitiền-khiên-tật-xấu (vāsanā)đãtích lũy từ vô số kiếp trong quá-khứ, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng nhất đầu tiên trên toàn cõi muôn ngàn thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị,có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, tại đại cội cây Mahābodhirukkha([4]): cây Đại-Bồ-đề, đúng như 24 Đức-Phật quá-khứ đã từng thọ ký. 

Trầm-luân-tận-minhminh thứ 3Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha chứng đắc vào canh chót của đêm rằm tháng tư (âm lịch), vào lúc rạng đông, trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama. 

Như vậy, Pháp-hành-thiền-định (Samathabhāvanā) là pháp-hành có trước khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian. Còn Pháp-hành-thiền-tuệ (Vipassanā-bhāvanā) là pháp-hành có từ khi Đức-Phật Gotama xuất hiện trên thế gian.

Samatha: Thiền-Định

Định nghĩa Samatha

Samatha có 3 định nghĩa:

1- Kilese sametī’ti samatho: Hành-giả là hạng thiện-trí phàm-nhân thực-hành pháp-hành nào chế ngự được mọi phiền-não loại trung, đó là 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa), pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại- thiện-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm. 2- Cittaṃ sametī’ti samatho: Hành-giả là bậc Thánh-A-ra-hán ([5])thực-hành pháp-hành nào làm cho định-tâm vững chắc trong một đối-tượng thiền-định duy nhất. Pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.  

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với 8 dục-giới đại- duy-tác-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

3- Vitakkādi oḷārikadhamme sametī’ti samatho: Hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành nào, để chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới, v.v… bằng cách chế ngự được chi-thiền loại thô như vitakka, vicāra, v.v… Pháp-hành ấy gọi là pháp-hành-thiền-định.

Pháp-hành-thiền-định này có chi pháp là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm, đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, v.v… cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm.

Giải Thích 3 Định Nghĩa:

1- Định nghĩa thứ nhất: Các hành-giả là hạng phàm-nhân có đủ tam-nhân (tihetukaputhujjana) có 2 giai đoạn:

* Giai đoạn đầu: Hành-giả tinh tấn thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-thiện-tâm có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc được đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm.

* Giai đoạn cuối: Hành-giả chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm5 chi-thiền (jhānaṅga)vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā có khả năng chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) kāmacchanda, byāpāda, thīnamiddha, uddhaccakukkucca, vicikicchā.

Mỗi chi-thiền có khả năng chế ngự được mỗi pháp-chướng-ngại như sau:

* Vitakka: Hướng-tâm chế ngự được thīna-middha: buồn-chán - buồn-ngủ,

* Vicāra: Quan-sát chế ngự được vicikicchā: hoài nghi,

* Pīti: Hỷ chế ngự được byāpāda: sân-hận,

* Sukha: Lạc chế ngự được uddhacca-kukkucca: phóng-tâm, hối-hận,

* Ekaggatā: Nhất-tâm chế ngự được kāmacchanda: tham-dục.

Định nghĩa thứ nhất, Samatha này chỉ là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh trong dục-giới đại- thiện-tâm và đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm mà thôi.

Cho nên, định nghĩa này:“Kilese samatī’ti samatho.”

 2- Định nghĩa thứ nhì: Các hành-giả là bậc Thánh-A-ra-hánthuộc hạng Paññāvimutta: bậc Thánh-A-ra-hán giải thoát bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới, không có bậc thiền sắc-giới làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, nghĩa là bậc Thánh-A-ra-hán vốn là hành-giả không thực-hành pháp-hành-thiền-định trước, mà chỉ thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ mà thôi, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán gọi là Sukkhavipassaka.

Nay, bậc Thánh-A-ra-háncó ý nguyện muốn thực- hành pháp-hành-thiền-định, để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới và vô-sắc-giới, có 2 giai đoạn:

* Giai đoạn đầu: Bậc Thánh-A-ra-hán thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-duy-tác-tâm có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc được đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

* Giai đoạn cuối: Bậc Thánh-A-ra-hánchứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm 5 chi-thiền (jhānaṅga)vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā không phải để chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) nào cả, mà chỉ làm cho định-tâm vững chắc trong một đối-tượng thiền-định mà thôi. 

Cho nên, định nghĩa này:“Cittaṃ sametī’ti samatho.”

3- Định nghĩa thứ ba: Các hành-giả đó là hạng thiện-trí phàm-nhân có đủ tam-nhân (tihetukaputhujjana), bậc Thánh-Nhập-lưu, bậc Thánh-Nhất-lai, bậc Thánh-Bất-lai đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâmbậc Thánh-A-ra-hán đã chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới duy-tác-tâm.

Quý Ngài tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định để chứng đắc các bậc thiền cao hơn như đệ nhị thiền sắc-giới, đệ tam thiền sắc-giới, v.v... có 2 giai đoạn:

* Giai đoạn đầu: Quý Ngài thực-hành pháp-hành-thiền-định với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm([6]) có đề-mục-thiền-định có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, duy-tác-tâm, v.v…

- Giai đoạn cuối: Quý Ngàikhông còn chế ngự 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) nữa, mà chỉ làm cho định-tâm vững chắc có nhiều năng lực theo tuần tự, có khả năng chế ngự được chi-thiền (jhānaṅga) loại thô theo tuần tự là vitakka, vicāra, v.v… không phát sinh, để chứng đắc các bậc thiền sắc-giới bậc cao như sau:

* Nếu chế ngự được chi-thiền vitakka thì chứng đắc đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 4 chi-thiền: Vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

* Nếu chế ngự được chi-thiền vicāra thì chứng đắc đệ tam thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 3 chi-thiền: Pīti, sukha, ekaggatā.

* Nếu chế ngự được chi-thiền pīti thì chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm còn 2 chi-thiền: Sukha, ekaggatā.

* Nếu chế ngự được chi-thiền sukha thay bằng chi-thiền upekkhā thì chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm có 2 chi-thiền: Upekkhā, ekaggatā.  

Định nghĩa samathathứ ba này là nhất-tâm tâm-sở (ekaggatā cetasika) đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm, đại-duy-tác-tâm, với đệ nhị thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới thiện-tâm, sắc-giới duy-tác-tâm.

Cho nên, định nghĩa này: “Vitakkādi oḷārikadhamme sametī’ti samatho”.

Samatha có 2 loại:

1- Paritta samatha: Thiền định có năng lực yếu.

2- Mahaggata samatha: Thiền định có năng lực mạnh.

Thế nào gọi là paritta samatha?

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, tâm chưa đạt đến appanāsamādhi: an-định, nên gọi là paritta samatha, bởi vìtâm của hành-giả đang còn dục-giới đại-thiện-tâm hoặc dục-giới đại-duy-tác-tâm gần đến appanāsamādhi: an-định. Tuy có 5 chi-thiền hợp với các dục-giới-tâm ấy nhưng năng lực còn yếu.

Thế nào gọi là mahaggata samatha?

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, tâm đã đạt đến appanāsamādhi: an-định, nên gọi là mahaggata samatha, bởi vìtâm của hành-giả đã chứng đắc mahag-gatajjhāna đó là sắc-giới thiền thiện-tâm, hoặc sắc-giới thiền duy-tác-tâm (của bậc Thánh-A-ra-hán).

Các chi-thiền hợp với các sắc-giới thiện-tâm ấy có nhiều năng lực. 

Đối với hành-giả phàm-nhân, 5 chi-thiền hợp với đệ nhất thiền sắc-giới thiện-tâm ấy có khả năng chế ngự được 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa) bằng cách chế ngự, đè nén (vikhambhanapahāna).

Pháp-hành-thiền-định có 2 phần:

1- Đối-tượng thiền-định,

2- Tâm biết đối-tượng thiền-định. 

1- Đối-Tượng Thiền-Định

Đối-tượng thiền-định (Samatha kammaṭṭhāna) là đối-tượng của pháp-hành-thiền-định, gồm có 40 đề-mục-thiền-định ([7])chia ra làm 7 loại như sau:

1- 10 đề-mục kasiṇa,

2- 10 đề-mục tử-thi asubha,

3- 10 đề-mục niệm-niệm anussati,

4- 4 đề-mục tứ-vô-lượng-tâm appamaññā,

5- 1 đề-mục vật-thực đáng nhờm āhāre paṭikkūlasaññā, 

6- 1 đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna),

7- 4 đề-mục vô-sắc-giới (āruppa).

 1- 10 Đề-Mục-Thiền-Định Kasiṇa

1.1- Đề-mục-thiền-định đất (Pathavīkasiṇa),

1.2- Đề-mục-thiền-định nước (Āpokasiṇa),

1.3- Đề-mục-thiền-định lửa (Tejokasiṇa),

1.4- Đề-mục-thiền-định gió (Vāyokasiṇa),

1.5- Đề-mục-thiền-định màu xanh (Nīlakasiṇa),

1.6- Đề-mục-thiền-định màu vàng (Pītakasiṇa),

1.7- Đề-mục-thiền-định màu đỏ (Lohitakasiṇa),

1.8- Đề-mục-thiền-định màu trắng (Odātakasiṇa),

1.9- Đề-mục-thiền-định hư không (Ākāsakasiṇa),

1.10- Đề-mục-thiền-định ánh sáng (Ālokakasiṇa).

Đó là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

2- 10 Đề-Mục Tử-Thi (Asubha)

2.1- Đề-mục tử-thi trải qua 2-3 ngày (Uddhumātaka),

2.2- Đề-mục tử-thi biến sang màu tím thâm (Vinīlaka),

2.3- Đề-mục tử-thi chảy máu mủ (Vipubbaka),

2.4- Đề-mục tử-thi bị chặt đứt thành nhiều đoạn (Vicchiddaka),

2.5- Đề-mục tử-thi bị chó, quạ, diều hâu, kên kên cắn xé ăn thịt, bỏ rải rác (Vikkhāyitaka),

2.6- Đề-mục tử-thi bị chặt tay, chân, đầu, mình bỏ rải rác (Vikkhittaka),

2.7- Đề-mục tử-thi bị đâm lủng nhiều lỗ (Hatavikkhittaka), 

2.8- Đề-mục tử-thi có máu chảy lai láng (Lohitaka),

2,9- Đề-mục tử-thi có giòi (Puḷuvaka),

2.10- Đề-mục tử-thi còn bộ xương trắng (Aṭṭhika).

Đó là 10 đề-mục tử-thi (asubha) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

3- 10 Đề-Mục Niệm-Niệm (Anussati)

3.1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật (Buddhānussati),

3.2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp (Dhammānussati),

3.3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-đức-Tăng (Saṃghānussati),

3.4- Đề-mục niệm-niệm giới trong sạch của mình (Sīlānussati) 

3.5- Đề-mục niệm-niệm sự bố-thí của mình (Cāgānussati),

3.6- Đề-mục niệm-niệm 5 pháp Chư-thiên có nơi mình (Devatānussati),

3.7- Đề-mục niệm-niệm trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (Upasamānussati),

3.8- Đề-mục niệm-niệm sự chết (Maraṇānussati),

3.9- Đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân của mình (Kāyagatāsati),

3.10- Đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra (Ānāpānassati).

Đó là 10 đề-mục niệm-niệm (anussati) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

4- Đề-Mục Tứ Vô-Lượng-Tâm (Appamaññā)

4.1- Đề-mục niệm rải tâm-từ (Mettā) đến chúng-sinh vô-lượng,

4.2- Đề-mục niệm rải tâm-bi (Karuṇā)đến chúng-sinh vô-lượng,

4.3- Đề-mục niệm rải tâm-hỷ (Muditā) đến chúng-sinh vô-lượng,

4.4- Đề-mục niệm rải tâm-xả (Upekkhā) đến chúng-sinh vô-lượng.

Đó là 4 đề-mục niệm rải tâm từ, bi, hỷ, xả đến chúng-sinh vô-lượng (appamaññā) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

5- Đề-Mục Vật Thực Đáng Nhờm Gớm (āhārepaṭikkūlasaññā) 

6- Đề-Mục Phân Tích Tứ-Đại (catudhātuvavatthāna)

7- 4 Đề-Mục Thiền-Vô-Sắc (Āruppa)

Trong 4 đề-mục thiền-vô-sắc, mỗi đề-mục riêng biệt chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới riêng biệt mà thôi như sau: 

7.1- Đề-mục thiền-vô-sắc-giới thứ nhất gọi là ākāsa-paññatti chỉ để chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanajjhāna:không-vô-biên-xứ-thiền mà thôi 

7.2- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ nhì gọi là paṭhamā-ruppaviññāṇa chỉ để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatanajjhāna: thức-vô-biên-xứ-thiền mà thôi.

7.3- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ ba gọi là natthi-bhāvapaññatti chỉ để chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanajjhāna:vô-sở-hữu-xứ-thiền mà thôi.

7.4- Đề-mục thiền vô-sắc-giới thứ tư gọi là tatiyārup-paviññāṇa chỉ để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanajjhāna: phi-tưởng-phi- phi-tưởng-xứ-thiền mà thôi.

Gồm có 40 đề-mục-thiền-định.

3 Loại Nimitta, 3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

Trong 40 đề-mục-thiền-định phân loại 3 loại nimitta, 3 loại bhāvanā, 3 loại samādhi.

3 Loại Nimitta

1- Parikammanimitta: Đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầulàm đối-tượng của parikammabhāvanā: tâm- hành ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định. Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều là parikammanimitta.

 2- Uggahanimitta: Đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta (đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu) ấyphát sinh rõ trong tâm theo ý-môn-lộ-trình-tâm (manodvāravīthicitta) tác-hành-tâm (javanacitta) là dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm của bậc Thánh-A-ra-hán, biết rõ đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta ấy. 

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 22 đề-mục trực tiếp([8])uggahanimitta 18 đề-mục gián tiếp ([9])uggahanimitta.

3- Paṭibhāganimitta: Đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đối-tượng uggahanimitta (đối-tượng thô-ảnh-tương-tự) ấy, trở nên hoàn toàn trong sáng được phát sinh rõ trong tâm của hành-giả, theo ý-môn-lộ-trình-tâm (manodvāravīthicitta).

Trong 30 đề-mục-thiền-định chỉ có 22 đề-mục trực tiếppaṭibhāganimitta 8 đề-mục gián tiếp([10])paṭibhāganimitta, gồm có 30 đề-mục-thiền-định.

3 Loại Bhāvanā, 3 Loại Samādhi

1- Parikammabhāvanā: Tâm-hành ban đầu thực- hành pháp-hành-thiền-định.

Hành-giả bắt đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định với các dục-giới lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm([11]) phát sinh liên tục có đối-tượng parikammanimitta: đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu tiến triển tốt trở thành đối-tượng uggahanimitta: đối-tượngthô-ảnh-tương-tự của parikammanimitta (đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu) ấy.

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).  

Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều có parikamma-bhāvanā, parikammasamādhi.

2- Upacārabhāvanā: Tâm-hành cận bậc thiền:

Hành-giả đang thực-hành pháp-hành-thiền-định với các dục-giới ý-môn lộ-trình-tâmtác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục có đối-tượng uggahanimitta: đối-tượng thô-ảnh-tương-tự của đề-mục-thiền-định ấy tiến triển tốt trở thành đối-tượng paṭibhāganimitta: đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ấy dẫn đến gần bậc thiền sắc-giới.

Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm gọi là upacārasamādhi: cận-định trong đề-mục-thiền-định ấy, đạt đến gần bậc thiền sắc-giới (mahaggatajjhāna).

Trong các dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâmdục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâmphát sinh liên tục có đối-tượng đề-mục-thiền-định tiến triển tốt chia làm 2 giai đoạn:

* Dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục ở giai đoạn đầucòn cách xa bậc thiền sắc-giới, gọi là parikammabhāvanā.

* Dục-giới lộ-trình-tâm có tác-hành-tâm (javana-citta) dục-giới-đại-thiện-tâm hoặc dục-giới-đại-duy-tác-tâm phát sinh liên tục ở giai đoạn sau gần bậc thiền, gọi là upacārabhāvanā.  

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 10 đề-mục trực tiếp([12]) upacārabhāvanā upacārasamādhi mà thôi.

3- Appanābhāvanā: Tâm-hành chứng đắc bậc thiền:

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với sắc-giới lộ-trình-thiền-tâmtác-hành-tâm (javanacitta) chứng đắc sắc-giới thiền-thiện-tâm hoặc sắc-giới thiền-duy-tác-tâm,gọi là Appanābhāvanā:chứng đắc bậc thiền sắc-giới phát sinh có paṭibhāganimitta đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng của đề-mục-thiền-định ấy,

Định-tâm đồng sinh với sắc-giới thiện-tâm ấy gọi là appanāsamādhi: an-định trong đề-mục-thiền-định ấy, chứng đắc bậc thiền-sắc-giới (mahaggatajjhāna).

Trong 40 đề-mục-thiền-định chỉ có 30 đề-mục ([13]) dẫn đến appanābhāvanā appanāsamādhi chứng đắc các bậc thiền mà thôi. Chứng đắc bậc thiền sắc-giới hoặc vô-sắc-giới nào hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng của mỗi đề-mục-thiền-định ấy.

(Xem nghi thức lễ thọ pháp-hành-thiền-định trong phần cuối pháp-hành-thiền-định này).


[1] Cô gái Puṇṇā vốn là người tớ gái, sáng nay cô được nâng lên trở thành con gái của nàng Sujātā.

[2] Cây Assattha này chính là Cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức-Bồ-Tát Siddhattha tại khu rừng Lumbhinī. Đúng 35 năm sau, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha ngự đến ngồi tại cội cây Đại-Bồ-Đề này, để trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, đúng theo lời thọ ký của 24 Đức-Phật quá-khứ. Cho nên, cây Assattha này trở thành cây Đại-Bồ-Đề của Đức-Phật Gotama .

[3] Tiền-kiếp-minh này, đối với Đức-Phật Độc-Giác và Thanh-văn-Giác có giới hạn.

[4] Dưới cội cây nào mà mỗi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác, cây ấy được gọi là Mahābodhirukkha: Cây Đại- Bồ-Đề. Mỗi Đức-Phật có mỗi cây Đại-Bồ-Đề khác nhau.

Cây Assattha này là cây Đại-Bồ-Đề đồng sinh cùng một lúc với Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác Siddhattha 35 năm trước đây.

[5] Bậc Thánh-A-ra-hán thuộc hạng Sukkhavipassaka, không có bậc thiền sắc-giới làm nền tảng, nghĩa là hành giả chỉ thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi tham-ái, mọi phiền-não không còn dư sót, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi.

[6] Duy-tác-tâm chỉ là tâm của bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi.

[7] Xem quyển “Tìm hiểu pháp-hành-thiền-tuệ” cùng soạn giả.

[8] 22 đề-mục trực tiếp là 4 bhūtakasiṇa + 4 vaṇṇakasiṇa + ākāsakasiṇa + āloka-kasiṇa + 10 asubha + kāyāgatāsati + ānāpānassati.

[9]18 đề-mục gián tiếp là 6 anussati + upasamānussati + maraṇānussati + 4 appamaññā + āhārepaṭikūlasaññā + catudhātuvavatthāna + 4 āruppakammaṭṭhāna.

[10] 4 appamaññā+4 āruppakammaṭṭhāna

[11] Duy-tác-tâm chỉ là tâm của bậc Thánh-A-ra-hán mà thôi. 

[12] 10 đề-mục là 8 đề-mục anussati (trừ kāyagatāsati và ānāpānassati) + āhārepaṭikkūlasaññā + catudhātuvavatthāna

[13] 30 đề-mục là 10 đề-mục kasiṇa + 10 đề-mục asubha + kāyagatāsati + ānāpānassati + 4 appamaññā + 4 āruppakammaṭṭhāna.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn