(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Niệm 32 thể trọc (trược) trong thân

01 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 24440)

3.9- Đề Mục Thiền Định Niệm-Niệm

 32 Thể trọc trong thân Kāyagatāsati:

 Kāyagatāsati: Kāya+gatā+sati

Kāya: Thân nghĩa là gì?

Kāya: Thân nghĩa là nơi tổng hợp 32 thể trọc (trược).

Kāyagatāsati là niệm theo 32 thể trọc trong thân.

Kāyagatāsati đề-mục-thiền-định niệm theo 32 thể trọc trong thân. Đề-mục Kāyagatāsati này còn có tên gọi là Dvattiṃsakāyakammaṭṭhāna: Đề-mục-thiền-định niệm 32 thể trọc trong thân, hoặc Koṭṭhāsakammaṭṭhāna: Đề-mục-thiền-định niệm 32 phần thể trọc.

Đề-mục-thiền-định kāyagatāsati có chi pháp là sati-cetasika: niệm tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng là 32 thể trọc.

 Đề-mục-thiền-định kāyagatāsati này đặc biệt được chư Thánh-nhân tiền bối tán dương ca tụng, bởi vì đề-mục này có khả năng dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới và chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành vô số bậc Thánh-nhân. 

 32 thể trọc (trược) là

1- Kesā: Tóc mọc trên da đầu,

2- Lomā: Lông mọc toàn da thân, 

3- Nakhā: Móng mọc 10 đầu ngón tay, 10 ngón chân,

4- Dantā: Răng mọc 2 hàm răng trên và dưới, 

5- Taco: Da bao bọc toàn thân, 

6- Maṃsaṃ: Thịt dính với xương,

7- Nahāru: Gân có toàn thân,

8- Aṭṭhi: Xương các bộ phận,

9- Aṭṭhimiñjaṃ: Tủy trong ống xương,

10- Vakkaṃ: Thận

11- Hadayaṃ: Trái tim, 

12- Yakanaṃ: Gan,

13- Kilomakaṃ: Màng phổi,

14- Pihakaṃ: Bao tử,

15- Papphāsaṃ: Buồng phổi,

16- Antaṃ: Ruột già,

17- Antaguṇaṃ: Ruột non,

18- Udariyaṃ: Vật thực mới,

19- Karīsaṃ: Phẩn,

20- Mattaluṅgaṃ: Óc,

21- Pittaṃ: Mật,

22- Semhaṃ: Đàm,

23- Pubbo: Mủ

24- Lohitaṃ: Máu,

25- Sedo: Mồ hôi,

26- Medo: Mỡ đặc,

27- Assu: Nước mắt,

28- Vasā: Mỡ lỏng, 

29- Khelo: Nước miếng (bọt),

30- Singhāṇikā: Nước mũi,

31- Lasikā: Nước nhớt trong các khớp xương.

32- Muttaṃ: Nước tiểu.

32 thể trọc này gồm có 2 loại Dhātu: 

1- Pathavīdhātu: Địa-đại có 20 thể trọc, kể từ Kesā cho đến Mattaluṅgaṃ.

2- Āpodhātu: Thủy-đại có 12 thể trọc, kể từ Pittaṃ cho đến Muttaṃ.

Phương-Pháp Thực-Hành Đề-Mục Kāyagatāsati

Hành-giả có ý nguyện muốn thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, trước hết, hành-giả cần phải thực- hành 2 phận sự đầu tiên là:

1- Uggahakosalla: Tinh thông trong 7 điều học,

2- Manasikārakosalla: Tinh thông trong 10 điều suy xét thực-hành.

1- Uggahakosalla: Tinh Thông Trong 7 Điều Học

1- Vacasā: Suy xét bằng lời,

2- Manasā: Suy xét bằng tâm,

3- Vaṇṇato: Suy xét màu sắc (màu đen, trắng, đỏ),

4- Saṇṭhānato: Suy xét hình dáng,

5- Disāto: Suy xét nơi sinh, (phần trên, giữa, dưới),

6- Okāsato: Suy xét chỗ ở trong thân,

7- Paricchedato: Suy xét bằng cách quy định giới hạn.

2- Manasikārakosalla: Tinh Thông Trong 10 Điều Suy Xét Thực-Hành.

1- Anupubbato: Suy xét theo tuần tự mỗi thể trọc,

2- Nātisīghato: Suy xét không nhanh quá,

3- Nātisaṇikato: Suy xét không chậm quá,

4- Vikkhepappaṭibāhanato: Định-tâm suy xét mỗi thể trọc theo tuần tự, không để phóng-tâm đến đối-tượng khác.

5- Paṇṇattisamatikkamato: Suy xét thoát khỏi pháp-chế-định,

6- Anupubbamuñcanato: Suy xét bỏ thể trọc không hiện rõ màu sắc, hình dáng, nơi sinh, nơi chốn,

7- Appanāto: Suy xét một thể trọc duy nhất dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới,

8- Adhicittasutta: Suy xét theo bài kinh Adhicittasutta

9- Sītibhāvasutta: Suy xét theo bài kinh Sītibhāvasutta

10- Bojjhaṅgakosallasutta: Suy xét theo bài kinh Bojjhaṅgakosallasutta

1- Giảng Giải Phận Sự Uggahakosalla

Giảng giải phận sự Uggahakosalla: Tinh thông trong 7 điều học đề-mục-thiền-định kāyagatāsati niệm 32 thể trọc

1- Vacasā: Suy xét bằng lời,

2- Manasā: Suy xét bằng tâm.

Trong 7 điều học tinh thông này, điều thứ nhất Vacasā và điều thứ nhì Manasā là 2 điều chính, 5 điều còn lại là điều phụ hỗ trợ cho điều Manasā.

Cho nên, trước tiênhành-giả nên học 32 thể trọc theo lời dạy của Đức-Phật như sau:

 “Atthi imasmiṃ kāye,

Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ([9]); pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo; assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ.([10])

Ý Nghĩa

 “Trong thân này của ta có:

Tóc, lông, móng, răng, da; thịt, gân, xương, tủy, thận; tim, gan, màng phổi, bao tử, buồng phổi; ruột già, ruột non, vật thực mới, phẩn, óc; mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ đặc; nước mắt, mỡ lỏng, nước miếng, nước mũi, nước nhớt, nước tiểu.”

 Đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này được phân chia ra làm 6 đoạn như sau:

1- Tacapañcaka có 5 thể trọc làkesā, lomā, nakhā, dantā, taco,

2- Vakkapañcaka có 5 thể trọc làmaṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ,

3- Papphāsapañcaka có 5 thể trọc làhadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ,

4- Mattaluṅgapañcaka có 5 thể trọc làantaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ,

5- Medachakka có 6 thể trọc làpittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo,

6- Muttachakka có 6 thể trọc làassu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ.

Phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc này, hành-giả cần phải thực-hành niệm bằng lời (vacasā) mỗi phần đúng theo phương-pháp một cách thành thạo theo tuần tự, để được thuận lợi cho việc thực-hành niệm bằng tâm (manasā).

32 thể trọc được phân chia ra làm 6 đoạn, phương-pháp thực-hành mỗi đoạn có 3 cách, mỗi cách 5 ngày.

* Theo chiều thuận (anuloma) suốt 5 ngày,

* Theo chiều nghịch (paṭiloma) suốt 5 ngày,

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma) suốt 5 ngày. Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

1- Tacapañcakacó 5 thể trọc theo 3 cách thức: 

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma):Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco - taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

2- Vakkapañcakacó 5 thể trọc theo 3 cách thức: 

* Theo chiều thuận (anuloma): Maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma):  Maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ - vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

 - Gom 2 đoạn (1+2) gồm có 10 thể trọc theo 3 cách thức:

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ - vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày. Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

3- Papphāsapañcakacó 5 thể trọc theo 3 cách thức: 

 * Theo chiều thuận (anuloma): Hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ - papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ, suốt 5 ngày. Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

* Gom 3 đoạn (1+2+3) gồm 15 thể trọc theo 3 cách thức:

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; suốt 5 ngày.

*Theo chiều nghịch (paṭiloma): Papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ - papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày. 

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

4- Mattaluṅgapañcakacó 5 thể trọc theo 3 cách thức:  

* Theo chiều thuận (anuloma): Antaṃ, antaguṇaṃ udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ,suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Mattaluṅgaṃ, karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ- mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ, suốt 5 ngày. Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

* Gom 4 đoạn (1+2+3+4) gồm có 20 thể trọc theo 3 cách thức:

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā,taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Mattaluṅgaṃ,karīsaṃ,udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ - mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày. 

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

5- Medachakkacó 6 thể trọc theo 3 cách thức:  

* Theo chiều thuận (anuloma): Pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma):  Pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo - medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

* Gom 5 đoạn (1+2+3+4+5) gồm có 26 thể trọc theo 3 cách thức:

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ; pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ; mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ; pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo – medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ; mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

6- Muttachakkacó 6 thể trọc theo 3 cách thức:  

* Theo chiều thuận (anuloma): Assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Muttaṃ, lasikā, singhāṇikā, khelo, vasā, assu, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ - muttaṃ, lasikā, singhāṇikā, khelo, vasā, assu, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

 * Gom 6 đoạn (1+2+3+4+5+6) gồm có 32 thể trọc theo 3 cách thức:

* Theo chiều thuận (anuloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ; pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo; assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ, suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Muttaṃ, lasikā, singhāṇikā, khelo, vasā, assu; medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ; mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco; maṃsaṃ, nahāru, aṭṭhi, aṭṭhimiñjaṃ, vakkaṃ; hadayaṃ, yakanaṃ, kilomakaṃ, pīhakaṃ, papphāsaṃ; antaṃ, antaguṇaṃ, udariraṃ, karīsaṃ, mattaluṅgaṃ; pittaṃ, semhaṃ, pubbo, lohitaṃ, sedo, medo; assu, vasā, khelo, singhāṇikā, lasikā, muttaṃ, – muttaṃ, lasikā, singhāṇikā, khelo, vasā, assu; medo, sedo, lohitaṃ, pubbo, semhaṃ, pittaṃ; mattaluṅgaṃ,karīsaṃ, udariraṃ, antaguṇaṃ, antaṃ; papphāsaṃ, pīhakaṃ, kilomakaṃ, yakanaṃ, hadayaṃ; vakkaṃ, aṭṭhimiñjaṃ, aṭṭhi, nahāru, maṃsaṃ; taco, dantā, nakhā, lomā, kesā, suốt 5 ngày.

Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày.

Như vậy, đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc được chia ra làm 6 đoạn riêng và 5 đoạn ghép chung đoạn trước và đoạn sau, gom lại thành 11 đoạn, hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati niệm mỗi đoạn 15 ngày, nên gồm có tất cả 165 ngày hoặc 5 tháng và 15 ngày.

 Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc theo parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm 32 thể trọc bằng ngôn ngữ Pāḷi (vacasā) 6 đoạn, mỗi đoạnđúng theo 3 cách: Theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận - nghịch, suốt 5 tháng và 15 ngày.([11])

Trong 32 thể trọc ấy, nếu có thể trọc nào phát sinh hiện rõ trong tâm thì khi ấy, hành-giả không còn tưởng sattasaññā ghi nhớ chúng-sinh, nghĩa là hành-giả không còn nhớ mình là người (đàn ông hoặc đàn bà), mà chỉ có biết thể trọc ấy mà thôi.

Như vậy, hành-giả đã thực-hành đúng theo phương-pháp của đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này.

Khi hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc theo parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm 32 thể trọcbằng ngôn ngữ Pāḷi (vacasā) như vậy, suốt 5 tháng và 15 ngày, mà không có thể trọc nào phát sinh hiện rõ trong tâm, vẫn còn sattasaññā ghi nhớ chúng-sinh hiện hữu như bình thường, do không hiểu ý nghĩa sâu sắc của những danh từ Pāḷi ấy.

Chuyển Đổi Ngôn Ngữ Pāḷi Sang Nghĩa Tiếng Việt

Nếu hành-giả cảm nhận niệm 32 thể trọc bằng ngôn ngữ Pāḷi không thích hợp, thì hành-giả có thể niệm 32 thể trọc bằng ngôn ngữ nghĩa tiếng Việt của mình cũng được, bởi vì phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định  kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này cốt yếu cho một thể trọc nào phát sinh hiện rõ trong tâm, để diệt tưởng sattasaññā ghi nhớ chúng-sinh.

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này cốt yếu diệt subhasaññā tưởng-đảo-điên cho rằng thân này là xinh đẹp, nhưng sự thật thân này là đầy ô trọc.

Phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc bằng ngôn ngữ Pāḷi như thế nào, khi chuyển sang thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc bằng ngôn ngữ nghĩa tiếng Việt cũng như thế ấy, mọi cách thức hoàn toàn không thay đổi. Ví dụ:

1- Tacapañcakacó 5 thể trọc theo 3 cách thức: 

* Theo chiều thuận (anuloma): Tóc, lông, móng, răng, da,suốt 5 ngày.

* Theo chiều nghịch (paṭiloma): Da,răng, móng, lông, tóc, suốt 5 ngày.

* Theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma): Tóc, lông, móng, răng, da - da,răng, móng, lông, tóc, suốt 5 ngày. Theo 3 cách thức gồm có 15 ngày. v.v…

Các đoạn còn lại cũng chuyển đổi sang ngôn ngữ nghĩa tiếng Việt giống như vậy.

Quy Định Thời Gian 5 Tháng Và 15 Ngày

Hành-giả thực-hành đề-mục kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc có 3 hạng hành-giả:

1- Tikkhapuggala: Hành-giả là hạng người có đủ tam nhân (tihetukapuggala) có trí-tuệ sắc bén nhanh nhạy, có Ba-la-mật đầy đủ trọn vẹn, có đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, khi nghe vị Thiền-sư chỉ dạy đoạn thứ nhất rằng: “Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco, …” theocách thức anuloma, paṭiloma, anuloma - paṭiloma, hành-giả ấythực-hành theo liền thấy rõ, biết rõ thật-tánh của thân là sắc-pháp, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

Như vậy, hành-giả thuộc về hạng người tikkhapuggala trở thành bậc Thánh-A-ra-hán trước thời gian quy định 5 tháng 15 ngày. 

2- Majjhimapuggala: Hành-giả là hạng người có đủ tam-nhân (tihetukapuggala) có trí bậc trung, có Ba-la-mật đầy đủ, có đủ 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ, khi nghe vị Thiền sư chỉ dạy 32 thể trọc được chia ra làm 6 đoạn riêng và 5 đoạn ghép chung đoạn trước và đoạn sau, gom lại thành 11 đoạn.

Thực-hành niệm mỗi đoạn theo 3 cách thức gồm có 15 ngày nhân với 11 đoạn gồm có tất cả 165 ngày hoặc 5 tháng và 15 ngày, hành-giả có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán.

Như vậy, hành-giả thuộc về hạng người majjhimapug-gala trở thành bậc Thánh-A-ra-hán theo thời gian quy định 5 tháng 15 ngày. 

3- Mandapuggala: Hành-giả là hạng người có đủ tam nhân (tihetukapuggala) có trí bậc thường, có Ba-la-mật bậc thường, có 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ bậc thường, khi nghe vị Thiền Sư chỉ dạy 32 thể trọc được chia ra làm 6 đoạn riêng và 5 đoạn ghép chung đoạn trước và đoạn sau, gom lại thành 11 đoạn.

Dù thực-hành niệm mỗi đoạn theo 3 cách thức gồm có 15 ngày nhân với 11 đoạn gồm có tất cả 165 ngày hoặc 5 tháng và 15 ngày, hành-giả vẫn chưa có khả năng chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, nên hành-giả cần phải thực-hành niệm mỗi đoạn như trước như vậy, trải qua 5 tháng và 15 ngày, một hoặc hai lần như vậy mới có khả năng dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ-Thánh-đế, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân.

Như vậy, hành-giả thuộc về hạng người manda-puggala trở thành bậc Thánh-nhân theo thời gian quy định quá 5 tháng 15 ngày.

Phương-Pháp Thực-Hành Đề-Mục Kāyagatāsati

* Đối với hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định  kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc, khi bắt đầu niệm bằng lời mỗi đoạn rằng: “Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco.” hoặc “Tóc, lông, móng, răng, da.” hành-giả chỉ niệm bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc mà thôi, không nên hướng tâm đến vaṇṇanimitta: màu sắc hoặc paṭikūlanimitta: tính chất đáng ghê tởm hoặc dhātunimitta: tự tánh của mỗi thể trọc.

 * Đối với vị Thiền-sư chỉ dạy đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc, không nên hướng dẫn hành-giả hướng tâm đến vaṇṇanimitta: màu sắc hoặc paṭikūlanimitta: tính chất đáng ghê tởm hoặc dhātu-nimitta: tự tánh của mỗi thể trọc,màchỉnên hướng dẫn hành-giả niệm bằng lời mỗi đoạn rằng:Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco.” hoặc “Tóc, lông, móng, răng, da.” niệm đến tính chất của mỗi thể trọc mà thôi.

Khi vị Thiền-sư dạy đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc, chỉ dẫn hành-giả thực-hành hướng tâm  đến vaṇṇanimitta: màu sắc của mỗi thể trọc

Nếu hành-giả thực-hành niệm 32 thể trọc bằng lời mỗi

đoạn, đồng thời hướng tâm đến vaṇṇanimitta: màu sắc của mỗi thể trọc nhưng vaṇṇanimitta không phát sinh, mà paṭikūlanimitta hoặc dhātunimitta phát sinh thì hành-giả hiểu lầm rằng: “Ta thực-hành không đúng như vị Thiền sư đã dạy.”

Bởi vậy cho nên, vị Thiền sư chỉ nên hướng dẫn hành-giả niệm bằng lời mỗi đoạn rằng: Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco…” hoặc “Tóc, lông, móng, răng, da,…” niệm đến tính chất của mỗi thể trọc mà thôi. Còn 3 loại nimitta: vaṇṇanimitta, paṭikūlanimitta, dhātunimitta, loại nimitta nào phát sinh tùy theo năng lực của pháp-hành-thiền-định mà hành-giả đã từng thực-hành trong tiền kiếp, do năng lực của 5 pháp-chủ và các pháp hạnh Ba-la-mật của hành-giả.

* Khi hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc, niệm bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc như vậy, nếu vaṇṇanimitta: màu sắc của thể trọc nào phát sinh, bởi vì tiền kiếp của hành-giả đã từng thực-hành đề-mục-thiền-định vaṇṇakasiṇa, nên vaṇṇa-nimitta: màu trắng hoặc màu đỏ phát sinh, thì vaṇṇakam-maṭṭhāna là đề-mục thích hợp đối với hành-giả.

Vậy, hành-giả nên tiếp tục thực-hành đề-mục-thiền-định vaṇṇakammaṭṭhāna ấy dẫn đến chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới.

* Khi hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati: niệm 32 thể trọc, niệm bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc như vậy, nếu paṭikūlanimitta: tính chất đáng ghê tởm của thể trọc nào phát sinh, bởi vì tiền kiếp của hành-giả đã từng thực-hành đề-mục-thiền-định paṭikūla-manasikāra, nên paṭikūlanimitta phát sinh, thì paṭikūla-kammaṭṭhāna đề-mục-thiền-định thích hợp đối với hành-giả.

Vây, hành-giả nên tiếp tục thực-hành đề-mục paṭikūla-kammaṭṭhāna ấy dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới.

* Khi hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā- sati: niệm 32 thể trọc, niệm bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc như vậy, nếu dhātunimitta: tự tánh của thể trọc địa-đại (pathavī) hoặc thủy-đại (āpo) nào phát sinh, bởi vì tiền kiếp của hành-giả đã từng thực-hành đề-mục-thiền-định phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna) nên dhātunimitta,tự tánh của thể trọc ấy phát sinh, thì dhātu-kammaṭṭhāna là đề-mục thích hợp đối với hành-giả.

Vậy, hành-giả nên tiếp tục thực-hành đề-mục-thiền-địnhdhātukammaṭṭhāna ấy dẫn đạt đến cận-định, chưa chứng đắcbậc thiền sắc-giới nào, bởi vì đề-mục dhātukammaṭṭhāna nàychỉ có khả năng đạt đến cận-định (upacārasamādhi) mà thôi.

Đề-Mục Kāyagatāsati Có Ba Loại Nimitta

Đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc có thể có 3 loại nimitta là vaṇṇanimitta, paṭikūlanimitta, dhātunimitta. Trong 3 loại nimitta này có 2 loại nimitta là vaṇṇanimitta paṭikūlanimitta dễ nhận biết, dễ phân biệt, bởi vì 2 loại nimitta này còn là đối-tượng chế-định- pháp (paññattidhamma). Riêng Dhātunimitta, dhātu đó là 20 thể trọc thuộc pathavīdhātu (địa-đại), và 12 thể trọc thuộc āpodhātu (thủy-đại) thuộc đối-tượng chân-nghĩa- pháp (paramatthadhamma) rất vi tế, nên hành-giả khó nhận biết, khó phân biệt được.

Để nhận biết, phân biệt dhātunimitta, tự tánh của 20 thể trọc pathavīdhātu, và 12 thể trọc āpodhātu, trong khi hành-giả đang thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc, đangniệm bằng lời mỗi đoạn như: 

 Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco, … hoặc “Tóc, lông, móng, răng, da, …” Khi loại dhātunimitta phát sinh, thì atthapaññatti: hình dáng của thể trọc tóc, lông, móng, răng, da, …, thuộc pathavīdhātu (địa-đại) không hiện rõ, và tưởng sattasaññā ghi nhớ chúng-sinh, ta, người, đàn ông, đàn bà,…không còn tưởng nhớ nữa, chỉ có thật-tánh của thể trọc pathavīdhātu (địa-đại) hiện rõ mà thôi.

Khi ấy, hành-giả có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ thật-tánh dhātunimitta, tự tánh của thể trọc pathavīdhātu (địa-đại) rằng: “Kesā: tóc không phải là sợi tóc dài, ngắn mọc trên da đầu nữa, v.v… , kesā: tóc không phải ta, không phải của ta. Thật-tánh của kesā: tóc chỉ là địa-đại mà thôi.

Cũng tương tự như vậy, lomā: lông  khôngphải là sợi lông dài, ngắn mọc toàn thân nữa, v.v…, lomā: lông không phải ta, không phải của ta. Thật-tánh của lomā: lông chỉ là địa-đại (pathavīdhātu) mà thôi…

Hành-giả có trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ thật-tánh dhātunimitta, tự tánh của thể trọc pathavīdhātu có 20 loại thể trọc kể từ Kesā, Lomā, Nakhā, … cho đến Mattaluṅgaṃ; tự tánh của thể trọc āpodhātu có 12 loại thể trọc kể từ Pittaṃ, Semhaṃ, Pubbo, …, cho đến Muttaṃ. 

Thật-tánh của 32 thể trọc này đều chỉ là địa-đại (pathavīdhātu)thủy-đại (āpodhātu) mà thôi.

Thực-Hành Pháp-Hành-Thiền-Tuệ

Sau khi hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāya-gatāsati: niệm 32 thể trọc, có khả năng dẫn đến chứng đắc đến appanāsamādhi: an-định trong bậc thiền sắc-giới hoặc đạt đến upacārasamādhi: cận-định trong dục-giới đại-thiện-tâm.

Hành-giả sử dụng appanāsamādhi: an-định trong bậc thiền sắc-giới hoặc upacārasamādhi: cận-đinh trong dục-giới đại-thiện-tâm làm nền tảng và sử dụng sắc-giới thiện-tâm hoặc dục-giới đại-thiện-tâm (có cận-định ấy) thuộc danh-phápbậc thiền sắc-giới-tâm hoặc tâm cận-định thuộc dục-giới đại-thiện-tâm nương nhờ nơi sắc-ý-căn (hadayavatthurūpa) thuộc về sắc-pháp làm đối-tượng thiền-tuệ, để thực-hành pháp-hành-thiền-tuệ, dẫn đến chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, hoặc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả, hoặc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả, hoặc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả.

Hành-giả chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả bậc nào hoàn toàn tùy thuộc vào các pháp hạnh Ba-la-mật, và 5 pháp-chủ: tín-pháp-chủ, tấn-pháp-chủ, niệm-pháp-chủ, định-pháp-chủ, tuệ-pháp-chủ của hành-giả ấy.

Giảng Giải Tiếp Theo 5 Điều Uggahakosalla

Phận sự Uggahakosalla: Tinh thông trong 7 điều học đã giảng giải 2 điều Vacasā: Suy xét bằng lời Manasā: Suy xét bằng tâm xong, tiếp theo giảng giải 5 điều còn lại là:

3- Vaṇṇato: Suy xét màu sắc (màu đen, trắng, đỏ),

4- Saṇṭhānato: Suy xét hình dáng,

5- Disāto: Suy xét nơi sinh, (phần trên, giữa, dưới),

6- Okāsato: Suy xét chỗ ở trong thân,

7-Paricchedato: Suy xét bằng cách quy định giới hạn.

Trong phận sự Uggahakosalla có 7 điều học tinh thông, điều thứ nhất Vacasā: Suy xét bằng lời điều thứ nhì Manasā: Suy xét bằng tâm, 2 điều này đóng vai trò chính yếu trong khi đang thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc. Và 5 điều học tinh thông còn lại là những điều phụ, hỗ trợ cho điều manasā: suy xét bằng tâm, niệm đọc bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc ấy.

Thật vậy, khi đang thực-hành đề-mục-thiền-định  kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc, hành-giả thực-hành suy xét bằng tâm, niệm đọc bằng lời đến tính chất của mỗi thể trọc nào, khi ấy, đồng thời biết rõ 5 điều học tinh thông còn lại của thể trọc ấy như sau: 

3- Vaṇṇato: Suy xét màu sắc của thể trọc ấy trong thân, 

4- Saṇṭhānato: Suy xét hình dáng của thể trọc ấy trong thân

5- Disāto: Suy xét nơi sinh của thể trọc ấy trong thân, 

6- Okāsato: Suy xét chỗ ở của thể trọc ấy trong thân,

7- Paricchedato: Suy xét bằng cách quy định giới hạn của thể trọc ấy trong thân.

Ví dụ: Kesā: Tóc

* Vaṇṇato: Màu sắc của tóc: Tóc có màu đen, hoặc màu trắng, hoặc màu vàng, … ;

* Saṇṭhānato: Hình dáng của tóc:  Tóccó hình dáng là sợi nhỏ dài, ngắn;

* Disāto: Nơi sinh của tóc: Tóc mọc trên da đầu phần trên của thân;

* Okāsato: Chỗ ở của tóc: Tóc nằm bao bọc trên da đầu, bao từ vành trán vòng quanh 2 mép tai ra sau ót.

* Paricchedato: Giới hạn của tóc: Gốc tóc mọc sâu vào da đầu, ngọn tóc nằm bên ngoài thân. Mỗi sợi tóc đều mọc riêng rẽ với nhau, v.v…

Trong thân gồm có 32 thể trọc đó là Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco, … cho đến muttaṃ. Suy xét đúng theo sự thật, thì 32 thể trọc này là paṭikūlanimitta có tính chất thật đáng ghê tởm.  

Sự Lợi Ích Của Đề-mục Kāyagatāsati 

Theo bình thường các hạng phàm-nhân còn có tà-kiến trong ngũ-uẩn (sakkāyadiṭṭhi) mỗi khi gặp nhau, thấy sai, hiểu lầm rằng: “Ta, người, đàn ông, đàn bà, đẹp, không đẹp, v.v…” nên phát sinh tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm tà-kiến, tâm ngã-mạn, v.v… là những phiền-não làm cho tâm ô nhiễm.

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc bằng lời với trí-tuệ sáng suốt thấy rõ, biết rõ tinh chất của thể trọc, khi ấy tưởng sattasaññā ghi nhớ chúng-sinh, ta, người, đàn ông, đàn bà không hiện hữu, mà chỉ biết thể trọc ấy hiện hữu mà thôi, nên phát sinh vaṇṇanimitta: màu sắc của thể trọc, hoặc paṭikūlanimitta: tính chất đáng ghê tởm của thể trọc, hoặc dhātunimitta: tự tánh của thể trọc địa-đại, thủy-đại, làm cho đại-thiện-tâm trở nên trong sạch, tâm không bị ô nhiễm bởi phiền-não tham, sân, si, …  

Đó là nguyên nhân quan trọng hỗ trợ dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới, chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-nhân.

Nếu hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati, niệm 32 thể trọc bằng lời mỗi đoạnđúng theo 3 cách: Theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận - nghịch, suốt 5 tháng và 15 ngày, mà chưa phát sinh vaṇṇanimitta: màu sắc của thể trọc, hoặc paṭikūla-nimitta: tính chất đáng ghê tởm của thể trọc, hoặc dhātunimitta: tự tánh của thể trọc địa-đại, thủy-đại, thì hành-giả chớ nên thoái chí nản lòng, nên cố gắng tinh tấn tiếp tục thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc thường thường, bởi vì chư đại-đức thiện-trí tiền bối (porāṇattherā) khuyên dạy các hàng hậu sinh nên thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc này chắc chắn sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an-lạc lâu dài trong kiếp hiện-tại và kiếp vị-lai sẽ chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, sẽ chứng đắc Thánh-đạo,Thánh-quả và Niết-bàn, sẽ trở thành bậc Thánh-nhân trong Phật giáo.

TrongChú-giải dạy rằng: “Hành-giả thực- hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc này, thực-hành theo uggahakosalla, tinh thông 7 điều học, đã trở thành bậc Thánh-A-ra-hán rất đông.”

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc này, dù đã hành đúng theo phận sự thứ nhất uggahakosalla, trong 7 điều học tinh thông mà vẫn chưa chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chưa chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả nào, thì hành-giả nên tiếp tục hành theo phận sự thứ nhì namasikārakosalla, tinh thông trong 10 điều suy xét thực-hành.

2- Manasikārakosalla: Tinh Thông Trong 10 Điều Suy Xét Thực-hành

1- Anupubbato: Suy xét theo tuần tự mỗi thể trọc.

Sau khi đã thực-hành 7 điều học tinh thông uggaha-kosalla xong rồi, hành-giả không cần niệm bằng lời (vacasā) 32 thể trọc ấy nữa, mà nên suy xét 32 thể trọc ấy theo tuần tự mỗi thể trọc bằng tâm (manasā) với 5 điều: 

* Vaṇṇato: Suy xét màu sắc (màu đen, trắng, đỏ),

* Saṇṭhānato: Suy xét hình dáng,

* Disāto: Suy xét nơi sinh, (phần trên, giữa, dưới),

* Okāsato: Suy xét chỗ ở trong thân,

* Paricchedato: Suy xét bằng cách quy định giới hạn.

2- Nātisīghato: Suy xét không nhanh quá.

Khi đang suy xét 32 thể trọc ấy theo tuần tự mỗi thể trọc bằng tâm ấy, hành-giả không nên suy xét nhanh quá, nếu suy xét nhanh quá thì Vaṇṇato, Saṇṭhānato, Disāto, Okāsato, Paricchedato của thể trọc ấy sẽ không hiện rõ.

3- Nātisaṇikato: Suy xét không chậm quá.

Khi đang suy xét 32 thể trọc ấy theo tuần tự mỗi thể trọc bằng tâm ấy, hành-giả không nên suy xét chậm quá, nếu suy xét chậm quá thì Vaṇṇato, Saṇṭhānato, Disāto, Okāsato, Paricchedato của thể trọc ấy sẽ thấy xinh đẹp, làm cho đề-mục-thiền-định không tiến triển, không dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới và Thánh-đạo, Thánh- quả, Niết-bàn.

4- Vikkhepappaṭibāhanato: Định-tâm suy xét mỗi thể trọc theo tuần tự, không để phóng-tâm đến đối-tượng khác.

Hành-giả thực-hành đề-mục kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc theo tuần tự với định-tâm suy xét mỗi thể trọc một cách rất thận trọng, không để phóng-tâm đến đối-tượng khác.

5- Paṇṇattisamatikkamato: Suy xét thoát khỏi pháp-chế-định.

Hành-giả thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc theo tuần tự với định-tâm suy xét nāmapaññatti: danh từ chế-địnhsaṇṭhānapaññatti: hình dáng chế-định, cốt yếucho paṭikūlanimitta phát sinh. Khi paṭikūlanimitta đãphát sinh lên rồi, hành-giả không cần suy xét đến nāmapaññatti: danh từ chế-định rằng: “Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco,… saṇṭhānapaññatti: hình dáng chế-định hình dáng của mỗi thể trọc ấy nữa.

Hành-giả nên suy xét thoát ra khỏi các chế-định-pháp (paññattidhamma).

6- Anupubbamuñcanato: Suy xét bỏ thể trọc không hiện rõ màu sắc, hình dáng, nơi sinh, chỗ ở, giới hạn. 

Khi suy xét theo chiều thuận từ Kesā, lomā, nakhā, dantā, taco, … cho đến Muttaṃ; theo chiều nghịch từ Muttaṃ, lasikā, singhāṇikā, khelo, vasā, assu, … cho đến Kesā, hành-giả có trí-tuệ sáng suốt quan sát, nếu thấy thể trọc nào hoặc đoạn nào không hiện rõ Vaṇṇato, Saṇṭhānato, Disāto, Okāsato, Paricchedato của thể trọc ấy thì bỏ thể trọc ấy hoặc đoạn ấy, tiếp tục suy xét đến thể trọc khác hoặc đoạn khác hiện rõ.

Trong các thể trọc hiện rõ hoặc các đoạn hiện rõ, hành-giả suy xét thấy thể trọc hoặc đoạn hiện rõ hơn, mà bỏ thể trọc hoặc đoạn hiện không rõ. Và tiếp tục như vậy, cho đến khi chỉ còn lại 2 thể trọc hiện rõ nhất mà thôi.

Hành-giả suy xét thấy trong 2 thể trọc ấy, thể trọc nào hiện rõ nhiều nhất, suy xét thể trọc ấy, bỏ thể trọc hiện rõ ít ấy, bởi vì, sự suy xét thể trọc này khi đến cuối cùng chỉ còn duy nhất một thể trọc hiện rõ nhiều nhất mà thôi, không phải cả 32 thể trọc.

7- Appanāto: Suy xét một thể trọc duy nhất dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới.

Khi hành-giả suy xét 32 thể trọc, bỏ những thể trọc hiện rõ ít dần dần theo tuần tự cho đến khi cuối cùng chỉ còn duy nhất một thể trọc hiện rõ nhiều nhất ấy mà thôi. Tiếp theo hành-giả suy xét thể trọc ấy làm đối-tượng thiền định, dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới, màkhông cần suy xét các thể trọc khác nữa.

Sự Lợi Ích Niệm Bằng Lời 32 Thể Trọc

Ban đầu thực-hành đề-mục kāyagatāsati, niệm 32 thể trọc bằng lời trong 6 đoạn, hành-giả có thể nhận được 1 trong 2 sự lợi ích là: 

1- Trong khi hành-giả đang niệm 32 thể trọc bằng lời trong 6 đoạn, mỗi đoạn theo chiều thuận (anuloma), theo chiều nghịch (paṭiloma), theo chiều thuận - nghịch (anuloma - paṭiloma), đệ nhất thiền sắc-giới có khả năng phát sinh.

2- Nếu đệ nhất thiền sắc-giới chưa phát sinh thì hành giả suy xét thấy trong 32 thể trọc, thể trọc nào hiện rõ nhiều, bỏ những thể trọc hiện rõ ít dần dần theo tuần tự cho đến khi cuối cùng chỉ còn duy nhất một thể trọc hiện rõ nhiều nhất mà thôi. Tiếp theo hành-giả suy xét thể trọc ấy làm đối-tượng thiền định, dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới

8- Adhicittasutta: Suy xét theo bài kinh Adhicittasutta.

Thực-hành theo bài kinh Adhicittasutta, hành-giả cần phải xem xét trong 3 loại nimitta là:

1- Samādhinimitta: trạng-thái định-tâm,

2- Paggahanimitta: trạng-thái tinh-tấn,

3- Upekkhānimitta: trạng-thái xả.

Nếu xem xét thấy trạng-thái nào nhiều quá hoặc ít quá thì hành-giả cần phải giảm bớt hoặc tăng thêm, để cho 3 trạng-thái ấy đồng đều nhau, làm cho định-tâm vững chắc trong đối-tượng thiền định ấy.

Trong 3 trạng-thái (nimitta) này:

* Nếu samādhinimitta: trạng-thái định-tâm có nhiều quá thì dễ phát sinh kosajja: tâm lười biếng.

* Nếu paggahanimitta: trạng-thái tinh tấn có nhiều quá thì dễ phát sinh uddhacca: phóng-tâm.

* Nếu upekkhānimitta: trạng-thái xả có nhiều quá thì không thể chứng đắc bậc thiền sắc-giới, Thánh-đạo, Thánh-quả, Niết-bàn được.

Vì vậy, hành-giả không nên quan tâm đặc biệt đến nimitta: trạng-thái nào nhiều quá, mà sự thật nên quan tâm làm cho cả 3 nimitta: trạng-thái đồng đều nhau, để cho pháp-hành-thiền-định được tiến triển, dẫn đến chứng đắc bậc thiên sắc-giới.

9- Sītibhāvasutta: Suy xét theo bài kinh Sītibhāvasutta.

Thực-hành theo bài kinh Sītibhāvasutta, hành-giả cần phải thực-hành theo 6 pháp, để làm cho chứng ngộ Niết-bàn gọi là Sītibhāva: Tính tĩnh lặng. 6 pháp là:

 - Chế ngự tâm trong lúc nên chế ngự nghĩa làkhi có tinh tấn nhiều quá thì nên chế ngự giảm bớt lại.

- Nâng đỡ tâm trong lúc nên nâng đỡ nghĩa là khi tâm buồn-chán, buồn-ngủ, thoái chí nản lòng thì nên nâng đỡ tâm trở nên tinh tấn tiếp tục thực-hành thiền định.

- Khuyến khích tâm trong lúc nên khuyến khích nghĩa là khi tâm không hoan hỷ trong pháp-hành-thiền-định thì nên khuyến khích tâm có đức tin trong pháp-hành.

- Tâm đang tiến triển tốt trong pháp-hành, không phóng-tâm, không buồn-chán buồn-ngủ, không thoái chí nản lòng, nên giữ tâm quân bình.

- Tâm hướng đến chứng đắc Thánh-đạo, Thánh-quả.

- Tâm hướng đến chứng ngộ Niết-bàn.

10- Bojjhaṅgakosallasutta: Suy xét theo bài kinh Bojjhaṅgakosallasutta.

 Thực-hành theo bài kinh Bojjhaṅgakosallasutta, hành-giả suy xét thấy khi nào tâm buồn-chán, buồn-ngủ, thoái chí nản lòng, không có sự tinh tấn, khi ấy, hành-giả nên hành dhammavicayasambojjhaṅga, vīriyasamboj-jhaṅga, pītisambojjhaṅga, cả 3 pháp sambojjhaṅga này cần được tăng thêm năng lực.

Và suy xét thấy khi nào có sự tinh tấn nhiều, nên phát sinh phóng-tâm, khi ấy, hành-giả nên hành passsadhi-sambojjhaṅga, samādhisambojjhaṅga, upekkhāsamboj- jhaṅga, cả 3 pháp sambojjhaṅga này cần tăng thêm năng lực. 

Tính Chất Đặc Biệt Đề-mục Kāyagatāsati

Trong 40 đề-mục-thiền-định, đề-mục Kāyagatāsati: Niệm 32 thể trọc trong thân được chia ra làm 6 đoạn riêng và 5 đoạn chung gom đoạn trước và đoạn sau, gồm có 11 đoạn cả thảy, hành-giả thực-hành niệm bằng lời mỗi đoạn theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận - nghịch, gồm có 15 ngày, nhân với 11 đoạn thành 165 ngày hoặc 5 tháng và 15 ngày. Cho nên, đề-mục Kāyagatāsati: Niệm 32 thể trọc này là khó học và phương-pháp hành khó hơn các đề-mục-thiền-định khác. Song hành-giả thực-hành đề-mục kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này, có được quả báu thật đáng hài lòng hoan hỷ.

Thật vậy, trong bộ Chú giải Sammohavinodanī aṭṭha-kathāpāḷi tán dương ca tụng về đề-mục kāyagatāsati rằng:

*“Imaṃ kammaṭṭhānaṃ bhāvetvā Arahattaṃ pattānaṃ bhikkhūnaṃ vā bhikkhunīnaṃ vā upāsakānaṃ vā upāsikānaṃ vā gaṇanaparicchedo nāma natthi.”

 *“Yo hi imaṃ paṭipattiṃ paṭipajjati so bhikkhu nāma hoti, paṭipannako hi devo vā manusso vā bhikkhū’ti saṅkhayaṃ gacchatiyeva.”([12])

Chư tỳ-khưu, chư tỳ-khưu ni, các cận sự nam, các cận sự nữ đã thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati này dẫn đến trở thành bậc Thánh-A-ra-hán nhiều không sao kể được.

Hành-giả nào thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatā-sati này, hành-giả ấy gọi là “tỳ-khưu” thật sự. Dù hành-giả là chư-thiên hoặc nhân-loại cũng được kể là tỳ-khưu cả thảy.

Tính Chất Đặc Biệt Của Nhóm Tacapañcaka

Nhóm Tacapañcaka đặc biệt làm đề-mục-thiền-định trong nghi lễ cạo tóc để xuất gia sa-di.

*Tích Ngài Đại-đức Sīvali ([13])được tóm lược như sau:

Trước khi hoàng tử Sīvali ra đời, Ngài đã ở trong lòng bà hoàng-hậu Suppavāsā dòng vua Koliya suốt thời gian 7 năm tròn và 7 ngày([14]). Gần tới ngày sinh, hoàng-hậu chịu bao nỗi đau đớn tưởng chừng không qua khỏi, nên bà tâu với Đức-vua phu quân rằng:

- Tâu Hoàng-thượng, trước khi chết thần thiếp muốn làm phước-thiện bố-thí cúng-dường đến Đức-Thế-Tôn.

Kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn mà bạch rằng: “Kính bạch Đức-Thế-Tôn, Suppavāsā công chúa dòng Koliya kính thỉnh Ngài ngự đến cung điện để làm phước-thiện bố-thí cúng-dường.”

Đức-Thế-Tôn truyền dạy như thế nào, xin Hoàng thượng ghi nhớ, rồi truyền lại cho thần thiếp rõ.”

Theo lời tâu của hoàng hậu Suppavāsā, Đức-vua ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn, bạch theo lời của bà. 

Đức-Thế-Tôn truyền dạy rằng:

 “Suppavāsā Koliyadhītā, sukhinī arogā, arogaṃ puttaṃ vijāyatu.”

 (Công chúa Suppavāsā dòng Koliya được an-lạc, không bệnh hoạn, sinh hoàng tử an toàn, không bệnh hoạn.)

Sau khi nghe Đức-Thế-Tôn truyền dạy như vậy, tại cung điện hoàng hậu Suppavāsā sinh hoàng tử một cách dễ dàng như nước chảy ra khỏi bình, giữa số đông người trong hoàng tộc hớn hở vui mừng. 

Đức-vua ngự trở về vô cùng vui mừng nghĩ rằng: “Lời truyền dạy của Đức-Thế-Tôn đúng như thật.”

Đức-vua ngự đến thăm hoàng-hậu, truyền lại lời dạy của Đức-Thế-Tôn cho hoàng-hậu nghe.

Hoàng-hậu tâu rằng:

- Tâu Hoàng-thượng, kính xin Hoàng-thượng ngự đến hầu Đức-Thế-Tôn, kính thỉnh Ngài ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, để thần thiếp làm phước-thiện bố-thí cúng dường suốt 7 ngày.

Đức-Thế-Tôn ngự đến cung điện cùng với chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng thọ thực suốt 7 ngày.

Đến ngày thứ 7, Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta hỏi hoàng tử Sīvali rằng:

- Này hoàng tử! Con đã chịu đựng nỗi khổ ở trong lòng mẫu hậu lâu như vậy, nay con muốn xuất gia để giải thoát khổ hay không?

Hoàng tử Sīvali bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, con muốn xuất gia, nếu con được mẫu hậu và phụ vương cho phép.

Thấy hoàng tử bạch chuyện gì với Ngài Đại-Trưởng- lão,hoàng-hậu Suppavāsā muốn biết, nên đến bạch hỏi Ngài rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, hoàng tử của con bạch điều gì với Ngài vậy?

- Này hoàng-hậu! Hoàng tử của bà bạch về nỗi khổ nằm trong lòng mẫu hậu suốt thời gian lâu dài như vậy, nên bạch rằng: “Con muốn xuất gia, nếu mẫu hậu và phụ vương cho phép.”

Nghe Ngài Đại-Trưởng-lão nói như vậy, bà hoàng- hậu Suppavāsā vô cùng hoan hỷ đồng ý cho phép hoàng tử đi xuất gia, bà bạch rằng:

- Kính bạch Ngài Đại-Trưởng-lão, kính xin Ngài từ bi tế độ hoàng tử của con được xuất gia.

Hoàng Tử Sīvali Xuất Gia

Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta dẫn hoàng tử trở về chùa. Khi làm lễ cạo tóc, Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy hoàng tử Sīvali thực-hành đề-mục “Tacapañcaka-kammaṭṭhāna: đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka đó làkesā, lomā, nakkhā, dantā, taco,… - taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā,…”theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận, nghịch. 

Hoàng tử Sīvali thực-hành đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc như sau:

* Khi cạo những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, hoàng tử Sīvali chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu,

* Tiếp theo những sợi tóc thứ hai rơi xuống, hoàng tử chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.

* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, hoàng tử chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.

* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, hoàng tử chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả, và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, cùng một lúc với lễ cạo tóc không sau không trước.

Khi ấy, hoàng tử Sīvali kể từ khi tái sinh đầu thai vào lòng bà hoàng hậu Suppavāsā suốt 7 năm 7 ngày cộng với 7 ngày sinh ra đời. Hoàng tử Sīvali trở thành bậc Thánh-A-ra-hán  lúc 7 năm 14 ngày. (hoặc 7 năm 7 tháng 14 ngày).

* Tích Ngài Đại-đức Dabbatthera([15])được tóm lược như sau:

Ngài Đại-đức Dabbatthera thật là đặc biệt, khi Ngài tái sinh đầu thai trong lòng mẹ thuộc hoàng tộc Malla, tại kinh thành Anupiya, nước Malla.

Khi thai nhi gần đến ngày sinh, thì mẹ của Ngài chết, bà con dòng họ đem thi hài ra nghĩa địa, đưa lên giàn hoả, châm lửa thiêu cháy, lửa bị tắt, cái bụng của thi thể bị nứt làm đôi, Ngài rơi ra bên ngoài, bà con ẵm Ngài trao cho bà nội đem về nuôi dưỡng, đặt tên Ngài là Dabbakumāra: Công tử Dabba.

Công tử Dabba lên được 7 tuổi, khi ấy Đức-Thế-Tôn ngự đến nước Malla, cùng với số đông chư Đại-đức tỳ-khưu-Tăng, trú tại vườn xoài gần kinh thành Anupiya.

Nhìn thấy Đức-Thế-Tôn, công tử Dabba liền phát sinh đức tin trong sạch muốn xuất gia, nên trở về gặp bà nội thưa rằng:

- Kính thưa bà nội, cháu muốn xuất gia trong giáo pháp của Đức-Phật. Xin bà nội cho cháu xuất gia.

Nghe cháu xin như vậy, bà nội vô cùng hoan hỷ bảo:

- Này cháu yêu quý! Bà đồng ý cho cháu xuất gia.

Bà dẫn công tử Dabba đến hầu đảnh lễ Đức-Thế-Tôn, rồi bạch rằng:

- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, kính xin Ngài từ bi tế độ cháu của con, cho phép nó xuất gia nơi Ngài.

Chấp thuận cho công tử Dabba xuất gia, Đức-Thế-Tôn truyền bảo vị Đại-đức làm lễ cạo tóc cho công tử Dabba.

Vâng lời dạy của Đức-Thế-Tôn, vị Đại-đức truyền dạy công tử Dabba đề-mục Tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco - taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā,…”theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận, nghịch.   

Công tử Dabba thực-hành đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc, công tử Dabba chứng đắc thành 4 bậc Thánh-nhân theo tuần tự:

* Khi cạo những sợi tóc đầu tiên rơi xuống, công tử  Dabba chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế chứng đắc Nhập-lưu-Thánh-đạo, Nhập-lưu-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhập-lưu,

* Tiếp theo những sợi tóc thứ hai rơi xuống, công tử  Dabba chứng đắc Nhất-lai-Thánh-đạo, Nhất-lai-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Nhất-lai.

* Tiếp theo những sợi tóc thứ ba rơi xuống, công tử  Dabba chứng đắc Bất-lai-Thánh-đạo, Bất-lai-Thánh-quả, và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-Bất-lai.

* Tiếp theo những sợi tóc cuối cùng rơi xuống, công tử  Dabba chứng đắc A-ra-hán-Thánh-đạo, A-ra-hán-Thánh-quả, và Niết-bàn trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, cùng một lúc với lễ cạo tóc không sau không trước. 

Công tử Dabba trở thành bậc Thánh-A-ra-hán lúc lên 7 tuổi.

* Tích Saṃkiccasāmaṇeravatthu([16])được tóm lược như sau:

Saṃkiccasāmaṇera: Sa-di Saṃkicca lên 7 tuổi là đệ tử của Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta.

Khi Ngài tái sinh đầu thai vào lòng mẹ (con của gia đình khá giả) trong kinh thành Sāvatthī. Thai nhi đang nằm trong bụng mẹ gần ngày sinh, thì mẹ của Ngài bị lâm bệnh chết. Bà con đem thi thể ra nghĩa địa, đưa lên giàn hoả, châm lửa thiêu các phần khác đều cháy, chỉ còn phần bụng có thai nhi nằm lửa không cháy mà thôi.

Nhóm thợ thiêu dùng câu móc bỏ vào đống lửa than hồng, rồi trở về nhà. Thai nhi như thỏi vàng (savaṇṇa-bimbasadiso) nằm trên đống lửa ấy, sinh-mạng an toàn như nằm trong bọc hoa sen. 

Thật vậy, kiếp chót của chúng-sinh chưa trở thành bậc Thánh-A-ra-hán, dù núi sineru đè cũng không thể chết được.

Sáng ngày hôm sau, bà con đến chỗ giàn hoả, lửa đều dập tắt, nhìn thấy đứa bé an toàn nằm trong đống tro tàn.

Thật là phi thường chưa từng có! Đứa bé nằm trên đống lửa mà không bị chết thiêu! Bà con vào ẵm đứa bé trở về nuôi dưỡng, đặt tên là Saṃkiccakumāra: Công tử Saṃkicca.

Khi Công tử Saṃkicca lên 7 tuổi biết đời sống khốn khổ của mình đã thoát chết như vậy, nên nghĩ rằng:

Ahaṃ kira evarūpā bhayā mutto, kiṃ me gharāvāsena pabbajissāmi.”

(Ta đã thoát nạn chết như vậy, ích lợi gì đời sống của người tại gia, tốt nhất ta sẽ xuất gia.)

Sau khi nghĩ như vậy, công tử Saṃkicca vào thưa những người bà con, xin đi xuất gia.

Tất cả bà con đều đồng nói lời “Sādhu!” Lành thay!

Những người bà con dẫn công tử Saṃkicca đến đảnh lễ Ngài Đại-Trưởng-lão Sāriputta, xin Ngài từ bi tế độ cho phép công tử Saṃkicca xuất gia với Ngài.

Ngài Đại-Trưởng-lão truyền dạy công tử Saṃkicca đề-mục Tacapañcakakammaṭṭhāna: đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka đó là kesā, lomā, nakkhā, dantā, taco,… - taco, dantā, nakkhā, lomā, kesā,…”theo chiều thuận, theo chiều nghịch, theo chiều thuận, nghịch.  

Công tử Saṃkicca thực-hành đề-mục-thiền-định nhóm Tacapañcaka ấy, trong khi đang làm lễ cạo tóc cho đến khi cạo tóc xong, công tử Saṃkicca chứng ngộ chân-lý tứ Thánh-đế, chứng đắc 4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn, trở thành bậc Thánh-A-ra-hán cùng với tứ-tuệ-phân-tích (paṭisambhidā) cùng một lúc, không trước không sau.

Công tử Saṃkicca trở thành bậc Thánh-A-ra-hán lúc Ngài lên 7 tuổi.

Vì vậy, nhóm Tacapañcaka này là đề-mục-thiền-định căn bản gốc theo tuyền thống trong nghi lễ cạo tóc để xuất gia sa-di từ xưa cho đến nay.

Đề-Mục Kāyagatāsati Trong Phật Giáo

Trong bộ Visuddhimagga dạy rằng: “Đề-mục-thiền-định: niệm 32 thể trọc này chỉ có trong Phật-giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật-giáo.   

Đức-Phật chỉ dạy phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati: niệm 32 thể trọc này mà thôi, ngoài Đức-Phật ra, không có vị đạo-sư nào có khả năng chỉ dạy phương-pháp thực-hành đề-mục-thiền-định kāyagatāsati này được.”

Trong Chi bộ kinh, Đức-Phật dạy rằng:

 “- Ekadhammo bhikkhave, bhāvito bahulīkato paññā-paṭilābhāya saṃvattati, paññāvuddhiyā saṃvattati, paññā-vepullāya saṃvattati, mahāpaññāya saṃvattati, puthu-paññatāya saṃvattati, vipulapaññatāya saṃvattati, gambhīrapaññatāya saṃvattati, asāmantapaññatāya saṃvattati, bhūripaññatāya saṃvattati, paññābāhullāya saṃvattati, sīghapaññatāya saṃvattati, lahupaññatāya saṃvattati, hāsapaññatāya saṃvattati, javanapaññatāya saṃvattati, tikkhapaññatāya saṃvattati, nibbedhika-paññatāya saṃvattati,

*Katamo ekadhammo? 

*Kāyagatā sati.

- Ayaṃ kho bhikkhave, ekadhammo bhāvito bahulīkato paññāpaṭilābhāya saṃvattati, paññāvuddhiyā saṃvattati, paññāvepullāya saṃvattati, mahāpaññāya saṃvattati, puthupaññatāya saṃvattati, vipulapaññatāya saṃvattati, gambhīrapaññatāya saṃvattati, asāmantapaññatāya saṃvattati, bhūripaññatāya saṃvattati, paññābāhullāya saṃvattati, sīghapaññatāya saṃvattati, lahupaññatāya saṃvattati, hāsapaññatāya saṃvattati, javanapaññatāya saṃvattati, tikkhapaññatāya saṃvattati, nibbedhika-paññatāya saṃvattati.”([17])

- Này chư Tỳ-khưu! Có một pháp-hành mà hành-giả đã thực-hành rồi, đã thường thực-hành trở nên thuần thục, để đạt được các loại trí-tuệ, để phát triển trí-tuệ, để tăng trưởng trí-tuệ, để có đại trí-tuệ, để có trí-tuệ vĩ đại, để có trí-tuệ rộng lớn, để có trí-tuệ sâu sắc, để có trí-tuệ vô song, để có trí-tuệ rộng lớn bao la, để có trí-tuệ nhiều, để có trí-tuệ nhanh nhạy, để có trí-tuệ mau lẹ, để có trí-tuệ hân hoan, để có trí-tuệ tiến triển, để có trí-tuệ sắc bén, để có trí-tuệ thấu suốt.

* Một pháp ấy là pháp gì?

* Một pháp ấy là “Kāyagatāsati.”

- Này chư Tỳ-khưu! Pháp-hành Kāyagatāsati này mà hành-giả đã thực-hành rồi, đã thực-hành nhiều rồi, để đạt được các loại trí-tuệ, để phát triển trí-tuệ, để tăng trưởng trí-tuệ, để có đại trí-tuệ, để có trí-tuệ vĩ đại, để có trí-tuệ rộng lớn, để có trí-tuệ sâu sắc, để có trí-tuệ vô song, để có trí-tuệ rộng lớn bao la, để có trí-tuệ nhiều, để có trí-tuệ nhanh nhạy, để có trí-tuệ mau lẹ, để có trí-tuệ hân hoan, để có trí-tuệ tiến triển, để có trí-tuệ sắc bén, để có trí-tuệ thấu suốt.

 (Xong đề-mục-thiền-định Kāyagatāsati)


[9] Mattaluṅgaṃ không có riêng, vì được ghép chung với aṭṭhimiñjaṃ. Về sau, tách mattaluṅgaṃ ra đặt sau karīsaṃ, cho đủ 32 thể trọc.

[10] Bộ Dī, Mahāvaggapāḷi, Mahāsatipaṭṭhānasutta, Paṭikūlamanasikārapabba

[11] Trình bày theo Bộ Sammohavinodanī aṭṭhakathāpāḷi, phần Satipaṭṭhāna-vibhaṅga.

[12] Sammohavinodanī aṭṭhakathā, Satipaṭṭhānavibhaṅga, Suttantabhājanīya

[13] Tóm lược tích Sīvalittheravatthu, trong Aṅg. aṭṭhakathā, Ekakanipātaṭṭhakathā

[14] Dhammapadaṭṭhakathā, tich Khadiravaniyarevatattheravatthu, Hoàng tử Sīvali ở trong lòng hoàng hậu Supavāsā suốt thời gian 7 năm 7 tháng 7 ngáy.

[15] Tóm lược tích Dabbattheravatthu, trong Aṅg. aṭṭhakathā, Ekakanipātaṭṭhakathā

[16] Bộ Dhammapadaṭṭhakathā, Tích Saṃkiccasāmaṇravatthu

[17] Aṅguttaranikāya, Ekakanipāta, Kāyagatāsativagga

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn