(Xem: 1821)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2279)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Tính Của Hành giả

02 Tháng Chín 201412:00 SA(Xem: 12744)

Tính Của Hành-Giả

Pháp-hành-thiền-định có 40 đề-mục-thiền-định, hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, ban đầu nếu biết chọn được đề-mục-thiền-định phù hợp với tính (carita) của mình, rồi thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy thì rất thuận lợi, pháp-hành-thiền-định dễ dàng phát triển tốt, dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới, tuỳ theo mỗi đề-mục-thiền-định.

Trong bộ Visuddhimagga, bậc Tiền-bối phân chia tính của hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định có 6 loại tính gốc căn bản như sau:

1- Tính-tham (Rāgacarita),

2- Tính-sân (Dosacarita),

3- Tính-si (Mohacarita),

4- Tính-tín (Saddhācarita),

5- Tính-giác (Buddhicarita)

6- Tính-suy-diễn (Vitakkacarita). 

Thật ra, mỗi người có nhiều loại tính xen lẫn vào nhau, nhưng nếu người nào có tính nào thường hay phát sinh, dễ phát sinh hơn hết thì xem người ấy có tính ấy. 

Ví dụ: Nếu người nào thường hay phát sinh tâm tham, dễ phát sinh tâm tham trong các đối-tượng tốt đẹp đáng hài lòng thì xem người ấy có tính-tham (rāgacarita).

Cho nên, phân chia 6 loại tính gốc căn bản của hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định, cốt yếu phân loại 40 đề-mục-thiền-định, các đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính gốc căn bản của mỗi hành-giả. 

* Nếu hành-giả nào chọn đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính của mình thì hành-giả ấy thực-hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy rất thuận lợi, pháp-hành-thiền-định dễ dàng phát triển tốt.

* Nếu hành-giả nào chọn đề-mục-thiền-định nào không phù hợp với tính của mình thì hành-giả ấy thực- hành pháp-hành-thiền-định với đề-mục-thiền-định ấy không được thuận lợi, pháp-hành-thiền-định khó phát triển được.

Tính (Carita) của mỗi hành-giả là điều khó xác định chính xác, bởi vì mỗi người có nhiều loại tính. Cho nên mỗi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định chọn cho mình một đề-mục-thiền-định phù hợp với mình không phải là điều dễ dàng đâu! 

Tính gốc căn bản có 6 loại tính, nếu phân loại tính chi tiết thì có 2 nhóm tính:

1- Suddhacarita: Tính thuần là tính xấu hợp với tính xấu, tính tốt hợp với tính tốtcó 14 loại tính là rāgacarita, dosacarita, mohacarita, rāgadosacarita, rāgamoha-carita, dosamohacarita, rāgadosamohacarita, saddhā-carita, buddhicarita, vitakkacarita, saddhābuddhicarita, saddhāvitakkacarita, buddhivitakkacarita, saddhābuddhi-vitakkacarita.

2- Missakacarita: Tính tạp là tính xấu và tính tốt lẫn lộn với nhau có 49 loại tính là rāgasaddhācarita, rāga- buddhicarita, rāgavitakkacarita, rāgasaddhābuddhi-carita, rāgasaddhāvitakkacarita, v.v…

Để biết hành-giả nào thuộc loại tính nào nên thực-hành đề-mục-thiền-định nào cho phù hợp, thì chỉ có những bậc Thiền sư có phép-tha-tâm-thông (cetopariya-ñāṇa) mà thôi. Ngoài ra, không có một ai có khả năng biết được người khác thuộc loại tính nào.

Tuy nhiên, trong bộ Visuddhimagga, chư bậc Tiền-bối chỉ dạy căn cứ vào 5 điều để phân biệt tính của hành-giả thuộc loại tính nào trong 6 tính gốc căn bản bằng câu kệ rằng:

Iriyāpathato kiccā, bhojnā dassanādito.

Dhammappavattito ceva, cariyāyo vibhāvaye.([1])

Chư bậc thiện-trí biết phân biệt hành-giả có tính nào do căn cứ vào 5 điều là:

1- Iriyāpatha: Các oai nghi đi, đứng, ngồi, nằm, v.v…

2- Kicca: Công việc làm,

3- Bhojana: Các món ăn uống,

4- Dassanādi: Thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, v.v…

5- Dhammappavatti: Các pháp thường ngày.

1- Người Có Tính-Tham (Rāgacarita)

Người có tính-tham (Rāgacarita) là người dễ phát sinh tâm tham hơn các tâm khác, thường hay phát sinh tâm tham trở thành thói quen, nên gọi là người có tính- tham.

Người có tính tham thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi: Người có tính-tham (rāgacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi khoan thai nhẹ nhàng; khi đứng, khi ngồi nghiêm chỉnh đàng hoàng; khi nằm, nằm trên chỗ sạch sẽ, sang trọng, thân hình nằm đàng hoàng.

Khi bị đánh thức, từ từ thức dậy, trả lời như người còn ngáp ngủ, …

Các oai nghi phụ khác cử động cũng đàng hoàng.

* Trong chú giải Suttanipāta giải về tư thế đi của 4 hạng người:

* Người có tính-tham nhón bàn chân đi nhẹ nhàng,

* Người có tính-sân đi kéo bàn chân,

* Người có tính-si đi nhấn gót bàn chân,

* Bậc không còn mọi phiền-não đi đạp bàn chân bằng phẳng.

2- Các công việc: Người có tính-tham khi làm công việc nào đều cố gắng tận tụy trong công việc ấy cho được hoàn thành tốt đẹp, có tính mỹ thuật cao.

3- Các món ăn uống: Người có tính-tham thích dùng những món ăn ngon miệng, khi ngồi ăn đàng hoàng, ăn uống thong thả, không vội vàng, thường thích những món ngon vật lạ miệng.

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-tham, mắtthích nhìn thấy những hình ảnh, cảnh vật xinh đẹp; tai thích nghe những âm thanh, tiếng hát hay; mủi thích ngửi những mùi hương thơm tho ngào ngạt; lưỡi thích nếm những vị ngon bổ; thân thích xúc giác chỗ êm ấm sang trọng,...

 Người có tính-tham say mê trong các đối-tượng tốt, khi đối-tượng tốt ấy không còn nữa, cảm thấy tiếc.

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-tham thường phát sinh tâm tham được thể hiện là người xảo trá, người khoe khoang, người có ác tâm muốn làm ác, người muốn được người khác khen ngợi, tán dương ca tụng mình, người không hài lòng những gì mà mình đã có, … là người thích điểm trang những đồ trang sức quý giá, vv...

2- Người Có Tính-Tín (Saddhācarita)

Người có tính-tín (Saddhācarita) là người dễ phát sinh đức tin hơn các tính khác, thường hay phát sinh đức tin trở thành thói quen, nên gọi là là người có tính-tín. 

Người có tính-tín thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính-tín gần giống như người có tính-tham, nhưng chỉ có điều thứ 5 là các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính-tham như sau:

5- Các pháp thường ngày: Người có tính-tín hoàn toàn khác hẳn với người có tính tham.

Người có tính-tín là người trung thực, không xảo trá, không khoe khoang, v.v…

Người có tính-tín là người có đức tin trong sạch nơi Tam-bảo: Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, tin nghiệp và quả của nghiệp, thích tạo mọi phước-thiện, hoan hỷ làm phước-thiện bố-thí, có giới đức trong sạch, mong gần gũi thân cận với bậc thiện trí, mong nghe chánh-pháp của bậc thiện trí, có thiện-tâm cung kính, lễ bái cúng dường cha mẹ, thầy tổ, tôn kính những bậc đáng tôn kính.

 3- Người Có Tính-Sân (Dosacarita)

Người có tính-sân (Dosacarita) là người dễ phát sinh tâm sân hơn các tâm khác, thường phát sinh tâm sân trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-sân.

Người có tính-sân thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi: Người có tính-sân (dosacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi nặng nề, dở bàn chân lên, rồi đạp bàn chân xuống mau lẹ, dáng đi vội vã; khi đứng, khi ngồi không nghiêm chỉnh; khi nằm, nằm trên chỗ không sắp đặt gọn gàng, thân hình nằm không đàng hoàng.

Khi bị đánh thức, vội vàng thức dậy, trả lời như người bực bội,…

Các oai nghi phụ cử động không đàng hoàng.

2- Các công việc: Người có tính-sân khi làm công việc đều vội vàng, dù có hoàn thành cũng không tốt đẹp.

3- Các món ăn uống: Người có tính-sân dùng món ăn cốt đỡ đói, no bụng là đủ. Món ăn có vị mặn, vị đắng, vị cay. Khi ngồi ăn không đàng hoàng, ăn miếng đồ ăn lớn, ăn uống vội vàng, khi gặp món ăn không thích dễ phát sinh tâm sân cau có.

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính sân mắt nhìn thấy những hình ảnh xấu, cảnh vật xấu; tai nghe những âm thanh, tiếng hát không hay; mũi ngửi những mùi hôi hám; lưỡi nếm vị dở, thân xúc giác chỗ thô cứng, dù những đối-tượng ấy có xấu chút đỉnh, cũng phát sinh tâm sân bực bội.

Dù những đối-tượng ấy có phần tốt, cũng không quan tâm đến phần tốt ấy. Những đối-tượng ấy bị mất, cũng không luyến tiếc.

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-sân thường phát sinh tâm sân được thể hiện là người hay giận hờn, người hay thù hận, hay quên ơn người khác, người có tính ganh tị tài đức của người khác. 

4- Người Có Tính-Giác (Bodhicarita)

Người có tính-giác (Bodhicarita) là người dễ phát sinh trí-tuệ hơn các tính khác, thường phát sinh trí-tuệ trở thành thói quen, nên gọi là là người có tính-giác. 

Người có tính giác thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-giác gần giống như người có tính-sân, nhưng chỉ có điều thứ 5 là Các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính sân như sau: 5- Các pháp thường ngày: Người có tính-giác hoàn toàn khác hẳn với người có tính-sân.

Người có tính-giác người có đức-tính nhẫn-nại, không hay giận-hờn, không hay thù-hận, v.v…

Người có tính-giác là người dễ dạy, khi nghe người nào chỉ dạy đúng theo chánh-pháp, dù người ấy không phải là thầy, cha mẹ, thân quyến, bạn hữu,… cũng biết cung kính nghe và thực-hành theo lời dạy của người ấy. 

Người có tính-giác là người biết tìm đến bậc thiện-trí làm bạn, mà không phân biệt dòng dõi, giai cấp, già trẻ, là người có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ sự khổ sinh, lão, bệnh, tử, là người có sự tinh tấn trong mọi thiện-pháp, để làm duyên lành cho sự giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

 5- Người Có Tính-Si (Mohacarita)

Người có tính-si (Mohacarita) là người dễ phát sinh tâm si hơn các tâm khác, thường phát sinh tâm si trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-si.

Người có tính si thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi: Người có tính-si (mohacarita) trong 4 oai nghi như khi đi, bước đi dáng đi thẩn thờ như người mất trí, dở bàn chân lên, rồi đạp bàn chân xuống nặng gót chân; khi đứng, khi ngồi nghĩ lung tung như người mất trí; khi nằm, nằm trên chỗ không sắp đặt gọn gàng, thân hình nằm co quắp, phần đông thích nằm sấp.

Khi bị đánh thức, thức dậy chậm chạp, ngái ngủ, hoặc có trạng-thái ngáp ngủ,…

Các oai nghi phụ khác cử động chậm chạp.

2- Các công việc: Người có tính-si khi làm công việc nào tầm thường không kỹ càng, hoặc bỏ dở công việc, dù có hoàn thành công việc cũng không đạt yêu cầu.

3- Các món ăn uống: Người có tính-si dùng món ăn có vị không chắc chắn. Khi ngồi ăn không đàng hoàng, ăn miếng đồ ăn nhỏ, đồ ăn rơi rớt ra ngoài, vừa ăn vừa phóng tâm chuyện này chuyện kia.

4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác,Người có tính-si mắt nhìn thấy những hình ảnh đẹp hoặc xấu, cảnh vật đẹp hoặc xấu thế nào, cũng không biết. Nếu nghe người ta khen đẹp thì cũng khen đẹp theo, nếu nghe người ta chê xấu thì cũng chê xấu theo.

Cũng như vậy, khi tai nghe những âm thanh, khi mũi ngửi những mùi, khi lưỡi nếm vị, khi thân xúc giác chỗ cứng hoặc mềm, người có tính-si vẫn không nhận thức được tốt xấu. 

5- Các pháp thường ngày:Người có tính-si là người thường hay phát sinh tâm hoài-nghi các pháp, hoài-nghi nơi Đức-Phật, Đức-Pháp, Đức-Tăng, hoài-nghi nơi nghiệp và quả của nghiệp, là người thường hay nghĩ lung tung, phóng-tâm chuyện này, chuyện khác; là người thường hay buồn chán, buồn ngủ, hay có tính hối hận, đặc biệt là người khó dạy.

6- Người Có Tính-Suy-Diễn (Vitakkacarita)

Người có tính-suy-diễn (Vitakkacarita) là người dễ phát sinh tâm suy-diễn hơn các tính khác, thường suy- diễn trở thành thói quen, nên gọi là người có tính-suy- diễn. 

Người có tính-suy-diễn thường thể hiện ra 5 điều:

1- Các oai nghi, 2- Các công việc, 3- Các món ăn uống, 4- Khi thấy, nghe, ngửi, nếm, xúc giác, … Người có tính-suy-diễn gần giống như người có tính-si, nhưng chỉ có điều thứ 5 là các pháp thường ngày hoàn toàn khác hẳn với người có tính si như sau:

5- Các pháp thường ngày: Người có tính-suy-diễn hoàn toàn khác hẳn với người có tính-si.

Người có tính-suy-diễn hay nói nhiều, hay phóng-tâm, nói lung tung, là người thích chung chạ nhiều người, không thích bố-thí, giữ-giới, hành-thiền, tâm tính hay thay đổi, không vững tâm, khi thế này thế khác, ban đêm nghĩ thế này, đến ban ngày thay đổi thế khác, không biết nhận thức đúng sai.

Người có tính-suy-diễn là người hay nghĩ lung tung không có cơ sở.

Hành-Giả Với Tính

Bộ Visuddhimagga: Thanh Tịnh Đạo cũng dạy rằng:

“Sự phân biệt hành-giả có tính nào do căn cứ vào 5 điều đã trình bày không có trong Tam-Tạng Pāḷi, cũng không có trong các bộ Chú-giải Pāḷi (neva Pāḷiyaṃ na Aṭṭhakathāyaṃ āgataṃ), mà đó chỉ là 5 điều dạy của bậc Tiền-bối phân biệt hành-giả thuộc tính nào, rồi truyền dạy đề-mục-thiền-định cho phù hợp với tính của hành-giả mà thôi.”  

Tuy nhiên, căn cứ vào 5 điều ấy chỉ hỗ trợ một phần để xác định hành-giả bình thường thuộc tính nào mà thôi, nhưng thật ra, mỗi hành-giả không những chỉ có 1 tính gốc căn bản, mà còn có 2, 3, 4 tính khác lẫn lộn với nhau, cho nên căn cứ vào 5 điều ấy, để xác định hành-giả thuộc về tính nào là chưa đủ.

Hơn nữa, nếu hành-giả vốn là bậc thiện-trí, dù có tính xấu cũng có thể chế ngự tính xấu ấy không cho phát sinh do trí-tuệ sắc bén của vị ấy.

Cho nên, để biết rõ tính của hành-giả không phải việc dễ dàng. Vậy, chỉ có bậc chứng-đắc tha-tâm-thông (cetopariyañāṇa) mới có khả năng biết chính xác được tính của hành-giả mà thôi.

Nguyên Nhân Của Mỗi Tính

Phàm sinh ra làm người giống nhau, mà mỗi người mỗi tính khác nhau, thậm chí anh em, chị em, sinh đôi cùng cha mẹ, nhưng tính cũng hoàn toàn khác nhau.

Vấn: Do nguyên nhân nào mà mỗi người có tính khác nhau như vậy?

Đáp: Theo Phật giáo, mỗi chúng-sinh đều do nghiệp riêng của họ (sabbe sattā kammassakā), thì mỗi người cũng có nghiệp riêng của mỗi người, cũng có quả của nghiệp riêng mỗi người, cho nên mỗi người có mỗi tính khác nhau.

Vấn: Do nguyên nhân nào mà mỗi người có tính khác nhau vậy?

Đáp: * Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ- giới, thực-hành pháp-hành thiền, v.v…rồi phát sinh tâm tham-ái mong ước được giàu sang phú quý, danh thơm tiếng tốt, chức trọng quyền cao, quả báu cõi người, quả báu cõi trời,…

* Phát sinh tâm ngã-mạn tự cho mình cao thượng hơn người, hoặc bằng người, hoặc thấp hơn người,…,

* Phát sinh tâm tà-kiến  chấp ngã,…

Khi người ấy đã tạo phước-thiện ấy, rồi tâm tham-ái, tâm ngã-mạn, tâm tà-kiến phát sinh nương nhờ nơi phước-thiện ấy.

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-tham (rāgacarita).  

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ giới, thực-hành pháp-hành thiền, rồi phát sinh tâm sân, hối tiếc, ganh tị, keo kiệt, bỏn xỉn, bực bội một điều nào đó. Phước-thiện ấy bị ô nhiễm bởi phiền-não tâm sân, hối tiếc, ganh tị, keo kiệt, bực bội, …

 Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-sân (dosacarita).

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới mà không hiểu biết về phước-thiện của mình đã tạo, chỉ làm theo phong tục, theo người khác, hoặc phát sinh tâm hoài nghi trong sự bố-thí, sự giữ-giới, hoặc phát sinh phóng-tâm chuyện khác, không quan tâm hoan hỷ đến phước-thiện của mình đã tạo.

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-si (mohacarita).

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, rồi phát sinh đức-tin trong sạch nơi nghiệp và quả của nghiệp, nơi Đức-Phật-Bảo, Đức-Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo, Tam-Bảo. 

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-tín (saddhācarita).  

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, rồi phát sinh trí-tuệ biết rõ nghiệp là của riêng mình (kammassakatāñāṇa), trí-tuệ-thiền-tuệ (vipassanāñāṇa) thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp, thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã của danh-pháp, sắc-pháp,…

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-giác (buddhicarita) 

* Người nào khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành thiền, rồi phát sinh tâm tham nghĩ trong ngũ-dục (kāmavitakka) hoặc nghĩ đến làm khổ chúng-sinh khác (byāpādavitakka) hoặc nghĩ đến làm hại chúng-sinh khác ( vihiṃsāvitakka).

Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-suy-diễn (vitakkacarita).

Tóm lại, mọi người có tính (carita) khác nhau: tính tốt, tính xấu đều do từ thiện-nghiệp đã tạo trong kiếp quá-khứ của họ, có liên quan đến thiện-tâm hoặc ác-tâm của họ suy nghĩ làm ảnh hưởng trực tiếp đến thiện-nghiệp ấy cho quả tái sinh làm người trong kiếp hiện-tại.

Đó là nguyên nhân khiến cho mọi người có các tính khác nhau.

Như vậy, nếu mỗi người muốn cho mình có tính-giác buddhicarita trong kiếp vị-lai, thì ngay trong kiếp hiện-tại khi tạo phước-thiện bố-thí, giữ-giới, thực-hành pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ, nên có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ nghiệp là của riêng mình, trí-tuệ thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ sự sinh, sự diệt của danh-pháp, sắc-pháp; trí-tuệ-thiền-tuệ thấy rõ, biết rõ trạng-thái-vô-thường, trạng-thái-khổ, trạng-thái-vô-ngã, … 

 Đó là nguyên nhân mà người ấy trở thành người có tính-giác (buddhicarita) trong kiếp vị-lai.

Kiếp hiện-tại được sinh làm người, gặp được Phật- giáo đang còn tồn tại trên thế gian, đó thật là điều diễm phúc vô cùng hy hữu.

Vậy, chúng ta không nên bỏ lở cơ hội tốt, nên cố gắng tinh tấn tạo mọi thiện-pháp nhất là pháp-hành-thiền-tuệ, các pháp-hạnh Ba-la-mật cho sớm được đầy đủ, để mong giải thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.

Tính Của Hành-Giả Với Đề-Mục-Thiền-Định.

Hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định có 6 loại tính là: tính-tham, tính-sân, tính-si, tính-tín, tính-giác, tính-suy-diễn. Trong 6 loại tính này chia ra làm 2 loại:

1- Tính-tham, tính-sân, tính-si, tính-suy-diễn, 4 loại tính này thuộc loại tính xấu. Hành-giả có loại tính xấu nào cần phải biết tránh đề-mục-thiền-định nào không phù hợp với tính của mình, và biết chọn sử dụng đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được phát triển tốt dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới.

2- Tính-tín, tính-giác, 2 loại tính này thuộc loại tính tốt. Hành-giả có loại tính tốt này cần phải biết sử dụng đề-mục-thiền-định phù hợp với tính của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được phát triển tốt dẫn đến chứng đắc các bậc thiền sắc-giới.

- Tính-tham (Rāgacarita):

* Hành-giả có tính-tham hài lòng trong các đối-tượng đáng hài lòng, nên tránh 8 đề-mục-thiền-định này:

- 4 đề-mục: Tứ vô lượng tâm,  

- 4 đề-mục màu sắc kasiṇa (màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng).

Nếu hành-giả có tính-tham mà sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm tham càng tăng trưởng, pháp-hành-thiền-định không thể phát triển.

Vì vậy, 8 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-tham.

* Hành-giả có tính-tham nên sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này: 

- 10 đề-mục bất tịnh,  

- 1 đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân. 

Nếu hành-giả có tính-tham sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm tham không cho phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-tham.

- Tính-sân (Dosacarita):

* Hành-giả có tính-sân không hài lòng trong các đối-tượng không đáng hài lòng,nên tránh 11 đề-mục-thiền-định này:

- 10 đề-mục bất tịnh,  

- 1 đề-mục niệm 32 thể trược trong thân. 

Nếu hành-giả có tính-sân sử dụng 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm sân càng tăng trưởng, pháp-hành-thiền-định không thể phát triển.

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-sân.

* Hành-giả có tính-sân nên sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này: 

 - 4 đề-mục: Tứ vô lượng tâm,  

 - 4 đề-mục màu sắc kasiṇa (màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng).

Nếu hành-giả có tính-sân sử dụng 8 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm sân không cho phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

Vì vậy, 8 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính sân. 

-Tính-si (Mohacarita) và Tính-suy-diễn (Vitakkacarita)

* Hành-giả có tính-si thường phát sinh tâm si không hiểu biết rõ các thật-tánh của các pháp, tâm hoài-nghi trong chánh-pháp, hay phóng-tâm nghĩ chuyện này chuyện kia, và hành-giả có tính-suy-diễn đủ điều, nói năng lung tung đủ chuyện, nên tránh 4 đề-mục-thiền-định này:

- Đề-mục niệm về sự chết,  

- Đề-mục niệm trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn,

- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm,,

- Đề-mục phân tích tứ-đại.

Nếu hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn mà sử dụng 4 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì tâm si càng thêm tối tăm, và tâm suy-diễn càng thêm phóng-tâm nhiều, pháp- hành-thiền-định không thể phát triển.

Vì vậy, 4 đề-mục-thiền-định này không phù hợp đối với hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn.

* Hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn nên sử dụng đề-mục niệm hơi thở vào, hơi thở ra rõ ràng không có gì đáng hoài-nghi.

Nếu hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn sử dụng đề-mục-thiền-định niệm hơi thở vào, hơi thở ra này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì chế ngự được tâm-si hoặc tâm suy-diễn không phát sinh, pháp-hành-thiền-định được phát triển.

Vì vậy, đề-mục-thiền-định niệm hơi thở vào, hơi thở ra này phù hợp đối với hành-giả có tính-si và hành-giả có tính-suy-diễn. 

- Tính-tín (Saddhācarita):

* Hành-giả có tính-tín thường có đức tin trong sạch nơi Đức-Phật-Bảo, Đức-Pháp-Bảo, Đức-Tăng-Bảo, có giới trong sạch, tin nghiệp và quả của nghiệp, nên phù hợp với 6 đề-mục-thiền-định này:

1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật, 

2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp, 

3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-đức-Tăng, 

4- Đề-mục niệm-niệm về giới trong sạch của mình, 

5- Đề-mục niệm-niệm về sự bố-thí của mình,

6- Đề-mục niệm-niệm về 5 pháp chư-thiên có nơi mình.

Nếu hành-giả có tính-tín sử dụng 6 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đức tin càng thêm tăng trưởng, nên pháp-hành-thiền-định được phát triển.

Vì vậy, 6 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-tín.

 - Tính giác (Bodhicarita):

* Hành-giả có tính-giác có trí-tuệ thấy rõ, biết rõ thật-tánh của các pháp, trí-tuệ có khả năng hiểu biết rõ các pháp vi tế, nên phù hợp với 4 đề-mục-thiền-định này:

- Đề-mục niệm về sự chết,

- Đề-mục niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn, 

- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm,

- Đề-mục phân tích tứ-đại.

Nếu hành-giả có tính-giác sử dụng 4 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì trí-tuệ càng thêm tăng trưởng, nên pháp-hành-thiền-định được phát triển.

Vì vậy, 4 đề-mục-thiền-định này phù hợp đối với hành-giả có tính-giác.

6 Tính Đều Phù Hợp Các Đề-Mục-Thiền-Định

Hành-giả có bất cứ tính nào trong 6 tính cũng đều phù hợp với 10 đề-mục-thiền-định này là:

- 4 đề-mục kasiṇa đất, nước, lửa, gió,

- Đề-mục hư không ākāsakasiṇa, 

- Đề-mục ánh sáng ālokakasiṇa, 

- 4 đề-mục thiền-vô-sắc. 

Hành-giả có bất cứ tính nào đều có thể sử dụng 10 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định đều có thể chế ngự được mọi phiền-não bậc trung là 5 pháp-chướng-ngại (nīvaraṇa), chứng đắc 5 bậc thiền sắc-giới, 4 bậc thiền vô-sắc-giới.

Đặc biệt, đối với hành-giả có tính-si, nếu sử dụng đề- mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa)…. làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục đấtđường kính lớn rộng hơn bình thường, làm cho tâm trí hành-giả không cảm thấy khó chịu, để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất  được dễ dàng.

Và đối với hành-giả có tính-suy-diễn, nếu sử dụng đề-mục-thiền-định đất (pathavīkasiṇa)…. làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục-thiền-định đất đường kính nhỏ hẹp hơn bình thường, làm cho tâm trí hành-giả không phóng-tâm nghĩ ngợi, để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất dễ dàng.

Đối với hành-giả có tính-tham, tính-sân, tính-tín, tính-giác, nếu sử dụng đề-mục-thiền-định đất làm đối-tượng, để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì nên làm đề-mục-thiền-định đất…. đường kính trung bình 1 gang và 4 lóng tay nằm ngang để cho định-tâm an trú trong đề-mục-thiền-định đất được dễ dàng.

Tóm lại, sự phân loại đề-mục-thiền-định phù hợp với tính của mỗi hành-giả thực-hành pháp-hành-thiền-định như đã trình bày, chỉ cốt yếu cho hành-giả hiểu biết đề-mục-thiền-định nào phù hợp với tính nào và không phù hợp với tính nào mà thôi. Nếu hành-giả có tính xấu nào thì nên sử dụng đề-mục-thiền-định chế ngự được tính xấu ấy của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được dễ dàng phát triển.

Nếu hành-giả có tính tốt nào thì nên sử dụng đề-mục-thiền-định phù hợp với tính tốt ấy của mình, để cho pháp-hành-thiền-định được dễ dàng tăng trưởng. 

Thật ra, trong 40 đề-mục-thiền-định, đề-mục nào cũng có khả năng chế ngự được tính xấutính-tham, tính- sân, tính-si, tính-suy-diễn được, và hỗ trợ tính tốttính- tín, tính-giác thực-hành pháp-hành-thiền-định được phát triển và thêm tăng trưởng.

Phân Loại 40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo Cõi (Bhūmi)

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo các cõi như sau:

* Trong cõi người, có đủ 40 đề-mục-thiền-định.

* Trong 6 cõi trời dục-giới, có 28 đề-mục-thiền-định, (trừ 10 đề-mục asubha + 1 đề-mục kāyagatāsati + 1 đề-mục āhārepaṭikūlasaññā), bởi vì, chư-thiên chết rồi, sắc-thân tiêu mất ví như ngọn đèn tắt; sắc-thân của chư-thiên có tóc, lông, móng, v.v… thật là xinh đẹp, nên không thấy đáng ghê tởm gì cả; vật thực của chư-thiên phát sinh do phước-thiện, không vất vả tìm kiếm, khi hưởng xong, không có thải ra chất dơ.

Vì vậy, 12 đề-mục-thiền-định này không có trong cõi trời dục-giới.

Tuy nhiên, một số chư-thiên trong cõi trời tứ-Đại- thiên-vương bậc thấp (bhūmadevatā) sống cùng chung trong cõi người, hạng chư-thiên này sau khi chết cũng để lại tử-thi; sắc-thân, vật-thực cũng là đáng ghê tởm như loài người.

* Trong 15 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên, có 27 đề-mục-thiền-định, (trừ 10 đề-mục asubha +1 đề-mục kāya-gatāsati + 1 đề-mục anāpānassati + 1 đề-mục āhāre-paṭikūlasaññā), bởi vì, 10 đề-mục asubha + 1 đề-mục kāyagatāsati giống như 5 cõi trời dục-giới tầng cao; chư phạm-thiên trong cõi trời sắc-giới không có hơi thở vào-hơi thở ra; không hưởng vật thực. 

Vì vậy, 13 đề-mục-thiền-định này không có trong 15 cõi trời sắc-giới Phạm-thiên.

* Trong 4 cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên như sau:

1- Tầng thứ nhất cõi trời vô-sắc-giới Phạm-thiên, có đủ 4 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới.

2- Tầng thứ nhì cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 3 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới mà thôi. (trừ đề-mục ākāsapaññatti).

3- Tầng thứ ba cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 2 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới mà thôi. (trừ đề-mục ākāsa-paññatti và đề-mục ākāsanañcāyatanakusalacitta).

4- Tầng thứ tư cõi trời vô-sắc-giới phạm-thiên, chỉ có 1 đề-mục-thiền-vô-sắc-giới là ākiñcaññāyatanakusala-citta mà thôi.

40 Đề-Mục-Thiền-Định Phân Loại Theo 

Paññattidhamma Và Paramatthadhamma

40 đề-mục-thiền-định này phân loại theo chế-định-pháp (paññattidhamma) và chân-nghĩa-pháp (paramattha-dhamma) như sau: 

* Paññattidhamma (chế-định-pháp) có 28 đề-mục:

- 10 đề-mục kasiṇa

- 10 đề-mục asubha

- 1 đề-mục koṭṭhāsapaññatti là đối-tượng của đề-mục kāyagatāsati,

- 1 đề-mục assāsapassāsapaññatti là đối-tượng của đề-mục ānāpānassati,

- 4 đề-mục sattapaññatti là 4 đối-tượng của đề-mục appamaññā,

- 1 đề-mục ākāsapaññatti là đối-tượng của đệ nhất thiền vô-sắc-giới, ākāsanancāyatanakusalacitta, 

- 1 đề-mục natthibhāvapaññatti là đối-tượng của đệ tam thiền vô-sắc-giới, ākiñcaññāyatanakusalacitta.

* Paramatthadhamma có 12 đề-mục:

- 8 Đề-mục anussati (trừ đề-mục kāyagatāsati + đề-mục ānāpānassati)

- 1 Đề-mục āhārepaṭikūlasaññā,

- 1 Đề-mục catudhātuvavatthāna

- 1 Đề-mục ākāsanancāyatanakusalacitta là đối-tượng của đệ nhị thiền vô-sắc-giới, viññānañcāyatanakusalacitta,

- 1 Đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta là đối-tượng của đệ tứ thiền vô-sắc-giới, nevasaññānāsaññāyatana-kusalacitta.

40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo 3 Nimitta

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo 3 loại nimitta như sau: 

1- Parikammanimitta: Đối-tượng đề-mục-thiền-định ban đầu thực-hành pháp-hành-thiền-định,

2- Uggahanimitta: Đối-tượng thô-ảnh-tương-tự như đề-mục-thiền-định phát sinh rõ ràng trong tâm,

3- Paṭibhāganimitta: Đối-tượng quang-ảnh-trong-sáng phát sinh rõ ràng trong tâm.

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo nimitta:

* Parikammanimitta và Uggahanimitta trực tiếp có 22 đề-mục-thiền-định: 

- 4 đề-mục tứ-đại kasiṇa,

- 4 đề-mục màu sắc vaṇṇakasiṇa,

- 1 đề-mục Ākāsakasiṇa,

- 1 đề-mục Ālokakasiṇa,

- 10 đề-mục asubha,

- 1 đề-mục Kāyagatāsati,

- 1 đề-mục Ānāpānassati.

* Parikammanimitta và Uggahanimitta gián tiếp có 18 đề-mục-thiền-định:

- 6 đề-mục anussati,

- 1 đề-mục upasamānussati,

- 1 đề-mục maraṇānussati,

- 4 đề-mục tứ vô-lượng-tâm,

- 1 đề-mục āhārepaṭikkūlasaññā,

- 1 đề-mục catudhātuvavatthāna,

- 4 đề-mục thiền vô-sắc-giới.

* Paṭibhāganimitta trực tiếp có 22 đề-mục-thiền-định như Parikammanimitta và Uggahanimitta.

* Paṭibhāganimitta gián tiếp có 8 đề-mục-thiền-định:

- 4 đề-mục tứ vô-lượng-tâm,

- 4 đề-mục thiền vô-sắc-giới.

* Paṭibhāganimitta gồm có 30 đề-mục-thiền-định.

40 Đề-Mục-Thiền-Định Theo 3 Bhāvanā, 3 Samādhi

40 đề-mục-thiền-định phân loại theo khả năng tiến triển đến bhāvanā, samādhi như sau:

Bhāvanā có 3 loại:

1- Parikammabhāvanā: Tâm sơ-hành giai đoạn đầu với dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng parikammanimitta, parikammasamādhi:tâm sơ-định trong dục-giới đại-thiện-tâm ấy. 

2- Upacārabhāvanā: Tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm có đối-tượng uggahanimitta gần bậc thiền, đạt đến upacārasamādhi:tâm cận-định trong dục-giới đại-thiện-tâm ấy. 

3- Appanābhāvanā: Tâm an-hành giai đoạn cuối với sắc-giới-tâm hoặc vô-sắc-giới-tâm có đối-tượng paṭi-bhāganimitta, chứng đắc bậc thiền sắc-giới hoặc vô-sắc-giới, đạt đến appanāsamādhi: tâm an-định trong bậc thiền sắc-giới-thiện-tâm hoặc bậc thiền vô-sắc-giới- thiện-tâm ấy. 

1- Parikammabhāvanā, Parikammasamādhi

* Tất cả 40 đề-mục-thiền-định đều có parikamma- bhāvanā: Tâm sơ-hành giai đoạn đầu với dục-giới đại-thiện-tâm 40 đối-tượng parikammanimitta, có parikam-

masamādhi: tâm sơ-định.

Nếu không có parikammabhāvanā thì không có upacārabhāvanā appanābhāvanā.

2- Upacārabhāvanā, Upacārasamādhi

Trong 40 đề-mục-thiền-định, có 10 đề-mục-thiền-định tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm có 10 đối-tượng uggaha-nimitta gián tiếp, đạt đến upacārasamādhi: tâm cận-định, có 10 đề-mục-thiền-định là:

1- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Phật (Buddhānussati),

2- Đề-mục niệm-niệm 6 Ân-Đức-Pháp (Dhammānussati),

3- Đề-mục niệm-niệm 9 Ân-Đức-Tăng (Saṃghānussati), 

4- Đề-mục niệm-niệm về giới trong sạch của mình (Sīlānussati) 

5- Đề-mục niệm-niệm về sự bố-thí của mình (Cāgānussati),

6- Đề-mục niệm-niệm về 5 pháp Chư-thiên có nơi mình (Devatānussati)

7- Đề-mục niêm-niệm về trạng-thái tịch tịnh an-lạc Niết-bàn (Upasamānussati),

8- Đề-mục niệm-niệm về sự chết (Maraṇānussati),

9- Đề-mục vật thực đáng ghê tởm (Āhārepaṭikkūlasaññā),

10- Đề-mục phân tích tứ-đại (catudhātuvavatthāna).

 Bởi vì 10 đề-mục-thiền-định này là những đề-mục-thiền-định vô cùng vi tế, vô cùng sâu sắc, rộng lớn mênh mông bao la, nên định-tâm không thể an-trú trong một đối-tượng nào nhất định. Cho nên, 10 đề-mục-thiền-định này chỉ có khả năng tiến triển đến upacārabhāvanā: tâm cận-hành giai đoạn giữa với dục-giới đại-thiện-tâm, đạt đến upcārasamādhi: tâm cận-định thôi. 

3- Appanābhāvanā,  Appanāsamādhi

* 30 đề-mục-thiền-định còn lại là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa), 10 đề-mục-thiền-định tử-thi (asubha), 1 đề-mục-thiền-định niệm 32 thể trọc trong thân (kāya-gatāsati), 1 đề-mục-thiền-định hơi thở vào, hơi thở ra (ānāpānassati), 4 đề-mục-thiền-định tứ vô-lượng-tâm (appamaññā), 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới (āruppa) gồm 30 đề-mục-thiền-định này đều có khả năng tiến triển đến appanābhāvanā: tâm an-hành giai đoạn cuối với sắc-giới-tâm, hoặc vô-sắc-giới-tâm, 30 đối-tượng paṭibhāga-nimitta, đạt đến appanāsamādhi: tâm an-định chứng đắc bậc thiền sắc-giới-tâm hoặc bậc thiền vô-sắc-giới-tâm.

Chứng đắc bậc thiền sắc-giới-tâm nào hoặc bậc thiền vô-sắc-giới-tâm nào, tùy theo mỗi đề-mục-thiền-định ấy.

30 Đề-Mục-Thiền-Định Phân Loại Theo Bậc Thiền

Trong 30 đề-mục-thiền-định này là 10 đề-mục hình tròn (kasiṇa), 10 đề-mục tử-thi (asubha), 1 đề-mục niệm 32 thể trọc (trược) trong thân (kāyagatāsati), 1 đề-mục hơi thở vào - hơi thở ra (ānāpānassati), 4 đề-mục tứ vô- lượng-tâm (appamaññā), 4 đề-mục vô-sắc-giới (āruppa) mà mỗi đề-mục-thiền-định này có khả năng dẫn đến chứng đắc bậc thiền sắc-giới, bậc thiền vô-sắc-giới khác nhau như sau: 

Đệ Nhất Thiền Sắc-giới

* 11 đề-mục-thiền-định là 10 đề-mục-thiền-định tử-thi (asubha), 1 đề-mục niệm 32 thể trược trong thân (kāya-gatāsati) chỉ có khả năng chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi.

Nếu hành-giả chọn 1 trong 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định ấy chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi, bởi vì 11 đề-mục-thiền-định này là đối-tượng thô, nên luôn luôn cần phải nương nhờ chi-thiền hướng-tâm (vitakka) đến đề-mục-thiền-định ấy mới có thể chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm được. Còn từ đệ nhị thiền sắc-giới-tâm trở lên không có chi-thiền hướng-tâm (vitakka) nữa.

Vì vậy, 11 đề-mục-thiền-định này chỉ có thể chứng đắc đệ nhất thiền sắc-giới-tâm mà thôi.

4 Thiền Sắc-Giới Bậc Thấp

* 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ (mettā), niệm rải tâm-bi (karuṇā), niệm rải tâm-hỷ (muditā) đến chúng-sinh vô lượng có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới-tâm mà thôi. 

Nếu hành-giả chọn 1 trong 3 đề-mục-thiền-định vô- lượng-tâm này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định vô-lượng-tâm ấy chỉ có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ tứ thiền sắc-giới-tâm mà thôi, không thể chứngđắc đến đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm được, bởi vì3 đề-mục-thiền-định vô-lượng-tâm này luôn luôn cần phải chi-thiền lạc (sukha), mà đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm cần phải có chi-thiền xả (upekkhā) thay thế cho chi-thiền lạc.

Cho nên, muốn chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm, hành-giả cần phải thay đổi sang đề-mục vô-lượng-tâm niệm rải tâm-xả (upekkhā) đến chúng-sinh vô lượng mà thôi, không thể có đề-mục-thiền-định nào khác. 

Đệ Ngũ Thiền Sắc-giới

Đề-mục-thiền-định niệm rải tâm-xả (upekkhā) đến chúng-sinh vô lượng majjhattasattapaññatti không thương không ghét này chỉ có khả năng chứng đắc đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm mà thôi, nên đề-mục-thiền-định này hành-giả không thể sử dụng bắt đầu thực-hành, mà chỉ sử dụng sau khi đã chứng đắc đệ tứ thiền sắc-giới-tâm của 1 trong 3 đề-mục-thiền-định là niệm rải tâm-từ (mettā), hoặc niệm rải tâm-bi (karuṇā), hoặc niệm rải tâm-hỷ (muditā) đến chúng-sinh vô lượng mà thôi, bởi vì 4 đề-mục-thiền-định tứ vô-lượng-tâm này cùng có đối-tượng chúng-sinh (sattapaññatti) giống nhau, chỉ có khác loại chúng-sinh mà thôi.

5 Bậc Thiền Sắc-giới

* 11 đề-mục-thiền-định là 10 đề-mục-thiền-định (kasiṇa)đề-mục-thiền-định hơi thở vào - hơi thở ra (ānāpānassati) có khả năng dẫn đến chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới-tâm.

Nếu hành-giả chọn 1 trong 11 đề-mục-thiền-định này làm đối-tượng để thực-hành pháp-hành-thiền-định thì đề-mục-thiền-định ấy đều có khả năng dẫn đến chứng đắc từ đệ nhất thiền sắc-giới-tâm cho đến đệ ngũ thiền sắc-giới-tâm mà không cần phải thay đổi đề-mục-thiền-định khác.

4 Bậc Thiền Vô-sắc-giới 

Sau khi đã chứng đắc đầy đủ 5 bậc thiền sắc-giới-tâm, hành-giả muốn tiếp tục thực-hành pháp-hành-thiền-định, để chứng đắc 4 bậc thiền vô-sắc-giới-tâm.

Mỗi đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới chỉ có khả năng chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới-tâm riêng biệt mà thôi như sau:

1- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhất là đề-mục ākāsapaññatti chỉ dấn đến chứng đắc đệ nhất thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là ākāsānañcāyatanakusalacitta: không-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

2- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ nhì là đề-mục ākāsānañcāyatanakusalacitta chỉ dẫn đến chứng đắc đệ nhị thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là viññāṇañcāyatanakusala-citta: thức-vô-biên-xứ thiện-tâm mà thôi.

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ ba là đề-mục natthibhāvapaññatti chỉ dẫn đến chứng đắc đệ tam thiền vô-sắc-giới-tâm gọi là ākiñcaññāyatanakusalacitta: vô-sở-hữu-xứ thiện-tâm mà thôi.

4- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới thứ tư là đề-mục ākiñcaññāyatanakusalacitta chỉ dẫn đến chứng đắc đệ tứ thiền vô-sắc-giới gọi là nevasaññānāsaññāyatanakusala-citta: phi-tưởng-phi-phi-tưởng xứ thiện-tâm mà thôi.

Đó là 4 đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới mà mỗi đề-mục riêng biệt làm đối-tượng có khả năng dẫn đến chứng đắc mỗi bậc thiền vô-sắc-giới-tâm riêng biệt. 

Như vậy, pháp-hành-thiền-định có 40 đề-mục-thiền-định chia ra làm 3 loại:

1- Đề-mục-thiền-định dẫn đến cận-định (upacāra-samādhi) có 10 đề-mục, vẫn còn dục-giới đại-thiện-tâm.

2- Đề-mục-thiền-định dẫn đến an-định (appanā-samādhi) có 26 đề-mục, chứng đắc các bậc thiền sắc-giới-tâm.

3- Đề-mục-thiền-định vô-sắc-giới dẫn đến an-định (appanāsamādhi) có 4 đề-mục


[1] Visuddhimagga, Kammaṭṭhānaggahaṇanidesa, Cariyāvaṇṇanā

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn