(Xem: 1764)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2231)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

-Tác giả và các cộng tác viên

21 Tháng Sáu 201312:00 SA(Xem: 9273)


Living This Life Fully

Tác giả và các cộng tác viên



Tác Giả.

 Mirka Knaster là một học giả độc lập, một văn sĩ tự do, một biên tập viên có bằng Tiến Sĩ Á Châu và Tỷ Giáo Học (Asian and Comparative Studies), và một giáo sư Anh ngữ ở Đại Học Colombia. Quê của bà ở Âu châu nhưng bà thọ hưởng nền học vấn ở Hoa kỳ. Bà thực hành thiền minh sát từ năm 1981. Quá trình du hành và học hỏi qua nhiều nơi trên thế giới mang đến cho bà một quan điểm văn hóa dồi dào, sâu sắc trong các công trình nghiên cứu và sáng tác của bà về nữ giới, cơ thể, chữa trị, và tâm linh – trong đó có Sống Viên Mãn Kiếp Này: Những Mẩu Chuyện và Lời Dạy của Ngài Munindra (Living This Life Fully: Stories and Teachings of Munindra), Khám Phá Trí Tuệ của Thân (Discovering the Body’s Wisdom), Canh Giữ Cái Lưỡi: Vì Sao Ta Nên Hành Chánh Ngữ (Guarding the Tongue: Why We Should Practice Right Speech), Tâm Linh Tĩnh Lặng (Quiet Spirituality).




Cộng tác viên

Āyukusala Thera, trước là Mirko Frýba, người Tiệp Khắc, giáo sư tâm lý học về hưu, xuất gia tại Tích Lan vào năm 1996. Ông theo học với Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1967, và sau đó dạy thiền minh sát dưới sự giám sát của Ngài tại Thụy Sĩ và những quốc gia dùng Đức ngữ. Nhờ sự giúp đỡ của Ngài Munindra, ông thành lập Hội Phật Giáo Thụy Sĩ vào năm 1978.

James Baraz dạy thiền từ năm 1978 và dạy lớp học về An Lạc Của Tỉnh Thức (Awakening Joy) vào năm 2003. Ông là giáo sư thành lập của SRMC, một thành viên của Ủy ban cố vấn quốc tế cho Phật Giáo Hòa Bình, và là đồng tác giả của sách An Lạc Của Tỉnh Thức. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Bồ đề Đạo Tràng năm 1977.

Jane Baraz thực tập thiền minh sát từ năm 1976. Bà là thành viên trong ban giám đốc của SRMC trong tám năm đầu và giúp khởi xướng Chương Trình Gia Đình Spirit Rock. Bà là thầy dạy ngoại ngữ tiếng Anh, và phụ giảng với James Baraz trong các lớp học An Lạc Của Tỉnh Thức. Bà thực tập hành thiền đầu tiên với Ngài Munindra tại một khoá thiền ở California năm 1977.

Matthias Barth thực tập thiền minh sát từ khoảng giữa thập niên

1970 với Ngài Munindra và vị đạo sư nổi tiếng khác. Ông là một trong các thành viên sáng lập nhóm Đạo Pháp ở Thụy Sĩ năm 1978 và là một chuyên viên tâm lý trị liệu tại Bern, Thụy sĩ. Ông đã vận dụng

phương pháp thiền vào cách chữa trị cho cá nhân hoặc cho cả nhóm.

Dhriti Barua được biết Ngài Munindra nhiều kể từ khi kết hôn với cháu của Ngài là Tridib Barua. Bà dạy tiếng Anh tại trường Thương Mãi và Truyền Thông Quốc Tế tại Calcutta. Pallavi, cô con gái của họ giúp chăm sóc Ngài Munindra tại nhà cô vào lúc cuối cùng của cuộc đời Ngài.

Dipa Barua là con gái của thiền sư Dipa Ma (Nani Bala Barua). Bà sanh tại Miến Điện và thực tập thiền minh sát dưới sự hướng dẫn của quý Hòa thượng Mahāsi, Hòa thượng U Pandita, và Ngài Munindra.

Bà có bằng tiến sĩ về Pāli và là nhân viên của chính phủ Ấn Độ, quản

trị viên của Hội Bồ Đề Đạo Tràng của Ấn Độ ở Calcutta, và hội viên của ban giám đốc trung tâm thiền quốc tế tại Bồ Đề Đạo Tràng. Gopendra “Govinda” Prasad Barua là em trai út của Ngài Munindra và là cựu nhân viên của hãng điện thoại Calcutta. Ông bắt đầu thực tập thiền minh sát dưới sự hướng dẫn của Munindra vào năm 1967.

Subhra Barua là con gái của Sasanka Mohan Barua – em trai của Ngài Munindra. Bà có bằng tiến sĩ về tiếng Pāli và trình luận án về cấp bậc của ni giới. Từ năm 1979 bà thường xuyên tham dự các buổi pháp thoại và khóa thiền của Ngài Munindra.

Tapas Kumar Barua là con trai của Sasanka Mohan Barua – em trai của Ngài Munindra. Ông có bằng tiến sĩ về hóa học và làm trong Ủy Ban Xăng Dầu của Ấn Độ. Hiện nay ông chuyển sang làm việc cho một công ty dầu ngoại quốc tại Sudan.

Tridib Barua là con trai của Sasanka Mohan Barua – em trai của Ngài Munindra. Ông là một kỹ sư ở Ấn Độ. Ông được Ngài Munindra hướng dẫn thực tập thiền minh sát vào năm 1983 tại Sarnath.

Robert Beatty là thầy hướng dẫn của Cộng Đồng Thiền Minh Sát ở Portland, Oregon, thành lập năm 1979. Ông bắt đầu học thiền tại Ấn độ với Ngài Munindra năm 1972, và ông dạy thiền theo truyền thốngcủa Bà Ruth Denison.

Mark Berger gặp Ngài Munindra trong một khóa tu thiền năm 1977 tại học viện Stillpoint ở San Jose, California, và tiếp tục liên lạc với Ngài trên 25 năm sau.

David Berman là nhân viên thường trú tại IMS từ 1988 đến 1999 và cũng là người phụ tá riêng cho Ngài Munindra trong chuyến thăm viếng vào năm 1989. Từ năm 1999, ông cư ngụ tại đảo Oahu và đôi khi giúp việc hành chánh cho Steven V. Smith và Michele McDonald. Arlene Bernstein là một chuyên viên tâm lý trị liệu, thích chăm sóc vườn tược, một nghệ sĩ tạo hình và là tác giả sách Mùa Trồng Trọt: Những Bài Học Sống Từ Ngôi Vườn (Growing Season: Life Lessons from the Garden.) Bà gặp Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1978.

Bhante Bodhipāla, Đại đức Bodhipāla, thọ Sa Di lúc lên bảy tại Chittagong, Bangladesh. Tuy ông không gặp Ngài Munindra cho đến năm 1993 tại Hội Mahabodhi ở Calcutta, nhưng ông biết Ngài từ thuở bé bởi cả hai là hội viên của Cộng Đồng Phật Tử Barua Bengal ở những làng lân cận. Ông là Sư Trưởng của chùa Mahabodhi tại Bồ Đề Đạo Tràng từ năm 2000 đến 2006.

Roy Bonney là học trò của S.N. Goenka từ khóa đầu tiên năm 1972 tại Bồ Đề Đạo Tràng và cũng là nơi ông gặp Ngài Munindra. Ông là nhà nhiếp ảnh và hướng dẫn viên rèn luyện thân thể tại vùng Vịnh San Francisco.

Sylvia Boorstein là giáo sư thành lập của SRMC, một nhà tâm lý học và tác giả của nhiều cuốn sách về Phật giáo và thực tập chánh niệm, và nhà bình luận của tạp chí Mặt Trời Shambhala. Bà gặp Ngài Munindra khi bà bắt đầu thực tập thiền minh sát năm 1977.

David Brody thực tập thiền với Ngài Munindra khi đang tham dự chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1997 và cũng gặp Ngài tại Dhamma Giri.

Ron Browning bắt đầu học Phật với các Ngài Shunryū Suzuki Rōshi và Kosho Uchiyama Rōshi tại Hoa kỳ và Nhật Bản. Từ năm 1979, ông thực tập theo truyền thống Nguyên Thủy, trong ấy có năm năm rưởi làm một vị sư. Ron gặp Ngài Munindra tại IMS và thung lũng Yucca vào trong thập niên 1980. Ông sáng lập cơ quan bất vụ lợi Santidhamma Foundation với mục đích thiết lập lại cơ sở Buddha- Dhamma tại Ấn độ.

Dale “Diinabandhu” Brozosky hòa nhập các cách thực tập căn bản từ những truyền thống khác nhau (Ấn Độ giáo, Phật giáo, Do Thái giáo) và áp dụng vào chương trình giảng dạy và cố vấn của ông tại California. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại IMS vào cuối thập niên 1970.

John M. Burgess tham dự các khóa thiền với Ngài Munindra trên đảo Maui và Hawaii trong thập niên 1980. Theo lời khuyên của Ngài để đi “tìm công lý” trong việc hành nghề luật, ông thành lập Hội Luật Giáo Pháp (Dharma Law). Từ năm 1994, với tư cách là một luật sư chuyên về nhân quyền tại San Francisco, ông đã thắng trên 200 vụ kiện cho các tăng ni Tây Tạng tị nạn.

Robert “Buzz” Bussewitz thực tập thiền từ năm 1978. Khi làm cho IMS ông có gặp Ngài Munindra, sau đó vào năm 1985 ông thăm Ngài ở Calcutta, và cũng từng là thị giả của Ngài.

Shivaya Cain gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Bồ Đề Đạo Tràng

năm 1971, và sau đấy tiếp tục vận dụng chánh niệm vào cuộc sống hằng ngày nơi ông cư ngụ tại vùng Vịnh San Francisco.

James Chadderdon gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Bồ Đề Đạo Tràng khoảng đầu năm 1977, và vài năm sau đưa Ngài du hành từ Boulder đến Phoenix xuyên qua Grand Canyon. Ông là luật sư tại Colorado Springs, Colorado.

Dhammaruwan Chandrasiri-Senevīratne, người Tích Lan, khi hai tuổi thoạt nhiên tụng kinh tiếng Pāli. Vào chín tuổi, ông bắt đầu biết được những phương pháp dẫn dạy hành thiền khi Ngài Munindra thăm viếng gia đình ông tại Kandy, Tích Lan. Ông sáng lập Nirodha Trust, một hội bất vụ lợi, để quảng bá các chương trình giảng dạy Phật học. Ngoài ra, ông còn hướng dẫn các chuyến hành hương thăm viếng những thánh tích Phật giáo trong xứ của ông.

Paul Choi là một bác sĩ tâm thần và một vị thầy dạy thiền, cư ngụ tại Oakland, California. Ông gặp Ngài Munindra tại nhà của gia đình Ngài ở Calcutta năm 1996 sau khi tham dự chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng.

Alan Clements gặp Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1976 và được Ngài Mahāsi cho xuất gia năm 1979. Ông là một vị thầy dạy đạo quốc tế, nhà hoạt động tinh thần, một nghệ sĩ và tác giả của nhiều quyển sách, như Miến Điện: Bãi Giết Người Kế Tiếp (Burma: The Next Killing Fields) và Tiếng Nói của Hy Vọng (The Voice of Hope) – gồm các đàm thoại với Aung San Suu Kyi. Ông cũng là đồng tác giả quyển Miến Điện – Cuộc Cách Mạng Tinh Thần (Burma’s Revolution of the Spirit).

Howard Cohn là thành viên ban đầu của hội đồng giảng sư Spirit Rock và hướng dẫn những khoá thiền thế giới từ năm 1985. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại San Jose, California vào cuối thập niên 1970. Sang thập niên 1980, ông là người chăm sóc cho Ngài ở khoá thiền tại Yucca Valley, tham dự các khóa thiền của Ngài ở Tân Mễ Tây Cơ và Maui, và thăm viếng Ngài ở Calcutta.

Uffe Damborg là nhà tâm lý học ở Copenhagen. Nơi đây ông vận dụng chánh niệm với điều trị tâm thần và hướng dẫn các khóa thiền chánh niệm. Ông theo học với Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng từ 1968 đến 1975. Ông sống ẩn dật trong vài năm tại Tích Lan, và cùng sáng lập Hội Ánh Sáng Thiền Minh Sát Miền Bắc tại Fredrika, Thụy Điển năm 2008.

Vivian Darst hành thiền theo truyền thống Nguyên Thủy từ năm 1972. Bà gặp gỡ Ngài Munindra tại Hội Mahabodhi ở Calcutta năm 1976 và sau đó du hành khắp nơi với Ngài ở vùng Bắc Mỹ và Âu châu. Bà điều khiển Hội Hoa Phu Nhân tại Seattle.

Ruth Denison qua học ở Miến Điện vào đầu thập niên 1960 với Trưởng Lão Thiền Sư Sayagi U Ba Khin, gặp Ngài Munindra tại Bồ đề Đạo tràng vào cuối thập niên 1970, và dạy thiền từ năm 1973. Bà sáng lập Dhamma Dena, một trung tâm thiền ở vùng sa mạc Joshua Tree, California, và Trung Tâm Phật Giáo Miền Tây tại nước Đức.

Joseph “Joe” DiNardo là một luật sư ở Buffalo, New York. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên trong một khóa thiền ở Yucca Valley năm 1978. Ông du hành và dạy thiền với Ngài Munindra tại Hoa kỳ và Ấn độ, và là bạn đạo thân thiết với Ngài cho đến khi Ngài từ trần. Tara Doyle là giảng viên thâm niên Khoa Tôn Giáo của trường Đại Học Emory và cũng là giám đốc chương trình nghiên cứu về Tây Tạng của trường Emory tại Dharamsala, Ấn Độ. Vì là Thầy dạy và Giám Đốc thành lập chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng (1979-1994), bà hoạt động rất chặt chẽ với Ngài Munindra.

John D. Dunne là giáo sư nhiệm kỳ Khoa Tôn Giáo của trường Đại Học Emory. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu khi ông dạy trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1994.

Jack Engler là nhà tâm lý học trong khối giảng huấn lâm sàng của trường Y Khoa Harvard tại bệnh viện Cambridge, nơi ông giảng dạy và giám sát phương pháp tâm lý trị liệu trong Khoa Tâm Thần. Ông học với Ngài Munindra tại Ấn Độ từ năm 1975 đến1977 và sau đấy vẫn giữ liên lạc mật thiết với Ngài cho đến khi Ngài qua đời. Ông là sáng lập viên của IMS và BCBS, và hiện nay dạy tại BCBS.

Erica Falkenstein gặp Ngài Munindra đầu tiên vào năm 1992 qua chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng và học với Ngài nhiều lần trong những năm kế tiếp. Bà làm trong chương trình phát triển quốc tế tại thành phố New York.

Christina Feldman gặp Ngài Munindra lần đầu tiên vào năm 1973 tại Bồ Đề Đạo Tràng. Từ năm 1976, bà dạy Phật pháp tại Âu châu và Bắc Mỹ. Bà cùng sáng lập Nhà Gaia ở Anh quốc và là thầy hướng dẫn ở IMS. Bà là tác giả của Lòng Trắc Ẩn, Sự Tỉnh Mịch Và Nẻo Phật Dẫn Đến Sự Đơn Giản (Compassion, Silence and The Buddhist Path to Simplicity).

Mirko Frýba (Xem Āyukusala Thera)

Patti Dye Fuller tham dự khoá thiền đầu tiên của Ngài Munindra ở Hoa kỳ tại San Jose, California năm 1977.

Gregg C. Galbraith bắt đầu thực tập theo truyền thống Nguyên thủy năm 1973 và gặp Ngài Munindra năm 1974 ở Ấn Độ, nơi ông cư trú với Ngài trong một năm. Ông du hành với Ngài Munindra tại Hoa kỳ và Ấn Độ trong các thập niên 1970 và 1980. Gregg điều hành một cơ quan thương mãi ở Carthage, Missouri và tiếp tục hoạt động cho một cơ sở bất vụ lợi chuyên bảo tồn đất đai, tên Ozark Regional Land Trust, mà ông đã thành lập năm 1984.

David Gelles là phóng viên nhà báo cho The Financial Times. Ông học với Ngài Munindra trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 2000. Sau đó, năm 2001, ông đến thăm viếng Ngài ở Calcutta và Dhamma Giri.

Andrew Getz thực tập thiền minh sát từ khi còn thiếu niên, kể cả một thời gian tu tập đời sống tự viện ở Á Châu. Ông dạy các khóa thiền minh sát tại IMS và SRMC. Ông gặp Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng vào đầu thập niên 1980. Ông là y tá tâm thần cho trẻ em và thanh niên, và đồng thiết lập nhóm Chân Trời Tuổi Thơ. Nhóm nầy về sau nhập chung vào Chương Trình Nhận Thức Thân Tâm.

S.N. Goenka là thầy dạy thiền minh sát theo truyền thống của cố thiền sư Sayagi U Ba Khin ở Miến Điện. Ông gốc người Ấn Độ và theo Ấn Độ giáo nhưng sanh đẻ và lớn lên tại Miến Điện, nơi ông bảo trợ việc thường trú của Ngài Munindra và cũng là nơi hai người trở thành bạn thân thiết. Về sau ông định cư ở Ấn Độ và bắt đầu dạy thiền minh sát năm 1969, và cuối cùng thiết lập nhiều trung tâm dạy thiền, trong đó có Dhamma Giri, một cơ sở rất tốt cho việc thiền tập đối với Ngài Munindra.

Joseph Goldstein gặp Ngài Munindra lần đầu tiên vào năm 1967 tại Bồ Đề Đạo Tràng và trong bảy năm kế tiếp theo học và thực tập dưới sự hướng dẫn của Ngài Munindra. Ông đồng thiết lập IMS năm 1976 và nhiều lần mời Munindra đến dạy nơi đây. Ông là tác giả nhiều cuốn sách Đạo, trong đó có các cuốn Chỉ Có Một Pháp Thôi: Sự Xuất  

Hiện của Phật Giáo Tây phương (One Dharma: The Emerging Western Buddhism), và Thiền Minh Sát: Sự Luyện Tập pháp Giải Thoát (Insight Meditation: The Practice of Freedom).

Daniel Goleman là nhà tâm lý học và tác giả của nhiều cuốn sách gồm Thông Minh Của Xúc Cảm (Emotional Intelligence) Những Xúc Cảm Phá Hoại: Cuộc Đàm Thoại giữa các Nhà Khoa Học và Ngài Dalai Lama (Destructive Emotions: A Dialogue with Scientists and the Dalai Lama). Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên vào năm 1970 tại Bồ Đề Đạo Tràng.

Ed Hauben gặp Ngài Munindra tại Cambridge, Massachusetts, và tại IMS vào cuối thập niên 1970. Là một hành giả hằng thiền tập rất lâu năm, ông giữ vai trò chủ tịch ban giám đốc của IMS trong đầu thập niên 1980 và tiếp giúp các khóa thiền cho các gia đình và thiếu niên. Hiện nay ông là giám đốc của Cộng Đồng Giáo Dục Newton tại Massachusetts.

Shaun Hogan tham dự khoá thiền đầu tiên ở Hoa kỳ của Ngài Munindra tại San Jose, California năm 1977.

David Hopkins là học trò của S.N. Goenka. Ông gặp Ngài Munindra tại Dhamma Dhara ở Shelburne Falls, Massachusetts vào đầu thập niên 1990 và tại Dhamma Giri năm 2002.

Xuân Huỳnh, cùng chồng là bác sĩ Thanh Huỳnh, tiếp đãi Ngài Munindra vài lần tại Honolulu vào thập niên 1980. Họ là những người hướng dẫn cho cộng đồng Phật giáo và dạy các khóa thiền ngắn tại O’ahu.

David Johnson là chuyên viên phân tích về kinh doanh cho một công ty kỹ thuật tại Silicon Valley và đã thực tập thiền từ đầu thập niên 1970. Ông gặp Ngài Munindra vào năm 1977 khi đang làm thiện nguyện cho một trung tâm thiền minh sát tại San Jose, California.

Gita Kedia là thầy phụ giảng của S.N. Goenka. Bà gặp Ngài Munindra đầu tiên tại Dhamma Giri vào cuối thập niên 1980, và thường xuyên gặp Ngài nơi đây cũng như ở Calcutta cho đến khi Ngài từ trần vào năm 2003.

Shyam Sunder Khaddaria là học trò của S.N. Goenka từ năm 1974. Ông thường đàm luận với Ngài Munindra về đạo pháp ở tại Dhamma Giri.

Hòa thượng Kim Triệu Khippapañño xuất gia từ năm 1949 và hành thiền tại hai nơi Ấn Độ và Miến Điện. Ngài Munindra là vị thầy đầu tiên dạy thiền minh sát cho Sư vào năm 1967 tại Bồ Đề Đạo Tràng. Hòa thượng dạy thiền minh sát từ năm 1982 đến nay. Ngài thành lập chùa Kỳ Viên ở Hoa Thịnh Đốn và Thích Ca Thiền Viện ở California, và xây dựng lại Thiền Viện Tâm Pháp ở Bumpass, Virginia. Ngoài ra Ngài còn hỗ trợ thành lập Phước Sơn Thiền Viện tại Việt nam, xây dựng một thiền viện ở Bồ đề Đạo tràng tại Ấn độ, và sáng lập Kỳ Viên Tự ở Melbourne, ngôi chùa Phật giáo Nguyên thủy Việt Nam đầu tiên tại Úc châu.

Erik Knud-Hansen học và hành thiền theo nhiều truyền thống khác nhau gồm Phật giáo, Lão giáo và Advaita Vedanta từ năm 1972, trong đó kể cả một năm làm thiền tăng (Zen) ở Nam Triều Tiên. Ông dạy Phật Pháp từ năm 1984. Ông gặp gỡ và tu học với Ngài Munindra tại Hoa kỳ vào cuối thập niên 1970.

Jack Kornfield, một tiến sĩ tâm lý trị liệu, thực tập xuất gia ở Á Châu và gặp Munindra ở Ấn Độ vào giữa thập niên 1970. Ông đồng sáng lập IMS và SRMC. Ông dạy thiền trên khắp thế giới từ năm 1974 và viết mười quyển sách về thực tập giáo pháp, trong đó có các

quyển Con Đường với Trái Tim (A Path with Heart) và Trái Tim Trí Tuệ (A Wise Heart).

Eric Kupers là giám đốc, biên đạo múa, và diễn viên cho Dandelion Dancetheater do ông đồng sáng lập tại San Francisco năm 1996. Ông còn là giáo sư vũ kịch tại California State University East Bay và nhận được nhiều bằng tuyên dương và tưởng thưởng. Ông học với Ngài Munindra qua chương trình Antioch năm 1992.

Rebecca Kushins là sinh viên của Đại Học Hawaii và là cựu nhân viên của BCBS. Bà thực tập thiền với Ngài Munindra qua chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 2002.

Barry Lapping là một trong những vị trợ giảng của Ngài S.N. Goenka và có liên kết với trung tâm thiền minh sát Dhamma Dhara ở Shelburne Falls, Massachusetts từ khi trung tâm nầy khai trương năm 1982. Ông gặp Ngài Munindra đầu tiên vào năm 1970 tại chùa Miến Điện ở Bồ Đề Đạo Tràng và thực tập với Ngài trong một thời gian ngắn. Sau đó ông thường xuyên viếng thăm Ngài ở Dhamma Giri.

Akasa Levi xuất gia theo truyền thống Nguyên Thủy trong sáu nămvào thập niên 1970, được Thượng Tọa Balangoda Ananda Maitreya ở Tích Lan dạy và làm lễ xuất gia. Ông gặp Ngài Munindra vào năm 1974 tại Bồ Đề Đạo Tràng. Ông dạy thiền tại Laughing Buddha Sangha ở Santa Monica, California, và hướng dẫn các nhóm Zen- Men tại Los Angeles Medicine Men’s Lodge.

Michael Liebenson Grady thực tập thiền minh sát từ năm 1973. Ông là thầy hướng dẫn tại Cambridge Insight Meditation Center ở Cambridge, Massachusetts, và là thiền sư ở IMS, nơi ông đầu tiên gặp Ngài Munindra.

Raymond “Ray” Lipovsky là một nhà thiết kế và điêu khắc kim hoàn lão luyện, một kỹ sư, và là một Phật tử thuần thành lâu năm ở đảo Llyndorah tại British Columbia. Ông gặp Ngài Munindra đầu tiên ở khoá thiền tại British Columbia vào năm 1980, và học với Ngài từ 1981 đến 1982 ở Calcutta và Bồ Đề Đạo Tràng.

Marvel Logan (xem Bhante Vimalaraṃsi)

Carla R. Mancari là đồng sáng lập viên của Contemplative Invitation Teaching và phụ tá giảng dạy các khóa thiền. Bà học nhiều nơi trên thế giới với các thầy người Thiên Chúa Giáo, Ấn Độ Giáo, Phật Giáo, và Ngài Munindra mà bà gặp năm 1974 ở Trung Tâm Thiền Minh Sát Viện tại Bồ Đề Đạo Tràng.

Jacqueline Schwartz Mandell là thầy dạy thiền Phật giáo, một bà mẹ, và giám đốc của Samden Ling ở Portland, Oregon. Bà học và thực tập đầu tiên với Ngài Munindra năm 1972 tại Bồ Đề Đạo Tràng và sau đó cùng dạy các khóa thiền với Ngài trong dịp Ngài thăm viếng miền Tây.

Peter Martin dạy Anh ngữ và giao lưu văn hóa tại Edmonds Community College, gần Seattle. Ông thực tập thiền minh sát với sự chỉ dẫn của Ngài S.N. Goenka từ năm 1980. Ông là thầy phụ tá thâm niên điều khiển các lớp thiền từ năm 1984. Khi ở Dhamma Giri ông thường xuyên viếng thăm Ngài Munindra.

Kamala Masters gặp Ngài Munindra năm 1977 khi Ngài qua Mỹ lần đầu tiên và trở thành một trong các học trò thuần thành nhất của Ngài. Bà đồng sáng lập Vipassanā Metta Foundation trên đảo Maui và dạy Phật Pháp theo truyền thống Nguyên Thủy trên khắp thế giới.

Pat Masters gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Honolulu năm 1983, và sau đó gặp Ngài mỗi năm khi bà dạy nhân chủng học Phật giáo trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng từ năm 1996 đến 1999. Bà hiện cư ngụ tại Honolulu và là viện trưởng của Đại Học Hawaii.

Luke Matthews là học trò và phụ tá giảng dạy cho Ngài S.N. Goenka. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại chùa Miến Điện ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1971, và sau đó thường xuyên thăm viếng Ngài nơi đây và Dhamma Giri trong suốt ba mươi lăm năm.

Margaret “Maggie” Ward McGervey tham dự chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng và gặp Ngài Munindra năm 1986. Sau đó bà nhiều lần trở lại làm việc với chương trình này cũng như phụ tá hướng dẫn các cuộc hành hương viếng thăm Tứ Động Tâm ở Ấn Độ. Peter Meehan là tổng giám đốc điều hành công ty Newman’s Own Organics. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1979.

Maria Monroe bắt đầu hành thiền minh sát với Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1968 và dạy thiền minh sát từ 1979 đến 1984. Katerina “Khanti” Moraitis gặp Ngài Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1968. Từ năm 1969 đến 1974, bà thỉnh thoảng thực tập thiền với Ngài, trong đó có khoảng thời gian một năm bà xuất gia. Bà gặp Ngài lần cuối vào năm 1979 khi Ngài thăm gia đình bà ở Hy Lạp. Từ năm 1975, bà làm dịch giả cộng tác cho đài truyền hình Hy Lạp.

Ginny Morgan là nhà trị liệu giải trí cho các trẻ em bị bệnh mãn tính trong nhiều năm trước khi trở thành thầy dạy thâm niên cho trung tâm Hãy Chỉ Cho Tôi Giáo Pháp ở Columbia, Missouri. Bà thường gặp gỡ Ngài Munindra nơi ấy vào cuối thập niên 1970 và tại BCBS vào giữa thập niên 1990.

Daw Than Myint gặp Ngài Munindra lần đầu tiên năm 1965 ở thiền viện của Hòa thượng Mahāsi tại Rangoon, Miến Điện, sau khi mẹ Hema Prabha Barua và dì Dipa Ma (Nani Bala Barua) của bà thực tập với Ngài. Bà từng là cựu giáo sư và Trưởng Ban Động Vật học tại Đại Học Pathein và hiện nay đã về hưu.

shi Wendy Egyoku Nakao là trưởng tu viện và giáo sư trưởng của Trung Tâm Zen ở Los Angeles. Bà gặp Ngài Munindra vào năm 1980 tại California và sau đó thực tập với Ngài ở IMS, Calcutta và Bồ Đề Đạo Tràng.

Wes Nisker là một hội viên của Hội Đồng Giáo Sư ở Spirit Rock và là tác giả của Essential Crazy Wisdom, Buddha’s Nature và các sách khác. Ông cũng là nhà bình luận đài phát thanh, một diễn viên, người thành lập và đồng chủ bút của tạp chí Tâm Thẩm Tra (Inquiring Mind) và giảng dạy khắp thế giới. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1970.

Philip Novak được tặng danh hiệu Giáo Sư Lỗi Lạc về Tôn Giáo tại Dominican University of California, San Rafael. Ông học với Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng vào cuối năm 1976 và sau đó là học trò của S.N. Goenka từ năm 1977.

Zara Novikoff là cựu y tá ở đảo Vancouver. Bà gặp Ngài Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1967 trong khi đang đi hành hương với những người Ấn Độ và Tích Lan. Bà thực tập thiền với Ngài năm 1968. Sau đó Bà gặp Ngài vài lần nữa ở Hoa kỳ và Gia Nã Đại.

Patrick Ophuls là tác giả quyển sách Đức Phật Không Bắt Tù Nhân (Buddha Takes No Prisoners). Ông gặp Ngài Munindra ở IMS năm 1978 và thỉnh thoảng gặp lại từ 1981 đến 1983.

John Orr thực tập đời sống xuất gia trong tám năm theo truyền thống Nguyên Thủy ở Thái Lan và Ấn Độ. Ông hướng dẫn các khoá thiền ở Hoa kỳ từ năm 1980, khi Ông gặp Ngài Munindra ở IMS. Là giảng viên về Phật học, thiền, và Yoga ở Đại Học Duke, ông còn là thầy dạy và giám đốc tinh thần cho Hội Tăng Chúng Hy Vọng Mới ở Durham, North Carolina.

Gregory Pai xem Ngài Munindra như là vị thầy dìu dắt đầu tiên cho ông về truyền thống Nguyên Thủy. Ông gặp Ngài tại nhà của Dr. Thanh và Xuân Huỳnh ở Honolulu vào cuối thập niên 1980, và thơ từ qua lại với Ngài trong nhiều năm. Ông là cựu nhân viên cho chính phủ của tiểu bang Hawaii và là một vị hướng dẫn đạo pháp cho cộng đồng ở O’ahu.

Robert Pryor là giáo sư về ngành nghiên cứu Phật giáo và là giám đốc của chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng mà ông đồng sáng lập năm 1979. Robert gặp Ngài Munindra năm 1972, và tiếp tục là một trong những học trò thân cận của Ngài cho đến khi Ngài từ trần.

Bob and Dixie Ray đồng sáng lập Trung Tâm Sinh Sống về Tâm Linh ở Tây Nam tại Las Vegas, New Mexico. Họ thực tập với Ngài Munindra trong những khoá thiền dài hạn ở Hoa kỳ, tiếp đãi Ngài ở Chicago, và thăm viếng Ngài ở Calcutta năm 1984.

Caitriona Reed gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Luân Đôn năm 1979. Bà là thầy dạy Phật Pháp và là đồng sáng lập Làng Tĩnh Tâm Manzanita ở Nam California.

Rajia Devi là người làm bếp cho chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng trong nhiều năm.

Ram Dass, là Richard Alpert, giáo sư đại học và nhà nghiên cứu trước khi qua Ấn Độ năm 1967 để theo đuổi nhiều pháp môn luyệntập tâm linh khác nhau, trong đó gồm có thiền Nguyên Thủy với Ngài Munindra. Ông đồng sáng lập Seva Foundation, một tổ chức dịch vụ quốc tế, và là tác giả những cuốn sách cổ điển như Bây Giờ Hãy Ở Đây (Be Here Now).

Derek Ridler gặp Ngài Munindra trong một khoá thiền ba tháng tại IMS và sau đó tại Ấn Độ trong đầu thập niên 1980. Ông là cố vấn về hôn nhân và gia đình tại British Columbia, đã về hưu. Ông thực tập theo truyền thống Vajrayāna (Kim Cang Thừa).

Sharda Rogell làm trong Hội Đồng Giáo Sư của Spirit Rock và dạy khắp thế giới từ 1987. Bà bắt đầu hành thiền từ năm 1979 và hai năm sau đó gặp Ngài Munindra khi Ngài đang thăm viếng California. Marcia Rose là sáng lập viên và thầy hướng dẫn của Mountain Hermitage tại Taos, New Mexico. Bà hành thiền và học hỏi về Phật Pháp từ năm 1970, chủ yếu về truyền thống Nguyên Thủy. Bà tu học dưới sự hướng dẫn của Ngài Munindra tại Sarnath, Ấn Độ năm 1986. Larry Rosenberg là sáng lập viên và thầy hướng dẫn của Trung Tâm Thiền Minh Sát Cambridge tại Cambridge, Massachusetts. Ông cũng là giáo sư thâm niên tại IMS và là tác giả của cuốn sách Từng Hơi Thở Một (Breath by Breath) Sống Trong Ánh Sáng của Sự Chết (Living in the Light of Death). Ngài Munindra là thầy dạy thiền minh sát đầu tiên của ông.

Ajit Roy là nhà thiết kế kim hoàn. Ông sinh hoạt thân cận với Ngài Munindra ở Calcutta và Bồ Đề Đạo Tràng trước khi sang Hoa kỳ năm 1984.

Sharon Salzberg là thầy dạy thiền và đồng sáng lập viên của IMS và cũng là tác giả nhiều sách đạo Phật, gồm Lòng Tin (Faith) Sổ Tay Hướng Dẫn về Lòng Từ (The Kindness Handbook). Bà bắt đầu học với Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1971.

Bill “Chaitanya” Samways gặp Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1971 và học với Ngài trong vài năm. Ông theo Ngài trong các chuyến du hành đầu tiên của Ngài sang Thái Lan, Phi Luật Tân, Hawaii, và lục địa Hoa kỳ năm 1977.

Ricardo Sasaki gặp Munindra ở Hội Mahabodhi tại Calcutta năm

1987 và, một năm sau, tham dự các khoá thiền của Ngài tại Sarnath và Bồ Đề Đạo Tràng. Năm 1989, ông sáng lập Trung Tâm Phật Giáo Nalanda ở Belo Horizonte, Brazil, nơi ông vừa là nhà tâm lý học vừa là thầy dạy Phật Pháp. Năm 1999, ông thành lập Nalandarama, trung tâm Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên ở Nam Mỹ Châu. Trung tâm nầy đặc biệt chỉ dành riêng cho những khoá thiền tích cực theo truyền thống ẩn tu trong rừng.

Sara Schedler là học sinh trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1999. Ngài Munindra là thầy dạy đạo đầu tiên cho bà, và sau đó bà vẫn tiếp tục hành thiền minh sát. Bà làm cho Hội Bạn Của Trái Đất, một tổ chức lo về chính sách bảo vệ môi trường ở San Francisco.

Max Schorr là đồng sáng lập viên, nhà xuất bản và giám đốc của tạp chí GOOD. Ông gặp Ngài Munindra khi là học sinh trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 2001.

Steven J. Schwartz là một hành giả thiền minh sát thâm niên, và là một trong những sáng lập viên của IMS. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1972, và trong suốt thập niên kế tiếp, học với Ngài tại Bồ Đề Đạo Tràng, Calcutta và Hoa kỳ. Ông cũng theo Ngài trong những chuyến du hành đến Nữu Ước và Hoa Thịnh Đốn.

Ram Sevak gặp Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1967, khi ông mười hai tuổi. Ông tiếp tục thân cận bên Ngài và được Ngài hướng dẫn cho đến lúc Ngài từ trần.

Robert H. Sharf là giáo sư và chủ tịch Trung Tâm Nghiên Cứu về Phật học tại trường Đại Học California, Berkeley. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên trong thời gian ông cư ngụ ở Bồ Đề Đạo Tràng từ năm 1972 đến 1973.

Ann Shawhan tham dự khoá thiền đầu tiên do Ngài Munindra hướng dẫn tại San Jose, California năm 1977.

Naima Shea bắt đầu thiền tập với Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng vào cuối năm 1972.

Karen Sirker là chuyên viên cao cấp về phát triển xã hội của Ngân Hàng Quốc Tế. Bà gặp Ngài Munindra trong khi tham dự chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1979 và sau đó vẫn tiếp tục liên lạc với Ngài.

Peter Skilling hiện là chủ tịch của Nhóm Nghiên Cứu Phật Giáo tại École Francais d’Extrème-Orient. Ông lập ra một cơ sở tên Những Lá Cọ Mong Manh ở Bangkok, mục đích để bảo tồn, nghiên cứu, và xuất bản các tài liệu Phật giáo của vùng Đông Nam Á. Ông cũng là thành viên sáng lập Trung Tâm Nghiên Cứu về Phật học ở Bangkok. Ông là một vị tăng ở Thái Lan trong đầu thập niên 1970, và gặp Ngài Munindra vào cuối thập niên 1970.

Ted Slovin gặp Ngài Munindra ở IMS năm 1977 và sau đó cùng đi với Ngài trong các chuyến thăm viếng Massachusetts. Ông là cựu phó chủ tịch của Ban Giám đốc IMS.

Steven V. Smith là đồng sáng lập viên của Thiền Minh Sát Hawaii, và dạy khắp thế giới về sự biểu hiện của chánh niệm và những pháp không đo lường được như tình thương, lòng bi mẫn, niềm vui và hạnh buông xả. Ông gặp Ngài Munindra, vị thầy dạy thiền đầu tiên cho ông, tại Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1976.

Jeanne Smithfield gặp Ngài Munindra trong cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 ở IMS, nơi mà bà tham dự vài khoá thiền ba tháng và là một nhân viên tại đó.

Itamar Sofer gặp Ngài Munindra lần đầu tiên trong cuộc hành hương các địa điểm Phật tích ở Ấn Độ do thầy của ông là S.N. Goenka hướng dẫn vào năm 2001. Sau đó ông gặp Ngài ở Dhamma Giri.

Oren Sofer hướng dẫn một nhóm thiền minh sát hằng tuần tại Berkeley, California, và giúp điều hành Đề Án Nhận Thức Thân Tâm– chương trình giảng dạy thiền minh sát cho những thiếu niên bị giam cầm. Ông học với Ngài Munindra trong chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1997 và thực tập với Ngài năm 2001.

Michael Stein gặp Ngài Munindra lần đầu tiên trong khi đang học các lớp của S.N. Goenka tại Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1972. Sau đó ông sống cạnh phòng của Ngài tại Samanvaya, Gandhi Ashram, năm 1973. Ông gặp Ngài nhiều lần ở Massachusetts và ở Dhamma Giri.

Heather Stoddard đứng đầu chương trình nghiên cứu về Tây Tạng tại Viện Quốc Gia Ngôn Ngữ và Văn Minh Đông Phương tại Pari từ năm 1977. Bà còn thành lập Hội Shalu năm 1994 nhằm giúp đỡ bảo tồn văn hóa Tây tạng. Là một hành giả thực tập theo truyền thống Kim Cang Thừa, bà xem Ngài Munindra là thầy hướng dẫn tinh thần đầu tiên. Bà tham dự khóa thiền với Ngài lần đầu tại Bồ Đề Đạo Tràng năm 1967.

Stephen Strange là học trò của Ngài N.S. Goenka. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu vào năm 1987 tại Dhamma Giri nơi ông tham dự khóa thiền hàng năm, và sau đó thường xuyên viếng thăm Ngài.

Suil gặp Ngài Munindra khi đang theo học các lớp học của S.N. Goenka tại Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1973. Sau một thời gian thọ ni giới ở Đại Hàn từ năm 1975 đến 1981, bà gặp lại Ngài tại Lama Foundation ở Tân Mễ Tây Cơ năm 1982.

Robin Sunbeam hiện là y tá của trường học ở Bắc California. Bà học một năm với Ngài Munindra vào năm 1972, tại Samanvaya, Gandhi Ashram ở Bồ Đề Đạo Tràng, và được Ngài chỉ dẫn khi bà học tiếng Phạn (Sanskrit) ở Rajgir năm 1973. Bà cũng tham dự một khoá thiền với Ngài ở IMS. Robin dạy thiền minh sát ở San Francisco cho đến khi bà sanh đứa con đầu lòng năm 1988.

Dwarko Sundrani là một trong những đệ tử tích cực cuối cùng của Mahatma Gandhi và đã cống hiến cuộc đời mình để làm việc cho những người nghèo khổ nhất ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi ông làm bạn với Ngài Munindra vào năm 1954. Trong cuối thập niên 1960, ông cung cấp chỗ cư trú cho Ngài Munindra tại Samanvaya Ashram, nơi ông quản lý từ khi được xây cất bởi Vinoba Bhave năm 1954.

Lama Surya Das theo học với Ngài Munindra tại Bồ Đề Đạo Tràng trong vài mùa đông vào đầu và giữa thập niên 1970. Ông là một vị lạt ma và là người nối dõi truyền thống Dzogchen trong Phật giáo Tây Tạng. Ông thành lập Trung Tâm Dzogchen tại Mỹ Châu, và là tác giả cuốn Chứng Ngộ Phật Tánh (Awakening the Buddha Within), và nhiều sách khác.

Uno Svedin gặp Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng vào cuối năm 1966 và tiếp tục gần gũi với Ngài cho đến khi Ngài từ trần năm 2003. Ông có bằng Tiến Sĩ về Vật Lý và là nhà nghiên cứu cao cấp tại Stockholm Resilience Center, Stockholm University, tập trung vào những vấn đề về môi trường trong phạm vi xã hội và văn hoá. Ông cũng là giám đốc lo về các vấn đề quốc tế của Hội Đồng Nghiên Cứu về Môi Trường, Khoa Học Nông Nghiệp và Kế Hoạch Không Gian của Thụy Điển.

Manisha Talukbar là giáo sư Anh văn hiện đã về hưu. Bà gặp Ngài Munindra lần đầu tiên năm 1966 tại nhà mẹ chồng – người đã coi Munindra như là một người con nuôi. Manisha tiếp tục gặp Ngài trong các chuyến thăm viếng sau đó ở Calcutta.

Saibal Talukbar khi còn bé đã gặp Ngài Munindra trong các chuyến thăm Hội Mahabodhi tại Calcutta với bà nội bắt đầu từ năm 1991. Ông đi với Ngài đến Dhamma Giri và Bồ Đề Đạo Tràng và là người theo phụ giúp Ngài trong chương trình Antioch.

Shuma Talukbar gặp Ngài Munindra qua mẹ của bà là Manisha Talukbar, và học thiền minh sát với Ngài tại Calcutta.

Danny Taylor hành thiền minh sát từ năm 1984. Năm 1987, ông gặp Ngài Munindra ở Hội Mahabodhi tại Calcutta và sau đó tham dự khóa dạy của Ngài ở Sarnath. Hiện nay ông làm cố vấn về quản trị tại Sydney, Australia, và là thầy dạy thiền của Trung Tâm Thiền Minh Sát ở Blue Mountains trong vùng nầy.

Denise Till gặp Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1975, và họ trở thành bạn đạo thân thiết trong nhiều năm khi bà làm quản lý về tiện nghi kiêm quản lý chương trình Antioch ở Bodh Gaya.

Jeffrey Tipp là nhà cố vấn về gia đình và hôn nhân ở Vashon, Washington, và là giáo sư thường trú tại Cộng Đồng Zen Vạc Xanh ở Seattle. Ông gặp Ngài Munindra tại Seattle năm 1978.

Christopher Titmuss, là cựu tỳ kheo ở Thái Lan và Ấn Độ, là đồng sáng lập viên Nhà Gaia, một trung tâm tĩnh tâm quốc tế ở Devon, Anh quốc. Ông cũng là hội viên của Hội đồng Tư vấn Quốc tế cho Buddhist Peace Fellowship và là tác giả của nhiều cuốn sách. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên vào năm 1974 ở Bồ Đề Đạo Tràng, nơi ông dạy các khoá tu hằng năm từ năm 1975.

John M. Travis là giáo sư hướng dẫn và sáng lập Mountain Stream Meditation Center, tại Auburn, California. Ông bắt đầu học thiền minh sát vào năm 1970 với Ngài Munindra, và sau đó ông học với nhiều thầy khác nữa. Ông là cố vấn về thiền và nhà trị liệu theo phương pháp Hakomi, ông hướng dẫn các khóa thiền khắp Hoa kỳ. Bryan Tucker gặp Ngài Munindra khi ông bắt đầu thực tập thiền minh sát vào cuối thập niên 1970. Sau đó ông gặp Ngài nhiều lần tại Hoa kỳ và Ấn Độ. Bryan dạy thiền ở Ấn độ, Âu châu, Do thái và Hoa kỳ. Hiện nay ông cư ngụ tại Boston.

Bhante Vimalaraṃsi (trước là Marvel Logan) thực tập thiền với Ngài Munindra tại Stillpoint Institute ở San Jose, California năm 1977. Ông xuất gia tỳ kheo tại Thái Lan năm 1986 và sau đó học tại Miến Điện và dạy học ở Mã Lai Á. Hiện nay ông đang thành lập Dhamma Sukha Meditation Center gần Ironton, Missouri.

Fred von Allmen dạy thiền minh sát khắp thế giới từ năm 1984, và là đồng sáng lập viên của Trung Tâm Thiền Beatenberg ở Thụy Sĩ. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên vào năm 1971 ở Bồ Đề Đạo Tràng và được Ngài hướng dẫn tu tập tại Ấn Độ và IMS.

Wanda Weinberger chăm lo cho chương trình Antioch tại Bồ Đề Đạo Tràng trong nhiều năm. Bà học với Ngài Munindra năm 2000 và 2001 khi đang làm thầy phụ tá, và năm 2002 phụ giúp Ngài trong các buổi dạy.

Grahame White là thầy hướng dẫn tại cơ sở Thiền Minh Sát Hawaii, và là đồng sáng lập viên của Trung Tâm Thiền Minh Sát Blue Mountains ở Úc châu, nơi đây ông làm giám đốc một công ty bán sỉ. Ông gặp Ngài Munindra lần đầu tiên ở Bồ Đề Đạo Tràng vào năm 1970 và trải qua nhiều năm học Pháp với Ngài ở đây.

Giselle Wiederhielm, cùng con gái là Vivian Darst, tiếp đãi Ngài Munindra nhiều lần tại Seattle. Bà tham dự một khoá tu thiền với Ngài ở Oregon năm 1983.

Reverend James “Jim” Willems đã thực tập nhiều phương pháp thiền Phật giáo khác nhau từ năm 1960 và gặp Ngài Munindra ở IMS vào đầu thập niên 1990. Ông là một nhà tu Tân giáo (Episcopal) ở San Francisco.

David K. Wong gặp Ngài Munindra tại một khoá tu thiền ở San Jose, California, năm 1978 và đưa Ngài du hành sau đó. Ông gặp Ngài lần cuối khi đang tu học dưới sự hướng dẫn của Hòa thượng Taungpulu vào năm 1979.

Sunny Wootton là người phụ giúp cho Ngài Munindra trong khoá thiền ba tháng ở IMS năm 1981 và năm sau đó sang gặp lại Ngài ở Ấn Độ. Ông nấu ăn cho các khóa thiền của Ngài ở Maui trong thập niên 1980.

Christine Yedica bắt đầu thực tập thiền minh sát năm 1974 và gặp Ngài Munindra ở Bodh Gaya vào đầu năm 1976. Bà đi du hành ở Ấn Độ và Hoa kỳ với Ngài và các thầy Tây phương. Bà làm trong ban quản trị của IMS từ năm 1978 đến 1984. Là một chuyên gia lão khoa ở miền Bắc California, bà phối hợp việc luyện tập chánh niệm với công việc làm của bà với những lão niên và gia đình họ.

Michael Zucker là một chuyên gia khoa châm cứu ở Honolulu. Ông học với Ngài Munindra ở Bồ Đề Đạo Tràng năm 1973. Ông theo Ngài trong chuyến du hành của Hòa Thượng Mahāsi tại Hoa kỳ năm1979 và sống bên Ngài ở IMS, nơi ông giữ nhiệm vụ nấu ăn.

 

Thay lời kết

Imāya Dhammā’nudhamma-paṭipattiyā

Buddhaṃ pūjemi.

Imāya Dhammā’nudhamma-paṭipattiyā

Dhammaṃ pūjemi.

Imāya Dhammā’nudhamma-paṭipattiyā

Samghaṃ pūjemi.

 

Con xin cúng dường Đức Thế Tôn

bằng sự hành đạo.

Con xin cúng dường Pháp Bảo

bằng sự hành đạo.

Con xin cúng dường Tăng Bảo bằng sự hành đạo.



 

ĐỊA CHỈ LIÊN LẠC VÀ THỈNH SÁCH

 

Thích Ca Thiền Viện

15950 Winters Lane Riverside, CA 92504 (951) 780-5249

 

Kỳ Viên Tự

1400 Madison Street

NW Washington, DC 20011 (202)882-6054

 

Ananda Thiền Viện

1661 W. Cerritos Avenue Anaheim, CA 92802 (714) 603-7333


 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn