(Xem: 1763)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2230)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Thiền Vô sắc giới

02 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 17156)

7-4  Đề-Mục-Thiền Vô-Sắc-Giới (Āruppa)

Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới có 4 đề-mục, mà mỗi đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới riêng biệt mà thôi như sau: 

1- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhất gọi là ākāsapaññatti chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

2- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhì gọi là paṭhamāruppaviññāṇa chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ ba gọi là natthibhāvapaññatti chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusala-citta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm mà thôi.

  4- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ tư gọi là tatiyāruppaviññāṇa chỉ có thể dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm mà thôi.

Phương-Pháp Thực-Hành 4 Đề-Mục-Thiền-Định Vô-Sắc-Giới

Sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới xong, hành-giả có ý nguyện muốn tiếp tục chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới 

Ví dụ: Hành-giả đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất “pathavīkasiṇa xong, rồi tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định với 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.Hành-giả có 2 nhóm, mà mỗi nhóm suy xét khác nhau như sau:

* 1- Nhóm thứ nhất trong thời kỳ không có Phật giáo trên thế gian, những hành-giả sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất“pathavī-kasiṇa suy xét rằng:

  Các thứ bệnh hoạn ốm đau đều phát sinh từ sắc- thân này, sự đói khát cũng phát sinh từ sắc-thân này, thậm chí mọi sự tranh giành lẫn nhau cũng phát sinh từ sắc-thân này.

Vả lại, sắc-thân này vốn sinh từ máu huyết của cha mẹ, ô trọc (trược) đáng ghê tởm. Còn cõi trời vô-sắc-giới, chư phạm-thiên không có sắc-thân, chỉ có tâm mà thôi, mọi sự khổ thân là hoàn toàn không có, cho nên, chỉ có tâm an-lạc mà thôi.” 

Do suy xét như vậy, nên hành-giả phát sinh tâm nhàm chán sắc-thân này, chỉ mong muốn được tái sinh kiếp sau trên cõi trời vô-sắc-giới, không có sắc-thân mà thôi.

Hành-giả cảm thấy nhàm chán đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta: quang-ảnh-trong-sáng đề-mục-thiền-định đất của đệ ngũ thiền sắc-giới, hành-giả cố gắng tinh tấn tiếp tục thực-hành 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

* Nhóm thứ nhì trong thời kỳ có Phật giáo trên thế gian, những hành-giả nhóm này sau khi đã chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới với đề-mục-thiền-định đất pathavī-kasiṇa”, không suy xét thấy lỗi nào của sắc-thân cả, mà chỉ suy xét rằng: 

 “Định-tâm (ekaggatā) trong đệ ngũ thiền sắc-giới có ít năng lực, còn định-tâm trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới có nhiều năng lực và vô cùng vi tế, có khả năng luyện các phép-thần-thông (abhiññā) được; hoặc nếu là bậc Thánh Bất-lai (Anāgāmī) hoặc bậc Thánh-A-ra-hán (Arahanta) có khả năng nhập diệt-thọ-tưởng (nirodhasamāpatti) được.”

Do suy xét như vậy, nên hành-giả tiếp tục cố gắng tinh tấn thực-hành 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

7.1- Thiền Vô-Sắc-Giới Không-Vô-Biên-Xứ-Thiền

Để chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsā-nañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ-thiện-tâm,  hành-giả cả 2 nhóm đều bắt đầu thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm, rồi xả đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm ra, nếu thấy đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta: quang-ảnh-trong-sáng đề-mục-thiền-định đất của đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm nhỏ thì hành-giả nên khai triển rộng lớn bao nhiêu theo năng lực samādhi của mình.

Nếu thấy đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta lớn quá thì thâu nhỏ lại cho vừa cũng được.

Khi ấy, hành-giả thực-hành không quan tâm nhiều đến đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta màcó ý buông bỏ đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta, hướng định-tâm đến đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định để thay thế đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta với tâm nghĩ rằng:  “không có đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta mà chỉ có đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti” mà thôi, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 Ākāso ānanto, Ākāso ānanto, Ākāso ānanto,…” “Hư không vô biên, Hư không vô biên…”

Ākāso ānanto: Hư-không vô-biên.

* Ākāso nghĩa là Hư không không phải chân-nghĩa-pháp (paramatthadhamma) mà thuộc về chế-định-pháp (paññattidhamma), nên không có bắt đầu sự sinh, và cũng không có cuối cùng sự diệt,

 * Ānanto: vô-biên.

*Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.

Khi hành-giả (có đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm) thực-hành hướng tâm niệm tưởng Ākāso ānanto”(Hư-không vô-biên) như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm, không còn tham muốn trong đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm ấy nữa, khi ấy, tâm-hành của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm-hành cận bậc thiền vô sắc-giới, đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng Ākāso ānanto”(Hư-không vô-biên) như vậy, thì đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta của đệ ngũ thiền sắc-giới-thiện-tâm mất dần đi, đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti hiệnrõthay thế đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta ấy.

Ví dụ như người nhìn một cách chăm chú tấm vải màn che nơi cửa sổ, khi tấm vải bị gió thổi bay mất, chỉ còn nhìn khung cửa sổ trống không mà thôi.

Cũng như vậy, hành-giả buông bỏ đối-tượng pathavī-paṭibhāganimitta ra khỏi tâm, nhưng không giống như tấm vải bị gió thổi bay mất khỏi khung cửa, mà sự thật, hành-giả không còn quan tâm, không còn ham muốn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta nữa, mà chỉ ham thích định-tâm đến đề-mục hư-không chế-định ākāsa-paññatti mà thôi.

Nếu khi nào hành-giả có khả năng buông bỏ hẳn đối-tượng pathavīpaṭibhāganimitta khỏi tâm, thì ngay khi ấy đề-mục hư-không chế-định ākāsapaññatti liền phát sinh lên thay thế ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhất thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda,

tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([7]) upacāra, anuloma, gotrabhū, ākāsānañcāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhất thiền thiện-tâm đầu tiên.

Đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsā-nañcāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm.

Ākāsānañcāyatanakusalacitta có 3 tên

*Arūpajjhāna: Thiền vô-sắc-giới bởi vì, thiền-tâm này không có sắc, do đó gọi là arūpajjhāna.

*Ākāsānañcāyatanakusalacitta: Không-vô-biên-xứ thiện-tâm bởi vì, bậc thiền vô-sắc-giới này rất vững chắc, không lay chuyển phát sinh do đề-mục ākāsa-paññatti không có bắt đầu sự sinh, và cũng không có cuối cùng sự diệt, dođó gọi là Ākāsānañcāyatanakusalacitta.

* Paṭhamāruppajjhāna: Đệ nhất thiền vô-sắc-giới:bởi vì,bậc thiền vô-sắc-giới này có đề-mục ākāsa-paññatti: hư-không chế-định là bậc thiền vô-sắc-giới  phát sinh trước tiên trong 4 bậc thiền vô-sắc-giới, do đó gọi là Paṭhamāruppajjhāna.

7. 2- Thiền Vô-Sắc-Giới Thức-Vô-Biên-Xứ-Thiền

Sau khi đã chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ-thiện-tâm xong, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññāṇañcāyatana-kusalacitta: thức-vô-biên-xứ-thiện-tâm.

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, rồi xả đệ nhất thiền vô-sắc-giới thiện-tâm ra, suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta rằng:

 “Đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ ngũ thiền sắc-giới. Nếu không thường nhập đệ nhất thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ ngũ thiền sắc-giới như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới này là còn thô so sánh với định-tâm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññāṇañ-cāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm”.

Sau khi suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta như vậy, nên hành giả thực-hành làm cho đệ nhất thiền vô-sắc-giới  ākāsā-nañcāyatanakusalacitta này mất đi khỏi tâm của mình, bằng cách cố gắng buông bỏ đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định ấy đi, rồi trở lại cố gắng hướng tâm đến đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta làm đề-mục thay thế đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm  niệm tưởng rằng:

  Viññāṇaṃ anantaṃ, ... Viññāṇaṃ anantaṃ, ... Viññāṇaṃ anantaṃ,…. Thức-vô-biên, Thức-vô-biên, Thức-vô-biên,…”

* Viññāṇaṃ đó là đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsān-añcāyatanakusalacitta.

* Anantaṃ là vô-biên.

*Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Viññāṇaṃ anantaṃ: Thức-vô-biên” như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy nữa. Khi ấy, tâm-hành của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā:tâm-hành cận với đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatana-kusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm, đạt đến upacāra--samādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Viññāṇaṃ anantaṃ: Thức-vô-biên” như vậy, thì đề-mục ākāsapaññatti: hư-không chế-định mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục ākāsā-nañcāyatanakusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục ākāsa-paññatti ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm hành chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([8]) upacāra, anuloma, gotrabhū, viññānañcāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên.

Đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcā-yatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức- vô-biên-xứ thiện-tâm.

Vấn: Tại sao hành-giả suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, nhưng lại sử dụng đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsānañcā- yatanakusalacitta làm đề-mục-thiền-định của đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, viññānañcāyatanakusalacitta?

Đáp: Bởi vì, để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là viññānañcāyatanakusalacitta chỉ có đề-mục đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusala-citta mà thôi. Vì vậy, dù suy xét thấy nhược điểm của đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta, mà vẫn phải sử dụng làm đề-mục thiền vô-sắc-giới, để chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới thiện-tâm, viññā-nañcāyatanakusalacitta.

7. 3- Thiền Vô-Sắc-Giới Vô-Sở-Hữu-Xứ-Thiền

Sau khi đã chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới gọi là viññānañcāyatanakusalacitta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm xong, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusala-citta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới, rồi xả đệ nhị thiền vô-sắc-giới ra, suy xét thấy nhược điểm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta rằng:

 Đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta. Nếu không thường nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ nhất thiền vô-sắc-giới ākāsānañcāyatanakusalacitta như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới này là còn thô so với định-tâm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.”

Sau khi suy xét thấy nhược điểm của đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta như vậy, nên hành-giả thực-hành hướng tâm đến ākāsānañcāyatana-kusalacitta đã diệt rồi khỏi tâm của hành-giả một cách không còn dư sót nữa. Dù tối thiểu chỉ sát-na diệt của thiền-tâm ấy cũng không còn sót lại.

Hành-giả cố gắng tinh tấn hướng tâm ra khỏi đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy, rồi cố gắng tinh tấn hướng tâm đến đề-mục natthibhāvapaññatti xuất hiện thay thế đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ấy, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 Natthi kiñci, Natthi kiñci, Natthi kiñci,… Không còn gì cả, Không còn gì cả, ...”

 Natthi kiñci:” đó là ākāsānañcāyatanakusalacitta dù ít nhất 1 sát-na-tâm cũng không còn dư sót lại nữa, nghĩa là không nói đến upādakhaṇa: sát-na-sinh, ṭhīti-khaṇa: sát-na-trụ của ākāsānañcāyatanakusalacitta mà chỉ nói đến bhaṅgakhaṇa: sát-na-diệt của ākāsānañcā-yatanakusalacitta cũng không còn dư sót lại nữa. Cho nên gọi là “Natthi kiñci: Không còn gì cả”.

* Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi là parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.  

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Natthi kiñci” (Không còn gì cả) như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañ-cāyatanakusalacitta ấy nữa, khi ấy, tâm của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā:tâm-hành cận với đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Natthi kiñci” (Không còn gì cả) như vậy, thì đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục natthibhāvapaññatti hiện rõ thay thế đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ tam thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

 Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([9]) upacāra, anuloma, gotrabhū, ākiñcaññāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ nhị thiền thiện-tâm đầu tiên.

Đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm.

7.4-Thiền Vô-Sắc-Giới Phi-Tưởng-Phi-Phi-Tưởng-Xứ-Thiền

Sau khi đã chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm rồi, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện tâm.

Trước tiên, hành-giả thực-hành 5 pháp thuần-thục (vasībhāva) liên quan đến đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta có đầy đủ năng lực, cho đến giai đoạn chót, nhập đệ tam thiền vô-sắc-giới, rồi xả đệ tam thiền vô-sắc-giới ra, suy xét thấy nhược điểmrằng:

 Đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusala-citta này là bậc thiền vô-sắc-giới gần với đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta. Nếu không thường nhập đệ nhị thiền vô-sắc-giới này thì bậc thiền vô-sắc-giới này dễ bị mất, trở xuống đệ nhị thiền vô-sắc-giới viññānañcāyatanakusalacitta như trước. Hơn nữa định-tâm của đệ tam thiền vô-sắc-giới này là không thanh tịnh, không vi tế như định-tâm của đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm. 

Xét về saññā: tưởng, v.v… trong bậc thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta thật là vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế, cho nên đệ tứ thiền vô-sắc-giới này là bậc thiền vô-sắc-giới vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế bậc nhất.”

Khi suy xét thấy nhược điểm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta như vậy, để phát sinh tâm nhàm chán ākiñcaññāyatanakusalacitta. Thật ra, đệ tam thiền vô-sắc-giới cũng có vi tế, có vắng lặng, tuy không bằng đệ tứ thiền vô sắc, nhưng đệ tam thiền vô sắc, ākiñcaññāyatanakusalacitta có khả năng nhận biết được đề-mục natthibhāvapaññatti.

Khi suy xét như vậy, hành-giả tưởng đến ākiñcaññā-yatanakusalacitta đã diệt rồi không còn trong tâm của mình, bằng cách buông bỏ đề-mục natthibhāvapaññatti ấy, cố gắng tinh tấn hướng tâm trở lại ākiñcaññāyatana-kusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục natthibhāvapaññatti ấy, đồng thời parikammabhāvanā: tâm-hành ban đầu với dục-giới đại-thiện-tâm niệm tưởng rằng:

 Santametaṃ paṇītametaṃ, Santametaṃ paṇīta-metaṃ, Santametaṃ paṇītametaṃ, …” “Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế, Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,… ” 

 Santametaṃ paṇītametaṃ

* Santametaṃđó là ākiñcaññāyatanakusalacitta có định-tâm vô cùng thanh tịnh,

* Paṇītametaṃ: ākiñcaññāyatanakusalacitta có định-tâm vô cùng vi tế. 

* Định-tâm đồng sinh với dục-giới-đại-thiện-tâm gọi parikammasamādhi: sơ-định ban đầu thực-hành pháp- hành-thiền-định còn cách xa bậc thiền vô-sắc-giới.  

Khi hành-giả cố gắng tinh tấn thực-hành với tâm-hành niệm tưởng “Santametaṃ paṇītametaṃ”“Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,...” như vậy, cho đến khi nào tâm của hành-giả nhàm chán đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta, không còn tham muốn trong đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatana-kusalacitta ấy nữa, khi ấy, tâm của hành-giả tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm-hành cận với đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm, đạt đến upacārasamādhi: cận-định gần bậc thiền vô-sắc-giới.

Hành-giả tiếp tục thực-hành với tâm-hành niệm tưởng Santametaṃ paṇītametaṃ”“Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,…” như vậy, thì đề-mục natthi-bhāvapaññatti mất dần đi, rồi mất hẳn trong tâm khi nào, khi ấy, đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta hiện rõ thay thế đề-mục natthibhāvapaññatti ngay tức thì tiến triển đến appanābhāvanā: tâm-hành chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới-thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm đầu tiên phát sinh, có appanāsamādhi: an-định vững chắc trong vô-sắc-giới lộ-trình đệ tam thiền thiện-tâm đầu tiên, các tâm sinh rồi diệt theo tuần tự như sau:

  Bhavaṅgacitta, bhavaṅgacalana, bhavaṅgupaccheda, tiếp theo Manodvāravajjana, parikamma,([10]) upacāra, anuloma, gotrabhū, nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta (1 sát-na tâm), bhavaṅgacitta. chấm dứt vô-sắc-giới lộ-trình đệ tứ thiền thiện-tâm đầu tiên.

Đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññā-nāsaññāyatanakusalacitta có 2 chi thiền là upekkhā và ekaggatā.

Tiếp theo các lộ-trình-tâm quán-triệt (paccavekkhaṇa-vīthicitta) mỗi chi thiền là upekkhā, ekaggatā.

Như vậy, hành-giả đã chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta:phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

Vấn: Hành-giả suy xét thấy nhược điểm của đệ tam thiền vô-sắc-giới ākiñcaññāyatanakusalacitta, khi bắt đầu thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì hành-giả lại thấy ưu-điểm của đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta, nên tán dương ca tụng với tâm-hành niệm tưởng rằng:  

“Santametaṃ paṇītametaṃ, Bậc thiền ấy vô cùng thanh tịnh, vô cùng vi tế,…Bậc thiền ấy rất vắng lặng, rất vi tế,..” 

Tại sao hành-giả thực-hành như vậy ?

 Đáp: Để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì chỉ có đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta mà thôi. Cho nên, hành-giả dù chothấy nhược điểm của đề-mục ākiñcaññāyatana-kusalacitta, khi thực-hành để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta, thì hành-giả cũng phải thấy ưu-điểm của đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta, nên tán dương ca tụng với tâm-hành niệm tưởng rằng: “Santametaṃ paṇītametaṃ,..” không phải muốn nhập trở lại đệ tam thiền vô-sắc-giới ấy, mà sự thật, hành-giả chỉ muốn vượt lên trên đệ tam thiền vô-sắc-giới ấy mà thôi, để chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới thiện-tâm gọi là nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng-xứ thiện-tâm.

Thật vậy, ngoài đề-mục đệ tam thiền vô sắc, ākiñcañ-ñāyatanakusalacitta ra, không có đề-mục nào kháccó khả năng dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới, nevasaññānāsaññāyatanakusalacitta được.

Nhận Xét 5 Thiền Sắc-Giới Và 4 Thiền Vô Sắc-Giới

5 bậc thiền sắc-giới thấp hoặc cao căn cứ theo chi thiền như sau: 

1- Đệ nhất thiền sắc-giới có 5 chi thiền: vitakka, vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

2- Đệ nhị thiền sắc-giới có 4 chi thiền: vicāra, pīti, sukha, ekaggatā.

 3- Đệ tam thiền sắc-giới có 3 chi thiền: pīti, sukha, ekaggatā.

4- Đệ tứ thiền sắc-giới có 2 chi thiền: sukha, ekaggatā.

5- Đệ ngũ thiền sắc-giới có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā.

4 bậc thiền vô-sắc-giới đều có 2 chi thiền: upekkhā và ekaggatā giống nhau, nên 4 bậc thiền vô-sắc-giới thấp hoặc cao căn cứ cách thực-hành theo tuần tự mỗi đối-tượng riêng biệt của mỗi bậc thiền vô sắc-giới ấy. Bậc thiền vô-sắc-giới bậc trên vi tế hơn bậc thiền vô-sắc-giới bậc dưới theo tuần tự như sau:

1- Đệ nhất thiền vô sắc-giới gọi là ākāsānañcā- yatanakusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

2- Đệ nhị thiền vô sắc-giới gọi là viññānañcāyatana- kusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

3- Đệ tam thiền vô sắc-giới gọi là ākiñcaññāyatana-kusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

4- Đệ tứ thiền vô sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññā-yatanakusalacitta có 2 chi thiền: upekkhā ekaggatā.

Nhận Xét 40 Đề-Mục-Thiền-Định

Trong 40 đề-mục-thiền-định, một số đề-mục-thiền-định có trong Phật giáo và có ngoài Phật giáo. Song đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Phật, đề-mục niệm-niệm 6 ân-Đức-Pháp, đề-mục niệm-niệm 9 ân-Đức-Tăng, đề-mục niệm-niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (upasamānussati), đề-mục kāyagatāsati, đề-mục catudhātu-vavatthāna là những đề-mục-thiền-định chỉ có trong Phật giáo mà thôi, hoàn toàn không có ngoài Phật giáo.

 (Xong 40 đề-mục-thiền-định)

 


[7] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[8] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[9] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự .

[10] Nếu là tikkhapuggala thì không có parikamma, chỉ còn lại 3 phận sự

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn