(Xem: 1798)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2261)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3...

08 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 10877)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển IV (Nghiệp và quả của Nghiệp)

Soạn giả: Tỳ-khưu Hộ Pháp

 

Nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót

của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn (Aparāpariyavedanīyakamma)


Thế nào gọi là nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn?

Aparāpariyāyavedanīyaṃ phalaṃ etassāti: Aparāpari-yāyavedanīyaṃ

Nghiệp nào cho quả trong mọi kiếp kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, nghiệp ấy gọi là nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn, đó là tác ý tâm sở đồng sinh với bất thiện tâm hoặc 8 dục giới đại thiện tâm làm phận sự 5 dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) từ sát-na tâm thứ 2 cho đến sát-na tâm thứ 6 trong mỗi lộ trình tâm.

* Nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn có 2 loại:

3.1 Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

3.2 Thiện nghiệp cho quả từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc dục giới đại thiện nghiệp được tạo bằng thân, bằng khẩu, bằng ý trong mỗi lộ trình tâm trong phần 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāma-javanacitta) cùng một loại tâm sinh rồi diệt liên tục, mà bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc thiện nghiệp thuộc về nghiệp aparāpariyavedanīyakamma (nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn), đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 5 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) kể từ sát-na tâm thứ 2 cho đến sát-na tâm thứ 6 trong mỗi lộ trình tâm.


blank

Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

- Nếu nghiệp này có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau (paṭisandhikāla), thì chỉ được tái sinh kiếp sau một kiếp duy nhất mà thôi, còn cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh kiếp hiện hữu (pavattikāla), thì không có giới hạn, nghĩa là có thể cho quả nhiều đời, nhiều kiếp, nếu có cơ hội cho quả.

- Nếu chúng sinh còn tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài, thì nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này không thể trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

* Vậy trường hợp nào thì nghiệp aparāpariyavedanīya-kamma trở thành nghiệp vô hiệu quả?

Trong trường hợp đặc biệt, khi nào bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới. Khi ấy, không những nghiệp aparāpariyavedanīyakamma trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), mà còn tất cả mọi ác nghiệp, mọi thiện nghiệp đã tích lũy từ vô thủy, vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến trước khi trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp ấy cũng đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma), tuyệt nhiên không còn có cơ hội cho quả của chúng được nữa.

Thực ra, khi đã trở thành bậc Thánh Arahán xong rồi, thì tác ý tâm sở đồng sinh với duy tác tâm (kiriyācitta) trong mọi lộ trình tâm, rồi hành động bằng thân, nói bằng khẩu, nghĩ bằng ý hoàn toàn không tạo nghiệp (không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp), thiện nghiệp nào cả). Như vậy, bậc Thánh Arahán không tạo nghiệp mới nào cả. Song tất cả mọi nghiệp cũ (gồm có mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp), mọi thiện nghiệp) đã tích lũy từ vô thủy trải qua vô lượng kiếp trong quá khứ cho đến khi trở thành bậc Thánh Arahán, tất cả mọi nghiệp ấy, nếu nghiệp nào có cơ hội cho quả của nó trong kiếp hiện hữu cho đến trước khi tịch diệt Niết Bàn, thì nghiệp ấy vẫn có thể cho quả của nó. Nhưng sau khi bậc Thánh Arahán đã tịch diệt Niết Bàn rồi, thì tất cả mọi loại nghiệp, cả nghiệp aparāpariyavedanīyakamma, cũng đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma) vĩnh viễn không còn có cơ hội cho quả của chúng được nữa, bởi vì sau khi bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài.

3 Loại Nghiệp Được Thành Tựu và Vô Hiệu Quả

Trong cõi dục giới nếu mỗi lộ trình tâm có đầy đủ 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) sinh rồi diệt liên tục qua mỗi lộ trình tâm, thì 3 loại nghiệp được thành tựu cùng trong một lộ trình tâm ấy là:

1. Diṭṭhadhammavedanīyakamma: Nghiệp cho quả ngay trong kiếp hiện tại (kể kiếp thứ nhất).

2. Upapajjavedanīyakamma: Nghiệp cho quả tái sinh kiếp kế tiếp liền sau khi chấm dứt kiếp hiện tại (chết) (kể kiếp thứ nhì).

3. Aparāpariyavedanīyakamma: Nghiệp cho quả kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 cho đến kiếp chót của bậc Thánh Arahán trước khi tịch diệt Niết Bàn.

Trong mỗi lộ trình tâm cõi dục giới, các loại tâm theo tuần tự sinh rồi diệt liên tục nhiều nhất qua 17 sát-na tâm, theo thời gian tuổi thọ của đối tượng dục giới, qua ngũ môn lộ trình tâm.

* Ngũ môn lộ trình tâm

Ví dụ: Nhãn môn lộ trình tâm tiếp nhận sắc trần rõ ràng làm đối tượng, thì nhãn môn lộ trình tâm, có các loại tâm theo tuần tự sinh rồi diệt liên tục qua 17 sát-na tâm theo thời gian tuổi thọ của sắc trần ấy.

Đồ Biểu Nhãn Môn Lộ Trình Tâm


blank

Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm có đối tượng cũ (viết tắt bha).

1. Atītabhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm có sắc trần mới hiện tại (viết tắt atī).

2. Bhavaṅgacalanacitta: Hộ kiếp tâm rung động do sắc trần mới (viết tắt na).

3. Bhavaṅgapacchedacitta: Hộ kiếp tâm bị ngưng do sắc trần mới (viết tắt da).

4. Pañcadvāravajjanacitta: Ngũ môn hướng tâm có khả năng tiếp nhận 5 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc (viết tắt pañ).

5. Cakkhuviññāṇacitta: Nhãn thức tâm làm phận sự nhìn thấy sắc trần (viết tắt cak).

6. Sampaṭichanacitta: Tiếp nhận tâm làm phận sự tiếp nhận đối tượng sắc trần (viết tắt sam).

7. Santīraṇacitta: Suy xét tâm làm phận sự suy xét đối tượng tốt hoặc xấu (viết tắt san).

8. Voṭṭhabbanacitta: Xác định tâm đó là ý môn hướng tâm làm phận sự xác định đối tượng sắc trần (viết tắt voṭ) .

9-15 Javanacitta: Tác hành tâm làm phận sự tạo thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp) hoặc tâm duy tác không phải thiện nghiệp cũng không phải bất thiện nghiệp (ác nghiệp) (tâm của bậc Thánh Arahán) (viết tắt ja).

16-17 Tadālambanacitta: Tiếp đối tượng tâm làm phận sự tiếp đối tượng sắc trần, còn lại 2 sát-na tâm nữa là hết tuổi thọ của sắc trần, đồng thời chấm dứt nhãn môn lộ trình tâm (viết tắt ta).

Bhavaṅgacitta: Hộ kiếp tâm trở lại tiếp nhận đối tượng cũ (viết tắt bha).

Đó là nhãn môn lộ trình tâm, tương tự như vậy nhĩ môn lộ trình tâm, tỷ môn lộ trình tâm, thiệt môn lộ trình tâm, thân môn lộ trình tâm, mỗi lộ trình tâm chỉ khác mỗi thức tâm làm phận sự tiếp xúc biết đối tượng như:

Nhĩ thức tâm làm phận sự nghe thanh trần.

Tỷ thức tâm làm phận sự ngửi hương trần.

Thiệt thức tâm làm phận sự nếm vị trần.

Thân thức tâm làm phận sự xúc giác xúc trần.

* Ý môn lộ trình tâm

Ý môn lộ trình tâm có nhiều loại, ví dụ ý môn lộ trình tâmdục giới tác hành tâm .

Ý môn lộ trình tâmdục giới tác hành tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự như sau:


blank

Những chữ viết tắt giống như ngũ môn lộ trình tâm, chỉ còn manodvāravajjanacitta: Ý môn hướng tâm tiếp nhận 1 trong 6 đối tượng sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần (viết tắt ma).

Ý môn lộ trình tâm có dục giới tác hành tâm sinh rồi diệt liên tục theo tuần tự qua mỗi ý môn lộ trình tâm có nhiều nhất 12 sát-na tâm.

Trong Chú giải giải thích rằng:

Chỉ một lần búng đầu ngón tay, các tâm sinh rồi diệt liên tục 1.000 tỷ lần”.

Cho nên, mỗi khi nhìn thấy sắc trần hình dáng hoặc nghe thanh trần âm thanh v.v... hoặc mỗi khi hành động bằng thân, nói bằng khẩu, nghĩ bằng ý v.v... có vô số lộ trình tâm sinh rồi diệt tiếp diễn từ lộ trình tâm này đến lộ trình tâm khác suốt ngày đêm từ những kiếp quá khứ đến kiếp hiện tại. Cứ qua mỗi lộ trình tâm là đã tạo 3 loại nghiệp theo thời gian cho quả rồi.

* Có khoảng thời gian nào không tạo nghiệp hay không?

Thời gian không tạo thiện nghiệp, không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) bằng thân, hoặc bằng khẩu, hoặc bằng ý thì chỉ có thời gian lúc ngủ say không mộng mị, chiêm bao... mà thôi. Khi ngủ say chỉ có hộ kiếp tâm (bhavaṅgacitta) sinh rồi diệt liên tục suốt thời gian ngủ say, khi ấy không có lộ trình tâm nào phát sinh, do đó không tạo thiện nghiệp, cũng không tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp). Nhưng khi nằm mộng, chiêm bao..., khi ấy có mộng lộ trình tâm (supinavīthicitta) phát sinh, nên có thể có thiện nghiệp hoặc bất thiện nghiệp (ác nghiệp).

- Thiện nghiệp trong mộng như:

Trường hợp bà chánh cung Hoàng hậu Mahāmayādevī nằm mộng thấy con bạch tượng cao thượng chui vào người bà vào canh chót đêm rằm tháng 6 âm lịch. Đó là lúc Đức Bồ Tát Siddhattha kiếp chót tái sinh đầu thai vào lòng Phật mẫu.

Trường hợp Đức Bồ Tát Siddhattha nằm thấy 5 đại mộng vào canh chót đêm 14 tháng 4 âm lịch. Đức Bồ Tát tiên đoán, chắc chắn Ngài sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

Trường hợp nằm mộng thấy bay trên hư không từ ngọn núi này sang ngọn núi khác v.v... khi tỉnh dậy cảm thấy an lạc.

- Ác nghiệp trong mộng như:

Nằm thấy cảnh rùng rợn, cảnh thú dữ đuổi, cảnh bị rơi xuống hố sâu v.v... khi tỉnh dậy cảm thấy hồi hộp, bàng hoàng, sợ sệt v.v...

Thật ra, thiện nghiệp, bất thiện nghiệp (ác nghiệp) trong mộng, chiêm bao không có năng lực cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau.

Hai thời kỳ của một kiếp chúng sinh:

Paṭisandhikāla - Pavattikāla

1. Paṭisandhikāla: Thời kỳ tái sinh là thời kỳ bắt đầu một kiếp mới của mỗi chúng sinh nói chung, con người nói riêng.

2. Pavattikāla: Thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu là khoảng thời gian sau khi đã tái sinh và tiếp diễn suốt một kiếp cho đến khi chết, chấm dứt một kiếp chúng sinh nói chung hoặc một kiếp người nói riêng.

* Một kiếp người phải trải qua 2 thời kỳ ấy như thế nào?

Được sinh làm kiếp ngườiquả của dục giới đại thiện nghiệp mà dục giới đại thiện nghiệp đó là tác ý tâm sở đồng sinh với 8 dục giới đại thiện tâm.

Một kiếp người phải trải qua 2 thời kỳ: Paṭisandhikālapavattikāla

1. Paṭisandhikāla: Thời kỳ bắt đầu tái sinh đầu thai làm người

Trong thời kỳ tái sinh làm người thì 8 dục giới đại thiện tâm có khả năng cho 9 quả tâm: 8 dục giới đại quả tâm suy xét tâm hợp với thọ xả thuộc thiện quả vô nhân tâm. 9 quả tâm này có khả năng làm phận sự tái sinh kiếp sau (paṭi-sandhikicca) làm người hoặc làm chư thiên trong 6 cõi trời dục giới.

9 quả tâm này làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người, có 3 hạng người như sau:

- 4 dục giới quả tâm hợp với trí tuệ làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người có tam nhân (tihetukapuggala): Vô tham, vô sân vô si (trí tuệ) từ khi tái sinh.

- 4 dục giới quả tâm không hợp với trí tuệ làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người có nhị nhân (dvihetuka-puggala): Vô tham vô sân, không có vô si từ khi tái sinh.

- 1 suy xét tâm hợp với thọ xả thuộc thiện quả vô nhân tâm làm phận sự bắt đầu tái sinh đầu thai làm người vô nhân (ahetukapuggala) không có nhân nào trong 3 thiện nhân (Vô tham, vô sân vô si), người này sẽ là người đui mù, câm điếc, tật nguyền, đần độn, ngu muội, dốt nát... từ khi tái sinh.

Trong thời kỳ tái sinh đầu thai làm người, dục giới quả tâm làm phận sự tái sinh đồng sinh với 3 sắc pháp là sắc thân (kāyarūpa), sắc nam tính hoặc sắc nữ tính (bhavarūpa), sắc ý căn (hadayavatthu) cùng một lúc. Cho nên, khi tái sinh đầu thai làm người trong lòng mẹ lần đầu tiên, thai nhi đã được xác định là nam tính hoặc nữ tính (con trai hoặc con gái).

2. Pavattikāla: Thời kỳ sau khi đã tái sinh làm người.

Trong thời kỳ sau khi đã tái sinh đầu thai làm người, 8 dục giới đại thiện tâm này có khả năng cho 16 quả tâm: 8 dục giới đại quả tâm 8 thiện quả vô nhân tâm.

Trong 16 quả tâm này, có 1 trong 9 quả tâm đã làm phận sự tái sinh (paṭisandhikicca) bắt đầu đầu thai làm người, trong thời kỳ tái sinh chỉ 1 sát-na quả tâm, rồi trong thời kỳ sau khi đã tái sinh đầu thai làm người, 1 trong 9 quả tâm này liền tiếp tục làm phận sự hộ kiếp (bhavaṅgakicca) suốt kiếp người cho đến tận cùng của kiếp người; rồi cuối cùng cũng 1 trong 9 quả tâm này làm phận sự tử (chết) (cutikicca) chấm dứt một kiếp người.

8 thiện quả vô nhân tâm phát sinh trong kiếp hiện tại:

1. Nhãn thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nhìn thấy sắc trần những hình dáng đáng hài lòng.

2. Nhĩ thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nghe thanh trần những âm thanh đáng hài lòng.

3. Tỷ thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm ngửi hương trần các mùi thơm đáng hài lòng.

4. Thiệt thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm nếm vị trần các vị ngon đáng hài lòng.

5. Thân thức tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm xúc giác xúc trần tốt đáng hài lòng.

6. Tiếp nhận tâm, thuộc thiện quả vô nhân tâm tiếp nhận 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng.

7. Suy xét tâm hợp với thọ hỷ, thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng.

8. Suy xét tâm hợp với thọ xả, thuộc thiện quả vô nhân tâm suy xét 5 đối tượng: Sắc trần, thanh trần, hương trần, vị trần, xúc trần tốt đáng hài lòng

Mỗi quả tâm trong 8 thiện quả vô nhân tâm này, phát sinh do hội đủ nhân duyên của nó. 8 thiện quả vô nhân tâm này có thể phát sinh trong 11 cõi dục giới và một số cõi sắc giới, không có cõi sắc giới Vô Tưởng Thiên.

* Tóm lược, nghiệp và quả của nghiệp của 2 loại nghiệp: Nghiệp upapajjavedanīyakamma nghiệp aparāpariya-vedanīyakamma

* Bất thiện nghiệp và quả của bất thiện nghiệp

Một người đã tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) nặng, chắc chắn phải trải qua vô số lộ trình tâm phát sinh đầy đủ sinh rồi diệt liên tục trải qua 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) tạo bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy, cho nên bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy cũng có vô số. Sau khi người ấy chết, nếu bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy có cơ hội cho quả, thì cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi địa ngục, do bởi ác nghiệp nặng upapajja-vedanīyakamma. Đến khi mãn quả của bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy, được thoát ra khỏi cõi địa ngục ấy, rồi lại tái sinh trong cõi địa ngục khác hoặc tái sinh làm loài ngạ quỷ, hoặc tái sinh làm loài súc sinh,... do bởi ác nghiệp aparāpariya-vedanīyakamma. Ác nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu nhiều đời, nhiều kiếp, nếu ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

- Trong Chú giải ví dụ trường hợp:

Một người đã tạo ác nghiệp sát sinh giết một con heo để ăn thịt. Sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh giết heo ấy cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi địa ngục (do bởi ác nghiệp upapajjavedanīyakamma). Đến khi mãn quả của ác nghiệp ấy, được thoát ra khỏi cõi địa ngục. Khi thì bất thiện nghiệp (ác nghiệp) ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm loài súc sinh; khi thì thiện nghiệp cho quả tái sinh kiếp sau làm người... kiếp nào cũng bị giết chết như vậy, số kiếp bị giết bằng số lông của con heo mà người ấy đã giết trong kiếp quá khứ. Do năng lực quả của ác nghiệp sát sinh giết heo, đó là ác nghiệp aparāpariyavedanīyakamma cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu (pavattikāla), nếu ác nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

* Thiện nghiệp và quả của thiện nghiệp

Một người đã từng tạo thiện nghiệp bố thí, giữ giới trong sạch... chắc chắn trải qua vô số lộ trình tâm phát sinh đầy đủ sinh rồi diệt liên tục qua 7 sát-na dục giới tác hành tâm (kāmajavanacitta) tạo thiện nghiệp ấy, cho nên thiện nghiệp ấy cũng có vô số. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp kế tiếp (kiếp thứ 2) trong cõi trời dục giới, do bởi thiện nghiệp upapajja-vedanīyakamma. Đến khi mãn quả của thiện nghiệp ấy, rồi lại tái sinh kiếp sau trong cõi trời dục giới cao hơn, hoặc thấp hơn, hoặc tái sinh kiếp sau trở lại làm người trong gia đình phú hộ... (do bởi thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma). Thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma này có khả năng cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu (pavattikāla) nhiều đời, nhiều kiếp, nếu thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

- Trong Chú giải ví dụ trường hợp:

Một người đã tạo thiện nghiệp bố thí cúng dường đến chư Tỳ khưu Tăng một lần. Sau khi người ấy chết, thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả tái sinh kiếp sau trong cõi trời dục giới (do bởi thiện nghiệp upapajjavedanīya kamma). Đến khi mãn quả của thiện nghiệp ấy rồi, khi thì thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm người; khi thì cũng thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh kiếp sau làm chư thiên trong cõi trời dục giới. Trong vòng tử sinh luân hồi, dù tái sinh làm chư thiên hoặc làm người, kiếp nào cũng là người cao quý. Đó là do năng lực quả của thiện nghiệp aparāpariyavedanīyakamma ấy có cơ hội cho quả trong thời kỳ tái sinh kiếp sau kể từ kiếp thứ 3 và cho quả trong thời kỳ sau khi đã tái sinh, kiếp hiện hữu, nếu thiện nghiệp ấy có cơ hội cho quả của nó.

Đến kiếp chót, được tái sinh làm người gặp thời kỳ Đức Phật xuất hiện trên thế gian, hoặc thời kỳ Phật giáo hiện đang tồn tại trên thế gian, người ấy phát sinh đức tin trong sạch nơi Tam Bảo, xin phép xuất gia trở thành Tỳ khưu. Vị Tỳ khưu ấy thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý Tứ Thánh Đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh Arahán. Khi bậc Thánh Arahán tịch diệt Niết Bàn, chấm dứt tử sinh luân hồi trong tam giới, thì đồng thời tất cả mọi thiện nghiệp, tất cả mọi bất thiện nghiệp (ác nghiệp) đã được tích lũy từ vô số kiếp trong quá khứ cho đến kiếp hiện tại trước khi trở thành bậc Thánh Arahán đều trở thành nghiệp vô hiệu quả (ahosikamma).

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn