(Xem: 1821)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2279)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp hạnh bố thí Ba la Mật (Bậc hạ tt-2)

11 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9388)


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Ba La Mật_Tập 1)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp hạnh bố thí ba-la-mật bậc hạ (tt-2)

 

Chánh Cung Hoàng Hậu Maddī _ Tích Đức Bồ tát Vessantara (tt)

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí con yêu quí (piyaputtamahādāna) cho ông Bà-la-môn Jūjaka làm cho mặt đất rung chuyển, chư thiên trong các cõi trời dục giới, chư Đức vua trời trong 6 cõi trời dục giới, chư phạm thiên trong các cõi trời sắc giới, đồng tâm hoan hỷ tán dương ca tụng Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara đã thực hành hạnh đại thí con yêu quý (piyaputtamahādāna).

Đó là hạnh đại thí con yêu quý cao thượng. 

Khi ấy, nhóm chư thiên ngự tại rừng núi Himavantu nghe lời than vãn những nỗi khổ của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. Hai huynh muội tha thiết khẩn khoản chư thiên báo tin cho Mẫu hậu của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến gặp mau lẹ.

Nhóm chư thiên ngự tại núi rừng Himavanta bàn bạc với nhau rằng: “Lúc mặt trời chưa lặn, nếu Chánh cung Hoàng hậu Maddī từ rừng ngự trở về không nhìn thấy hai con, Chánh cung Hoàng hậu sẽ tâu hỏi Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, biết Đức Bồ tát đạo sĩ đã bố thí hai đứa con cho ông Bà-la-môn Jūjaka dẫn đi rồi, chắc chắn Chánh cung Hoàng hậu Maddī sẽ đi theo dấu chân hai con, với năng lực của mẫu tử tình thâm, Chánh cung Hoàng hậu sẽ phát sinh nỗi thống khổ cùng cực.

Cho nên, chư Thiên Vương truyền lệnh cho 3 vị thiên nam hoá ra ba con thú dữ: con sư tử, con hổ, con báo chặn đường ngự trở về của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, cho đến khi mặt trời lặn, rồi mới tránh đường cho hoàng hậu ngự đi về.

Sau đó, ba vị thiên nam đi theo sau bảo vệ Chánh cung Hoàng hậu ngự về cốc lá được an toàn bằng ánh sáng trăng rằm.”

Ba vị thiên nam thi hành theo, biến hoá ra con sư tử, con hổ, con báo nằm chặn đường không để cho Chánh cung Hoàng hậu Maddī ngự trở về cốc lá, lúc ban chiều.

Khi ấy, nữ đạo sĩ Maddī đang trên đường ngự trở về cốc lá, gặp ba con thú dữ ấy chặn đường, mới nghĩ rằng: “Đêm qua, ta nằm thấy ác mộng hãi hùng, sáng nay gặp những điều không may xảy ra: Cái mai được cầm trong tay bị rơi khỏi tay, cái gùi trên vai bị rớt xuống đất, mắt bị máy mắt bên phải, những cây có quả, hôm nay như không có quả, các phương hướng không rõ.”

Chánh cung Hoàng hậu Maddī nghĩ rằng: “Điều gì sẽ xảy ra? Trước đây chưa từng có như vậy. Vậy, điều gì sẽ xảy ra với ta, với Đức đạo sĩ Vessantara, Đức phu quân, với hai đứa con yêu quý của ta?”

Khi ấy, lúc chiều hôm, mặt trời sắp lặn, nữ đạo sĩ Maddī mang gùi trái cây ngự trên con đường trở về cốc lá, để phục vụ bữa ăn chiều cho Đức đạo sĩ Vessantara, Đức phu quân và hai đứa con yêu quý đang chờ đợi.

Trên đường, nữ đạo sĩ Maddī gặp phải 3 con thú dữ: Con sư tử, con hổ, con báo nằm chặn con đường nhỏ đủ một người đi, nên không thể tránh sang con đường nào khác được, nữ đạo sĩ Maddī cung kính 3 chúa sơn lâm này, tha thiết khẩn khoản rằng: “Tôi là Chánh cung Hoàng hậu Maddī của Đức vua Vessantara bị lưu đày đến sống trong núi Vaṅka này, tôi dẫn theo hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý đi theo phục vụ Đức Phu quân của tôi.

Cầu xin quý chúa sơn lâm từ bi nhường đường cho tôi đem các thứ trái cây về phục vụ bữa ăn chiều cho Đức phu quân và hai đứa con yêu quí của tôi”.

Ba chúa sơn vốn là ba vị thiện nam nghe lời cầu xin tha thiết khẩn khoản của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, 3 vị thiên nam cảm thấy vô cùng cảm động, nhưng vì phận sự nên phải chặn đường cho đến khi mặt trời lặn, mới tránh đường, và đi theo bảo vệ nữ đạo sĩ Maddī ngự trở về đến cốc lá bằng ánh sáng trăng rằm được an toàn.

Nữ đạo sĩ Maddī ngự đi về đến gần chỗ ở của mình, không nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đứng chờ đón như mỗi buổi chiều.

Nữ đạo sĩ Maddī hồi hộp bước đi theo con đường mòn dưới ánh trăng, cảnh vật đêm nay vắng vẻ lạ thường không một tiếng kêu của các loài vật, một cảnh tượng thật đáng rùng rợn chưa từng có trước đây.

Nhìn thấy Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara ngồi trước cốc như pho tượng, nữ đạo sĩ Maddī đến cung kính tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā của thần thiếp ở đâu? Thần thiếp không thấy 2 đứa con yêu quý đón thần thiếp như mỗi chiều.

Nghe nữ đạo sĩ Maddī tâu như vậy, Đức vua Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vẫn ngồi im không nói lời nào.

Nữ đạo sĩ Maddī tâu lại rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, 2 đứa con yêu quý của thần thiếp đang nằm ngủ trong cốc lá của Hoàng Thượng phải không?

Nữ đạo sĩ Maddī tâu như vậy, đến lần thứ ba, Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara vẫn ngồi im lặng như trước.

Chánh cung Hoàng hậu Maddī khóc than vãn rằng:

- Sở dĩ chiều nay ta đem trái cây về trễ là vì trên đường về gặp ba thú dữ nằm chặn con đường. Trên con đường nhỏ đủ một người đi, nên ta không còn con đường nào khác, để tránh chúng được, chờ đến khi mặt trời lặn, chúng mới chịu tránh đường, nên ta mới trở về trễ.

Nữ đạo sĩ Maddī tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ở nơi nào? Thần thiếp đã tâu nhiều lần, nhưng Hoàng Thượng vẫn làm thinh, không nói lời nào cả, làm cho thần thiếp đang khổ lại càng thêm khổ gấp bội.

Với ánh sáng trăng, Chánh cung Hoàng hậu Maddī khóc than thảm thiết đi vào trong rừng tìm những nơi mà hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thường đến chơi, đi qua hồ nước, tìm khắp mọi nơi trong rừng mà vẫn không tìm thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý đâu cả!

Chánh cung Hoàng hậu Maddī trở lại cốc lá của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara tâu rằng:

 - Tâu Hoàng Thượng, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ở nơi nào? Hai đứa con yêu quý của thần thiếp đang nằm ngủ trong cốc của Hoàng Thượng phải không? Hoặc hai đứa con yêu quý của thần thiếp bị thú rừng bắt ăn thịt rồi phải không? Hoặc hai đứa con yêu quý của thần thiếp bị người ta bắt dẫn đi rồi phải không?

Nghe nữ đạo sĩ Maddī tâu hỏi như vậy đã nhiều lần, nhưng Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vẫn ngồi im lặng.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, thần thiếp có lỗi gì mà Hoàng Thượng không nói với thần thiếp một lời nào. Hoàng Thượng không nói với thần thiếp đó là nỗi thống khổ cùng cực nhất hơn cả các nỗi khổ như không thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, 2 đứa con yêu quý của thần thiếp. 

- Tâu Hoàng Thượng, nếu đêm nay, Hoàng Thượng không nói với thần thiếp thì sáng ngày mai, Hoàng Thượng sẽ nhìn thấy thần thiếp có thân xác mà không còn tâm thức nữa.

Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara nghĩ rằng: Ta nên nói với nữ đạo sĩ Maddī bằng lời lẽ bắt lỗi rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Nữ đạo sĩ vốn là công chúa xinh đẹp, ở ngôi vị Chánh cung Hoàng hậu, đã có hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. Hôm nay, nữ đạo sĩ đi vào rừng một mình tìm các loại trái cây, các loại củ, từ sáng sớm, sao đến đêm xuống mới trở về bằng ánh sáng trăng. Đó là lỗi lớn của nữ đạo sĩ Maddī.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara bắt lỗi như vậy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, hôm nay, Hoàng Thượng có nghe tiếng rống của con sư tử, con cọp, con báo, con voi, con trâu rừng, con chó rừng, v.v… trời sấm sét vang rền khắp mọi nơi. Những hiện tượng báo trước những điều không may xảy ra với thần thiếp ở trong rừng như: Cầm cái mai trong tay bị rơi khỏi tay, cái gùi trên vai bị rớt xuống đất, mắt bị máy mắt bên phải, những cây có quả, hôm nay như không có quả, các phương hướng không rõ.

Khi ấy, thần thiếp phát sinh tâm sợ hãi, nên cầu nguyện chư thiên hộ trì Đức đạo sĩ Vessantara, phu quân, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, 2 đứa con yêu quý của thần thiếp được an toàn, thân tâm được an lạc.

Trên con đường từ rừng trở về, thần thiếp gặp phải 3 con thú dữ: con sư tử, con cọp, con báo nằm chặn con đường nhỏ chỉ đủ một người đi, nên thần thiếp không còn đường nào khác để tránh chúng được.

Thần thiếp đã cầu xin 3 con chúa sơn lâm tránh đường cho thần thiếp ngự đi trở về, mãi cho đến lúc mặt trời lặn, 3 con chúa sơn lâm mới tránh đường, nên thần thiếp mới ngự trở về được.

Đó là nguyên nhân mà thần thiếp về trễ đêm nay. Kính xin Hoàng Thượng tha lỗi cho thần thiếp.

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Maddī phân trần như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara ngồi làm thinh không nói lời nào cho đến lúc rạng đông ngày hôm sau.

Nữ đạo sĩ Maddī ngồi than vãn đủ điều mà Đức Bồ Tát Đạo sĩ vẫn ngồi lặng yên như pho tượng. Lòng nôn nóng muốn nhìn thấy hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, nữ đạo sĩ Maddī vừa khóc than thảm thiết vừa đi vào rừng với ánh sáng trăng, cố gắng tìm khắp mọi nơi mà 2 đứa con yêu quý đã từng đến chơi, với hy vọng mong manh gặp được hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā.

Chánh cung Hoàng hậu Maddī vừa khóc than thảm thiết vừa thất tha thất thểu đi tìm hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā quanh quẩn suốt đêm gồm quãng đường dài khoảng 15 do tuần. Chánh cung Hoàng hậu Maddī mệt lử, rồi thất vọng trở về đứng trước cốc, nhìn thấy Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara ngồi yên như pho tượng, Chánh cung Hoàng hậu Maddī khóc than nức nở rằng:

 “Hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý của thần thiếp chết rồi hay sao!”

Chánh cung Hoàng hậu Maddī ngất xỉu ngã lăn xuống mặt đất chết giấc. Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara nghĩ rằng: “Chánh cung Hoàng hậu Maddī như thế nào?”

Đức Bồ Tát đạo sĩ bước xuống, đi đến đặt tay phải lên trên trán Chánh cung Hoàng hậu, biết cảm giác còn hơi ấm, nên Ngài đem nước rưới lên mặt. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara không đụng chạm vào thân thể Chánh cung Hoàng hậu Maddī suốt 7 tháng qua, nhưng do năng lực của tâm sầu não, quá cảm động nên trào hai dòng nước mắt chảy ra, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đưa tay nâng thân hình tiều tuỵ của Chánh cung Hoàng hậu đặt trên vế, rồi rưới nước lên mặt.

Một lát sau Chánh cung Hoàng hậu Maddī tỉnh lại, cảm thấy hổ thẹn, nên đảnh lễ Đức đạo sĩ, tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý của Hoàng Thượng ở đâu?

Nghe Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu hỏi như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Xin lỗi nữ đạo sĩ, bần đạo đã thực hành hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý, đến cho ông Bà-la-môn Jūjaka rồi, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ.

 Vậy, xin nữ đạo sĩ Maddī phát sinh thiện tâm hoan hỷ với hạnh đại thí con yêu quý cao thượng này.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo như vậy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Tâu Hoàng Thượng, Hoàng Thượng đã thực hành hạnh đại thí con yêu quí, đến cho ông Bà-la-môn Jūjaka rồi, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ. Sao Hoàng Thượng không truyền bảo cho thần thiếp biết ngay từ đầu hôm vậy? 

Đức Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng:

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Sở dĩ bần đạo không dám truyền bảo cho nữ đạo sĩ biết ngay từ đầu hôm là vì bần đạo e ngại, nếu nữ đạo sĩ biết như vậy thì sẽ không ngăn được sự khổ tâm cùng cực làm cho trái tim bị vỡ ra. 

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Nữ đạo sĩ nên hoan hỷ hạnh đại thí con yêu quý để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

Xin nữ đạo sĩ không nên buồn khổ nữa. Bần đạo hy vọng rằng: Chúng ta sẽ gặp lại hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai con yêu quý của chúng ta.

- Này nữ đạo sĩ Maddī! Bần đạo có ý nguyện muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, để tế độ chúng sinh thoát khỏi biển khổ luân hồi, nếu có người nào đến xin trái tim của bần đạo thì bần đạo dám mổ ngực lấy trái tim, đem bố thí đến người ấy ngay.

Nghe Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo như vậy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, nay thần thiếp cảm thấy vô cùng hoan hỷ với hạnh đại thí con yêu quý cao thượng của Hoàng Thượng.

Kính xin Hoàng Thượng nên thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn, để hầu mong trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác.

- Muôn tâu Hoàng Thượng, phần đông mọi người có tính keo kiệt bủn xỉn trong của cải tài sản, con cái của mình, còn Hoàng Thượng là bậc luôn luôn hoan hỷ thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí con yêu quí của Hoàng Thượng.

 Đó là điều phi thường chưa từng có làm cho mặt đất rung chuyển, chư thiên các cõi trời dục giới đều hoan hỷ thốt lên lời Sādhu! Chư Đức vua trời cõi trời dục giới cũng đều hoan hỷ thốt lên lời Sādhu! 

Chánh cung Hoàng hậu suy xét rằng: “Tuy người mẹ là người mang thai 10 tháng sinh con ra, nuôi dưỡng con bằng bầu sữa mẹ, ẵm bồng, chăm sóc nuôi nấng con khôn lớn, nhưng người cha vẫn là người chủ của người con. Cho nên, Đức vua Vessantara thực hành hạnh đại thí con yêu quí của Hoàng Thượng cho ông Bà-la-môn Jūjaka, để bồi bổ cho đầy đủ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật. Đó là hạnh đại thí con yêu quý khó thực hành mà Đức vua Vessantara đã thực hành được.

Vậy, ta nên bày tỏ thiện tâm hoan hỷ. Do nghĩ như vậy, nên Chánh cung Hoàng hậu Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, thần thiếp thành tâm nói lên lời hoan hỷ Sādhu! với hạnh đại thí con yêu quý của Hoàng Thượng.

Đức Vua Trời Sakka Hỗ Trợ

Khi thấy Đức Vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī phát sinh thiện tâm cùng nhau hoan hỷ trong pháp hạnh Ba-la-mật, hạnh đại thí hai đứa con yêu quý nhất của mình (piyaputtamahādāna). Đức vua trời Sakka nghĩ rằng: “Hôm qua, Đức Vua Bồ Tát Vessantara đã thực hành hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý nhất của Ngài đến ông Bà-la-môn Jūjaka, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ, làm cho trái đất rung chuyển, các hàng chư thiên từ các cõi trời dục giới cho đến các cõi trời sắc giới phạm thiên đều hoan hỷ thốt lên lời Sādhu! tán dương ca tụng vang rền khắp toàn cõi trời.

Sau này, nếu có người nào đến hầu Đức Vua Bồ Tát Vessantara, xin Chánh cung Hoàng hậu Maddī thì Đức vua Bồ Tát cũng sẽ ban Chánh cung Hoàng hậu Maddī cho người ấy dẫn đi nơi khác. Nếu như vậy thì Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara chỉ còn một mình, không có người hộ độ Đức Bồ Tát đạo sĩ nữa. 

 Không muốn điều ấy sẽ xảy ra đối với Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, ta nên biến hoá thành vị Bà-la-môn đến chầu Đức vua Bồ Tát Vessantara, rồi xin Chánh cung Hoàng hậu Maddī để cho Đức Vua Bồ Tát Vessantara thành tựu hạnh đại thí vợ yêu quý của Ngài, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.

 Sau đó, ta sẽ kính dâng Chánh cung Hoàng hậu Maddī trở lại đến Đức vua Bồ Tát Vessantara.”

Nghĩ xong, vào lúc mặt trời mọc Đức vua trời Sakka từ cõi trời Tam thập Tam thiên xuất hiện xuống cõi người biến hoá thành Bà-la-môn đến chầu Đức Vua Bồ Tát Vessantara có sự hiện diện của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương có ít bệnh phải không? Tứ đại của Đại Vương được điều hoà, thân tâm của Đại Vương thựờng được an lạc, Đại Vương ngự tại nơi núi rừng này, có các loại trái cây, các loại củ đầy đủ

độ dùng hằng ngày phải không ? 

Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara truyền bảo rằng: 

- Này Bà-la-môn! Bần đạo có ít bệnh, tứ đại của bần đạo được điều hoà, thân tâm thường được an lạc, bần đạo ngự tại nơi núi rừng này, có các loại trái cây, các loại củ đầy đủ độ dùng hằng ngày.

Trú tại rừng núi Vaṅka này suốt 7 tháng qua, hôm nay bần đạo hân hạnh gặp được ông là vị Bà-la-môn có phẩm hạnh cao quý người thứ hai.

- Này Bà-la-môn! Ông đến nơi này hợp thời đúng lúc, xin mời Ngài vào bên trong, mời ông ngồi dùng các loại trái cây, dùng nước một cách tự nhiên.

- Này Bà-la-môn! Ông đã vất vả đi đến đây có nguyện vọng gì, xin ông nói cho bần đạo rõ được không?

Vị Bà-la-môn (vốn là Đức vua trời Sakka) tâu tán dương Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, dòng nước sông lúc nào cũng tràn đầy, không bao giờ khô cạn như thế nào, Đức Vua Bồ Tát Vessantara có đầy tâm từ bi tế độ đến những kẻ hành khất cũng như thế ấy.

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân này già yếu, đến đây có nguyện vọng muốn xin Đại Vương ban Chánh cung Hoàng hậu Maddī cho kẻ tiện dân này.

 Đó là nguyện vọng của kẻ tiện dân già yếu này đến chầu Đại Vương sáng hôm nay.

Đức Vua Bồ Tát Thực Hành Hạnh Đại Thí Vợ Yêu Quý

Nghe Bà-la-môn tâu xin như vậy, Đức Vua Bồ Tát Vessantara truyền bảo rằng:

- Này Bà-la-môn! Ngày hôm qua, bần đạo đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý nhất của bần đạo rồi.

Nay, dù chỉ còn Chánh cung Hoàng hậu Maddī mà thôi, bần đạo cũng vô cùng hoan hỷ truyền bảo cho ông biết rằng:

- Này Bà-la-môn! Ông chắc chắn sẽ được toại nguyện. Bần đạo vô cùng hoan hỷ ban Chánh cung Hoàng hậu Maddī đến cho ông với đại thiện tâm không hề nao núng, bởi vì bần đạo vô cùng hoan hỷ thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật này.

Đức Vua Bồ Tát Vessantara đem bình nước ra, một tay cầm bình nước còn tay kia nắm tay bà Chánh cung Hoàng hậu Maddī, Đức vua Bồ Tát rót nước từ bình chảy xuống bàn tay bà Chánh cung Hoàng hậu Maddī, rồi chảy xuống bàn tay vị Bà-la-môn.

Đó là nghi lễ ban Chánh cung Hoàng hậu Maddī cho vị Bà-la-môn (vốn là Đức vua trời Sakka).

Đức vua Bồ Tát Vessantara đã thành tựu hạnh đại thí người vợ yêu quý của Ngài (piyadāramahādāna) trong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

Hạnh đại thí người vợ yêu quý là 1 trong 5 hạnh đại thí mà Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành để cho pháp hạnh bố thí Ba-la-mật được đầy đủ trọn vẹn.

Đức vua Bồ Tát Vessantara có cơ hội tốt, duyên may đã thành tựu được hạnh đại thí vợ yêu quý nhất của Ngài, nên Ngài phát sinh đại thiện tâm vô cùng hoan hỷ.

Sau khi thực hành hạnh đại thí vợ yêu quý nhất của Ngài xong. Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ truyền bảo với ông Bà-la-môn rằng:

 “Ambho Brahmaṇa! Maddito me sataguṇena sahassa-guṇena satasahassaguṇena sabbaññutaññāṇameva piyataraṃ. Idaṃ me dānaṃ Sabbaññutaññāṇap-paṭivedhassa paccayo hotu.” [1]

 “- Này ông Bà-la-môn! Bần đạo chỉ có nguyện vọng muốn trở thành Đức Phật Toàn Giác mà thôi, là nơi yêu quý bậc nhất hơn cả yêu quý Chánh cung Hoàng hậu Maddī gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần.

Hạnh đại thí vợ yêu quý này của Như Lai xin làm duyên lành để chứng đắc thành Đức Phật Toàn Giác.”

Khi ấy, do oai lực của pháp hạnh Ba-la-mật, hạnh đại thí vợ yêu quý của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đến cho ông Bà-la-môn (vốn là Đức Vua trời Sakka) làm cho trái đất rùng mình chuyển động, trên bầu trời sấm sét vang rền, núi Sineru (Tu-di-sơn) cúi đỉnh núi xuống núi Vaṅka tỏ sự cung kính, toàn thể chư thiên ngự trên mặt đất đều tán dương ca tụng bằng lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Chư Đức vua các cõi trời dục giới cùng toàn thể chư thiên cõi dục giới đều chắp tay thốt lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Chư Phạm thiên cõi trời sắc giới cũng đều thốt lời Sādhu! Sādhu! Lành thay! Lành thay!

Còn Chánh cung Hoàng hậu Maddī vẫn giữ trạng thái tự nhiên, không hề biến sắc mặt, không tỏ vẻ không vừa lòng đức phu quân của mình, không lộ vẻ ngượng ngùng, cũng không hề rơi nước mắt, Chánh cung Hoàng hậu Maddī có đức tính nhẫn nại tự nhiên.

Khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ nhìn thấy Chánh cung Hoàng hậu Maddī vẫn tự nhiên, làm thinh không nói lời nào. Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara hiểu biết được đức tính cao thượng của Chánh cung Hoàng hậu Maddī. 

Đức vua Bồ Tát Vessantara, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā còn nhỏ (piyaputtamahādāna), và hạnh đại thí người vợ yêu quý là Chánh cung Hoàng hậu Maddī (piyadāramahādāna), để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hầu mong trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác tế độ cứu vớt chúng sinh thoát khỏi biển khổ luân hồi. 

Sự thật, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara rất yêu thương hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā và Chánh cung Hoàng hậu Maddī, nhưng vì có ý nguyện tha thiết muốn trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai, nên Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara phải thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý nhất và người vợ trẻ yêu quý nhất của Ngài, để bồi bổ cho được đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, hầu mong trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai.

Cho nên, ngôi vị Đức Phật Chánh Đẳng Giác là mục đích tối thượng mà Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara yêu quý hơn cả hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā và Chánh cung Hoàng hậu Maddī.

 Hiểu biết được mục đích tối thượng của Đức vua Bồ Tát Vessantara, Đức Phu Quân của mình, nên Chánh cung Hoàng hậu Maddī nhẫn nại hỗ trợ cho Đức vua Bồ Tát Phu Quân của mình được thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật. nên Chánh cung Hoàng hậu Maddī vẫn giữ thái độ tự nhiên.

Khi ấy, nhìn thấy Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, Đức Phu Quân nhìn thẳng vào khuôn mặt của mình, nên Chánh cung Hoàng hậu Maddī dõng dạc tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, thần thiếp còn trẻ đẹp, là Chánh cung Hoàng hậu của Hoàng Thượng. Vậy, Hoàng Thượng là Đức Phu Quân cũng là Đức Chủ Nhân của thần thiếp. Cho nên, Hoàng Thượng muốn ban thần thiếp đến cho vị nào, hoặc đem sinh mạng của thần thiếp hiến dâng đến vị nào, tùy theo ý của Hoàng Thượng.

Thần thiếp vô cùng hoan hỷ thuận theo ý của Hoàng Thượng, chỉ để giúp cho Hoàng Thượng được thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của Hoàng Thượng mà thôi.

Hiểu biết được đại thiện tâm vô cùng cao thượng của Đức vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī, nên vị Bà-la-môn vốn là Đức vua trời Sakka tán dương ca tụng rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Đại Vương đã thắng được kẻ thù bên trong tâm là mọi phiền não và cảm thắng được kẻ thù bên ngoài là loài người và chư thiên, nên làm cho mặt đất rùng mình chuyển động, chư thiên trong các tầng trời dục giới, chư phạm thiên trong các tầng trời sắc giới cũng đến tán dương ca tụng Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara. Tất cả chư thiên, phạm thiên đều hoan hỷ thốt lên rằng: “Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đã thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quí nhất và người vợ yêu quí nhất, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.”

Đó là những hạnh đại thí khó thực hành, chỉ có chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác mới có thể thực hành những hạnh đại thí này được mà thôi. Những hạng người

thường không thể thực hành được.

Cho nên, các pháp hạnh Ba-la-mật của chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác là cao thượng, khác hẳn với việc làm của những hạng người thường.”

Sau khi nói lời hoan hỷ tán dương ca tụng Đức Bồ tát đạo sĩ Vessantara xong, vị Bà-la-môn vốn là Đức vua trời Sakka nghĩ rằng: “ Bây giờ, ta nên dâng Chánh cung Hoàng hậu Maddī lại cho Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara, nên tâu rằng:

- Tâu Đức Bồ Tát đạo sĩ, hôm qua Đức Bồ Tát đã thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý nhất, hôm nay Đức Bồ Tát đã thực hành hạnh đại thí vợ trẻ yêu quý nhất, làm cho mặt đất rùng mình chuyển động, chư thiên trong các tầng trời dục giới, chư phạm thiên trong các tầng trời sắc giới cũng đều tán dương ca tụng Đức Bồ tát đạo sĩ.

- Tâu Đức Bồ Tát đạo sĩ, nay tôi xin kính dâng Chánh cung Hoàng hậu Maddī lại cho Đức Bồ Tát Đạo sĩ, bởi vì Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī đều là hai bậc đại thiện trí thực hành phạm hạnh cao thượng, hai bậc đại thiện trí đều thuộc dòng dõi vua chúa.

Hằng ngày, Nữ đạo sĩ Maddī hộ độ, phục vụ Đức Bồ Tát đạo sĩ.

- Tâu Đức Bồ Tát đạo sĩ, bổn vương vốn là Đức Vua trời Sakka xuất hiện đến nơi này, biến hoá thành vị Bà-la-môn, cốt để giúp Đức Bồ Tát Đạo sĩ thực hành hạnh đại thí vợ trẻ yêu quý nhất, chỉ giúp cho thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của Đức Bồ Tát đạo sĩ mà thôi.

Khi ấy, vị Bà-la-môn biến trở lại thành Đức vua trời Sakka đứng trên hư không tâu với Đức Bồ Tát đạo sĩ

Vessantara rằng:

- Tâu Đức Bồ Tát đạo sĩ, bổn vương sẽ kính dâng đến Đức Bồ Tát đạo sĩ 8 ân huệ. Kính xin Đức Bồ Tát đạo sĩ chọn lấy 8 ân huệ.

8 Ân Huệ

Nghe Đức Vua trời Sakka truyền bảo như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara tâu rằng:

- Tâu Đức vua trời Sakka trị vì cõi trời Tam thập Tam thiên, nếu Đức vua trời ban 8 ân huệ cho bần đạo, thì bần đạo xin nhận 8 ân huệ như sau:

1- Kính xin Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya là Đức Phụ Vương của bần đạo ngự đến nơi đây, truyền ngôi báu lại cho bần đạo, rồi đón rước bần đạo cùng Chánh cung Hoàng hậu Maddī hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara.

Đó là ân huệ thứ nhất mà bần đạo xin nhận.

2- Bần đạo khi trở thành Đức vua trị vì kinh thành Jettutara sẽ ân xá tất cả mọi tù nhân có tội tử hình, vì không muốn phạm tội sát sinh.

Đó là ân huệ thứ nhì mà bần đạo xin nhận.

3- .Thần dân thiên hạ trong nước, nếu là người lão niên, trung niên, ấu niên nghèo khổ không nơi nương tựa, tất cả những người ấy sẽ nương nhờ nơi Đức Vua, để có cuộc sống no đủ.

Đó là ân huệ thứ ba bần đạo xin nhận.

4- Hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā là hai đứa con yêu quý nhất của bần đạo sẽ được gặp trở lại, sẽ được sống lâu, sẽ lên ngôi vua trị vì đất nước Sivi bằng chánh pháp.

Đó là ân huệ thứ tư mà bần đạo xin nhận.

5- Bần đạo khi trở thành Đức vua chỉ có một Chánh cung Hoàng hậu Maddī mà thôi, và không bị ở trong sự cám dỗ của đàn bà.

 Đó là ân huệ thứ năm mà bần đạo xin nhận.

6- Khi đêm đã qua, mặt trời mọc, xin cho vật thực trời hiện ra cho bần đạo.

Đó là ân huệ thứ sáu bần đạo xin nhận.

7- Khi bần đạo trở thành Đức vua tạo phước thiện bố thí bao nhiêu đi nữa, của cải tài sản cũng không vơi đi chút nào, lúc nào trong các kho cũng đầy đủ của cải.

Khi đang bố thí với tâm hoan hỷ, sau khi đã bố thí rồi tâm càng hoan hỷ, không hối tiếc, không nóng nảy khổ tâm về sau.

Đó là ân huệ thứ bảy mà bần đạo xin nhận.

8- Khi bần đạo hết tuổi thọ kiếp hiện tại này, thiện nghiệp cho quả tái sinh lên cõi trời Tusita (Đâu suất đà thiên), rồi từ cõi Tusita chuyển kiếp (cuti), tái sinh (paṭisandhi) làm người là kiếp chót sẽ trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, tịch diệt Niết Bàn, không còn tái sinh trong kiếp sau nữa.

Đó là ân huệ thứ tám mà bần đạo xin nhận.

Lắng nghe tám điều ân huệ mà Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara xin nhận, Đức vua trời Sakka xét thấy cả 8 điều ân huệ ấy đều được thành tựu như ý, nên tâu rằng:

- Tâu Đức Bồ Tát đạo sĩ, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya không lâu sẽ ngự đến đây, sẽ truyền ngôi vua lại cho Đức Bồ Tát Đạo sĩ, và đón rước trở về kinh thành Jetuttara, và những điều ân huệ khác cũng sẽ được thành tựu như ý.

Sau khi ban 8 điều ân huệ xong, Đức vua trời Sakka ngự trở về cõi trời Tam thập Tam thiên.

 Hoàng Tử Jāli, Công Chúa Kaṇhājinā 

Ông Bà-la-môn Jūjaka cầm sợi dây và cây dẫn hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đi suốt một đoạn đường dài 60 do tuần, có chư thiên theo bảo vệ hộ trì hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā suốt ngày đêm.

 Mỗi ngày, đến khi mặt trời lặn, ông Bà-la-môn Jūjaka cột hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā tại gốc cây, nằm ngủ trên mặt đất, còn ông leo lên cây nằm ngủ trên cành cây, vì sợ các thú dữ làm hại ông.

Khi ấy, một vị thiên nam hoá ra làm Đức vua Bồ Tát Vessantara và một vị thiên nữ hoá làm Chánh cung Hoàng hậu Maddī hiện đến mở dây cột tay của hoàng tử Jāli công chúa Kaṇhājinā, rồi xoa bóp toàn thân thể hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, tắm rửa sạch sẽ, trang điểm đẹp đẽ, cho dùng vật thực chư thiên, rồi ẵm lên đặt trên giường của chư thiên như trong một lâu đài, nằm ngủ cho đến lúc rạng đông. Hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā trở lại bị cột dây như cũ, còn hai vị chư thiên biến mất.

Nhờ vậy, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā vẫn khoẻ mạnh không có bệnh.

Sáng dậy, ông Bà-la-môn Jūjaka leo xuống cây, ăn trái cây, uống nước, rồi tiếp tục dắt hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đi. Đến đoạn đường có hai ngã rẽ:

 *Một ngã đến đất nước Kāliṅga,

*Một ngã đến kinh thành Jetuttara.

Chư thiên khiến ông Bà-la-môn Jūjaka không rẽ theo ngã đường đến đất nước Kāliṅga mà rẽ theo ngã đường đến kinh thành Jetuttara, mà ông tưởng rằng đi trở về đất nước Kāliṅga.

Ông Bà-la-môn Jūjaka dắt hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến kinh thành Jetuttara chỉ có nửa tháng mà thôi. Đó là do oai lực của chư thiên thâu ngắn đường. 

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya Nằm Mộng

Đêm hôm ấy gần rạng đông, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya nằm mộng thấy rằng: “Đức Thái Thượng Hoàng đang ngự trên sân rồng, nhìn thấy một ông già da đen đem hai đoá hoa sen đến đặt trong tay của Đức Thái Thượng Hoàng. Nhận hai đoá hoa sen, Đức Thái Thượng Hoàng trang điểm hai bên lỗ tai, nhuỵ hai đoá hoa sen rơi xuống ngực.” 

Khi tỉnh giấc, Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo mời các vị quân sư đến đoán mộng.

Các vị quân sư tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Thái Thượng Hoàng, đây là giấc mộng lành, có hai người trong hoàng tộc của Đức Thái Thượng Hoàng từ xa trở về.

Nghe các vị quân suy đoán như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng vô cùng hoan hỷ ban thưởng cho các quân sư.

 Đức Thái Thượng Hoàng tắm rửa, độ bữa ăn sáng xong, ngự đến ngồi tại sân rồng. Chư thiên khiến ông Bà-la-môn Jūjaka dắt hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến trước sân rồng.

 Khi ấy, Đức Thái Thượng Hoàng nhìn thấy hai đứa bé: một bé trai giống như hoàng tử Jāli và một bé gái giống như công chúa Kaṇhājinā, hai đứa bé rất xinh đẹp dễ thương, ăn mặc như đạo sĩ

Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo vị quan cận thần ra dẫn ông Bà-la-môn và hai đứa bé vào.

 Vâng lệnh Đức Thái Thượng Hoàng, vị quan cận thần dẫn ông Bà-la-môn và hai đứa trẻ vào chầu Đức Thái Thượng Hoàng.

Nhìn thấy ông Bà-la-môn nắm dây dắt hai đứa bé như dắt đàn bò vào chầu, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya nhận biết ngay hai đứa bé ấy chính là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, cháu đích tôn của mình, nên truyền hỏi rằng:

- Này ông Bà-la-môn! Ngươi từ đâu đến? Ngươi có được hai đứa bé này bằng cách nào? Ngươi hãy mau tâu cho Trẫm rõ?

Nghe lệnh truyền của Đức Thái Thượng Hoàng như vậy, ông Bà-la-môn Jūjaka hoảng sợ tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ hèn này từ núi Vaṅka đến, kẻ hèn đi đến núi Vaṅka, xin Đức vua đạo sĩ Vessantara ban hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā này cho kẻ hèn này. Đức vua đạo sĩ Vessantara hoan hỷ ban hai đứa con yêu quý nhất này cho kẻ hèn. Từ núi Vaṅka, kẻ hèn đã dắt hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến đây suốt 15 ngày qua. Tâu Đại Vương. 

Nghe ông Bà-la-môn tâu như vậy, nhưng Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya không tin đó là sự thật, nên truyền hỏi lại rằng: 

- Này Bà-la-môn! Trẫm không thể tin lời của ngươi là sự thật, bởi vì trong đời này không có người cha nào chịu đem đứa con nhỏ yêu quý nhất của mình cho người khác được. Vậy, ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ, lý do nào mà ngươi có được hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā này. 

Ông Bà-la-môn Jūjaka tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, Đức vua Vessantara là nơi nương nhờ của những kẻ hành khất ví như mặt đất là nơi nương nhờ của tất cả chúng sinh muôn loài, ví như đại dương là nơi nương nhờ của các loài thuỷ tộc.

Đức vua Vessantara trú trong núi Vaṅka đã bố thí hoàng tử Jāli và công chúa Kahajinā đến cho kẻ tiện dân này đem về làm tôi tớ cho người vợ trẻ yêu quý của kẻ tiện dân.

Nghe ông Bà-la-môn Jūjaka tâu như vậy, các quan bàn tán với nhau rằng: “Đức vua Vessantara bị lưu đày ở rừng núi Vaṅka, chỉ có hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thế mà cũng đem bố thí đến ông Bà-la-môn này. Đó là điều không nên làm.”

 Khi ấy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền hỏi hai đứa cháu đích tôn rằng:

- Này hai cháu yêu quí của Vua nội! Đức Phụ Vương của hai cháu đem hai cháu bố thí đến ông Bà-la-môn hành khất này với tâm trạng như thế nào?

 Nghe Vua Nội truyền hỏi như vậy, hoàng tử Jāli tâu:

- Muôn tâu Đức Vua Nội, khi Đức Phụ Vương đã đem hai cháu bố thí đến kẻ hành khất Bà-la-môn này rồi, nghe tiếng khóc than của hoàng muội Kaṇhājinā, Đức Phụ Vương của hai cháu phát sinh nỗi khổ tâm cùng cực, đôi mắt đỏ ngầu chảy hai dòng nước mắt như hai dòng máu.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyn hỏi tiếp rằng:

- Này hai cháu yêu quí của Vua nội! Đức Phụ Vương của hai cháu là Thái tử của Vua Nội, Mẫu hậu của hai cháu là Vương phi (con dâu) của Vua Nội. Vậy, hai cháu là cháu đích tôn của Vua Nội.

Trước đây, hai cháu thấy Vua Nội, liền chạy đến ngồi trên vế của Vua Nội. Sao bây giờ, hai cháu đứng xa Vua Nội như vậy?

Hoàng hoàng tử Jāli rằng: 

- Muôn tâu Đức Vua nội, Đức Phụ Vương của hai cháu là Thái tử của Đức Vua Nội, Mẫu hậu của hai cháu là Vương phi (con dâu) của Đức Vua Nội, và hai cháu là cháu đích tôn của Đức Vua Nội. Nhưng bây giờ hai cháu là tôi tớ của ông Bà-la-môn này, không còn là cháu của Đức Vua Nội nữa.

Vì vậy, hai cháu phải đứng xa Đức Vua Nội.

 Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền bảo rằng:

- Này hai cháu yêu quý của Vua Nội! Hai cháu chớ nên tâu như vậy, làm cho trái tim của Đức Vua Nội bị đau nhói, thân thể của Vua Nội nóng như ngồi trên lò than nóng, thân tâm của Vua Nội cảm thấy đau khổ, nỗi thống khổ cùng cực.

- Này hai cháu yêu quý của Vua Nội! Với bất cứ giá nào, Vua Nội cũng chuộc hai cháu yêu quý ra, không còn là tôi tớ của ông Bà-la-môn này.  

- Này Jāli cháu yêu quí của Vua Nội! Khi bố thí hai cháu yêu quý cho ông Bà-la-môn này, Đức Phụ Vương của cháu có truyền bảo, mỗi cháu cần phải chuộc bao nhiêu hay không? Cháu nên tâu cho Vua Nội rõ, để Vua Nội truyền quan giữ kho đem của cải đến để chuộc hai cháu yêu quí của Vua Nội ra, không còn là tôi tớ của ông Bà-la-môn này.

Hoàng hoàng tử Jāli tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua Nội, khi Đức Phụ Vương bố thí hai cháu cho ông Bà-la-môn già này, nếu muốn chuộc hai cháu ra khỏi kiếp tôi tớ của ông Bà-la-môn này thì Đức Vua Nội cần phải trao cho ông Bà-la-môn này một số của cải như sau:

* Về phần cháu, Đức Vua Nội cần phải trao cho ông Bà-la-môn này 1000 lượng vàng.

* Về phần hoàng muội Kaṇhājinā dễ thương, cần phải trao cho ông Bà-la-môn này 100 tớ gái, 100 tớ trai, 100 con bò sữa, 100 con bò đực, và thứ khác, mỗi thứ 100.

 Nghe hoàng tử Jāli tâu như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền lệnh vị quan giữ kho lấy 1000 lượng vàng, dẫn 100 tớ gái, 100 tớ trai, dắt 100 con bò sữa, 100 con bò đực, đồ dùng, đồ ăn, đồ uống, v.v. … ban cho ông Bà-la-môn Jūjaka, để chuộc lại hai đứa cháu đích tôn ra khỏi kiếp tôi tớ của ông Bà-la-môn Jūjaka .

Đức Thái Thượng Hoàng còn ban cho ông Bà-la-môn Jūjaka một lâu đài 7 tầng. Từ đó ông Bà-la-môn Jūjaka có nhiều vàng, có nhiều tớ trai, tớ gái, và các thứ của cải.

Ông Bà-la-môn Jūjaka vô cùng hoan hỷ có được những thứ của cải quý báu, ở trong lâu đài sang trọng có nhiều người hầu hạ, ăn những món ngon vật lạ mà cuộc đời của ông không bao giờ dám mơ tưởng được.

Khi ấy, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā được tự do, thoát khỏi tôi tớ của ông Bà-la-môn Jūjaka.

Hoàng Tử Jāli Và Công Chúa Kaṇhājinā Được Tự Do 

Sau khi hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā không còn là tôi tớ của ông Bà-la-môn Jūjaka nữa, trở lại là cháu đích tôn Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā được tắm rửa sạch sẽ, mặc những trang phục của hoàng tử, của công chúa Kaṇhājinā, ăn uống những món ăn ngon lành, rồi hoàng tử Jāli lên ngồi trên vế của Đức Vua Nội, công chúa Kaṇhājinā lên ngồi trên vế của Bà Nội.

Khi ấy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī truyền hỏi rằng:

- Này hai cháu yêu quý của Vua Nội! Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của hai cháu được khoẻ mạnh phải không? Các loài thú dữ trong rừng có đến làm hại không? 

Hằng ngày, Đức Phụ Vương, Mẫu hậu và hai cháu sống bằng các loại trái cây rừng, các loại củ có được đầy đủ hay không? 

Hoàng tử Jāli tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua Nội, Bà Nội, Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của hai cháu vẫn khoẻ mạnh như thường. Các loài thú dữ trong rừng không đến làm hại gì cả.

Hằng ngày, mỗi buổi sáng, Mẫu hậu của hai cháu là nữ đạo sĩ thức dậy sớm, mang nồi xuống sông lấy nước uống, nước dùng đầy đủ, rồi dẫn hai cháu đến ở với Đức Phụ Vương, Mẫu hậu một mình mang gùi trên vai, tay cầm cây mai, ngự đi vào rừng tìm các loại trái cây, các loại củ, đến buổi chiều mang về nuôi dưỡng Đức Phụ Vương, Mẫu hậu và hai cháu dùng bữa ăn chiều, và dành lại một phần trái cây để dùng vào buổi sáng ngày hôm sau như vậy.

- Muôn tâu Đức Vua Nội, Bà Nội, Mẫu hậu của hai cháu vốn là công chúa có thân mình mảnh mai, đảm đang việc nuôi dưỡng Đức Phụ Vương và hai cháu hằng ngày, nên thân hình trở nên ốm gầy, da dẻ rám nắng.

Mỗi ngày, Mẫu hậu của hai cháu một mình ngự đi vào rừng có nhiều loài thú dữ, các loài rắn độc đầy nguy hiểm đến sinh mạng.

Còn Đức Phụ Vương của hai cháu là đạo sĩ cao thượng, mặc da cọp, nằm trên mặt đất, ăn mỗi ngày một bữa vào buổi chiều, đi vào rừng tìm củi, và chăm nom săn sóc hai cháu, cũng chịu bao nhiêu nỗi vất vả khổ cực.

Lắng nghe lời thỏ thẻ của cháu đích tôn, hoàng tử Jāli diễn tả đời sống vất vả khổ cực của Vương phi (người con dâu) Maddī và Thái tử Vessantara, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī vô cùng cảm động rơi đôi dòng nước mắt. 

Khi ấy, hoàng tử Jāli tâu tiếp rằng:

- Muôn tâu Đức Vua Nội, Bà Nội, trong đời này, những người cha mẹ đều yêu thương những đứa con trai, con gái của mình. Còn Đức Vua Nội và Bà Nội có yêu thương Thái tử Vessantara là Đức Phụ Vương của con hay không?

Nghe cháu đích tôn, hoàng tử Jāli tâu hỏi như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī cảm thấy đau nhói trong tim, nên truyền bảo rằng:

- Này hai cháu yêu quý của Vua Nội! Đúng vậy, trong đời này, những người cha mẹ đều yêu thương những đứa con trai, con gái của mình, nhưng Vua Nội đã chiều theo lời tâu của dân chúng đất nước Sivi, nên Vua Nội đã lưu đày Đức vua Vessantara, Thái tử của Vua Nội không có lỗi đến rừng núi Vaṅka.

Như vậy, Vua Nội không có tâm từ, tâm bi đối với Thái tử Vessantara, làm cho Đức Phụ Vương Vessantara, Mẫu hậu Maddī của hai cháu đích tôn của Vua Nội phải chịu bao nhiêu nỗi vất vả khổ cực như vậy.

Để sửa lại những lỗi lầm của Vua Nội trước đây, cháu nên đi thỉnh Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của hai cháu hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara, Vua Nội sẽ nhường ngôi báu lại cho Đức Phụ Vương của hai cháu, trị vì đất nước Sīvī này.

 Hoàng tử Jāli tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Vua Nội, cháu tin chắc rằng: Đức Phụ

Vương của cháu không tự mình hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara này theo lời thỉnh cầu của cháu đâu!

Cháu kính xin Đức Vua Nội ngự đến rừng núi Vaṅka, làm lễ đăng quang truyền ngôi báu lại cho Đức Phụ Vương của cháu, rồi thỉnh hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara, trị vì đất nước Sivi này.

Nghe lời tâu thỉnh của hoàng tử Jāli, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya chấp thuận. Để cho buổi lễ phong vương truyền ngôi vua lại cho Thái tử Vessantara được trọng thể, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī, thân chinh ngự đến cùng với đoàn hộ giá tuỳ tùng đông đảo. Cho nên, Đức Thái Thượng Hoàng truyền lệnh quan Thừa tướng rằng:

- Này Thừa tướng! Trẫm sẽ thân chinh ngự đến rừng núi Vaṅka, để làm lễ phong vương truyền ngôi vua lại cho Thái tử Vessantara, rồi thỉnh hồi cung trở về kinh thành Jetuttara, trị vì đất nước Sivi này như trước. Vậy, khanh hãy truyền lệnh của Trẫm rằng:

* Các đoàn binh: Đoàn tượng binh, đoàn mã binh, đoàn quân xa, đoàn bộ binh hộ giá theo Trẫm. Các đoàn binh hãy chuẩn bị sẳn sàng. 

*Các vương gia trong hoàng tộc chuẩn bị sẵn sàng.

*60 ngàn vị quan sinh cùng ngày với Thái tử của ta chia ra từng nhóm, mỗi nhóm mặc sắc phục khác nhau: nhóm mặc màu trắng, nhóm màu đỏ, nhóm màu vàng, nhóm màu xanh,… trang sức đẹp đẽ chuẩn bị sẵn sàng. 

*Các vị Bà-la-môn quân sư, các vị Bà-la-môn trong triều ăn mặc chỉnh tề trang sức đẹp đẽ chuẩn bị sẵn sàng.

*Dân chúng trong nội thành, ngoại thành, các tỉnh thành, ăn mặc tử tế, trang sức đẹp đẽ chuẩn bị sẵn sàng.

*14 ngàn voi báu, 14 ngàn con ngựa báu trang sức đầy đủ đẹp đẽ chuẩn bị sẵn sàng.

*14 ngàn chiếc xe trang hoàng lộng lẫy.

*Sửa sang con đường từ kinh thành Jetuttara đến rừng núi Vankata đẹp đẽ, hai bên đường có trồng hoa treo cờ.

*Dân chúng chuẩn bị đồ ăn, thức uống ngon lành hai bên đường, để tiếp đãi những người đi đón rước Thái tử Vessantara hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền lệnh đến các quan, toàn thể dân chúng trong đất nước Sīvī hãy chuẩn bị sẵn sàng chờ lệnh khởi hành.

Ông Bà-la-môn Jūjaka Chết

 Khi ấy, Bà-la-môn Jūjaka dùng vật thực ngon miệng, ăn quá độ, nên không thể tiêu hoá được, đã ngã lăn ra chết tại chỗ.

Đức Thái Thượng Hoàng truyền lệnh làm lễ hoả táng và thông báo rằng: 

Ai là thân quyến của ông Bà-la-môn Jūjaka, hãy đến nhận thừa kế tất cả của cải tài sản của ông. 

Nhưng không thấy một ai đến, cho nên tất cả của cải tài sản ấy được sung vào kho của triều đình.

Lễ Đón Rước Đức Vua Bồ Tát Vessantara

Trong vòng chỉ có 7 ngày, tất cả đều được chuẩn bị sẵn sàng, đặc biệt trong buổi lễ đi rước Đức vua Bồ Tát Vessantara có con bạch tượng báu (paccayanāga) mà Đức vua Bồ Tát Vessantara đã bố thí đến 8 vị Bà-la-môn đất nước Kāliṅga trước đây.

Sau khi họ đem con bạch tượng báu về đất nước Kāliṅga thì trời không còn nắng hạn nữa, mưa thuận gió hoà, mùa màng cày cấy trồng trọt tốt. Vì vậy, Đức vua đất nước Kāliṅga truyền lệnh 8 vị Bà-la-môn đem trả con bạch tượng báu ấy lại cho đất nước Sivi. Cho nên, trong buổi lễ đón rước này, con bạch tượng báu (paccayanāga) vô cùng hoan hỷ được gặp lại Đức vua Vessantara chủ cũ, bởi vì nó sinh ra cùng ngày với Đức Bồ Tát Vessantara, chỉ để phục vụ Đức vua Bồ Tát Vessantara mà thôi.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya thân chinh ngự đi cùng với các đoàn tuỳ tùng đông đảo đi theo hộ giá, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā dẫn đường từ kinh thành Jetuttara đến rừng núi Vaṅka, khoảng đường dài 60 do tuần.

Khu rừng núi Vaṅka thật phi thường, các loài hoa đua nhau nở rộ, các trái cây đua nhau chín có mùi thơm ngon ngọt, các loài chim rừng đua nhau hót lên tiếng lảnh lót vui mừng trên các cành cây, những con thú rừng đua nhau trổ tài rống lên tiếng vui mừng vang dội khắp khu rừng núi Vaṅka. Phái đoàn người đến hồ Mucalinda, hoàng tử Jāli cho đoàn dừng lại, đóng trại tại nơi ấy, để giữ gìn bảo vệ sự an toàn.

Khi ấy, nghe tiếng đàn voi rống, tiếng ngựa hí, … Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara gọi nữ đạo sĩ Maddī, dẫn nhau leo lên đỉnh núi cao, nhìn xem thấy các đoàn binh đông đảo, bụi mù bốc lên trong khu rừng lớn, Đức Bồ Tát Đạo sĩ truyền hỏi nữ đạo sĩ Maddī rằng:

- Này Maddī! Các đoàn binh đông đảo đang kéo đến đây, chắc chắn có việc quan trọng phải không?

Nghe Đức Bồ Tát Đạo sĩ truyền hỏi như vậy, nữ đạo sĩ Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Hoàng Thượng, đúng vậy, chẳng có ai dám đụng đến Hoàng Thượng đâu! Cũng như lửa không thể đụng đến nước đại dương.

Kính xin Hoàng Thượng suy xét đến 8 điều ân huệ mà Đức Vua trời Sakka đã ban cho Hoàng Thượng.

Vậy, chắc chắn, Đức Phụ Vương Sañjaya sẽ ngự đến đây, đem lại những điều tốt lành đến Hoàng Thượng.

Nghe nữ đạo sĩ Maddī tâu như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ cùng với nữ đạo sĩ Maddī xuống núi, trở về ngồi tại cốc lá, nữ đạo sĩ Maddī cũng ngồi trước cửa cốc lá của Đức Bồ Tát

 Vương Gia Đoàn Tụ

 Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền bảo với bà Hoàng Thái Hậu Phussatī rằng:

- Này ái khanh Phussatī! Nếu chúng ta ngự đến cùng một lúc thì sẽ xảy ra nỗi sầu não lớn. Vậy, Trẫm ngự đến gặp Thái tử Vessantara trước, rồi ái khanh ngự đến sau, kế tiếp hai đứa cháu đích tôn, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đến sau cùng.

Khi ấy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya ngự đi cùng với đoàn tuỳ tùng các quan hộ giá đông đảo đến cốc lá của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara.

Nhìn từ xa, thấy Đức Thái Thượng Hoàng đang ngự đến, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara và nữ đạo sĩ Maddī đứng dậy, ngự ra đón rước, quỳ xuống đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Thái Thượng Hoàng. Nữ đạo sĩ Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, con là Maddī, con dâu của Đức Phụ Vương, kính xin đảnh lễ dưới hai bàn chân của Đức Phụ Vương. 

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya cúi xuống ôm choàng Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī vào lòng, hôn trên đầu, hai tay xoa vai hai người con, nhìn thấy Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī thân hình gầy ốm, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya quá cảm động nên bật ra tiếng khóc. Một lát sau thỉnh Đức Thái Thượng Hoàng ngự vào ngồi trong cốc lá.

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền hỏi rằng: 

- Này hai con yêu quý! Hai con thường được khoẻ mạnh hay không? Hai con có đầy đủ các thứ trái cây để dùng hằng ngày hay không? Các loài thú rừng có đến làm khổ hai con hay không?

Nghe Đức Thái Thượng Hoàng truyền hỏi như vậy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, hai con sống trong rừng núi Vaṅka này ít bệnh hoạn, nhưng phải vất vả khổ cực lắm, thiếu thốn mọi điều.

Hằng ngày mỗi buổi sáng, nữ đạo sĩ Maddī mang gùi trên vai, tay cầm cây mai, ngự đi vào rừng sâu có nhiều thú dữ đầy nguy hiểm, tìm các thứ trái cây rừng, đào các loại củ, đến buổi chiều đem về nuôi dưỡng con và hoàng

tử Jāli, công chúa Kaṇhājinā, đủ ăn một bữa chiều tối.

Còn con ở cốc, vào rừng tìm củi khô, mang nồi xuống sông lấy nước, chăm nom săn sóc hai đứa con yêu quý nhất. Cuộc sống của chúng con chịu vô vàn cực khổ không sao kể xiết, nỗi khổ cực ấy đã dạy cho chúng con biết nhẫn nại chịu đựng, biết tri túc. Cho nên, cuộc sống của chúng con vẫn được yên lành.

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, chúng con bị lưu đày đến rừng núi Vaṅka này, dù cuộc sống có muôn vàn vất vả khổ cực về phần khổ thân vẫn chịu đựng được, nhưng nỗi khổ tâm vì phải xa lìa Đức Phụ Vương và Mẫu hậu thì không sao chịu nổi được. Vì vậy, chúng con làm sao an lạc cho được.

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, hai đứa cháu đích tôn của Đức Phụ Vương và Mẫu hậu là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đã bị con bố thí đến cho ông Bà-la-môn Jūjaka. Ông Bà-la-môn là người độc ác, đã đánh đập, chửi mắng hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, lôi kéo đi một cách tàn nhẫn, như đánh đập đàn bò.

Nếu Đức Phụ Vương nghe biết tin hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thì xin Đức Phụ Vương truyền bảo cho hai con biết liền ngay bây giờ. Ví như vị thầy rắn trị nọc độc cứu sống liền bệnh nhân bị rắn độc cắn vậy. 

Nghe Thái tử Vessantara nóng lòng muốn biết tin hai đứa con yêu quý nhất, nên Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền bảo rằng:

- Này hai con yêu quí! hai đứa cháu đích tôn yêu quý của Phụ Vương là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā đã được Phụ Vương đem của cải tài sản ra chuộc lại rồi.

Vậy, hai con chớ nên nóng lòng khổ tâm nữa, chắc chắn hai con sẽ gặp lại hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā ngay bây giờ tại nơi đây.

Nghe Đức Phụ Vương truyền bảo như vậy, Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī vô cùng hoan hỷ an tâm chờ đợi. Thái tử Vessantara tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, Đức Phụ Vương vẫn được khoẻ mạnh, thân tâm thường được an lạc, và Mẫu hậu của hai con cũng được khoẻ mạnh, thân tâm thường được an lạc, có đôi mắt sáng, không bị mờ vì khóc thương hai con phải không?

Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo rằng:

- Này hai con yêu quý! Mẫu hậu của hai con vẫn khoẻ mạnh, thân tâm thường được an lạc, có đôi mắt vẫn còn sáng, không bị mờ vì khóc thương hai con.

Thái tử Vessantara tâu hỏi về việc triều đình, hoàng tộc, dân chúng trong kinh thành Jetuttara, ngoài kinh thành, toàn thể dân chúng trong đất nước Sivi đều có cuộc sống an lành thịnh vượng.

Khi ấy, Hoàng thái hậu Phussatī biết lúc này Đức Thái Thượng Hoàng, Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī (con dâu) đã bớt nỗi khổ tâm rồi, nên Hoàng thái hậu Phussatī nóng lòng muốn ngự vào gặp Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī, con dâu yêu quý của bà.

Hoàng thái hậu Phussatī ngự đi cùng với đoàn tuỳ tùng hộ giá đông đảo đến. Nhìn từ xa thấy Mẫu hậu Phussatī đang ngự đến, Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī ngự ra đón rước, quỳ xuống đảnh lễ dưới hai bàn chân của Mẫu hậu. Nữ đạo sĩ Maddī tâu rằng:

- Muôn tâu Mẫu hậu, con là Maddī, con dâu của Mẫu hậu, kính xin đảnh lễ dưới hai bàn chân của Mẫu hậu.

 Hoàng thái hậu Phussatī cúi xuống đưa hai tay ôm choàng Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī vào lòng, hôn trên đầu, xoa vai của hai người con yêu quý của bà.

Khi ấy, cả 3 vị vương gia đang đứng ôm nhau khóc vì quá cảm động, thì hoàng tử Jāli công chúa Kaṇhājinā từ xa ngự đến.

Đứng nhìn thấy hai đứa con yêu quý nhất đang ngự đến, Chánh cung Hoàng hậu Maddī toàn thân rung động không nén nổi xúc động, bật ra tiếng khóc lớn, chạy bổ nhào về phía hai đứa con yêu quý của mình, như con bò mẹ chạy bổ nhào đến con bê, ngã vật xuống nằm trên mặt đất ngất xỉu, từ hai đầu vú hai dòng sữa bắn ra, vừa đúng lúc hoàng tử Jālī và công chúa Kaṇhājinā chạy bổ nhào đến ngã trên ngực Mẫu hậu Maddī, đưa miệng ngậm bú mỗi đứa một dòng sữa mẹ, rồi cũng ngất xỉu trên ngực Mẫu hậu.

Thấy cảnh tượng Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jālī và công chúa Kaṇhājinā, hai đứa con yêu quý như vậy, nên Đức vua Bồ Tát Vessantara phát sinh nỗi thống khổ cùng cực không chịu đựng nổi, nên cũng bị ngất xỉu ngã lăn xuống mặt đất ngay tại nơi ấy.

 Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya và Hoàng Thái Hậu Phussatī chứng kiến Thái tử Vessantara, Vương phi Maddī và hai đứa cháu đích tôn của mình như vậy, vô cùng xúc động quá, nên cũng bị ngất xỉu ngã xuống nằm trên mặt đất tại nơi ấy.

Thấy 6 vị Vương gia đều bị ngất xỉu như vậy, 60 ngàn vị quan cùng sinh cùng một ngày với Đức vua Bồ Tát Vessantara, vì xúc động quá, nên cũng đều bị ngất xỉu, ngã xuống nằm trên mặt đất tại nơi ấy.

Những đoàn tuỳ tùng hộ giá khác nhìn thấy cảnh tượng cảm động quá đều cũng ngất xỉu ngã xuống nằm trên mặt đất tại nơi ấy.

Trước cốc lá của Đức Bồ Tát Đạo sĩ Vessantara trở thành bãi tha ma đầy thân người nằm ngổn ngang bất động trên mặt đất.

Khi ấy, rừng núi Vaṅka bị rung chuyển, mặt đất bị rung động, núi Sineru (Tu di sơn) bị chuyển động, chư thiên các tầng trời dục giới đều xao xuyến trong lòng.

 Trận Mưa Phép

 Khi ấy, Đức vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên nghĩ rằng: “Sáu vị Vương gia cùng với các nhóm tuỳ tùng hộ giá đều bị ngất xỉu hết thảy, không có một ai có thể ngồi dậy, rưới nước lên đầu của ai để cho họ tỉnh lại được cả. Vậy, ta nên hoá ra một trận mưa rơi xuống ngay bây giờ.”

Nghĩ xong, Đức vua trời Sakka hoá một trận mưa rơi xuống chỉ cho 6 vị vương gia cùng các nhóm tuỳ tùng hộ giá làm cho họ tỉnh lại mà thôi, còn những người khác không một ai bị ướt cả, hạt mưa rơi xuống đụng họ liền trượt xuống đất như hạt nước rơi xuống lá sen.

Ngay khi ấy, 6 vị Vương gia tỉnh lại và nhìn thấy đám tuỳ tùng cũng đều tỉnh lại. Tất cả dân chúng trong xứ Sīvī nhìn thấy một sự kiện chưa từng có bao giờ, một trận mưa làm tỉnh lại 6 vị vương gia cùng đám tuỳ tùng hộ giá đông đảo đều tỉnh lại.

 Buổi đoàn tụ 6 Vương gia: Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, bà Hoàng thái hậu Phussatī, Thái tử Vessantara, Vương phi Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā làm cho toàn thể dân chúng đất nước Sivi vô cùng cảm động, phát sinh rùng mình rởn tóc gáy.

Tất cả những người trong hoàng tộc, dân chúng trong kinh thành Jetuttara, dân chúng các tỉnh thành trong đất nước Sivi đều khóc, rồi chắp 2 tay khẩn khoản thỉnh cầu Thái tử Vessantara và Vương phi Maddī rằng:

- Muôn tâu Thái tử, kính thỉnh Thái tử lên ngôi Đức vua trị vì đất nước Sīvī, Vương phi Maddī trở thành Chánh cung Hoàng hậu như trước.

Nghe lời thỉnh cầu của dân chúng đất nước Sivi , Thái tử Vessantara làm thinh bèn tâu Đức Phụ Vương rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, ngày trước dân chúng đất nước Sivi hội họp kéo đến trước cung điện yêu cầu Đức Phụ Vương mời con là Đức vua Vessantara ra khỏi đất nước Sivi, lưu đày đến rừng núi Vaṅka này.

Khi nghe Thái tử Vessantara tâu như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền bảo rằng:

- Này hoàng nhi Vessantara yêu quý! Thật vậy, ngày trước dân chúng đất nước Sivi hội họp kéo đến trước cung điện yêu cầu Phụ Vương mời con  ra khỏi đất nước Sivi, lưu đày đến rừng núi Vaṅka này. Do chiều theo yêu cầu của họ, nên Phụ Vương đã mời con là Đức vua Vessantara không có lỗi ra khỏi kinh thành Jetuttara, ra khỏi đất nước Sivi, lưu đày con đến rừng núi Vaṅka này, làm cho con, Vương phi Maddī, hai cháu đích tôn là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā phải chịu vô vàn khổ cực, vất vả thiếu thốn suốt thời gian dài 9 tháng rưỡi qua.

Đó là điều sai lầm mà Phụ Vương đã phạm phải lỗi nghiêm trọng đối với hai con và hai cháu đích tôn của Phụ Vương. Phụ Vương đã biết lỗi của mình từ lâu.

Vậy, xin con hãy nên bỏ lỗi cho Phụ Vương, để cho tâm của Phụ Vương được thanh thản lúc tuổi già. 

- Này hoàng nhi yêu quý! Nay Phụ Vương xin truyền ngôi vua lại cho con. Xin con vâng lời Phụ Vương, xả bỏ cuộc đời đạo sĩ ở tại rừng núi Vaṅka này, nhận lên ngôi làm vua. Phụ Vương sẽ làm đại lễ đăng quang con lên ngôi vua, thỉnh hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara, trị vì đất nước Sivi này.

 Nghe lời khẩn khoản tha thiết của Đức Phụ Vương, Thái tử Vessantara hoan hỷ tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, “Sādhu”, con xin cung kính vâng lời truyền dạy của Đức Phụ Vương.  

Biết Thái tử Vessantara đã nhận lời lên ngôi làm vua, Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya cảm thấy vô cùng hoan hỷ, và nhất là 60 ngàn vị quan đồng sinh cùng một ngày với Thái tử Vessantara lại càng hoan hỷ tâu rằng: 

- Tâu Thái tử Vessantara, xin mời Thái tử Vessantara đi tắm rửa cho thân thể sạch sẽ, bỏ bộ y phục đạo sĩ, cạo râu, sửa tóc, rồi mặc bộ trang phục Đức Vua, để làm đại lễ đăng quang lên ngôi vua tại nơi đây. 

Thái tử Vessantara truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Hãy chờ một lát.

Thái tử Vessantara ngự ra sau tắm rửa sạch sẽ, bỏ bộ y phục đạo sĩ, mặc bộ y phục màu trắng tinh, ngự vào ngồi trong cốc lá tư duy rằng: “Ta đã trú tại nơi ngôi cốc lá này suốt 9 tháng rưỡi, đã thực hành pháp hành thiền định, và các pháp hạnh Ba-la-mật, nhất là thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý và người vợ yêu quý, để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật của ta, làm cho mặt đất rung chuyển, chư thiên vô cùng hoan hỷ nói lên lời “Sādhu”.

 Ta chân thành tri ân nơi này, cầu mong tất cả chúng

sinh sống yên lành, thân tâm thường được an lạc.”

Khi ấy, Thái tử Vessantara ngự ra khỏi cốc, truyền bảo vị quan đến sửa râu, tóc xong, mặc bộ trang phục Đức Vua, trang sức các viên ngọc quý lộng lẫy như Đức Vua trời.

Lễ Đăng Quang Lên Ngôi Vua

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya truyền lệnh 60 ngàn vị quan sinh cùng ngày với Thái tử Vessantara mặc trang phục chỉnh tề, bá quan văn võ tề tựu đông đủ, truyền lệnh đoàn nhạc trỗi lên, tiếng tù và được thổi lên vang dội khu rừng núi Vaṅka.

Đại lễ đăng quang Thái tử Vessantara lên ngôi vua được cử hành rất trọng thể, Thái tử Vessantara lại chính thức trở thành Đức vua Vessantara tại khu rừng núi Vaṅka, bầu trời gầm vang dội khắp mọi nơi, các loài thú rừng rống lên thành tiếng vui mừng hoan hỷ, các loài chim đua nhau hót vui mừng Đức vua Bồ Tát Vessantara. 

 Và Vương phi Maddī trang phục đẹp đẽ lộng lẫy như thiên nữ cũng được tấn phong trở lại ngôi vị Chánh cung Hoàng hậu Maddī của Đức vua Bồ Tát Vessantara.

Đức Vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī nhớ lại trước đây còn có Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara và nữ đạo sĩ Maddī sống tại khu rừng núi Vaṅka này, phải chịu đựng vô vàn vất vả khổ cực.

Nay, cũng tại khu rừng núi Vaṅka này, 6 vương gia đã được đoàn tụ: Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Hoàng Thái Hậu Phussatī, Thái tử Vessantara, Vương phi Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, đại lễ đăng quang lên ngôi cũng đã cử hành trọng thể tại khu rừng núi Vaṅka này. 

Như vậy, ân huệ thứ nhất đã được thành tựu đối với chúng ta.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu Maddī truyền bảo hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā rằng:

- Này hai con yêu quý của Mẫu hậu! Khi biết Đức Phụ Vương thực hành hạnh đại thí hai con yêu quý cho ông Bà-la-môn Jūjaka dẫn đi, Mẫu hậu chỉ dùng trái cây một bữa mỗi ngày, nằm dưới đất, ngày đêm cầu nguyện chư thiên hộ trì cho hai con không có bệnh hoạn, thân tâm thường được an lạc, và cầu mong sớm gặp lại hai con. Pháp hành của Mậu hậu được thành tựu trong ngày hôm nay.

Những pháp hạnh Ba-la-mật của Đức Phụ Vương và Mẫu hậu xin luôn luôn hộ trì cho hai con được sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lâu dài.

Bà Hoàng thái hậu Phussatī nghĩ rằng: 

Vương phi Maddī của Thái tử Vessantara suốt thời gian ở trong rừng núi Vaṅka, đã chịu đựng vô vàn vất vả, khổ cực, nay ta nên ban cho Chánh cung Hoàng hậu Maddī, con dâu của ta những bộ y phục sang trọng, những đồ trang sức quý giá, các thứ ngọc quý báu.

Chánh cung Hoàng hậu Maddī mặc bộ y phục lộng lẫy, trang sức những thứ ngọc quý báu, đẹp đẽ lộng lẫy như một thiên nữ trong cõi trời Tam thập Tam thiên.

Khi ấy, Các quan trang hoàng con bạch tượng báu (paccayanāga) lộng lẫy dẫn đến tâu với Đức Vua Bồ Tát Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī rằng:

- Muôn tâu Đại Vương Vessantara và Chánh cung Hoàng hậu Maddī, kính thỉnh ngự lên ngồi trên con bạch tượng báu này.

 Đức vua Bồ Tát Vessantara và và Chánh cung Hoàng hậu Maddī ngự lên ngồi trên con bạch tượng báu dẫn đầu cùng với đoàn tuỳ tùng hộ giá đông đảo duyệt qua các đoàn binh hùng mạnh của triều đình.

Hồi Cung Trở Về Kinh Thành Jetuttara

Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaka truyền lệnh sửa sang đẹp đẽ con đường từ kinh thành Jetuttara đến khu rừng núi Vaṅka có chiều dài khoảng 60 do tuần đã hoàn thành xong, đến lúc hồi cung trở về kinh thành Jetuttara.

 Trên con đường hồi cung trở về kinh thành Jetuttara, các đoàn binh hộ giá đi trước dẫn đường, tiếp theo 6 con voi báu của 6 vị vương gia: Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, Hoàng Thái Hậu Phussatī, Đức Vua Bồ Tát Vessantara, Chánh cung Hoàng hậu Maddī, hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā. Và theo sau, các quan, hoàng tộc Bà-la-môn, và dân chúng đất nước Sivi.

Phái đoàn đi đến mỗi đoạn đường, dân chúng sống tại nơi ấy đón rước, tiếp đãi đầy đủ các món ăn ngon, đồ uống, ca hát nhảy múa kính mừng Đức Vua Bồ Tát Vessantara hồi cung ngự trở về kinh thành Jetuttara.

Cứ như vậy, suốt con đường dài khoảng 60 do tuần, cho đến kinh thành Jetuttara. 

Về đến kinh thành Jetuttara, ngự vào cung điện, ngồi trên ngai vàng, Đức Vua Bồ Tát Vessantara truyền lệnh hội triều, các quan văn võ tề tựu đông đủ, Đức Vua Bồ Tát Vessantara truyền lệnh rằng:

- Này các khanh! Trong toàn đất nước Sivi này, Trẫm truyền lệnh thả tất cả các tù nhân đang bị giam giữ đều được tự do, và thả các con vật đang bị trói buộc cũng đều được tự do.

Trận Mưa Thất Báu

Ngay đêm đầu tiên ngủ tại cung điện, vào canh chót đêm ấy, Đức Vua Bồ Tát Vessantara tỉnh giấc, nghĩ rằng: “Nghe tin ta đã hồi cung ngự trở về cung điện, chắc chắn ngày mai, những người hành khất sẽ dẫn nhau đến xin ta bố thí, ta sẽ lấy thứ gì để bố thí đến những người hành khất đây.”

Ngay khi ấy, chỗ ngồi của Đức Vua trời Sakka phát nóng lên, Đức Vua trời Sakka xem xét do nguyên nhân nào thì biết rõ ý nghĩ của Đức Vua Bồ Tát Vessantara ấy, nên Đức Vua trời Sakka hoá ra một trận mưa thất báu (7 thứ báu) rơi xuống phía trước phía sau cung điện, 7 thứ báu chất đầy đến thắt lưng, còn rơi xuống trong kinh thành Jetuttara, 7 thứ báu chất đầy đến đầu gối.

Sáng ngày hôm sau, Đức Vua Bồ Tát Vessantara truyền lệnh rằng:

- Này toàn thể dân chúng! Nếu 7 thứ báu nào rơi trước và sau nhà nào thì thuộc về của riêng gia đình ấy. Còn lại 7 thứ báu nào rơi bên ngoài nhà thì nhặt đem nạp vào các kho của triều đình. Phần 7 thứ báu rơi xuống trong cung điện của Trẫm thì thuộc về của Trẫm.

Từ đó, Đức vua Bồ Tát Vessantara ngự tại kinh thành Jetuttara, trị vì đất nước Sivi bằng thiện pháp, đất nước Sivi phồn vinh, thần dân thiên hạ sống trong cảnh thanh bình, an cư lạc nghiệp.

Đức Vua Bồ Tát Vessantara thực hành bồi bổ các pháp hạnh Ba-la-mật, nhất là pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, dù Đức Vua Bồ Tát đem của cải bố thí bao nhiêu đi nữa, cũng không hề vơi bớt chút nào cả, lúc nào của cải cũng đầy các kho. Đức Vua Bồ Tát Vessantara thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho đến trọn đời trọn kiếp.

Sau khi Đức Vua Bồ Tát Vessantara băng hà, thiện nghiệp cho quả tái sinh làm Đức Bồ Tát thiên nam tên Setaketu tại cõi trời Tusita (Đâu suất đà thiên) đúng như ân huệ mà tiền kiếp là Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đã từng cầu mong và đã được thành tựu như ý.

Sau khi thuyết tích Vessantarajātaka xong rồi, Đức Thế Tôn truyền dạy rằng:

- Này chư tỳ khưu! Trong thời quá khứ, tiền kiếp của Như Lai là Đức Vua Bồ Tát Vessantara cũng có một trận mưa rơi xuống giữa dòng họ hoàng tộc của tiền kiếp Như Lai như vậy.

Tích Vessantarajātaka Liên Quan Đến Kiếp Hiện Tại

Trong tích Vessantarajātaka này Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức Vua Bồ Tát Vessantara trong thời quá khứ. Đến khi Đức Phật Gotama đã xuất hiện trên thế gian, thì hậu kiếp của những nhân vật trong tích Vessantarajātaka ấy liên quan đến kiếp hiện tại của những nhân vật ấy như sau:

- Đức Thái Thượng Hoàng Sañjaya, nay kiếp hiện tại là Đức Phụ Vương Suddhodana.

- Hoàng Thái Hậu Phussatī, nay kiếp hiện tại là Mẫu hậu Sirimahāmāyādevī.

- Đức vua Cetaputta, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Channa.

- Đạo sĩ Accutatāpasa, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Sāriputta.

- Đức Vua trời Sakka, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Anuruddha.

- Ông Bà-la-môn Jūjaka, nay kiếp hiện tại là tỳ khưu Devadatta.

- Cô Amittatāpanā, nay kiếp hiện tại là kỹ nữ Ciñcamāṇavikā.

- Chánh cung Hoàng hậu Maddī, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức tỳ khưu ni Yasodharā (Rāhulamātā).

- Hoàng tử Jāli, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức Rāhula.

- Công chúa Kaṇhājinā, nay kiếp hiện tại là Ngài Đại Đức tỳ khưu ni Uppalavaṇṇā. 

- Những nhân vật khác, nay kiếp hiện tại là tứ chúng tỳ khưu, tỳ khưu ni, cận sự nam, cận sự nữ. 

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara, nay kiếp hiện tại là Đức Phật Gotama. 

10 Pháp Hạnh Ba-la-mật

Tóm lược tích Đức Vua Bồ Tát Vessantara, tiền kiếp của Đức Phật Gotama, đã thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ, đặc biệt thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý và người vợ trẻ yêu quý, để thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật. Ngoài ra, còn có 9 pháp hạnh Ba-la-mật phụ cũng đồng thành tựu như sau:

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara giữ gìn giới trong sạch, 

 đó là pháp hạnh giữ giới Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara xuất gia đạo sĩ, đó là pháp hạnh xuất gia Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara có trí tuệ sáng suốt, đó là pháp hạnh trí tuệ Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara có sự tinh tấn không ngừng, đó là pháp hạnh tinh tấn Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara có đức nhẫn nại, đó là pháp hạnh nhẫn nại Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara nói lời chân thật, đó là pháp hạnh chân thật Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara phát nguyện bằng lời chân thật, đó là pháp hạnh phát nguyện Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara có tâm từ đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm từ Ba-la-mật.

- Đức Vua Bồ Tát Vessantara có tâm xả đối với chúng sinh, đó là pháp hạnh tâm xả Ba-la-mật.

Đó là 9 pháp hạnh Ba-la-mật đồng thời cùng thành tựu với pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ.

Nhận Xét Về Tích Đức Vua Bồ Tát Vessantara

Tích Đức Vua Bồ Tát Vessantara là tiền kiếp của Đức Phật Gotama, thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ, đặc biệt thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā, và người vợ yêu quý là Chánh cung Hoàng hậu Maddī, để bồi bổ cho đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ.

Pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ là 1 trong 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ mà 3 hạng Bồ Tát: Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát Độc Giác và chư vị Bồ Tát Thanh Văn Giác đều phải thực hành đầy đủ. 

Trong bộ Chú giải Jātakaṭṭhakathāpāḷi (Tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama) gồm có 547 tích Đức Bồ Tát, tích thứ nhất là tích Apaṇṇakajātaka và tích cuối cùng là tích Vessantarajātaka.

Thật ra, tiền kiếp của Đức Phật Gotama đã thực hành 30 pháp hạnh Ba-la-mật: 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc hạ, 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc trung, 10 pháp hạnh Ba-la-mật bậc thượng cho được đầy đủ trọn vẹn, để trở thành Đức Phật Gotama, suốt khoảng thời gian 20 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất, trải qua vô số kiếp không thể kể bằng số được.

Tuy nhiên, trong bộ Chú giải Jātakaṭṭhakathāpāḷi này chỉ đề cập đến 547 tích Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama mà thôi. Đây là những tiền kiếp có liên quan đến kiếp hiện tại, cho nên Đức Phật dạy rằng :

“Sự kiện này không chỉ có trong kiếp hiện tại này mà còn trong tiền kiếp cũng đã từng xảy ra như vậy.” 

Do đó, Đức Phật thuyết giảng về tiền kiếp của Ngài.  

Kiếp hiện tại Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha là kiếp chót trở thành Đức Phật Gotama, tiền kiếp của Thái tử Siddhattha là kiếp Đức Bồ Tát thiên nam Setaketu tại cung trời Tusita (Đâu suất Đà Thiên) và tiền kiếp của vị thiên nam Setaketu chính là kiếp Đức vua Bồ Tát Vessantara.

Như vậy, Đức vua Bồ Tát Vessantara là tiền kiếp áp chót thứ hai của Đức Phật Gotama đã tạo đầy đủ 30 pháp hạnh Ba-la-mật, suốt 20 A-tăng-kỳ và 100 ngàn đại kiếp trái đất.  

Để trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác cần phải thực hành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật (samattiṃsa pāramī).

Chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác quá khứ, hiện tại và vị lai đều phải thực hành 5 hạnh đại thí (pañca mahāpariccāga) để cho được đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật.

5 Hạnh Đại Thí

1- Dhanapariccāga: Hạnh đại thí của cải quý báu, tài sản, ngôi vua, v.v…

2- Aṅgapariccāga: Hạnh đại thí các bộ phận trong thân thể của mình, như đôi mắt, v.v…

3- Puttapariccāga: Hạnh đại thí đứa con yêu quý nhất của mình.

4- Bhariyapariccāga: Hạnh đại thí người vợ yêu quý nhất của mình.

5- Jīvitapariccāga: Hạnh đại thí sinh mạng của mình.

Năm hạnh đại thí này chỉ cần đối với chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác mà thôi, còn đối với chư Đức Bồ Tát Độc Giác và chư vị Bồ Tát Thanh Văn Giác không bắt buộc, thực hành tùy theo khả năng của mình.

Trong 5 hạnh đại thí này, đại hạnh thứ nhất, thứ nhì và thứ năm, Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama, đã từng thực hành trong nhiều kiếp trong quá khứ; riêng về hạnh đại thí con yêu quý và hạnh đại thí vợ yêu quý  thì Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama chưa thực hành đầy đủ, nên kiếp Đức Vua Bồ Tát Vessantara cần phải thực hành hạnh đại thí con yêu quý và hạnh đại thí vợ yêu quý, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ trọn vẹn.

Sau khi Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara thực hành hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā cho ông Bà-la-môn Jūjaka, để bồi bổ pháp hạnh bố thí Ba-la-mật cho được đầy đủ, nhưng khi thấy Bà-la-môn Jūjaka hành hạ 2 đứa con yêu quý của mình, vì thương yêu 2 đứa con, nên Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara phát sinh tâm sân định giết ông Bà-la-môn Jūjaka để dẫn 2 đứa con yêu quý của mình trở lại.

Ngay khi ấy, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara suy tưởng về truyền thống của chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác trong quá khứ thực hành pháp hạnh bố thí Ba-la-mật rằng:

“Sabbabodhisattānaṃ dhanapariccāgaṃ aṅga-pariccāgaṃ puttapariccāgaṃ bhariyapariccāgaṃ jīvita-pariccāgan’ti ime pañca mahāpariccāge apariccajitvā buddhabhūtapubbo nāma natthi. Ahampi tesaṃ abbhantaro homi, mayāpi piyaputtadhītaro adatvā na sakkā buddhena bhavituṃ.[1]

“ Đối với tất cả chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác không thực hành 5 hạnh đại thí là hạnh đại thí của cải quý báu, tài sản, ngôi vua, v.v… , hạnh đại thí các bộ phận trong thân thể của mình, như đôi mắt, v.v…, hạnh đại thí đứa con yêu quý nhất của mình, hạnh đại thí người vợ yêu quý nhất của mình, hạnh đại thí sinh mạng của mình mà đã từng trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, đó là điều không bao giờ có.

Dù chính ta cũng ở trong chư Đức Bồ Tát Chánh Đẳng Giác ấy, nếu ta không thực hành hạnh đại thí con yêu quý là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā thì chắc chắn ta cũng không thể trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác được.”

Thật ra, những tiền kiếp của Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara đã từng thực hành hạnh đại thí của cải quý báu, tài sản, ngôi vua, v.v…, hạnh đại thí các bộ phận trong thân thể của mình như đôi mắt, v.v…, hạnh đại thí sinh mạng của mình, nhưng chưa thực hành hạnh đại thí đứa con yêu quý nhất của Ngài và hạnh đại thí người vợ trẻ yêu quý nhất của Ngài. Cho nên Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara cần phải thực hành hai hạnh đại thí còn lại, để bồi bổ cho pháp hạnh bố thí Ba-la-mật được thành tựu đầy đủ trọn vẹn, đồng thời cũng làm cho hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, để mong trở thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác trong thời vị lai.

Khi thực hành hạnh đại thí hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā yêu quý nhất của Ngài cho ông Bà-la-môn Jūjaka, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ truyền bảo ông Bà-la-môn Jūjaka rằng: “Này ông Bà-la-môn Jūjaka! Bần đạo chỉ có nguyện vọng muốn trở thành Đức Phật Toàn Giác, là nơi yêu quý bậc nhất hơn cả yêu quý hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần.”

Và khi thực hành hạnh đại thí Chánh cung Hoàng hậu Maddī yêu quý nhất của Ngài cho ông Bà-la-môn, Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara vô cùng hoan hỷ truyền bảo ông Bà-la-môn rằng: “Này ông Bà-la-môn! Bần đạo chỉ có nguyện vọng muốn trở thành Đức Phật Toàn Giác là nơi yêu quý bậc nhất hơn cả yêu quý Chánh cung Hoàng hậu Maddī gấp trăm lần, gấp ngàn lần, gấp trăm ngàn lần mà thôi.

Hạnh đại thí vợ yêu quý này của Như Lai xin làm duyên lành để chứng đắc thành Đức Phật Toàn Giác.”  

 Nếu Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara không thực hành hạnh đại thí hai đứa con yêu quý là hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā và người vợ yêu quý là Chánh cung Hoàng hậu Maddī của Ngài thì chưa thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật, và cũng chưa hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, chắc chắn vẫn chưa có thể trở thành Đức Phật Gotama trong thời vị lai được.

Cho nên, nhờ sự đóng góp của hoàng tử Jāli và công chúa Kaṇhājinā và cộng với sự đóng góp của Chánh cung Hoàng hậu Maddī, để giúp cho Đức Bồ Tát đạo sĩ Vessantara thành tựu đầy đủ trọn vẹn pháp hạnh bố thí Ba-la-mật và đồng thời cũng hoàn thành đầy đủ trọn vẹn 30 pháp hạnh Ba-la-mật, đến kiếp chót là kiếp Đức Bồ Tát Thái tử Siddhattha trở thành Đức Phật Gotama của chúng ta ngày nay.

 (Xong pháp hạnh bố thí Ba-la-mật bậc hạ)


1 Khu. Jātakaṭṭhakathā, Phần Mahānipāta, Tích Vessantarajātakavaṇṇanā

[1] Bộ Chú giải Jātakaṭṭhakathāpāli, Phần Mahānipāta, Tích Vessantarajātaka

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn