(Xem: 1817)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2277)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Niệm-Niệm ân đức Phật

01 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 16210)

 

3- 10 Đề Mục-Thiền Định: Niệm-Niệm

Niệm (Anussati)

Anussatinghĩa là niệm-niệm liên-tục, có chi pháp là saticetasika: niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm10 đề-mục-thiền-định niệm-niệm làm đối-tượng.

 Anussati: niệm-niệm có 10 đề-mục-thiền-định:

1- Buddhānussati: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,

2- Dhammānussati: Đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp

 3- Saṃghānussati: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-đức-Tăng,

4- Sīlānussati: Đề-mục niệm-niệm giới của mình, 

5- Cāgānussati: Đề-mục niệm-niệm sự bố-thí của mình, 

6- Devatānussati: Đề-mục niệm-niệm 5 pháp chư thiên có nơi mình,

7- Upasamānussati: Đề-mục niệm-niệm thật-tánh tịch tịnh Niết-bàn,

8- Maraṇānussati: Đề-mục niệm-niệm sự chết,

9- Kāyagatāsati: Đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân của mình

10- Ānāpānassati: Đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra. 

Đó là 10 đề-mục-thiền-định niệm-niệm (anussati) làm đối-tượng của pháp-hành-thiền-định.

 

3.1- Buddhānussati: Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

 Buddhānussatiđề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật. Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục Buddhānussati: đề-mục-thiền-định niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật, có niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm9 ân-Đức-Phật làm đối-tượng. 

Thực-Hành Đề-Mục Buddhānussati

 Pháp-hành-thiền-định đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, như Đức-Phật thuyết dạy trong bài kinh Dhajaggasutta([1]) phương-pháp niệm 9 ân-Đức-Phật như sau

 “Itipi so Bhagavā Arahaṃ Sammāsambuddho Vijjā-caraṇasampanno Sugato Lokavidū Anuttaro purisadam-masārathi Satthā devamanussānaṃ Buddho Bhagavā.”  

Ý Nghĩa 9 Ân-Đức-Phật

1- Arahaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-ra-haṃ là Đức A-ra-hán có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của Chư-thiên, Phạm-thiên, nhân-loại.

2- Sammāsambuddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sam-mā-sam-bud-dho là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõithế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

3- Vijjācaraṇasampanno: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Vij-jā-ca-ra-ṇa-sam-pan-no là Đức-Minh-Hạnh-Túc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh, và 15 đức-hạnh cao thượng.

4- Sugato: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Su-ga-to là Đức-Thiện-Ngôn thuyết pháp chân-lý tế độ chúng-sinh chắc chắn đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài thật sự trong kiếp hiện-tại và vô số kiếp vị-lai.

5- Lokavidū: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Lo-ka-vi-dū là Đức-Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.

6- Anuttaro purisadammasārathi: Đức-Thế-Tôn có ân-đức A-nut-ta-ro pu-ri-sa-dam-ma-sā-ra-thi là Đức-Vô- Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh cải tà quy chánh, bỏ ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân trở thành bậc Thánh-nhân.

7- Satthā devamanussānaṃ: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sat-thā-de-va-ma-nus-sā-naṃ là Đức-Thiên-Nhân-Sư, Đức Thầy của Chư-thiên, Phạm-thiên, nhân-loại.

8- Buddho: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Bud-dho là Đức-Phật chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõithế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác độc nhất vô nhị.

Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, cũng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-Lưu, hoặc bậc Thánh-Nhất-Lai, hoặc bậc Thánh-Bất-Lai, hoặc bậc Thánh-A-ra-hán tùy theo năng lực các pháp-hạnh Ba-la-mật và 5 pháp-chủ của mỗi chúng-sinh.

9- Bhagavā: Đức-Thế-Tôn có ân-đức Bha-ga-vā là Đức-Thế-Tôn có 6 Đức đặc biệt do đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật của Ngài.

9 ân-Đức-Phật này chỉ có nơi chư Phật-Chánh-Đẳng- Giác mà thôi. Ngoài chư Phật ấy ra, không có một Sa-môn, hoặc Bà-la-môn, hoặc Chư-thiên, hoặc Phạm-thiên nào có 9 ân-Đức-Phật này được. 

Thật vậy, chư Phật-Chánh-Đẳng-Giác quá-khứ, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác hiện-tại, chư Phật-Chánh-Đẳng-Giác vị-lai đều có đầy đủ 9 ân-Đức-Phật này.

Giảng Giải Về 9 Ân-Đức-Phật

Trong bộ Chú-giải giảng giải 9 ân-Đức-Phật được tóm lược sau đây:

1- Ân-Đức-Phật Arahaṃ

Itipi so Bhagavā Arahaṃ.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Á-rá-hăm)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng có thân khẩu ý hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên, ...

- Arahaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có Ân đức A-ra-hán.

 Arahaṃ Có 5 Ý Nghĩa

- Arahaṃ có nghĩa là xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường.

- Arahaṃ có nghĩa là đã xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não.

- Arahaṃ có nghĩa là đã diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não.

- Arahaṃ có nghĩa là đã phá hủy vòng luân hồi trong 3 giới 4 loài.

- Arahaṃ có nghĩa là không bao giờ làm điều ác ở nơi kín đáo.

Giải thích:

1- Arahaṃ có ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường như thế nào?

Đức-Thế-Tôn là Bậc-Tối-Thượng độc nhất vô nhị, trong muôn ngàn thế giới chúng-sinh. Thật vậy, Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 5 đức: giới-đức, định-đức, tuệ-đức, giải-thoát-đức, giải-thoát-tri-kiến-đức hoàn toàn trong sạch thanh tịnh.

Ngoài Đức-Thế-Tôn ra, trong toàn thể chúng-sinh không có một người nào, một Sa-môn, Bà-la-môn, Chư-thiên, Phạm-thiên… nào có đầy đủ 5 đức ấy như Ngài.

Chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có đầy đủ 5 đức ấy mà thôi, cho nên, Đức-Thế-Tôn là Bậc-Tối-Thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, là Bậc xứng đáng cho chúng-sinh lễ bái cúng dường. Chúng-sinh lễ bái cúng dường rồi, sẽ được quả báu lớn, sự lợi ích lớn, sự tiến hóa cao thượng, sự an-lạc cao thượng lâu dài. Như Đức-Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Bậc cao thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, để tế độ chúng- sinh, nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên. Bậc-Tối-Thượng độc nhất ấy là ai?

Bậc-Tối-Thượng độc nhất ấy chính là Như-Lai, Đức A-ra-hán, Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

- Này chư Tỳ-khưu! Như-Lai là Bậc-Tối-Thượng độc nhất, khi xuất hiện trên thế gian, để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho phần đông chúng-sinh, nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên”(1)

Vì vậy, Đức-Thế-Tôn có Ân đức Arahaṃ với ý nghĩa bậc xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của tất cả chúng-sinh.

2- Arahaṃ có ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não là thế nào?

Phiền-não dịch từ tiếng Pāḷi: Kilesa.

Kilesa: Phiền-não là những bất-thiện-tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân, phiền-não còn làm cho tâm, tâm sở bị ô nhiễm, khiến tạo nghiệp do thân, khẩu, ý.

Phiền-Não Có 10 Loại

1- Tham (lobha)tham tâm-sở  đồng sinh với 8 tham tâm có trạng-thái tham muốn, hài lòng trong đối tượng. 

2- Sân (dosa)sân tâm-sở đồng sinh với 2 sân tâm có trạng-thái sân hận, không hài lòng trong đối tượng.

3- Si (moha)si tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái si-mê, không hiểu biết thật-tánh của các pháp.

4- Tà-kiến (diṭṭhi)tà-kiến tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm hợp với tà kiến, có trạng-thái thấy sai, chấp lầm nơi đối tượng.

5- Ngã-mạn (māna)ngã-mạn tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm không hợp với tà-kiến, có trạng-thái so mình với người: hơn người, bằng người, kém thua người.

6- Hoài-nghi (vicikicchā)hoài-nghi tâm-sở đồng sinh với si tâm hợp với hoài-nghi, có trạng-thái hoài- nghi nơi các đối tượng.

7- Buồn-chán (thīna)buồn-chán tâm-sở đồng sinh với 4 tham tâm và 1 sân tâm gồm có 5 bất-thiện-tâm cần tác-động, có trạng-thái không hăng hái, buông bỏ đối tượng.

8- Phóng-tâm (uddhacca)phóng-tâm tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không an trụ nơi đối tượng.

9- Không-biết-hổ-thẹn (ahirika)không-hổ-thẹn tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái tự mình không biết hổ thẹn tội lỗi, khi hành ác.

10- Không-biết-ghê-sợ (anottappa) không-ghê-sợ tâm-sở đồng sinh với 12 bất-thiện-tâm, có trạng-thái không biết ghê sợ tội lỗi, khi hành ác.

Đó là 10 loại phiền-não, mỗi khi có phiền-não nào phát sinh ở bất-thiện-tâm nào, thì không những làm cho tâm bị ô nhiễm, nóng nảy, mà còn làm cho thân cũng nóng nảy, khó chịu, mặt mày mất vẻ tự nhiên.

Tính Chất Của Phiền-Não Có 3 Loại

* Vītikkamakilesa là phiền-não loại thô, được biểu hiện ra ở thân hành ác, khẩu nói ác. Phiền-não loại thô này có thể diệt bằng pháp-hành-giới. Hành giảcó tác-ý thiện-tâm (cetanākusala) tránh xa mọi hành ác, giữ gìn giới cho thân và khẩu được trong sạch, thì diệt-từng-thời phiền-não (tadaṅgappahāna) loại thô này.

* Pariyuṭṭhānakilesa là phiền-não loại trung phát sinh ở trong tâm, đó là 5 pháp-chướng-ngại(1), làm cho tâm cảm thấy khó chịu, khổ tâm, ngăn cản mọi thiện-pháp.

Phiền-não loại trung này có thể diệt bằng pháp-hành-thiền-định.Khi hành giả chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới, nhờ có 5 chi thiền có khả năng diệt bằng cách chế-ngự phiền-não (vikkhambhanappahāna) loại trung này. 

* Anusayakilesa là phiền-não cực kỳ vi tế ẩn tàng ngấm ngầm ở trong tâm, đó là 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm([2]) không hiện rõ.

Phiền-não loại cực kỳ vi tế này có thể diệt bằng pháp-hành-thiền-tuệ. Khi hành giả chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ mới có thể diệt-đoạn-tuyệt (samucchedappahāna) được phiền-não loại cực kỳ vi tế này.

Phiền-Não Tính Rộng Có 1.500 Loại

Khi 10 loại phiền-não kể trên liên quan đến đối tượng làm nhân duyên để phát sinh phiền-não, tính rộng có 1.500 loại phiền-não. Cách tính như sau:

75 pháp có thể làm đối tượng của phiền-não:

- Tâmtính là 1 pháp (vì cùng có một trạng-thái biết đối tượng).

- Tâm-sởtính 52 pháp (mỗi tâm sở có mỗi trạng-thái riêng biệt).

- Sắc-pháp chỉ có 18 sắc-pháp hiện hữu thật rõ ràng, và 4 pháp trạng-thái của sắc-pháp.

Như vậy, gồm có (1 + 52 + 18 + 4) = 75 pháp có thể làm đối tượng của phiền-não.

75 pháp này là đối tượng của phiền-não ở bên trong mình, là kẻ thù bên trong.

75 pháp này cũng là đối tượng của phiền-não ở bên ngoài mình, là kẻ thù bên ngoài.

Đối tượng của phiền-não bên trong mình có 75 pháp và bên ngoài mình có 75 pháp gồm cả thảy 150 pháp, nhân với 10 loại phiền-não (tham, sân, si, tà-kiến, ngã- mạn, hoài-nghi, buồn-chán, phóng-tâm, không-hổ-thẹn, không-ghê-sợ) thành 1.500 loại phiền-não. 

Thật ra, 10 loại phiền-não trong 12 bất-thiện-tâm mới làm cho tâm bị ô nhiễm, làm cho tâm nóng nảy, khó chịu, khổ tâm, khổ thân.

Phiền-não làm nhân duyên trực tiếp tạo mọi ác-nghiệp và làm nhân duyên gián tiếp tạo mọi thiện-nghiệp trong tam-giới (do vô-minh làm duyên, nên tạo ác-nghiệp, thiện-nghiệp), để rồi cho quả của nghiệp, dẫn dắt trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới4 loài.

Nghiệpnày bị dẫn dắt cho quả tái sinh kiếp sau do bởi tham-ái (taṇhā).

Tham-ái đó là tham tâm-sở (lobhacetasika).

Tham-ái có tất cả 108 loại.

Cách tính 108 loại tham-ái theo 3 tính-chất, 6 đối- tượng, 2 bên, 3 thời như sau:

* 3 Tính Chất Của Tham-Ái:

 - Dục-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng: Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.

- Hữu-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng hợp với thường-kiếntham-ái trong thiền sắc-giới, thiền vô-sắc-giới, trong cõi sắc-giới, cõi vô-sắc-giới.

- Phi-hữu-ái: Tham-ái trong 6 đối tượng hợp với đoạn-kiến.

* 6 Đối Tượng Của Tham-Ái:

1- Sắc-ái: Sắc đẹp là đối tượng của tham-ái.

2- Thanh-ái: Thanh hay là đối tượng của tham-ái.

3- Hương-ái: Hương thơm là đối tượng của tham-ái.

4- Vị-ái: Vị ngon là đối tượng của tham-ái.

5- Xúc-ái:Xúc êm ấm là đối tượng của tham-ái.

6- Pháp-ái: Pháp vừa lòng là đối tượng của tham-ái.

* 2 Bên:

1- Bên trong: Tham-ái phát sinh bên trong tâm của mình.

2- Bên ngoài: Tham-ái phát sinh bên ngoài mình (của người khác).

* 3 Thời:

1- Thời quá-khứ: Tham-ái đã phát sinh trong thời quá khứ

2- Thời hiện-tại:Tham-ái đang phát sinh trong thời hiện-tại.

3- Thời vị-lai: Tham-ái sẽ phát sinh trong thời vị-lai.

Như vậy, tham-ái có 3 tính-chất nhân với 6 đối- tượng, nhân với 2 bên (trong và ngoài), nhân với 3 thời (quá-khứ, hiện-tại, vị-lai) (3 x 6 x 2 x 3) = 108 loại tham-áiNhân-sinh-Khổ-đế.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha chứng ngộ chân-lý tứ Thánh- đế đầu tiên không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não, 108 loại tham-ái không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật (vāsanā)(1) do tích lũy từ vô số kiếp ở quá-khứ, tại dưới cội Đại-Bồ-Đề, vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, không thầy chỉ dạy, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng- Giác (Sammāsambuddha), có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, độc nhất vô nhị.

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa xa lìa vĩnh viễn mọi phiền-não, mọi tham-áitiền- khiên-tật không bao giờ phát sinh được nữa.

3- Arahaṃ có ý nghĩa diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não như thế nào?

Đức-Phật dạy: “Kẻ thù nguy hiểm chính là phiền-não có 1.500 loại của mình”.

Sở dĩ gọi phiền-nãokẻ thùlàvì kẻ thù ở trong đời này thường tìm cơ hội làm khổ mình, sát hại mình, không có một kẻ thù nào mong cho mình được an-lạc. Cũng như vậy, phiền-não phát sinh trong 12 bất-thiện-tâm làm cho mình khổ-tâm, khổ-thân, nóng nảy, khó chịu và còn khiến mình tạo mọi ác-nghiệp, làm khổ chúng-sinh khác, để rồi phải chịu quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp vị-lai.

Sự thật, chỉ có phiền-não bên trong 12 bất-thiện-tâm của mình, mới trực tiếp làm khổ mình mà thôi, còn phiền-não bên ngoài mình, của người khác không trực tiếp làm khổ mình được, nếu mình không tiếp nhận.

Ví dụ: Người ta mắng chửi, đánh đập mình, nếu mình có tâm nhẫn-nại, không sân-hận, phiền-não không sinh, thì mình không bị khổ-tâm.

Nếu có phiền-não sân-hận phát sinh, thì chính phiền-não bên trong tâm mình làm cho mình khổ-tâm, hoàn toàn không phải phiền-não bên ngoài mình, của người khác làm cho mình khổ-tâm được.

Còn phần khổ-thân thuộc về quả của nghiệp, không một ai tránh khỏi, dù là Đức-Phật hay chư Bậc Thánh-A-ra-hán. Đức-Phật và chư Bậc Thánh-A-ra-hán tuy đã diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, hoàn toàn không còn khổ-tâm nữa, nhưng còn có sắc-thân, nên vẫn còn có khổ-thân cho đến khi hết tuổi thọ, tịch diệt Niết-bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Khi ấy, mới thật sự giải thoát hoàn toàn mọi cảnh khổ.

Đức-Bồ-Tát Siddhattha đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi kẻ thù là 1.500 loại phiền-não, bằng 4 Thánh-đạo-tuệ tại dưới cội Đại-Bồ-đề, vào canh chót đêm rằm tháng tư (âm lịch), trở thành Đức-Phật Chánh Đẳng Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama, độc nhất vô nhị.

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa diệt-đoạn-tuyệt mọi kẻ thù là phiền-não không còn dư sót.

4- Arahaṃ có ý nghĩa phá hủy vòng luân hồi trong 3 giới 4 loài như thế nào?

Vòng-luân-hồi đó chính là pháp “Thập-nhị-duyên- sinh” (Paṭiccasamuppāda) có 12 chi pháp:

- Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh.

- Do hành làm duyên, nên thức sinh.

- Do thức làm duyên, nên danh-sắc sinh

- Do danh-sắc làm duyên, nên lục-nhập sinh.

- Do lục-nhập làm duyên, nên lục-xúc sinh.

- Do lục- xúc làm duyên, nên lục-thọ sinh.

- Do lục-thọ làm duyên, nên lục-ái sinh.

- Do lục-ái làm duyên, nên tứ-thủ sinh.

- Do tứ-thủ làm duyên, nên nhị-hữu sinh.

- Do nhị-hữu làm duyên, nên tái-sinh sinh.

- Do tái-sinh làm duyên, nên lão, tử… sinh.

Vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh có 12 chi pháp, từ vô-minh đến lão, tử… Mỗi chi pháp là quả của pháp trước, rồi làm nhân của pháp sau, trở nên nhân-quả-liên-hoàn với nhau như vậy. Cho nên, nhân quả trong thập-nhị-duyên-sinh, không thuần là nhân, là quả, bởi vì quả của pháp trước, rồi lại làm nhân của pháp sau, cứ tiếp diễn như vậy, trở thành cái vòng không có chỗ bắt đâu, cũng không có chỗ cuối cùng. 

Nếu chỉ riêng rẻ mỗi chi pháp thì không thể gọi là nhân, cũng không thể gọi là quả.

 (Ví dụ: Anh B là con của ông A, cũng là cha của bé C. Nếu chỉ riêng một mình anh B thì không thể gọi là con, cũng không thể gọi là cha).

Cho nên, vòng-luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh theo định luật nhân-quả-liên-hoàn trong 12 chi pháp nối dính vào nhau thành vòng không có điểm bắt đầu, cũng không có điểm cuối cùng. 12 chi pháp trong vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh phân tích nhânquả theo 3 thời: 

* Vô-minh, hànhnhân quá-khứ.

* Thức, danh-sắc, lục-nhập, lục-xúc, lục-thọquả hiện-tại.

* Tham-ái, thủ, hữu nhân hiện-tại.

* Sinh, già, chếtquả vị-lai.

Đối với chúng-sinh còn vô-minhtham-ái, thì vô- minh không phải là pháp bắt đầu, và lão, tử, ... cũng không phải là pháp cuối cùng.

Thật ra, vô-minh chỉ là nhân-duyên quá-khứ mà thôi, không phải là nhân-duyên bắt đầu, vì vô-minh còn là quả của 4 pháp-trầm-luân. Như Đức-Phật dạy:

 “Āsavasamudayā avijjāsamudayo…”([3]).

 “Do có sự sinh của 4 pháp-trầm-luân, nên có sự sinh của vô-minh ...”

lão, tử … chỉ là pháp cuối cùng của mỗi kiếp mà thôi, bởi vì chúng-sinh còn vô-minh và tham-ái sau khi chết, thì nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau. Kiếp sau như thế nào, chỉ tuỳ thuộc vào quả của nghiệp của chúng-sinh ấy mà thôi.

Vòng-Tam-Luân

Vòng-luân-hồi thập-nhị-duyên-sinh có 12 chi pháp này được phân chia theo tam-luân, luân chuyển theo chiều hướng nhất định như sau:

1- Phiền-não-luân: Gồm có 3 chi pháp: vô-minh, lục- ái, tứ-thủ.

2- Nghiệp-luân: Gồm có 2 chi pháp: hành, nghiệp-hữu[4].

3- Quả-luân: Gồm có 8 chi pháp: Cảnh-hữu, thức, danh-sắc, lục-nhập, lục-xúc, lục-thọ, sinh, lão tử...

Vòng-luân-hồi “Thập-nhị-duyên-sinh” luân chuyển theo 3 luân: Phiền-não-luân → Nghiệp-luân → Quả- luân → Phiền-não-luân… từ kiếp này sang kiếp khác tiếp nối với nhau, kể từ vô thuỷ trải qua vô số kiếp cho đến kiếp hiện-tại, và sẽ còn những kiếp vị-lai, đối với chúng-sinh còn phiền-não-luân.

Biểu Tượng Vòng-Luân-Hồi Và Tam-Luân

 Giải Thích Tam-Luân

1- Phiền-Não-Luân Tạo Nghiệp-Luân:

Chúng-sinh còn vô-minh, lục-ái, tứ-thủ làm nhân duyên khiến tạo nên bất-thiện-nghiệp, thiện-nghiệp do thân, khẩu, ý.

* Phiền-Não Làm Nhân Duyên Tạo Bất-Thiện-Nghiệp

Số chúng-sinh do vô-minh, không biết rõ bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) cho quả khổ trong kiếp hiện-tại lẫn nhiều kiếp trong vị-lai. Và cũng có số chúng-sinh, tuy có hiểu biết bất-thiện-nghiệp cho quả khổ như vậy, nhưng vô-minh, tham-áicó nhiều năng lực quá, nên xui khiến tạo mọi bất-thiện-nghiệp bằng thân, khẩu, ý như sau:

- Thân hành ác như: Sát-sinh, trộm-cắp, tà-dâm. 

- Khẩu nói ác như: Nói dối, nói lời đâm thọc chia rẽ, nói lời thô tục, nói lời vô ích.

- Ý nghĩ ác như: Tham-lam, thù-hận, tà-kiến.

* Phiền-Não Làm Nhân Duyên Tạo Thiện-Nghiệp

Số chúng-sinh do vô-minh, không biết rõ chân-lý tứ Thánh-đế, không biết rõ ngũ-uẩn là khổ thật. Vì vậy, muốn hưởng sự an-lạc tạm thời, nên tạo các thiện-nghiệp:

- Dục-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi dục-giới.

- Sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi trời sắc giới.

- Vô-sắc-giới-thiện-nghiệp cho quả an-lạc trong cõi trời vô-sắc-giới.

Sự an-lạc trong các cõi tam-giới này không phải là thật, không phải cõi vĩnh hằng, chỉ có tính cách an-lạc tạm thời trong thời gian lâu dài hoặc ngắn ngủi tùy theo năng lực quả của thiện-nghiệp ấy mà thôi.

Như vậy, gọi là phiền-não-luân khiến tạo nghiệp-luân.

2- Nghiệp-Luân Cho Quả-Luân

Chúng-sinh còn phiền-não khiến đã tạo bất-thiện-nghiệp, thiện-nghiệp, nếu khi nghiệp nào có cơ hội thì nghiệp ấy cho quả, chúng-sinh ấy thọ quả của nghiệp ấy.

* Nếu bất-thiện-nghiệp (ác-nghiệp) có cơ hội cho quả trong kiếp hiện-tại thì phải chịu quả xấu như sau:

- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những hình ảnh xấu.

- Nhĩ-thức-tâm nghe những âm thanh dở.

- Tỷ-thức-tâm ngửi những mùi hôi hám.

- Thiệt-thức-tâm nếm những vị dở.

- Thân-thức-tâm xúc giác những vật thô cứng.

- Ý-thức-tâm được biết điều khổ não.

* Nếu bất-thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái-sinh kiếp sau thì sinh 1 trong 4 cõi ác giới: địa-ngục, a-tu-la, ngạ-quỷ, súc-sinh tùy theo năng lực quả của bất-thiện-nghiệp ấy, chúng-sinh ấy phải chịu quả khổ trong cõi ác giới, cho đến khi mãn quả của bất-thiện-nghiệp ấy (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

* Nếu thiện-nghiệp có cơ hội cho quả trong kiếp hiện tại thì được hưởng quả tốt như sau:

- Nhãn-thức-tâm nhìn thấy những hình ảnh đẹp.

- Nhĩ-thức-tâm nghe những âm thanh hay.

- Tỷ-thức-tâm ngửi những mùi thơm tho.

- Thiệt-thức-tâm nếm những vị ngon.

- Thân-thức-tâm xúc giác những vật mềm mại.

- Ý-thức-tâm được biết điều tốt lành.

* Nếu dục-giới thiện-nghiệp có cơ hội cho quả tái sinh kiếp-sau làm người như thế nào, hoặc làm Chư-thiên cõi nào trong 6 cõi trời dục-giới thì hoàn toàn tuỳ theo quả của thiện-nghiệp ấy.

 Người hoặc chư-thiên ấy hưởng sự an-lạc trong cõi ấy cho đến hết tuổi thọ (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

* Sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả tái sinh kiếp sau làm Phạm-thiên cõi nào trong 16 cõi trời sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành-giả.

Vị Phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc vi tế hơn ở cõi dục-giới cho đến hết tuổi thọ của cõi trời sắc-giới ấy (chết), rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng-sinh ấy.

* Vô-sắc-giới thiện-nghiệp chắc chắn cho quả tái sinh kiếp sau làm Phạm-thiên cõi nào trong 4 cõi trời vô-sắc-giới, tùy theo bậc thiền sở đắc của hành giả.

Vị Phạm-thiên ấy hưởng sự an-lạc vi tế hơn ở cõi sắc-giới cho đến hết tuổi thọ của cõi trời vô-sắc-giới ấy, rồi tái sinh kiếp sau tuỳ theo nghiệp của chúng- sinh ấy.

3- Quả-Luân Sinh Phiền-Não-Luân

Quả-luân là sự hiện hữu của chúng-sinh trong tam giới:

- Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong cõi dục-giới và cõi sắc-giới.

- Chúng-sinh có tứ-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn, (không có sắc-uẩn) trong cõi vô-sắc-giới.

- Chúng-sinh có nhất-uẩn là sắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn), trong cõi sắc-giới Vô-Tưởng-Thiên.

Nếu các chúng-sinh này chưa diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não, vô-minh, tham-ái… khi có cơ hội thì phiền-não phát sinh làm nhân duyên khiến tạo nên thiện-nghiệp hoặc bất-thiện-nghiệp, rồi trở lại vòng-tam-luân chuyển biến không ngừng từ kiếp này sang kiếp khác, trong vòng-tử-sinh-luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

Tam-luân này chuyển biến theo định luật nhân-quả như sau:

Phiền-não-luânnhân, nghiệp-luânquả:nghiệp-luân nhân, quả-luânquả: quả-luânnhân, phiền-não-luânquả cứ tiếp diễn như vậy theo tam-luân trong vòng-luân-hồi-thập-nhị-duyên-sinh.

* Đức-Thế-Tôn đã diệt-đoạn-tuyệt được tất cả 1.500 loại phiền-não rồi, nhổ tận gốc rễ của vô-minh tham-ái bằng 4 Thánh-đạo Tuệ rồi.

Cho nên vòng tam-luân bị tan rã, tách rời không còn luân chuyển được nữa, do diệt-đoạn-tuyệt được phiền-não-luân.

Vì vậy, Đức-Thế-TônÂn-đức Arahaṃvới ý nghĩa phá hủy vòng sinh-tử-luân-hồi trong 3 giới 4 loài.

5- Arahaṃ có ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo như thế nào?

Nơi kín đáo là nơi không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không có một ai có thể nghi ngờ. Như vậy, đối với hạng phàm-nhân còn mọi phiền-não, nơi kín đáo ấy là nơi dễ hành-ác do thân, khẩu, ý, vì không sợ ai chê trách. 

Đức-Thế-Tôn là Bậc đã diệt-đoạn-tuyệt tất cả mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi bất-thiện-tâm không còn nữa, nên thân, khẩu, ý của Ngài lúc nào cũng hoàn toàn trong sạch thanh tịnh. Cho nên, dầu ở nơi kín đáo, không một ai thấy, không một ai nghe, không một ai biết, cũng không một ai có thể nghi ngờ, thì Đức-Thế-Tôn cũng không bao giờ hành ác do thân, khẩu, ý nữa.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Arahaṃ với ý nghĩa không bao giờ hành điều ác ở nơi kín đáo.

2- Ân-Đức-Phật Sammāsambuddho

Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho.

(Cách đọc:Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xăm-ma-xăm-bút-thô)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, mọi ác-pháp không còn dư sót, đặc biệt diệt được mọi tiền-khiên-tật, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị.

- Sammāsambuddho: Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác.

Chân-Lý Tứ Thánh-Đế

- Khổ-Thánh-đế: Đó là ngũ uẩn, sắc-pháp, danh-pháptrong tam giới là pháp nên biết. 

- Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế: Đó là tham-ái là pháp nên diệt.

- Diệt-Khổ-Thánh-đế: Đó là Niết-bàn là pháp nên chứng ngộ. 

- Pháp-hành-dẫn-đến-diệt-Khổ-Thánh-đế: Đó là bát-chánh-đạo hợp đủ 8 chánh: chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn, chánh-niệm, chánh-định là pháp nên tiến-hành để chứng ngộ Niết-bàn, diệt Khổ-Thánh-đế. 

Đức-Thế-Tôn đã tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị.

Đức-Thế-Tôn chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, bằng trí-tuệ siêu-việt suy xét pháp “Thập-nhị-duyên-sinh và thập-nhị-nhân-diệt” như:

 “Avijjā paccayā saṅkhārā”…

“Do vô-minh làm duyên, nên các hành sinh”...

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ Khổ-Thánh-đế Nhân-sinh-Khổ-Thánh-đế.

Và trí-tuệ siêu-việt suy xét pháp “Thập nhị nhân diệt” như:

 “Avijjāyatveva asesavirāganirodhā saṅkhārā nirodho,..”

 “Do diệt tận vô-minh, tham-ái không còn dư sót, nên diệt các hành”…

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ Diệt-Khổ-Thánh-đế Pháp hành dẫn đến diệt Khổ-Thánh-đế.

Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.  

Điều này Đức-Phật đã khẳng định với nhóm 5 Tỳ-khưu trong bài kinh Chuyển Pháp Luân(1)rằng:

- Này chư Tỳ-khưu! Khi nào trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của tứ Thánh-đế theo tam-tuệ-luân (trí- tuệ-học, trí-tuệ-hành, trí-tuệ-thành), thành 12 loại trí-tuệ-siêu-việt hoàn toàn trong sáng, thanh tịnh đã phát sinh đến với Như-Lai.

- Này chư Tỳ-khưu! Khi ấy, Như-Lai khẳng định, truyền dạy rằng: “Như-Lai đã chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác vô thượng trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nhân-loại, Vua chúa, Sa-môn, Bà-la-môn, Chư-thiên, ma vương, Phạm-thiên cả thảy”. 

Như vậy, Đức-Thế-Tôn đã chứng ngộ chân lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên  trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên Ngài có ân-đức Sammāsambuddho: Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

Ñeyyadhamma

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác đặc biệt biết đủ 5 pháp Ñeyyadhamma:

- Saṅkhāra: Tất cả pháp hành cấu tạo.

- Vikāra: Sắc-pháp, danh-pháp biến đổi.

- Lakkhaṇa: Trạng-thái sinh, trụ, diệt của sắc-pháp, danh-pháp.

- Paññattidhamma: Chế-định-pháp: Chế định ngôn ngữ, để thuyết giảng chánh-pháp tế độ chúng-sinh.

- Nibbāna: Niết-bàn, pháp diệt Khổ-Thánh-đế.

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác hoặc Đức-Phật-Toàn- Giác có đầy đủ 5 pháp ấy, nên Ngài có khả năng chế định ra ngôn ngữ, để thuyết pháp tế độ chúng-sinh(1).

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Sammāsambuddho:Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác.

3- Ân-Đức-Phật Vijjācaraṇasampanno

Itipi so Bhagavā vijjācaraṇasampanno.

(Cách đọc: í-tí-pí xô phá-gá-voa vít-cha-chá-rá-ná-xăm-păn-nô).

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc có đầy đủ Tam-minh, Bát-minh

và 15 Đức-hạnh cao thượng,

- Vijjācaraṇasampanno:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân- đức Minh-Hạnh-Túc.

Tam-Minh

1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa)là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ, nhớ rõ trở lại tiền kiếp từ hằng trăm kiếp, hằng vạn kiếp, hằng triệu kiếp, hằng triệu triệu kiếp. Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác có khả năng ghi nhớ lại vô số kiếp không có giới hạn. (còn Đức-Phật Độc-Giác, bậc Thánh-Thanh-văn-giác có giới hạn)

 Tiền-kiếp-minh là trí-tuệ biết rõ tiền kiếp thuộc loại chúng-sinh nào, tên gì, thuộc dòng dõi nào, tạo thiện-nghiệp, bất-thiện-nghiệp, thực-hành pháp hạnh ba-la-mật,… tuổi thọ… đều ghi nhớ rõ ràng mọi chi tiết.

2- Thiên-nhãn-minh(Dibbacakkhuñāṇa) là trí-tuệ thấy rõ, biết rõ kiếp quá-khứ, kiếp vị-lai của tất cả chúng-sinh như mắt của Chư-thiên, Phạm-thiên.

Thiên-nhãn-minh có 2 loại:

 - Tử-sinh-minh (Cutūpapātañāṇa) là trí-tuệ biết rõ sự tử, sự tái sinh của tất cả chúng-sinh. Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác có Tử-sinh-minh này biết rõ chúng-sinh sau khi chết rồi, nghiệp nào cho quả tái sinh trong cảnh giới nào.

- Vị-lai-kiến-minh(Anāgataṃsañāṇa) là trí-tuệ thấy rõ những kiếp vị-lai của chúng-sinh. Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác dùng vị-lai-kiến-minh này để thọ ký chúng-sinh trong những kiếp vị-lai xa xăm, còn thời gian bao nhiêu đại kiếp trái đất nữa, sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, Đức-Phật-Độc-Giác, bậc Thánh- Thanh-văn-giác …

3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa) là trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới, đó là 4 Thánh-đạo-tuệ, diệt-đoạn-tuyệt được 4 pháp phiền-não-trầm-luân (āsava) không còn dư sót, đồng thời Đức-Thế-Tôn tận diệt được tất cả mọi tiền-khiên-tật (vāsanā) do tích lũy từ vô lượng kiếp trong quá-khứ.

Bát-Minh

1- Tiền-kiếp-minh (Pubbenivāsānussatiñāṇa).

2- Thiên-nhãn-minh (Dibbacakkhuñāṇa).

3- Trầm-luân-tận-minh (Āsavakkhayañāṇa).

4- Thiền-tuệ-minh (Vipassanāñāṇa)trí-tuệ-thiền-tuệ-tam-giớithấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp sắc-pháp, và trí-tuệ-thiền-tuệ-siêu-tam-giới chứng đắc 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ và Niết-bàn.

5- Tha-tâm-minh (Cetopariyañāṇa) là trí-tuệ có khả năng biết đến tâm của người khác, chúng-sinh khác đang nghĩ gì, với thiện tâm hoặc bất thiện tâm,...

6- Hóa-tâm-minh (Manomayiddhiñāṇa)là trí-tuệ có khả năng hóa thân khác theo mong muốn của mình, do năng lực của thiền định. 

Như trường hợp Đức-Phật-Gotama thuyết tạng Vi- Diệu-Pháp vào hạ thứ bảy tại cung Tam-thập-Tam-thiên suốt ba tháng. Mỗi ngày đến giờ đi khất thực, Đức-Phật hóa-thân khác như Đức-Phật tiếp tục thuyết pháp, còn chính Đức-Phật thật ngự đi khất thực ở Bắc-câu-lưu-châu. Khi độ ngọ xong, Đức-Phật ngự trở lại cung trời thay thế Đức-Phật hóa-thân ấy.

 

7- Thiên-nhĩ-minh (Dibbasotañāṇa)là trí-tuệ có khả năng nghe được mọi thứ tiếng người, tiếng súc-sinh, tiếng Chư-thiên gần xa, do năng lực thiền định, như tai của Chư-thiên, Phạm-thiên.

 8- Đa-dạng-minh (Iddhividhañāṇa)là trí-tuệ có khả năng biến hóa nhiều phép thần thông khác nhau, do năng lực thiền định, như một người hóa thành nhiều người, tàng hình không ai thấy, hiện hình nơi khác, đi xuyên qua núi, đi trên hư không, …

15 Đức-Hạnh Cao Thượng

1- Giới đức:Hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.

2- Thu thúc lục căn thanh tịnh: Thu thúc khi thấy bằng mắt, nghe bằng tai, ngửi bằng mũi, nếm bằng lưỡi, tiếp xúc bằng thân, suy nghĩ bằng ý hoàn toàn thanh tịnh.

3- Biết tri-túc trong vật thực: Nhận vật thực vừa đủ, khi thọ thực đàng hoàng, còn 4 - 5 miếng nữa đủ no, biết ngừng lại để dành uống nước, không dùng no quá.

4- Tinh-tấn-tỉnh-thức: Ngày, đêm tinh tấn hành phận sự, nghĩa là suốt ngày không ngủ, ban đêm có 3 canh: canh đầu (khoảng từ 18-22 giờ): Ngồi hành đạo, đi kinh hành; canh giữa(khoảng từ 22 đến 2 giờ khuya): Nằm nghỉ ngủ trong tư thế nằm nghiêng bên phải, có trí nhớ, trí-tuệ trước khi ngủ, sẽ thức dậy lúc cuối canh giữa; canh chót (khoảng từ 2 giờ đến rạng đông): Hành đạo, đi kinh hành,… Gọi là tinh tấn luôn luôn tỉnh thức.

5- Đức tin: Có đức tin không lay chuyển,

6- Trí nhớ: Thường có trí nhớ,

7- Hổ thẹn: Biết hổ thẹn tội lỗi, 

8- Ghê sợ: Biết ghê sợ tội lỗi, 

9- Đa văn túc trí: Học nhiều hiểu rộng tất cả các pháp,

10- Tinh tấn: Có tâm tinh tấn không ngừng nghỉ,

11- Trí-tuệ: Có trí-tuệ hiểu biết rõ tất cả các pháp,

12- Đệ nhất thiền: Có đệ nhất thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

13- Đệ nhị thiền:Có đệ nhị thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

14- Đệ tam thiền: Có đệ tam thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

15- Đệ tứ thiền: Có đệ tứ thiền sắc-giới và vô-sắc-giới,

Đó là 15 Đức-hạnh cao thượng.

Đức-Thế-Tôn có trọn đủ Tam-minh, Bát-minh và 15 Đức-hạnh cao thượng hợp với trí-đại-bi tế độ chúng-sinh có hữu duyên nên tế độ giải thoát khỏi mọi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Cho nên, Đức-Thế-Tôn ân-đức Vijjācaraṇa-sampanno: Đức-Minh-Hạnh-Túc.

4- Ân-Đức-Phật Sugato

Itipi so Bhagavā Sugato.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xú-gá-tô)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc thuyết pháp chân-lý đem lại lợi ích thật sự cho chúng-sinh.

- Sugato:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thiện Ngôn.

Sugato có 4 ý nghĩa

- Thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.

- Ngự theo Thánh-đạo.

- Ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối.

- Ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí.

Giải thích:

1- Sugato có ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh như thế nào?

Đức-Thế-Tôn tùy thời thuyết pháp chân-lý chắc chắn đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh, nếu không đem lại lợi ích, thì Đức-Thế-Tôn không thuyết pháp.

Đức-Thế-Tôn biết rõ 6 trường hợp, trường hợp nào nên thuyết giảng và trường hợp nào không nên thuyết giảng như sau:

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào không chân thật, không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài vẫn không thuyết giảng pháp ấy.

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, nhưng không đem lại sự lợi ích, dù người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài vẫn không thuyết giảng pháp ấy.

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, không đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài không thuyết giảng pháp ấy.

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe không hài lòng, không hoan hỷ. Ngài biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

- Đức-Thế-Tôn biết rõ pháp nào chân thật, đem lại sự lợi ích, người nghe hài lòng, hoan hỷ. Ngài biết rõ tùy nơi, đúng lúc sẽ thuyết giảng pháp ấy.

Vì vậy, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa thuyết pháp chân-lý đem lại sự lợi ích cho chúng-sinh.

2- Sugato có ý nghĩa ngự theo Thánh-đạo như thế nào?

Đức-Thế-Tôn ngựtheo Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh là:

* Chánh-kiến: Trí tuệ chân-chính là trí-tuệ-thiền-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế.

* Chánh-tư-duy:Tư-duy chân-chính là:

- Tư-duy thoát khỏi ngũ dục,

- Tư-duy không thù oán,

- Tư-duy không hại chúng-sinh.

* Chánh-ngữ: Lời nói chân-chính là:

- Không nói dối,

- Không nói lời đâm thọc chia rẽ,

- Không nói lời thô tục,

- Không nói lời vô ích.

* Chánh-nghiệp: Hành-nghiệp chân-chính là:

- Không sát sinh,

- Không trộm cắp,

- Không tà dâm.

 * Chánh-mạng: Nuôi-mạng chân-chính là không sống theo tà-mạng do thân, khẩu hành ác.

* Chánh-tinh-tấn: Tinh-tấn chân-chính là:

- Tinh-tấn ngăn ác-pháp chưa sinh, không cho sinh.

- Tinh-tấn diệt ác-pháp đã sinh.

- Tinh-tấn làm cho thiện-pháp chưa sinh, được sinh.

- Tinh-tấn làm cho tăng trưởng thiện-pháp đã sinh.

* Chánh niệm: niệm chân-chính là:

- Niệm-thân, thân là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-thọ, thọ là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-tâm, tâm là đối tượng của chánh-niệm…

- Niệm-pháp, pháp là đối tượng của chánh-niệm…

* Chánh-định: định chân-chính là định-tâm trong các bậc thiền siêu-tam-giới có đối-tượng Niết-bàn, 

- Định-tâm trong đệ nhất thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ nhị thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ tam thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ tứ thiền siêu-tam-giới,

- Định-tâm trong đệ ngũ thiền siêu-tam-giới,

Thánh-đạo hợp đủ 8 chánh này đồng sinh với 4 Thánh-đạo-tâm, 4 Thánh-quả-tâm, có đối-tượng Niết-bàn. 

Vì vậy, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa ngự theo Thánh-đạo.

3- Sugato có ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối như thế nào?

Đức-Thế-TônBậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn bằng trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới đó là: 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ, nên Đức-Thế-Tôn có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn đầu tiên an-lạc tuyệt đối.

Về sau, Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các hàng đệ tử cũng chứng ngộ Niết-bàn với Thánh-đạo-tuệ, Thánh-quả-tuệ, nhưng những bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử này không có ân-đức Sugato như Đức-Thế-Tôn, bởi vì không phải bậc đầu tiên chứng ngộ Niết-bàn.

Vì vậy, chỉ có Đức-Thế-Tôn mới có ân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến Niết-bàn an-lạc tuyệt đối mà thôi.

4- Sugato có ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng, bất thoái chí như thế nào?

Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Chánh- Đẳng-Giác. Lần đầu tiên, Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký xác định thời gian còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp nữa, sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama.

Từ đó, Đức-Bồ-Tát Đạo sĩ Sumedha trở thành Đức-Bồ-Tát cố-định (niyatabodhisatta) tiếp tục thực-hành cho đầy đủ 30 pháp-hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung và 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất một cách bất thoái chí.

Đến kiếp chót, Đức-Bồ-Tát Siddhattha từ bỏ ngai vàng, đi xuất gia đã chứng đắc thành Đức-Phật Chánh-Đẳng- Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama, đúng như lời thọ ký của Đức-Phật Dīpaṅkara.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Sugato với ý nghĩa ngự đến mục đích cao thượng bất thoái chí.

5- Ân-Đức-Phật Lokavidū

Itipi so Bhagavā Lokavidū.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Lô-ká-ví-đu).

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn. 

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc thấy rõ, biết rõ tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành.

- Lokavidū:Do đó, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thông Suốt-Tam-tổng-pháp.

* Lokalà các pháp có sự sinh, sự diệt, sự thành, sự hoại,… ngũ-uẩn của mình gọi là loka.

Loka Có 3 LoạiError! Bookmark not defined.

1- Tổng các loài chúng-sinh (sattaloka).

2- Tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka).

3- Tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka).

Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt mà Chư Phật- Độc-Giác và bậc Thánh-Thanh-văn không có là:

- Indriyaparopariyattañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ cao thấp của mỗi chúng-sinh.

- Āsayānusayañāṇa: Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngấm ngầm, thiện-nghiệp, ác-nghiệp của mỗi chúng-sinh.

Cho nên, Đức-Thế-Tôn có khả năng đặc biệt thông suốt cả 3 tổng-pháp.

1- Thế nào gọi là tổng các loài chúng-sinh (sattaloka)?

* Chúng-sinh có 4 loài:

- Thai-sinh: Chúng-sinh sinh từ bụng mẹ như loài người, voi, ngựa, trâu, bò, v.v…

- Noãn-sinh: Chúng-sinh sinh từ trứng như gà, vịt, chim,..

- Thấp-sinh:Chúng-sinh sinh từ nơi ẩm thấp như con dòi, con giun,…

- Hóa-sinh:Chúng-sinh sinh hiện hữu ngay tức thì như Chư-thiên, Phạm-thiên, loài ngạ-quỷ, a-tu-la, chúng-sinh địa-ngục, con người đầu tiên xuất hiện trên trái đất này,...

* Chúng-sinh phân chia theo uẩn có 3 hạng:

- Chúng-sinh có ngũ-uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng- uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn trong 11 cõi dục-giới và 15 cõi sắc-giới (trừ cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên).

- Chúng-sinh có tứ-uẩn: thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn (không có sắc-uẩn) trong 4 cõi vô-sắc-giới.

- Chúng-sinh có nhất-uẩn làsắc-uẩn (không có 4 danh-uẩn) trong cõi sắc-giới Vô-tưởng-thiên.

Đức-Thế-Tôn biết rõ chúng-sinh nào có 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già dặn hoặc còn non nớt, phiền-não ngấm ngầm nặng hoặc nhẹ, bản tánh riêng của mỗi chúng-sinh, nguyện vọng cao cả của mỗi chúng-sinh. Cho nên, Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ chúng-sinh có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại, hoặc có nguyện vọng muốn trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, hoặc Đức-Phật-Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-văn-giác,... trong kiếp vị-lai.

Chúng-sinh không có khả năng chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả trong kiếp hiện-tại, do nguyên nhân nào,…

Đức-Thế-Tôn thấy rõ, biết rõ thông suốt tất cả các loài chúng-sinh không còn dư sót.

2- Thế nào gọi là tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka)? 

Tổng các cõi chúng-sinh (okāsaloka) là nơi tạm trú của tất cả các loài chúng-sinh trong tam-giới gồm có 31 cõi. Mỗi chúng-sinh được tạm trú với thời gian mau hoặc lâu hoàn toàn tùy thuộc vào năng lực quả của thiện-nghiệp, quả của ác-nghiệp hỗ trợ mỗi kiếp chúng-sinh.

 Tam-giới có 31 cõi:

1- Dục-giới có 11 cõi,

2- Sắc-giới có 16 cõi,

3- Vô-sắc-giới có 4 cõi.

 1- Dục-Giới có 11 cõi chia ra 2 cõi giới:

* 4 Cõi Ác-Giới:

- Cõi địa ngục: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi a-tu-la: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi ngạ-quỷ: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi súc sinh: Chúng-sinh có tuổi thọ không nhất định.

* 7 Cõi Thiện-Dục-Giới:

- Cõi người: Con người có tuổi thọ không nhất định.

- Cõi trời dục-giới tứ Đại-thiên-vương: Chư-thiên có tuổi thọ 500 tuổi trời, bằng 9 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 50 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Tam-thập-Tam-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 1.000 tuổi trời, bằng 36 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 100 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Dạ-ma-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 2.000 tuổi trời, bằng 144 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 200 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Đâu-suất-đà-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 4.000 tuổi trời, bằng 576 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 400 năm cõi người).

 - Cõi trời dục-giới Hóa-lạc-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 8.000 tuổi trời, bằng 2.304 triệu năm cõi người (bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 800 năm cõi người).

- Cõi trời dục-giới Tha-hóa-tự-tại-thiên: Chư-thiên có tuổi thọ 16.000 tuổi trời, bằng 9.216 triệu năm cõi người(bởi 1 ngày 1 đêm ở cõi trời này bằng 1.600 năm cõi người).

2- Sắc-giới Phạm-thiên có 16 cõiphân chia theo 4 bậc thiền sắc-giới:

1- Đệ nhất thiền sắc-giới có 3 cõi:

- Cõi Phạm-Chúng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/3 a-tăng-kỳ kiếp trụ(1).

- Cõi Phạm-Phụ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1/2 a-tăng-kỳ kiếp trụ.

- Cõi Đại-Phạm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 1 a-tăng-kỳ kiếp trụ.

2- Đệ nhị thiền sắc-giới có 3 cõi:

- Cõi Thiểu-Quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 2 đại kiếp trái đất(2).

- Cõi Vô-lượng-Quang-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 4 đại kiếp trái đất.

- Cõi Quang-Âm-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 8 đại kiếptrái đất.

3- Đệ tam thiền sắc-giới có 3 cõi:

- Cõi Thiểu-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 16 đại kiếp trái đất.

- Cõi Vô-lượng-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 32 đại kiếp trái đất.

- Cõi Biến-Tịnh-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 64 đại kiếp trái đất.

4- Đệ tứ thiền sắc-giới có 7 cõi:

- Cõi Quảng-Quả-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất.

- Cõi Vô-Tưởng-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 500 đại kiếp trái đất.

* Cõi Phước-Sinh-thiên: có 5 cõi dành riêng cho Phạm-thiên là bậc Thánh-Bất-Lai chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới:

 - Cõi Vô-Phiền-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tín-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 1.000 đại kiếp trái đất.

 - Cõi Vô-Nhiệt-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tấn-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 2.000 đại kiếp trái đất.

 - Cõi Thiện-Hiện-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có niệm-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 4.000 đại kiếp trái đất.

 - Cõi Thiện-Kiến-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có định-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 8.000 đại kiếp trái đất.

 - Cõi Sắc-Cứu-Cánh-thiên: Phạm-thiên Thánh-Bất-Lai có tuệ-pháp-chủ nhiều năng lực, có tuổi thọ 16.000 đại kiếp trái đất.

3- Vô-sắc-giới Phạm-thiêncó 4 cõi

- Đệ nhất thiền vô-sắc-giới, Không-Vô-Biên-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 20.000 đại kiếp.

- Đệ nhị thiền vô-sắc-giới, Thức-Vô-Biên-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 40.000 đại kiếp.

- Đệ tam thiền vô-sắc-giới, Vô-Sở-Hữu-Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 60.000 đại kiếp.

- Đệ tứ thiền vô-sắc-giới, Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng- Xứ-thiên: Phạm-thiên có tuổi thọ 84.000 đại kiếp.

 * 1 tam giới gồm có 31 cõi.

* 1 tiểu-thế-giới có 31.000 cõi.

* 1 trung-thế-giới gồm có 31 triệu cõi.

* 1 đại-thế-giới gồm có 31 triệu triệu cõi (31.000 tỉ cõi).

Đức-Thế-Tôn không những thông suốt 31.000 tỉ cõi mà còn thông suốt vô-số-thế-giới (anantacakkavāḷa).

3- Thế nào gọi là tổng các pháp-hành (saṅkhāraloka)?

Pháp-hành là pháp do nhân duyên cấu tạo, có sự sinh, sự diệt, ví dụ: ngũ-uẩn

Tổng các loài chúng-sinh tổng các cõi chúng-sinh  thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), còn tổng các pháp-hành thuộc về chân-nghĩa-pháp(paramatthadhamma).

Đức-Thế-Tôn thông suốt tổng các pháp-hành, có nhiều pháp như sau:

- Pháp-hành có 1 pháp: Tất cả chúng-sinh được tồn tại do nhờ nhân(āhāra).

- Pháp-hành có 2 pháp: Danh-pháp và sắc-pháp.

- Pháp-hành có 3 thọ: Thọ khổ, thọ lạc, thọ xả.

- Pháp-hành có 4 pháp:vật thực, xúc, tác ý, tâm đem lại quả.

- Pháp-hành có 5 uẩn: sắc-uẩn, thọ-uẩn, tưởng-uẩn, hành-uẩn, thức-uẩn.

- Pháp-hành có 6 xứ bên trong: nhãn-xứ, nhĩ-xứ, tỷ-xứ, thiệt-xứ, thân-xứ, ý-xứ,

Và có 6 xứ bên ngoài: sắc-xứ, thanh-xứ, hương-xứ, vị-xứ, xúc-xứ, pháp-xứ. v.v…

Đức-Thế-Tôn thông suốt cả vô số pháp-hành bắt nguồn từ ngũ-uẩn.

Cho nên, Đức-Thế-Tôn có ân-đức Lokavidū: Đức- Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp (tổng các loài chúng-sinh, tổng các cõi chúng-sinh, tổng các pháp-hành).

6- Ân-Đức-Phật Anuttaro Purisadammasārathi

Itipi so Bhagavā Anuttaro Purisadammasārathi.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Á-nút-tá-rô-pú-rí-xá-đăm-má-xa-rá-thí).

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc giáo huấn chúng-sinh cải tà quy chánh, cải ác làm thiện, từ hạng phàm-nhân lên bậc Thánh-nhân.

- Anuttaro purisadammasārathi:Do đó, Đức-Thế-Tôn cóân-đức Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh.

Giáo Hóa Người Ác Trở Thành Bậc Thánh-Nhân

Kẻ cướp sát nhân cắt ngón tay xâu thành vòng đeo ở cổ có biệt danhAṅgulimāla. Y có võ nghệ cao cường, sống một mình ở trong rừng, dù từng đoàn người 20 - 30 người đi qua khu rừng ấy, cũng không một ai thoát chết.

Một hôm, Đức-Thế-Tôn một mình đi vào rừng, nơi trú ẩn của Aṅgulimāla, để giáo hóa y. Y thức tỉnh, từ bỏ sát nhân, xin xuất gia trở thành Tỳ-khưu nơi Đức-Phật.

Về sau không lâu, Tỳ-khưu Aṅgulimāla thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cao thượng…

Giáo Hóa Dạ-Xoa Ác Trở Thành Bậc Thánh-Nhân

Tích Dạ-xoa Āḷavaka ăn thịt người rất hung ác, tàn bạo, có nhiều phép mầu cực kỳ nguy hiểm.

Một hôm, biết Dạ-xoa Āḷavaka đi vắng, Đức-Thế-Tôn ngự đến lâu đài của y, ngự trên bảo tọa trong lâu đài của Dạ-xoa Āḷavaka.

Nghe tin Đức-Thế-Tôn ngự trên bảo toạ của y, Dạ-xoa Āḷavaka nổi cơn giận dữ, vô cùng bực tức, liền trở về ngay, y dùng mọi phép mầu cực kỳ nguy hiểm, để xua đuổi Đức-Thế-Tôn xuống khỏi bảo tọa, rời khỏi cung điện của y ngay tức khắc, nhưng y hoàn toàn bất lực, không xua đuổi Đức-Thế-Tôn được.

Cuối cùng, có một bài kệ khó mà y quên câu giải đáp, y đã hỏi nhiều Sa-môn, Bà-la-môn mà không một ai có thể giải đáp đúng, để làm cho y hài lòng.

Nay y đem bài kệ ấy đặt điều kiện, nếu Đức-Thế-Tôn không giải đáp đúng thì phải rời khỏi lâu đài của y ngay.

Thật ra, Đức-Thế-Tôn ngự đến cốt yếu giải đáp bài kệ ấy, để tế độ Dạ-xoa Āḷavaka. Cho nên, sau khi Dạ-xoa Āḷavaka hỏi câu kệ xong, Đức-Thế-Tôn liền giải đáp đúng ý nghĩa sâu sắc của câu kệ ấy làm cho Dạ-xoa Āḷavaka vô cùng hoan hỷ, ngay khi ấy, Dạ-xoa Āḷavaka chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu, có đức tin trong sạch và không lay chuyển trong Tam-Bảo.

Giáo Hóa Phạm-Thiên Tà-Kiến Trở Thành Chánh-Kiến

Phạm-thiên Baka ở cung trời sắc-giới cõi Quang-Âm- thiên phát sinh thường-kiến mê lầm. Đức-Thế-Tôn từ ngôi chùa Jetavana, xuất hiện lên cõi trời sắc-giới cõi Quang-Âm-thiên, để tế độ Phạm-thiên Baka từ bỏ tà-kiến trở lại chánh kiến…

Giáo Hóa Loài Súc Sinh

Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài súc sinh như rồng chúa Apalāla, rồng chúa Cūḷodara, rồng chúa Mahodara, … trở thành rồng hiền lành.

Đức-Thế-Tôn giáo hóa tế độ voi chúa Nālāgiri rất hung dữ, trong cơn say, chạy đến để hại Đức-Thế-Tôn, Ngài rải tâm từ đến voi chúa Nālāgiri, ngay tức khắc voi chúa tỉnh lại, bò đến quỳ mọp xuống hai bàn chân của Đức-Thế-Tôn.

Ngài giáo hóa voi chúa hung dữ này trở thành voi hiền lành, biết quy y Tam-Bảo, thọ trì ngũ giới.

Kể từ đó về sau, voi chúa rất hiền lành dễ thương, Đức-Thế-Tôn đặt tên là voi chúa Dhanapāla…

Đức-Thế-Tôn giáo hóa tế độ chúng-sinh hữu duyên nên tế độ, nghĩa là, những chúng-sinh ấy tiền kiếp có liên quan với Ngài, hoặc tiền kiếp đã từng gieo duyên lành nơi Chư Phật trong quá-khứ, hoặc đã từng tạo đầy đủ ba-la-mật, có đủ 5 pháp-chủ, đã từng gieo phước duyên trong giáo pháp của Chư Phật quá-khứ ấy.

Nay kiếp hiện-tại, chúng-sinh ấy được Đức-Thế-Tôn quan tâm đến để giáo hóa tế độ chúng-sinh ấy. (nghĩa là không phải Đức-Thế-Tôn gặp chúng-sinh nào cũng đều giáo hóa tế độ chúng-sinh ấy được). Đức-Thế-Tôn giáo hóa những chúng-sinh mà không có một ai có thể giáo hóa tế độ được, không có một vị nào có thể sánh được với Ngài.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Anuttaro purisa-dammasārathi: Đức-Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh.

* Riêng ân-Đức-Phật Anuttaro purisadammasārathi:

Trong bộ Thanh-Tịnh-Đạo (Visuddhimagga), phần giảng dạy Ân-Đức-Phật, thì Ân-Đức-Phật này phân chia làm hai Ân-đức riêng biệt:

- Anuttaro: Đức-Vô-Thượng.

- Purisadammasārathi: Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh.

Giải thích:

1- Ân-đức Anuttaro: Đức-Vô-Thượng như thế nào?

Đức-Thế-Tônsīlaguṇa: giới-đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

Cũng như vậy, Đức-Thế-Tôn samādhiguṇa: định-đức trong sạch thanh tịnh ... có paññāguṇa: tuệ-đức trong sạch thanh tịnh ... có vimuttiguṇa: giải-thoát-đức trong sạch thanh tịnh ... có vimuttiñāṇadassana: giải-thoát-tri-kiến-đức trong sạch thanh tịnh không một ai trong toàn thế giới hơn Ngài.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Anuttaro: Đức-Vô-Thượng.

2- Ân đức Purisadammasārathi: Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh như thế nào?

Đức-Thế-Tôn giáo hóa các loài chúng-sinh có duyên lành, mà không có một ai trong toàn thế giới chúng-sinh có khả năng giáo hóa tế độ chúng-sinh như Ngài.

Cho nên, Đức-Thế-Tônân-đức Purisadammasārathi:Đức-Giáo-Hóa chúng-sinh.

7- Ân-Đức-Phật Satthā Devamanussānaṃ

Itipi so Bhagavā Satthā Devamanussānaṃ.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Xặt-tha-đê-voá-má-nút-xa-năng)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc Thầy của nhân-loại, Chư- thiên, chư Phạm-thiên, …

- Satthā devamanussānaṃ: Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức Thiên-Nhân-Sư.

Sự Lợi Ích An-lạc Kiếp Hiện-tại

Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực-hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại(1).

4 Pháp Là:

- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, công việc.

- Biết giữ gìn của cải tài sản.

- Có bạn lành, bạn tốt là bậc-thiện-trí.

- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình.

Giải thích:

1- Biết siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc như thế nào?

Trong cuộc sống mỗi người nên chọn cho mình một nghề nghiệp lương thiện, không làm khổ mình, không làm khổ người, không làm khổ cả mình lẫn người(2). Biết

siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp ấy, trong công việc ấy, có trí-tuệ hiểu biết chuyên môn trong nghề nghiệp để tạo ra nhiều của cải tài sản cho mình.

2- Biết giữ gìn của cải tài sản như thế nào?

Của cải tài sản được tạo ra do đức tính siêng năng cần mẫn trong nghề nghiệp, trong công việc một cách hợp pháp. Người ấy nghĩ rằng: “Ta nên giữ gìn cẩn thận những của cải tài sản này, tránh không để lửa cháy, nước ngập lụt cuốn trôi, bọn trộm cướp chiếm đoạt… giữ gìn của cải tài sản không bị hư mất”.

3- Có bạn lành, bạn tốt là bậc thiện-trí như thế nào?

Muốn được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, cần phải sống gần gũi, thân cận với bậc thiện-trí, làm bạn thân thiết, để học hỏi những thiện-pháp nên hành, những ác-pháp nên tránh xa. 

Bậc thiện-trí là người có đức-tin chơn-chánh, có giới- hạnh đầy đủ trọn vẹn, là bậc đa-văn túc-trí, học nhiều hiểu rộng, có trí-tuệ sáng suốt, hiểu biết các pháp, là bậc thường hoan hỷ trong sự bố-thí.

Nhờ gần gũi, thân cận bạn lành bạn tốt là bậc thiện- trí, nên mình mới có cơ hội học tập, để có đức-tin trong sạch, có giới trong sạch, học nhiều hiểu rộng, có trí-tuệ hiểu biết các pháp, hoan hỷ trong sự bố-thí. Và học hỏi hiểu biết cách làm cho của cải phát triển,(1) và tránh xa cách làm cho của cải tiêu hao.

 4- Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình như thế nào?

Biết sử dụng của cải có chừng mực trong cuộc sống:

Không nên phung phí của cải quá mức.

Không nên hà tiện quá mức.

Nên nghĩ rằng “Phần thu của ta hơn phần chi, hoặc phần chi của ta kém hơn phần thu”.

Trong cuộc sống, nếu phần thu tiền bạc của cải nhiều hơn mức phần chi thì tiền bạc của cải còn có phần dư dật, để dành lúc bệnh hoạn ốm đau, lúc tuổi già sức yếu, không thể tạo ra của cải được, nhờ có của cải tiền bạc dư dật, thì cuộc sống mới được an-lạc.

Ngược lại, nếu phần chi tiền bạc, của cải nhiều hơn mức phần thu, thì tiền bạc, của cải bị thiếu thốn, nên cuộc sống lâm vào cảnh túng thiếu khổ cực.

Biết sử dụng của cải có chừng mực tùy theo khả năng của mình là lúc nào cũng “phần thu hơn phần chi”.

Đó là 4 pháp thực-hành đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc trong kiếp hiện-tại.

Sự Lợi Ích An-Lạc Những Kiếp Vị-Lai

Đức-Thế-Tôn giáo huấn chúng-sinh thực-hành 4 pháp để đem lại những sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc những kiếp vị-lai.

4 Pháp Là:

- Có đức-tin trọn vẹn.

- Có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn.

- Có sự bố-thí trọn vẹn.

- Có trí-tuệ trọn vẹn.

Giải thích:

1- Có Đức-Tin Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử có đức-tin trong sạch nơi 9 ân-Đức-Phật, 6 ân-Đức-Pháp, 9 ân-Đức-Tăng; có đức tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp.

Có đức-tin trong sạch, nơi 9 ân-Đức-Phật rằng: “Đức-Thế-Tôn:

- Là Đức A-ra-hán xứng đáng thọ nhận sự lễ bái cúng dường của nhân loại, Chư-thiên, Phạm-thiên,

- Là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán

đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh,

- Là Đức-Minh-Hạnh-Túc có trọn đủ tam-minh, bát- minh và 15 đức-hạnh cao thượng,

- Là Đức-Thiện-Ngôn giáo huấn sự thật chân-lý đem lại sự lợi ích thật sự cho chúng-sinh,

- Là Đức Thông-Suốt-Tam-tổng-pháp,

- Là Đức-Vô-Thượng-Giáo-Hóa chúng-sinh,

- Là Đức-Thiên-Nhân-Sư,

- Là Đức-Phật tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, rồi giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài, …

- Là Đức-Thế-Tôn cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, do thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp- hạnh ba-la-mật”.

Và có đức tin trong sạch nơi 6 ân-Đức-Pháp, nơi 9 ân-Đức-Tăng.

Bậc Thánh-Thanh-văn đệ tử có đức-tin hoàn toàn nơi nghiệp và quả của nghiệp rằng: “Thiện-nghiệp cho quả an-lạc, ác-nghiệp cho quả khổ”. Ngoài ra, không tin một ai có quyền lực cho quả an-lạc hoặc cho quả khổ cho mình.

2- Có Giới Trong Sạch Và Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử là bậc xuất gia hoặc hàng tại gia cư sĩ, là người có giới-hạnh trong sạch và trọn vẹn theo phẩm hạnh của mình.

- Người cận sự nam, cận sự nữ có ngũ giới, hoặc bát giới… trong sạch và trọn vẹn.

- Vị sa-di có 10 sa-di giới, 10 pháp hoại, 10 pháp hành phạt, 75 điều học, 14 pháp hành… trong sạch trọn vẹn.

- Vị tỳ-khưu có tứ thanh-tịnh giới, có tỳ-khưu-giới 227 điều giới, 14 pháp-hành, tỳ-khưu-giới kể đầy đủ có 91.805.036.000 điều giới.

3- Sự Bố Thí Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử có tâm-từ, tâm-bi tế độ, hoan hỷ trong sự bố-thí tùy theo khả năng của mình, có tác-ý thiện-tâm trong sạch hoan hỷ trước khi bố-thí, hoan hỷ đang khi bố-thí, hoan hỷ sau khi đã bố-thí xong.

 Các hàng Thanh-văn đệ tử không nên có tâm bủn xỉn, keo kiệt trong của cải và sự hiểu biết của mình, có ít thì bố-thí ít, có nhiều thì bố-thí nhiều tùy theo khả năng, tùy theo người thọ thí. Người thí chủ nên có sự suy tư đúng đắn rằng: “Được làm phước thiện bố-thí là một cơ hội tốt cho mình. Vì của cải, tiền bạc không phải là phước-thiện, mà thuộc về của chung đối với mọi người.

Nếu ta không biết sử dụng đem làm phước-thiện bố-thí, qua thời gian thì của cải ấy cũng bị hư mất, không tồn tại lâu dài được.

Nếu ta biết sử dụng của cải ấy, đem ra bố-thí, để biến thành phước-thiện bố-thí thì chắc chắn chỉ thuộc về của riêng ta mà thôi. Phước-thiện bố-thí ấy sẽ cho quả báu an-lạc trong kiếp hiện-tại, và nhiều kiếp vị-lai, có tính bền vững lâu dài.

Hơn nữa, cơ hội thuận lợi làm phước-thiện bố-thí chỉ có con người ở cõi Nam-thiện-bộ-châu (trái đất chúng ta đang sống) này mà thôi. Các chúng-sinh ở cõi khác khó hoặc không có cơ hội thuận lợi làm phước thiện bố-thí.

Vì vậy, ta không nên bỏ lỡ cơ hội làm phước-thiện bố- thí này”.

4- Có Trí-Tuệ Trọn Vẹn Như Thế Nào?

Các hàng Thanh-văn đệ tử mỗi khi bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ với đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ.

Thật ra, có trí-tuệ trọn vẹn là có trí-tuệ-thiền-tuệ tam- giới thấy rõ, biết rõ, sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung: trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, và có trí-tuệ-thiền-tuệ siêu-tam-giới,đó là 4 Thánh-đạo-tuệ, 4 Thánh-quả-tuệ đồng sinh trong 4 Thánh-đạo-tâm và 4 Thánh-quả-tâmNiết-bàn làm đối tượng. Hành giả trở thành bậc Thánh-nhân.

Đó là 4 pháp thực-hành sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài cho kiếp hiện-tại, lẫn nhiều kiếp vị-lai.

Sự Lợi Ích An-lạc Cao Thượng Niết-Bàn 

Đức-Thế-Tôn có 2 loại trí-tuệ đặc biệt:

* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ già giặn hoặc non nớt của mỗi chúng-sinh…

* Trí-tuệ thấy rõ, biết rõ phiền-não ngấm ngầm của mỗi chúng-sinh,…

Hai loại trí-tuệ đặc biệt này chỉ có nơi Đức-Phật- Chánh-Đẳng-Giác mà thôi, còn các bậc Thánh-Thanh- văn hoàn toàn không thể có 2 loại trí-tuệ này. Cho nên, mỗi khi Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ các chúng-sinh nào, Ngài suy xét phước duyên của các chúng-sinh ấy.

Chúng-sinh nào đã từng tạo các pháp-hạnh ba-la-mật nhiều đời, nhiều kiếp trong quá-khứ, đã từng gặp Chư Phật ở quá-khứ đã thọ ký rồi. 

Đức-Phật thuyết pháp giáo huấn tế độ chúng-sinh hợp

với phước duyên của các chúng-sinh ấy.

Sau khi lắng nghe Đức-Thế-Tôn thuyết pháp xong, chắc chắn các chúng-sinh ấy chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn tuỳ theo năng lực của các pháp-hạnh Ba-la-mật và 5 pháp-chủ như sau:  

- Có số chứng đắc Nhập-lưu Thánh-đạo, Nhập-lưu Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu.

- Có số chứng đắc đến Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.

- Có số chứng đắc đến Bất-lai Thánh-đạo, Bất-lai Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.

- Có số chứng đắc đến A-ra-hán Thánh-đạo, A-ra-hán Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

 Bốn bậc Thánh-Nhân này đều chứng đạt đến sự lợi ích, sự an-lạc cao thượng Niết-bàn. 

Đức-Thế-Tôn thuyết pháp tế độ chúng-sinh không những nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài, mà còn có loài súc sinh cũng được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài nữa.

8- Ân Đức-Phật Buddho

Itipi so Bhagavā Buddho.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Bút-thô)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, độc nhất vô nhị, rồi Ngài thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có phước duyên cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài; chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn tùy theo năng lực ba-la-mật và hạnh nguyện của mỗi chúng-sinh.

- Buddho:Do đó Đức-Thế-Tôn có ân-đức Đức-Phật.

*Ân-đức “Sammāsambuddho” và Ân-đức “Buddho” khác nhau như thế nào?

*Ân-đức Sammāsambuddhonghĩa là chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, nên Ngài có ân-đức Sammāsambuddho.

Ân-đứcSammāsambuddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:

* Trí-tuệ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế đầu tiên.

* Trí-tuệ-thành (paṭivedhañāṇa).

* Ân-đức Buddho nghĩa là tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, mà Ngài còn thuyết pháp giáo huấn chúng-sinh có duyên lành cũng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế y theo Ngài.

- Có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Nhập-lưu; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Nhất-lai; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-Bất-lai; có số chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh-A-ra-hán.

Chúng-sinh chứng đắc thành bậc Thánh nào do năng lực của 5 pháp-chủ và các pháp hành ba-la-mật của mỗi chúng-sinh ấy.

Ân-đứcBuddho có 2 loại trí-tuệ đặc biệt là:

* Trí-tuệ của bậc Toàn-Giác (Sabbaññutañāṇa).

* Trí-tuệ thuyết pháp giáo-hóa chúng-sinh (desanāñāṇa).

Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác là Bậc có đầy đủ trọn vẹn các loại trí-tuệ:

- 4 trí-tuệ-phân-tích (paṭisambhidāñāṇa),

- 6 trí-tuệ-cá-biệt (asādhāraṇañāṇa),

- 10 trí-tuệ-lực (dasabalañāṇa)...,

Tất cả các loại trí-tuệ này được thành tựu cùng lúc với A-ra-hán Thánh-đạo-tâm, A-ra-hán Thánh-quả-tâm.

 9- Ân-Đức-Phật Bhagavā

Itipi so Bhagavā Bhagavā.

(Cách đọc: Í-tí-pí xô phá-gá-voa Phá-gá-voa)

Nghĩa:

- So Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

- Itipi: Bởi Ngài là Bậc có 6 ân-đức đặc biệt do thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật của Ngài.

- Bhagavā:Do đó Ngài có ân đức Đức-Thế-Tôn.

Ân-đức Bhagavā: Ân-đức Đức-Thế-Tôn thật vô cùng cao thượng nhất trong toàn cõi thế giới chúng-sinh. Ân-đức Bhagavā này, không phải do Phụ vương, Mẫu hậu của Ngài tôn vinh, cũng không phải do Chư-thiên, chư Phạm-thiên nào suy tôn Ngài.

Sự thật, ân-đức Bhagavā này là kết quả qua một quá trình tiến triển thực-hành 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ của Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác.

Trường hợp Đức-Phật Gotama thuộc về Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác trí-tuệ-siêu-việt. Cho nên, những tiền kiếp của Đức-Phật Gotama là Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác trí-tuệ-siêu-việt, nghĩa là trí-tuệ có nhiều năng lực hơn đức-tintinh-tấn. Đức-Bồ-Tát, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật trải qua 3 thời kỳ.

1- Thời kỳ đầu: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt đã phát nguyện trong tâm, có ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, để tế độ, cứu vớt chúng-sinh giải thoát khỏi biển khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, rồi Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt thực-hành các pháp hạnh ba-la-mật suốt thời gian khoảng 7 a-tăng-kỳ (1).

2- Thời kỳ giữa: Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt đã phát nguyện bằng lời nói, để cho chúng-sinh nghe biết ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật Chánh-Đẳng-Giác trong thời vị-lai, để tế độ chúng-sinh, rồi tiếp tục thực-hành các pháp hạnh ba-la-mật thêm suốt 9 a-tăng-kỳ nữa.

Qua 2 thời kỳ này vẫn còn là Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác bất-định (aniyatabodhisatta), nghĩa là có thể thay đổi ý nguyện muốn trở thành Đức-Phật-Độc-Giác, hoặc bậc Thánh-Thanh-văn-giác.

Nếu Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt vẫn giữ nguyên ý nguyện tiếp tục thực-hành các pháp hạnh Ba-la-mật dẫn đến thời kỳ cuối.

3- Thời kỳ cuối: Sau khi đã trải qua 2 thời kỳ (phát nguyện trong tâm và bằng lời), Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt có đầy đủ năng lực mạnh, có thiện-tâm bất thoái chí, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt có duyên lành đến hầu Đức-Phật.

Trường hợp vị Đức-Bồ-tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama, đến hầu Đức-Phật Dīpaṅkara.

Với Phật-nhãn thấu suốt vị-lai, Đức-Phật Dīpaṅkara biết rõ ý nguyện của Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha sẽ được thành tựu như ý, nên Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký vị Đức-Bồ-tát Đạo sĩ Sumedha rằng:

“Trong thời vị-lai, còn 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất (1) nữa, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha này sẽ trở thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu Đức-Phật Gotama.”

Sau khi được Đức-Phật Dīpaṅkara đầu tiên thọ ký, xác định thời gian còn lại 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, Đức-Bồ-Tát Đạo-sĩ Sumedha, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama, trở thành Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt cố-định(niyatabodhisatta) bất thoái chí, tiếp tục thực-hành, bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh ba-la-mật: 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc trung, 10 pháp-hạnh ba-la-mật bậc thượng, suốt 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua vô số kiếp tử sinh luân hồi.

Từ đó về sau, mỗi khi có Đức-Phật nào xuất hiện trên thế gian, thì Đức-Bồ-Tát, tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đều đến hầu Đức-Phật ấy và được Ngài thọ ký xác định thời gian còn lại.

Trong khoảng thời gian 4 a-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất ấy, có 24 Đức-Phật theo tuần tự xuất hiện trên thế gian, Đức-Bồ-Tát Chánh-Đẳng-Giác có trí-tuệ-siêu-việt tiền kiếp của Đức-Phật Gotama lần đầu tiên đã được Đức-Phật Dīpaṅkara thọ ký và tiếp theo tuần tự các Đức-Phật khác, cho đến Đức-Phật thứ 24 là Đức-Phật Kassapa thọ ký cuối cùng.

Đức-Bồ-tát tiền kiếp của Đức-Phật Gotama đã thực-hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, đến kiếp chót là Đức-Bồ-Tát Đức-vua Siddhattha xuất gia năm 29 tuổi, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế không thầy chỉ dạy, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán đầu tiên trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, gọi là Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, có danh hiệu là Đức-Phật Gotama tại cội Đại-Bồ-đề vào canh chót ngày rằm tháng tư (âm lịch), năm 35 tuổi.

Cho nên, Đức-Phật Gotamaân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôn.

Ân-đức Bhagavā: Đức-Thế-Tôncó 6 đức-tính:

Issariya, Dhamma, Yasa, Siri, Kāma, Payatta.

1- Thế nào gọi Issariya: Tự chủ?

Đức-Thế-Tôn có tâm tự chủ trong các tam-giới-pháp và siêu-tam-giới-pháp.

- Tâm tự chủ trong tam-giới pháp: Đức-Thế-Tôn hóa phép thần thông song hành (yamakapaṭihāriya), có 2 luồng nước và lửa phát xuất từ kim thân của Ngài: Một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên trái, rồi thay đổi, một luồng lửa phát ra từ lỗ mũi bên phải, một luồng nước phát ra từ lỗ mũi bên trái; cũng như vậy đến 2 mắt, 2 lỗ tai…

- Tâm tự chủ trong siêu-tam-giới-pháp: Đức-Phật thuyết pháp xong, các hàng Thanh-văn đệ tử đồng thanh nói lên lời hoan hỷ “Sādhu! Sādhu!” trong thời gian khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, Đức-Thế-Tôn có thể nhập A-ra-hán Thánh-quả để hưởng sự an-lạc Niết-bàn.

Cho nên, gọi là Issariya: Tự chủ.

2- Thế nào gọi là Dhamma: Chánh-pháp?

Đức-Thế-Tôn đã chứng đắc 9 siêu-tam-giới-pháp đó

4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn đầu tiên, trong toàn cõi thế giới chúng-sinh, diệt-đoạn-tuyệt tất cả 1.500 loại phiền-não, 108 loại tham-ái, và tất cả mọi tiền khiên tật đã tích lũy từ vô lượng kiếp quá-khứ.

Cho nên, gọi là Dhamma: Chánh-pháp.

 3- Thế nào gọi là Yasa: Tiếng tốt lành?

Ân-đức của Đức-Thế-Tôn được lan truyền khắp toàn cõi chúng-sinh, từ cõi người cho đến cõi Long Vương, đến Chư-thiên ở 6 cõi trời dục-giới, đến chư Phạm-thiên ở 15 cõi trời sắc-giới (trừ cõi Vô-Tưởng-Thiên). Và thậm chí ngay cả chư Phạm-thiên ở cõi vô-sắc-giới cũng niệm tưởng đến ân-Đức-Phật.

 Cho nên, gọi là Yasa: Tiếng tốt lành.

4- Thế nào gọi là Siri: Hạnh phúc?

Kim-thân của Đức-Thế-Tôn có đầy đủ 32 tướng tốt của bậc Đại Nhân và 80 tướng tốt phụ, có hào quang mát mẻ phát ra từ kim-thân của Ngài, nên nhân-loại, Chư-thiên, Phạm-thiên đến hầu đảnh lễ cúng dường đến Đức-Thế-Tôn, lúc nào cũng cảm thấy hạnh phúc an-lạc, phát sinh hỷ lạc. Những chúng-sinh đến hầu Đức-Thế-Tôn bao nhiêu lần cũng cảm thấy chưa đủ.

Cho nên, gọi là Siri: Hạnh phúc.

5- Thế nào gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu?

Đức-Thế-Tôn khi còn là Đức-Bồ-Tát Sumedha có nguyện ước rằng:

“Buddho bodheyyaṃ”: Như-Lai tự mình chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc thành Đức-Phật-Chánh-Đẳng-Giác, rồi sẽ giáo hóa chúng-sinh cùng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc thành bậc Thánh-Nhân (tự giác - giác tha).

Điều ước nguyện ấy đã thành tựu.

 “Mutto moceyyaṃ”: Như-Lai tự mình giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài, rồi sẽ giáo huấn chúng-sinh cũng được giải thoát khỏi cảnh khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài (tự độ - độ tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.

 “Tinno tareyyaṃ”: Như-Lai tự mình vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc, rồi sẽ dẫn dắt chúng-sinh cùng vượt qua biển khổ luân hồi, đạt đến Niết-bàn an-lạc (tự đáo - đáo tha).

Điều nguyện ước ấy đã thành tựu.

Cho nên, gọi là Kāma: Nguyện ước thành tựu.

6- Thế nào gọi là Payatta: Tinh tấn không ngừng?

Hằng ngày Đức-Thế-Tôn có sự tinh tấn không ngừng thực-hành Buddhakicca (1): 5 phận sự của Đức-Phật:

 5 Phận Sự Của Đức-Phật:

 - Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ (purebhattakicca). 

 - Phận sự sau khi độ ngọ (pacchābhattakicca).

 - Phận sự canh đầu đêm (paṭhamayāma).

 - Phận sự canh giữa đêm (majjhimayāma).

 - Phận sự canh chót đêm (pacchimayāma).

Giải Thích

1- Phận sự buổi sáng trước khi độ ngọ như thế nào?

Mỗi buổi sáng đến giờ đi khất thực, khi thì Đức-Phật ngự đi khất thực một mình để tế độ chúng-sinh nào đó, khi thì Đức-Phật ngự cùng với chư Tỳ-khưu Tăng đi vào xóm làng, kinh thành để khất thực.

Khi Đức-Phật thọ thực xong, số dân chúng thỉnh Đức-Phật thuyết pháp, số xin thọ phép quy y Tam-Bảo, số xin Đức-Phật cho phép xuất gia, rồi Đức-Phật ngự trở về chùa.

2- Phận sự sau khi độ ngọ như thế nào?

Khi ngự trở về chùa, Đức-Phật rửa chân xong, đứng trên bục giảng, Ngài khuyên dạy chư Tỳ-khưu rằng:

Bhikkhave appamādena sampādetha,

 Dullabho Buddhuppādo lokasmiṃ,

 Dullabho manussattapaṭilābho,

 Dullabhā khaṇasampatti,

 Dullabhā pabbajjā,

 Dullabhaṃ saddhammassavanaṃ.

- Này chư Tỳ-khưu! Các con hãy nên cố gắng hoàn thành mọi phận sự tứ Thánh-đế, bằng pháp không thất-niệm, tiến hành Tứ-niệm-xứ.

* Đức-Phật xuất hiện trên thế gian là một điều khó có.

* Được sinh làm người là một điều khó.

* Có được cơ hội thực-hành phạm-hạnh cao thượng là một điều khó.

* Được xuất gia trở thành Tỳ-khưu là một điều khó.

* Được nghe chánh-pháp là một điều khó.”

Đó là những điều khó mà Đức-Phật hằng ngày thường khuyên dạy chư Tỳ-khưu chớ nên thất-niệm.

Sau khi khuyên dạy xong, Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi, còn chư Tỳ-khưu mỗi vị ở một nơi, để thực-hành pháp-hành-thiền-định, hoặc thực-hành pháp-hành- thiền-tuệ.

3- Phận sự canh đầu đêm như thế nào?

Canh đầu: Đức-Phật giáo huấn chư Tỳ-khưu, có số Tỳ-khưu hỏi pháp, luật; có số Tỳ-khưu xin thọ pháp- hành-thiền-định, xin thọ pháp-hành-thiền-tuệ; có số Tỳ-khưu nghe Đức-Phật thuyết pháp.

Qua hết canh đầu, chư Tỳ-khưu đảnh lễ Đức-Phật trở về chỗ ở của mình.

4- Phận sự canh giữa đêm như thế nào?

Canh giữa:Đức-Phật cho phép Chư-thiên, Phạm-thiên trong 10.000 thế giới đến hầu Ngài, đảnh lễ xong đứng một nơi hợp lẽ bạch hỏi pháp. Đức-Phật giảng giải những câu hỏi của Chư-thiên, Phạm-thiên xong, hết canh giữa, Chư-thiên, Phạm-thiên đảnh lễ Đức-Phật trở về cảnh giới của mình.

5- Phận sự canh chót đêm như thế nào? 

Đức-Phật phân chia canh chót làm 3 thời:

- Thời gian đầu: Đức-Phật đi kinh hành.

- Thời gian giữa: Đức-Phật ngự vào cốc Gandhakuṭi nghỉ ngơi, nằm nghiêng bên phải, có chánh niệm, trí-tuệ tỉnh giác, định giờ tỉnh dậy.

- Thời gian chót: Đức-Phật nhập thiền đại-bi, khi xả thiền, Đức-Phật xem xét chúng-sinh trong 10.000 thế giới bằng Phật-nhãn-tuệ, thấy rõ, biết rõ chúng-sinh nào đã từng gieo duyên lành với Ngài, hoặc đã từng thực-hành các pháp hành ba-la-mật từ Chư Phật quá-khứ đến kiếp hiện-tại này, chúng-sinh ấy có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, chúng-sinh ấy dù ở gần, dù ở xa, trong cõi người này hay cõi giới khác, Đức-Phật vẫn ngự đến nơi, để tế độ chúng-sinh ấy.

Mỗi ngày, mỗi đêm Đức-Thế-Tôn thực-hành đầy đủ 5 phận sự ròng rã suốt 45 năm, cho đến giây phút cuối cùng tịch diệt Niết-bàn.

Ân-đức Bhagavā còn có nhiều ý nghĩa khác. 

Cho nên, Đức-Phật Gotamaân-đứcBhagavā:Đức-Thế-Tôn.

Thực-Hành Đề-Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật này, trước tiên hành-giả cần phải học hỏi, hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp đầy đủ 9 ân-Đức-Phật. Mỗi khi niệm đến ân-Đức-Phật nào, nên hiểu biết rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy.

Sau đó, để đại-thiện-tâm dễ phát sinh, hành-giả nên ngồi nghiêm trang trước tượng Đức-Phật hoặc trước cội cây Đại-Bồ-đề, hoặc một nơi thanh vắng, để thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này.

Phương-pháp thực-hành có nhiều cách:

1-Cách phổ thông: Niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật theo bài kinh như sau:

 “Itipi so Bhagavā Arahaṃ, Sammāsambuddho, Vijjā-caraṇasampanno, Sugato, Lokavidū, Anuttaro purisadam-masārathi, Satthā devamanussānaṃ, Buddho, Bhagavā…”

Hành-giả thực-hành niệm đến ân-Đức-Phật nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định- tâm theo dõi mỗi ân-Đức-Phật như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

2-Cách phân tách câu: 9 ân-Đức-Phật phân tách từng câu như sau:

1- Itipi so Bhagavā Arahaṃ,

2- Itipi so Bhagavā Sammāsambuddho,

3- Itipi so Bhagavā Vijjācaraṇasampanno,

4- Itipi so Bhagavā Sugato,

5- Itipi so Bhagavā Lokavidū,

6- Itipi so Bhagavā Anuttaro purisadammasārathi,

7- Itipi so Bhagavā Satthā devamanussānaṃ,

8- Itipi so Bhagavā Buddho,

9- Itipi so Bhagavā Bhagavā,

Hành-giả thực-hành niệm mỗi câu ân-Đức-Phật nào, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của mỗi câu ân-Đức-Phật ấy, định-tâm theo dõi mỗi câu ân-Đức-Phật như vậy, hằng trăm lần, hằng ngàn lần, ... trong suốt thời gian thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo.

Hành giả có thể chọn một câu ân-Đức-Phật nào trong 9 Ân Đức-Phật làm đối tượng, để thực-hành niệm ân- Đức-Phật ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân- Đức-Phật ấy, luôn định-tâm nơi ân-Đức-Phật ấy.

Ví dụ: Niệm ân-Đức-Phật thứ nhất: Itipi so Bhagavā Arahaṃ..., Itipi so Bhagavā Arahaṃ...

Hoặc: Niệm ân-Đức-Phật thứ tám: Itipi so Bhagavā Buddho..., Itipi so Bhagavā Buddho...

Hoặc: Niệm ân-Đức-Phật thứ chín: Itipi so Bhagavā Bhagavā..., Itipi so Bhagavā Bhagavā...

Hành giả tâm niệm câu ân-Đức-Phật ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định- tâm theo dõi ân-Đức-Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian thực-hành niệm ân-Đức-Phật, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Phật.

3- Cách niệm một ân-Đức-Phật:  

Hành giả có thể chọn một ân-Đức-Phật nào trong 9 ân-Đức-Phật làm đối tượng, để thực-hành niệm ân-Đức-Phật ấy, nên hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của danh từ ân-Đức-Phật ấy, luôn định-tâm nơi ân-Đức-Phật ấy:

 Ví dụ: Niệm-niệm: Arahaṃ..., Arahaṃ..., Arahaṃ...

Hoặc: Niệm-niệm: Buddho..., Buddho..., Buddho...

Hoặc: Niệm-niệm: Bhagavā..., Bhagavā...,Bhagavā...

Hành giả niệm-niệm ân-Đức-Phật ấy, đồng thời hiểu rõ ý nghĩa và chi pháp của ân-Đức-Phật ấy, định-tâm theo dõi ân-Đức-Phật ấy hằng trăm lần, hằng ngàn lần... trong suốt thời gian thực-hành niệm ân-Đức-Phật ấy, để làm tăng trưởng đức tin trong sạch nơi Đức-Phật.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật là một đề-mục-thiền-định dễ làm cho phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam-Bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, mà đức-tin là nền tảng cho mọi thiện-pháp từ dục-giới thiện-pháp, sắc-giới thiện-pháp, vô-sắc-giới thiện-pháp cho đến siêu-tam-giới thiện-pháp.

Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật là đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, vô lượng vô biên, nên hành giả không thể định-tâm một nơi nào nhất định. Cho nên, đề-mục niệm- niệm 9 ân-Đức-Phật này chỉ có khả năng chứng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi, không có khả năng chứng đạt đến an-định (appanāsamādhi), nên không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới nào.

Vì vậy, tâm cận-định này vẫn còn là dục-giới đại-thiện-tâm có dục-giới đại-thiện-nghiệp có tầm quan trọng đặc biệt đối với hành-giả là người đã gieo duyên lành, nhân tốt sâu sắc trong giáo pháp của Đức-Phật.

Tuy nhiên, tâm cận-định này có thể làm nền tảng, làm đối tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ dẫn đến sự nhàm chán trong ngũ-uẩn, diệt tận tham-ái, phiền-não, chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo Thánh-quả và Niết-bàn được.

Như Đức-Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp hành mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.

Pháp-hành ấy là pháp gì?

Pháp-hành ấy là Buddhānussati: Pháp-hành niệm- niệm 9 ân Đức-Phật.

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”(1)

Qua lời giáo huấn trên của Đức-Phật, thì đề-mục niệm niệm 9 ân Đức-Phật thuộc về pháp-hành-thiền-định mà có khả năng chuyển sang làm nền tảng của pháp-hành-thiền-tuệ nữa.

Đề Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật 

 Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật có 2 giai đoạn:

- Giai đoạn đầu: Đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật thuộc về pháp-hành-thiền-định, hành giả thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật có khả năng dẫn đạt đến cận-định (upacārasamādhi). (phương-pháp đã trình bày ở phần trước).

- Giai đoạn sau: Sau khi thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật đã đạt đến cận-định rồi, nếu muốn tiếp tục chuyển sang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì hành giả cần phải có danh-pháp, sắc-pháp làđối-tượng của pháp-hành-thiền-tuệ hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp đối-tượng của pháp-hành-tứ-niệm-xứ: thân-niệm-xứ, thọ-niệm-xứ, tâm-niệm-xứ, pháp-niệm-xứ.

Pháp-Hành-Thiền-Tuệ

Cận-định của đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức Phật làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ như thế nào?

Sau khi hành-giả đã thực-hành đề-mục-thiền-định niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, đã đạt đến cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, nếu hành-giả có ý nguyện muốn tiếp tục chuyển sang thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ thì cần phải danh-pháp, sắc-pháp làđối-tượng của pháp-hành-thiền-tuệ hoặc thân, thọ, tâm, pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma).đối-tượng của pháp-hành-tứ-niệm-xứ: thân-niệm-xứ, thọ-niệm-xứ, tâm-niệm-xứ, pháp-niệm-xứ.

Cận-địnhnhất-tâm tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm hợp với trí-tuệ thuộc về chân-nghĩa-pháp.

Thật-tánh niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật như thế nào?

Đúng theo thật-tánh của chân-nghĩa-pháp thì không có hành-giả nào thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,sự thật chỉ có niệm tâm-sở đồng sinh với dục-giới đại-thiện-tâm làm phận sự thực-hành niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, dẫn đạt đến tâm cận-định trong đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật mà thôi.

* Phân tích đối-tượng tứ-niệm-xứ và đối-tượng-thiền-tuệ 

Tâm cận-địnhnày thuộc trong phần tâm-niệm-xứ của pháp-hành-tứ-niệm-xứ, và tâm cận-địnhdục-giới-đại-thiện-tâm phân tích theo danh-pháp, sắc-pháp như sau:

* Dục-giới-đại-thiện-tâm thuộc về danh-pháp, và dục-giới-đại-thiện-tâm này phát sinh do nương nhờ sắc-ý-căn (hadayavatthurūpa) thuộc về sắc-pháp

Như vậy, danh-phápsắc-pháp liên quan với nhau làm đối-tượng-thiền-tuệ

* Phân tích theo ngũ-uẩn 

Tâm cận-địnhnày là dục-giới-đại-thiện-tâm 38 tâm-sở đồng sinh với tâm này, phân tích theo ngũ-uẩn như sau: 

 * Dục-giới-đại-thiện-tâmnày thuộc về thức-uẩn.

* Thọ tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về thọ-uẩn.

* Tưởng tâm-sở đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về tưởng-uẩn.

* Các tâm-sở còn lại đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm này thuộc về hành-uẩn.

* Sắc-ý-căn (hadayavatthurūpa) là nơi nương nhờ của dục-giới-đại-thiện-tâm nàyphát sinh thuộc sắc-uẩn.

Ngũ-uẩn này trong phần pháp-niệm-xứ của pháp-hành-tứ-niệm-xứ thuộc về danh-pháp, sắc-pháp. 

Thực-Hành Pháp-Hành-Thiền-Tuệ

Thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ có đối-tượng-thiền-tuệ danh-pháp, sắc-pháp này hoặc ngũ-uẩn này thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) từ tâm cận-định của đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật,hành-giả có chánh-niệmtrực nhận ngay đối-tượng danh-pháp (hoặc sắc-pháp) hoặc ngũ-uẩn thuộc về chân-nghĩa-pháp, trí-tuệ-tỉnh-giác trực giác thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mỗi danh-pháp (hoặc sắc-pháp) hoặc ngũ-uẩn hiện-tại ấy đều là pháp-vô-ngã, không phải ta, không phải người, không phải người nam, không phải người nữ, không phải chúng-sinh,… mà sự-thật chỉ là danh-pháp, sắc-pháp mà thôi.

Trí-tuệ phát sinh thấy rõ, biết rõ thật-tánh của mỗi danh-pháp, mỗi sắc-pháp như vậy, làm nền tảng cho các trí-tuệ-thiền-tuệ phát triển thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ 3 trạng-thái-chung:trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ phát triển theo tuần tự dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, diệt-đoạn-tuyệt mọi phiền-não, mọi tham-ái, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, sẽ tịch diệt Niết-bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. 

Như vậy, tâm cận-định trong đề-mục niệm niệm 9 ân-Đức-Phật làm nền tảng, làm đối tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ. 

Như Đức Phật dạy:

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành niệm 9 ân-Đức-Phật, mà hành giả đã tiến hành, đã hành thuần thục, chắc chắn dẫn đến phát sinh sự nhàm chán trong ngũ uẩn, danh-pháp, sắc-pháp, để diệt tận tham-ái, sân-hận, si-mê, để làm vắng lặng mọi phiền-não, để phát sinh trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, để chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.”

Quả Báu Đặc Biệt Đề Mục Niệm-Niệm 9 Ân-Đức-Phật

Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này dẫn đạt đến cận-định thuộc về pháp-hành-thiền-định, mà có khả năng chuyển sang làm nền tảng, làm đối-tượng-thiền-tuệ, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ với đối-tượng-thiền-tuệ ấy, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán trong kiếp hiện-tại.

* Hành-giả thực-hành đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật này, nếu chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán thì hành-giả sẽ được hưởng những quả báu đặc biệt ngay trong kiếp hiện-tại và nhiều kiếp vị-lai như sau:

- Được phần đông chúng-sinh kính trọng.

- Thiện-tâm trong sạch thanh tịnh,

- Khi sắp chết, lúc lâm chung tâm bình tĩnh sáng suốt,

- Sau khi chết, thiện-nghiệp này cho quả tái sinh kiếp sau làm người có đủ tam-nhân (vô-tham, vô-sân, vô- si) cao quý, hoặc Chư-thiên cao quý.

- Tái sinh kiếp nào cũng thuộc chúng-sinh cao quý.

- Có sắc thân xinh đẹp đáng ngưỡng mộ,

- Các bộ phận trong thân thể đều xinh đẹp đáng quý,

- Thân hình có mùi thơm tho tỏa ra,

- Miệng có mùi thơm tho tỏa ra,

- Có trí-tuệ nhiều,

- Có trí-tuệ sâu sắc,

- Có trí-tuệ sắc bén,

- Có trí-tuệ nhanh nhẹn,

- Có trí-tuệ phong phú,

- Có trí-tuệ phi thường,

- Nói lời hay có lợi ích,

- Kiếp vị-lai có duyên lành gặp Đức-Phật, lắng nghe chánh-pháp, dễ dàng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn.   

Đó là những quả báu phát sinh từ đề-mục niệm 9 ân- Đức-Phật.

 (Xong đề-mục-thiền-định niệm niệm 9 ân-Đức-Phật)


[1] Bộ Saṃyuttanikāya, Sagāthavagga, Kinh Dhajaggasutta

[2] 7 pháp phiền-não ngủ ngầm trong tâm: Ái-dục ngủ ngầm, kiếp-ái ngủ ngầm, sân-hận ngủ ngầm, ngã-mạn ngủ ngầm, tà-kiến ngủ ngầm, hoài-nghi ngủ ngầm và vô-minh ngủ ngầm.

[3]Abhidhammapiṭaka Bộ Vibhaṅgapāḷi.

[4] Bhavo: Hữu là Sự sinh có 2 loại: Sự sinh của nghiệp và Sự sinh của quả nghiệp đó là tái sinh kiếp sau.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn