(Xem: 1761)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2227)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

- Pháp hạnh Chân thật Ba La Mật - Bậc thượng

14 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 9304)

 


Nền Tảng Phật Giáo 

Quyển VI (Pháp Hạnh Tinh tấn Ba La Mật_Tập 3)

Soạn giả:Tỳ khưu Hộ Pháp

 

Pháp hạnh Chân thật Ba La Mật - Bậc thượng

(Saccaparamatthapāramī)

Tích Mahāsutasomajātaka (Má-hà-xu-tá-xô-má)

Tích Mahāsutasomajātaka[1] Đức Bồ Tát tiền kiếp của Đức Phật Gotama sinh làm Đức Vua Sutasoma thực hành pháp hạnh chân thật Ba-la-mật bậc thượng (Sacca- paramatthapāramī). Tích này được bắt nguồn như sau:

Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại ngôi chùa Jetavana gần kinh thành Sāvatthi. Một hôm, Đức Thế Tôn một mình ngự vào trong rừng sâu, để tế độ tên cướp sát nhân có biệt danh là Aṅgulimāla, xuất gia rồi trở thành bậc Thánh A-ra-hán.

Trước khi xuất gia tỳ khưu trở thành bậc Thánh A-ra-hán, Ngài Aṅgulimāla[2] là tên cướp sát nhân có võ thuật cao cường, đã từng giết trên cả ngàn người tại khu rừng rậm, Đức Thế Tôn một mình ngự đến khu rừng ấy, sử dụng phép thần thông để tế độ tên cướp sát nhân Aṅgulimāla.

Sau khi đã tỉnh ngộ, y vất bỏ khí giới, quỳ xuống đảnh lễ dưới đôi bàn chân của Đức Phật, xin xuất gia trở thành tỳ khưu.

Đức Phật đã cho phép xuất gia tỳ khưu bằng cách gọi “Ehi bhikkhu!” – Này Aṅgulimāla! Con hãy đến với Như Lai, con trở thành Tỳ khưu như ý nguyện….

Đức Phật ngự trở về chùa Jetavana cùng với tỳ khưu Aṅgulimāla theo sau. Về sau không lâu, tỳ khưu Aṅgulimāla thực hành pháp hành thiền tuệ dẫn đến chứng ngộ chân lý tứ Thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Đạo, 4 Thánh Quả và Niết Bàn trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng, đặc biệt Ngài là 1 trong 80 vị Thánh A-ra-hán Đại thanh văn đệ tử của Đức Phật Gotama.

Một hôm, Ngài Đại Đức Aṅgulimāla đi vào kinh thành Sāvatthi khất thực, thấy một người đàn bà mang thai đang đau khổ vì khó sinh, Ngài phát sinh tâm bi muốn cứu người đàn bà ấy khỏi khổ.

Sau khi khất thực xong, Ngài Đại Đức Aṅgulimāla trở về đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn bạch chuyện người đàn bà ấy. Đức Phật thuyết dạy Ngài phát nguyện bằng lời chân thật, rồi truyền bảo Ngài trở lại gặp người đàn bà ấy.

Vâng lời dạy của Đức Thế Tôn, Ngài Đại Đức Aṅgulimāla trở lại gặp người đàn bà ấy, Ngài phát nguyện bằng lời chân thật rằng:

- Này em gái, kể từ khi xuất gia trở thành tỳ khưu trong giáo pháp của Đức Phật Gotama, bần tăng biết rõ mình không có tác ý sát hại chúng sinh. Do lời chân thật này, xin cho em gái sinh nở được dễ dàng, thai nhi và em gái được an toàn.

Quả nhiên, sau khi Ngài vừa phát nguyện xong, người đàn bà ấy sinh ra đứa con và người mẹ được an toàn.

Một hôm, chư Tỳ khưu tụ hội tại giảng đường đang đàm đạo về Ngài Đại Đức Aṅgulimāla rằng:

- Này chư pháp hữu! Thật là điều phi thường chưa từng có, Đức Thế Tôn một mình ngự đến khu rừng sâu, tế độ được kẻ cướp sát nhân có võ thuật cao cường, rất hung ác, có biệt danh là Aṅgulimāla, bởi vì y giết người xong, liền cắt đầu ngón tay xâu làm vòng đeo trên cổ. Đức Thế Tôn, không cần sử dụng đến khí giới, đã thuyết phục được tên cướp sát nhân Aṅgulimāla thức tỉnh từ bỏ ác nghiệp sát sinh. Y đã kính xin Đức Thế Tôn cho phép xuất gia trở thành Tỳ khưu.

Chư Phật thường tế độ chúng sinh một cách phi thường như vậy.

Khi ấy, tại gandhakuṭi, Đức Thế Tôn nghe rõ cuộc đàm đạo của chư Tỳ khưu bằng thiên nhĩ thông. Đức Thế Tôn nghĩ: “Đây là cơ hội, Như Lai thuyết về tích Bồ Tát Mahāsutasoma, tiền kiếp của Như Lai, sẽ đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc cho tất cả chúng sinh”. Cho nên, Đức Phật từ gandhākuṭi ngự đến giảng đường. ngồi trên pháp toà, Đức Phật bèn hỏi chư Tỳ khưu rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Các con đang đàm đạo về chuyện gì vậy?

Chư Tỳ khưu bạch với Đức Thế Tôn rằng:

- Kính bạch Đức Thế Tôn, chúng con đang đàm đạo về chuyện phi thường chưa từng có! Đức Thế Tôn đã tế độ Đại Đức Aṅgulimāla.

Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này chư Tỳ khưu! Nay Như Lai là Bậc Chánh Đẳng Giác đã tế độ Aṅgulimāla trong kiếp hiện tại này chưa phải là chuyện phi thường đâu! Khi Như Lai còn là Bồ Tát đang bồi bổ các pháp hạnh Ba-la-mật trong thời quá khứ. Bồ Tát tiền kiếp của Như Lai, đã từng thuyết phục được tiền kiếp của Aṅgulimāla, kẻ cướp sát nhân ăn thịt người có tên là Porisāda.

Truyền dạy như vậy, Đức Thế Tôn làm thinh.

Chư Tỳ khưu kính thỉnh Đức Thế Tôn thuyết về tiền kiếp của Ngài.

Tích Mahāsutasomajātaka

Khi ấy, Đức Thế Tôn thuyết về tích Mahāsutasoma-jātaka được tóm lược như sau:

Trong thời quá khứ, Đức Vua Korabya ngự tại kinh thành Indapatta trị vì đất nước Kuru bằng thiện pháp, thực hành 10 pháp vương (10 pháp hành của Đức Vua). Khi ấy, Bà Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Korabya mang thai Đức Bồ Tát, tiền kiếp của Đức Phật Gotama. Đức Bồ Tát Thái tử sinh ra đời được đặt tên là Sutasoma.

Khi Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma trưởng thành được Đức Phụ Vương ban cho số tiền 1.000 Kahāpana, gửi đi học tại kinh thành Takkasilā với vị thầy Disāpamokkha, để theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa. Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma nhận số tiền ấy, đảnh lễ Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, rồi xin phép lên đường đến kinh thành Takkasilā.

Khi ấy, Thái tử Brahmadatta của Đức Vua Kāsi ngự tại kinh thành Bārāṇasī, trị vì đất nước Kāsi, cũng được Đức Phụ Vương gửi đến kinh thành Takkasilā, để theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa với vị thầy Disāpamokkha.

Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma vừa đến cửa kinh thành Takkasilā, ngồi nghỉ ở nhà mát trước cửa thành, thì Thái tử Brahmadatta cũng vừa đến và ngồi nghỉ tại nhà mát ấy. Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma hỏi làm quen với Thái tử Brahmadatta rằng:

Suta: - Thưa bạn, bạn từ nước nào đến đây, đi đường xa có vất vả lắm không?

Bra: - Thưa bạn, tôi từ kinh thành Bārāṇasī đến đây, đi đường xa cũng khá vất vả lắm! 

Suta:- Thưa bạn, bạn là con của ai? đến nơi đây với mục đích gì?

Bra: - Thưa bạn, tôi là Thái tử Brahmadatta của Đức Vua nước Kāsi, từ kinh thành Bārāṇasī đến kinh thành Takkasilā này, để theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa với vị thầy Disāpamokkha.

Thưa bạn, xin bạn giới thiệu cho tôi biết về bạn.

Suta:- Thưa Thái tử Brahmadatta, tôi là Thái tử Sutasoma của Đức Vua Korabya, từ kinh thành Indapatta đến đây, cũng để theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa với vị thầy Disāpamokkha.

Như vậy, bạn và tôi đều là Thái tử, hai chúng ta đều sẽ học chung với nhau một vị thầy. Vậy, hai chúng ta nên kết bạn với nhau.

Thái tử Brahmadatta vô cùng hoan hỷ kết bạn với Thái tử Sutasoma. Hai Thái tử cùng nhau đi vào nội thành đến gặp vị thầy Disāpamokkha, đảnh lễ vị thầy xong, mỗi vị Thái tử tự giới thiệu thân thế của mình, với mục đích được theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa. Vị thầy Disāpamokkha nhận hai Thái tử làm học trò, nên bảo rằng:

- Này 2 Thái tử! Thầy rất hoan hỷ tiếp nhận 2 vị làm học trò của Thầy.

Hai vị Thái tử xin dâng tiền học xong, bắt đầu học các bộ môn truyền thống. Trong thời gian học, không những có 2 Thái tử ấy mà còn có 101 Thái tử, hoàng tử từ các nước trong cõi Nam thiện bộ châu cùng theo học các bộ môn truyền thống của dòng dõi vua chúa với vị thầy Disāpamokkha nữa.

Trong tất cả Thái tử, hoàng tử, học trò của vị thầy Disāpamokkha, Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma là người học trò xuất sắc nhất về của các bộ môn.

Trải qua một thời gian lâu, các Thái tử, hoàng tử, đều đã học xong các bộ môn, làm lễ mãn khoá, và làm lễ tạ từ vị thầy Disāpamokkha. Các Thái tử, hoàng tử xin phép trở về cố quốc của mình.

Trên đường đi trở về, đến con đường rẽ đôi, đứng dừng lại nói lời chia tay với các bạn đồng môn, Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma thưa rằng:

- Thưa quý vị Thái tử, Hoàng tử thân mến! Chúng ta, mỗi người khi trở về đất nước của mình, vào chầu đảnh lễ Đức Phụ Vương và Mẫu hậu. Về sau, khi lên ngôi làm vua, xin quý vị nên thực hành theo lời khuyên của tôi rằng:

* Xin quý vị giữ gìn ngũ giới cho được trong sạch và thọ trì bát giới uposathasīla trong những ngày giới hằng tháng.

* Xin quý vị kính trọng và thương yêu lẫn nhau, không nên làm khổ lẫn nhau, không nên làm khổ các người khác.

* Mỗi khi vị Thái tử hoặc hoàng tử nào được làm lễ đăng quang lên ngôi vua, vị Thái tử hoặc hoàng tử ấy gửi thư mời các bạn đến tham dự, để gắn bó tình thân hữu giữa các nước trong cõi Nam thiện bộ châu với nhau.

Các vị Thái tử, hoàng tử đều hoan hỷ vâng lời dạy của Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma. Sở dĩ khuyên các Thái tử, hoàng tử như vậy, là vì Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma đoán biết rằng sau này sẽ có tai hoạ lớn sẽ xảy ra từ Đức Vua Brahmadatta tại kinh thành Bārāṇasī.

Sau khi làm lễ chia tay, mỗi vị Thái tử, hoàng tử trở về cố quốc của mình.

Thời gian sau, Đức Bồ Tát Thái tử Sutasoma lên ngôi vua ngự tại kinh thành Indapatta trị vì đất nước Kuru. Thái tử Brahmadatta cũng lên ngôi vua ngự tại kinh thành Bārānasi trị vì đất nước Kāsi. Và 101 vị Thái tử, Hoàng tử, mỗi vị cũng đều được lên ngôi vua tại mỗi nước của mình. Vâng theo lời khuyên dạy của Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, tất cả các Đức Vua đều có tình thân thiện bang giao các nước lớn nhỏ với nhau.

Đức Vua Brahmadatta Dùng Thịt Người

Riêng Đức Vua Brahmadatta ngự tại kinh thành Bārāṇasī trị vì nước Kāsi, thường có thói quen là mỗi bữa ăn đều phải có món thịt, đó là món ăn không thể thiếu đối với Đức Vua.

Trong thời kỳ ấy, vào những ngày giới uposathasīla hằng tháng, không ai giết các loài gia súc, gia cầm để ăn thịt. Cho nên, thường vào trước ngày giới, người đầu bếp của Đức Vua Brahmadatta phải mua thịt làm món ăn nấu chín, để dành cho ngày giới dâng lên Đức Vua.

Một hôm, vào trước ngày giới, người đầu bếp mua thịt làm món ăn nấu chín, rồi cất không cẩn thận, con chó nuôi trong cung đã ăn hết sạch phần thịt ấy. Chiều hôm ấy, người đầu bếp biết món thịt không còn nữa, nên đi tìm mua món thịt khác khắp nơi, nhưng không mua được món thịt nào cả.

Biết tính Đức Vua là mỗi bữa ăn không thể thiếu món thịt, người đầu bếp sợ Đức Vua bắt tội, cho nên, tối hôm ấy, lén đi vào nghĩa địa gặp một tử thi vừa mới chết, người đầu bếp xẻo một miếng thịt đùi đem về làm món ăn nấu chín, rồi cất giữ cẩn thận.

Sáng ngày hôm sau, người đầu bếp làm các món ăn có món thịt người ấy xong, một vị quan có bổn phận mang các món ăn dâng lên Đức Vua.

Hôm ấy, Đức Vua vừa mới đặt món thịt người trên đầu lưỡi, vị ngon của món thịt người ấy lan toả khắp toàn thân. Đức Vua nghĩ: “Vị ngon như thế này, ta chưa từng thưởng thức bao giờ trong kiếp hiện tại này, nhưng chắc chắn ta đã từng thưởng thức trong tiền kiếp”.

Thật ra, tiền kiếp vừa qua của Đức Vua Brahmadatta là kiếp Dạ-xoa ăn thịt người. Cho nên, kiếp hiện tại này, khi Đức Vua nếm vị thịt người liền có cảm giác ngon hơn các món thịt khác, do bởi vị tưởng (rasasaññā) trong quá khứ.

Đức Vua nghĩ tiếp: “Nếu ta làm thinh, thì người đầu bếp sẽ không tâu cho ta biết rõ món thịt này là món thịt gì”. Nghĩ xong, Đức Vua truyền lệnh gọi người đầu bếp vào chầu và cho vị quan hầu ra ngoài. Khi ấy, chỉ còn Đức Vua và người đầu bếp, Đức Vua truyền hỏi rằng:

- Này khanh! Hôm nay, ngươi nấu món thịt gì cho Trẫm dùng vậy?

Người đầu bếp hoảng sợ tâu dối rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, món thịt thường ngày, Bệ hạ dùng.

- Này khanh! Ngươi đã tâu dối, Trẫm biết không phải món thịt như thường ngày. Nếu ngươi không tâu thật cho Trẫm biết, món thịt ấy là món thịt gì thì Trẫm sẽ truyền lệnh giết ngươi.

- Muôn tâu Bệ hạ, kính xin Bệ hạ tha tội chết, kẻ hạ thần này xin tâu thật.

- Muôn tâu Bệ hạ, món thịt thường ngày mà kẻ hạ thần mua ngày hôm qua, đã làm món ăn nấu chín xong nhưng cất không cẩn thận nên con chó nuôi trong cung đã ăn phần thịt ấy. Chiều hôm qua, kẻ hạ thần đi tìm mua khắp nơi mà không được món thịt nào. Vì sợ Bệ hạ trị tội, nên tối hôm qua, kẻ hạ thần lén đi vào nghĩa địa xẻo miếng thịt người vừa mới chết, đem về làm món ăn thay món thịt thường ngày. Vậy, món thịt ấy là món thịt người.

Tâu Bệ hạ, tha tội chết.

Đức Vua truyền rằng:

- Này khanh! Kể từ hôm nay, các món thịt khác, Trẫm ban cho ngươi dùng, còn Trẫm chỉ dùng món thịt người mà thôi.

Người đầu bếp tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, điều đó khó lắm! Làm sao kẻ hạ thần có món thịt người hằng ngày được.

Đức Vua truyền rằng:

- Này khanh! Điều ấy không có gì khó, trong khám nhà lao có nhiều phạm nhân. Vậy, ngươi bắt phạm nhân giết, lấy thịt làm món ăn dâng lên Trẫm.

Người đầu bếp tâu rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, kẻ hạ thần xin tuân lệnh.

Tuân lệnh Đức Vua, từ ngày đó, người đầu bếp của Đức Vua bắt phạm nhân giết, rồi làm món ăn có món thịt người, mỗi ngày dâng lên Đức Vua Brahmadatta, mà chưa ai hay biết. Qua một thời gian sau, phạm nhân không còn trong khám nhà lao. Người đầu bếp tâu lên Đức Vua rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, trong khám nhà lao không còn phạm nhân nào, bây giờ kẻ hạ thần phải làm thế nào?

Đức Vua truyền lệnh cho người đầu bếp rằng:

- Này khanh! Ngươi đem gói tiền rải ngoài đường, rồi ẩn núp một nơi kín theo dõi, hễ người nào lấy gói tiền ấy, thì bắt người ấy về tội trộm cắp, rồi giết người ấy chết lấy thịt, làm món ăn dâng lên Trẫm.

Về sau, người ta nhìn thấy gói tiền, vì sợ chết, nên không một ai dám nhặt gói tiền ấy, người đầu bếp tâu lên Đức Vua Brahmadatta rằng:

- Muôn tâu Bệ hạ, người ta sợ chết, nên không có một ai dám nhặt gói tiền nữa. Bây giờ, kẻ hạ thần phải làm thế nào?

Đức Vua truyền lệnh cho người đầu bếp ẩn núp một nơi nào kín đáo, khi nhìn thấy một người đàn ông hoặc người đàn bà nào đi, đứng một mình thì giết người ấy chết, rồi lấy thịt, làm món ăn dâng lên Đức Vua.

Không lâu sau, những con đường vắng trong kinh thành có rải rác những tử thi bị lóc lấy thịt, làm cho mùi hôi tỏa ra xung quanh. Có nhiều gia đình mất cha, mất mẹ, mất con, mất chị, em, bà con, khóc than thảm thiết. Những người trong kinh thành tụ họp bàn tán với nhau. Người thì nói rằng: “Những người ấy bị con cọp ăn thịt”, còn có người khác thì nói rằng: “họ bị sư tử ăn thịt”,… rồi nhìn kỹ những tử thi bị lóc lấy thịt, thấy có vết thương bị đâm chém…

Cho nên, những người ấy đều quả quyết rằng: “Có kẻ sát nhân ăn thịt người”.

Dân chúng trong thành dẫn nhau đến trước cửa cung điện của Đức Vua Brahmadatta tâu chuyện xảy ra trong kinh thành, cầu xin Đức Vua truyền lệnh cho lính triều đình bắt kẻ sát nhân ăn thịt người trị tội, nhưng Đức Vua không quan tâm đến lời khẩn khoản, cầu xin của họ. Họ vô cùng thất vọng ra về.

Họ lại cùng nhau đến dinh của vị quan Thừa tướng Kāḷahatthisenāpati trình bày chuyện xảy ra trong kinh thành, có tên sát nhân ăn thịt người, cầu xin vị Thừa tướng ra lệnh cho lính vây bắt tên sát nhân ăn thịt người để tri tội, để dân chúng trong kinh thành được sống an lành.

Vị quan Thừa tướng tiếp nhận lời yêu cầu của họ và hứa sẽ ra lệnh cho lính vây bắt cho được tên thủ phạm ấy. Ông kêu gọi dân chúng an tâm trở về. Vị Thừa tướng Kāḷahatthi ra lệnh các binh lính rằng:

- Này các binh lính! Dân chúng trong kinh thành cho biết rằng: “Trong kinh thành có tên sát nhân ăn thịt người”. Vậy, các ngươi hãy bố trí rải rác các ngõ đường vắng trong kinh thành, để bắt sống nó cho được, rồi giải về nộp cho ta.

Tuân theo lệnh của quan Thừa tướng, các binh lính bố trí rải rác các ngõ đường vắng trong thành. Đêm hôm ấy, người đầu bếp giết một người đàn bà, đang xẻo lấy thịt bỏ vào giỏ.

Khi ấy, các binh lính vây bắt người đầu bếp cùng với tang chứng giỏ thịt rõ ràng, liền cột 2 tay đằng sau rồi dẫn y đi, đồng thời thông báo cho dân chúng biết rằng đã bắt được tên sát nhân ăn thịt người rồi.

Dân chúng trong thành không còn lo sợ, kéo nhau ra đường xem tên sát nhân đang bị các binh lính dẫn đi nộp cho vị Thừa tướng Kāḷahatthi.

Nhìn thấy tên thủ phạm, vị Thừa tướng Kāḷahatthi nhận biết được y là người đầu bếp của Đức Vua. Muốn biết y giết người lấy thịt với mục đích gì, nên vị Thừa tướng khảo tra rằng:

- Này người đầu bếp! Ngươi giết người lấy thịt để làm gì? Tại sao ngươi hành động tàn nhẫn, độc ác giết người như vậy?

Người đầu bếp thưa rằng:

- Kính thưa Thừa tướng. Tôi giết người lấy thịt không phải để cho tôi, cũng không phải để cho vợ con, gia đình, bà con, bạn bè của tôi. Tôi đã hành động tàn nhẫn, độc ác giết người lấy thịt vì Đức Vua Brahmadatta người chủ của tôi. Đức Vua chỉ ưa thích ăn món thịt người mà thôi. Tôi đã thi hành theo lệnh của Đức Vua Brahmadatta.

Vị quan Thừa tướng bảo rằng:

- Này người đầu bếp! Ngươi nhớ đã khai rằng: “Tôi đã thi hành theo lệnh của Đức Vua Brahmadatta”. Do đó, ngươi hành động tàn nhẫn, độc ác giết người lấy thịt như vậy. Sáng ngày mai, ta sẽ dẫn ngươi vào cung điện, ngươi phải khai đúng sự thật về chuyện này với ta, trước sự hiện diện của Đức Vua Brahmadatta được hay không?

Người đầu bếp thưa rằng:

- Kính thưa Thừa tướng, sáng ngày mai, đứng trước cung điện, tôi sẽ khai đúng sự thật về chuyện này với Ngài, trước sự hiện diện của Đức Vua Brahmadatta. Thưa Ngài.

Vị Thừa tướng Kāḷahatthi ra lệnh binh sĩ dẫn người đầu bếp nhốt vào trong nhà giam, rồi cho người canh gác cẩn thận. Sau đó, Ông bàn bạc với các vị quan trong triều và dân chúng trong kinh thành, tất cả trên dưới đồng một lòng đến chầu Đức Vua. Vị Thừa tướng ra lệnh cho binh sĩ giữ gìn an ninh trật tự trong kinh thành cho được nghiêm ngặt.

Ngày hôm ấy, Đức Vua Brahmadatta đã dùng bữa ăn sáng và trưa có món thịt người, còn bữa ăn chiều, Đức Vua ngồi chờ người đầu bếp với ý nghĩ: Người đầu bếp sắp đến”. Đức Vua đã ngồi chờ suốt đêm đến sáng mà vẫn không thấy người đầu bếp đến.

Sáng sớm hôm sau, vị Thừa tướng Kāḷahatthi giải người đầu bếp trên vai có mang giỏ thịt người, cùng số đông dân chúng trong kinh thành đi theo sau đến trước cung điện của Đức Vua.

Khi nghe tiếng la hét ở ngoài cửa cung điện, Đức Vua đứng trên cung điện nhìn qua cửa sổ, thấy quan Thừa tướng Kāḷahatthi dẫn người đầu bếp trên vai có mang giỏ thịt đang đi vào cung điện. Đức Vua nghĩ: “Chuyện đã bại lộ rồi, ta nên đối phó bằng cách nào đây?” Đức Vua ngự xuống ngồi trên ngai vàng, khi ấy, vị Thừa tướng đến chầu cùng với người đầu bếp. Vị Thừa tướng Kāḷahatthi tâu với Đức Vua rằng:

- Tâu Bệ hạ, hạ thần nghe người đầu bếp khai rõ rằng: Chính Bệ hạ đã truyền lệnh cho người đầu bếp này đã từ lâu giết các người đàn ông, các người đàn bà lấy thịt làm món ăn dâng lên Bệ hạ. Hằng ngày, Bệ hạ đã dùng món thịt người ấy có thật hay không?

Nghe vị Thừa tướng tâu hỏi như vậy, Đức Vua biết không thể nói dối, nên truyền đúng sự thật rằng:

- Này Thừa tướng! Sự thật đúng như vậy, Trẫm đã truyền lệnh cho người đầu bếp này giết người lấy thịt, làm món ăn dâng lên Trẫm. Khi y đã thi hành theo lệnh của Trẫm, phục vụ cho Trẫm, tại sao khanh lại hành hạ y như vậy?

- Này Thừa tướng! Sao những kẻ trộm cắp, sát nhân khác trong nước, khanh không bắt trị tội, mà khanh lại bắt người phục vụ của Trẫm?

Nghe Đức Vua truyền sự thật như vậy, quan Thừa tướng nghĩ: “Đức Vua tự nhận đã dùng món thịt người. Vậy, Đức Vua là con người ác đã dùng thịt người từ lâu. Ta nên khuyên Đức Vua không nên dùng thịt người nữa.

Nghĩ xong, vị Thừa tướng tâu rằng:

 - Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ không nên dùng món thịt người nữa.

Đv:- Này Thừa tướng! Khanh tâu như vậy nghe được sao! Trẫm không dùng món thịt người làm sao được! Bởi vì thịt người là món ăn mà Trẫm ưa thích nhất.

Kāl:- Tâu Bệ hạ, nếu Bệ hạ không từ bỏ món thịt người được, thì Bệ hạ tự làm hại mình và hại dân chúng dẫn đến đất nước phải suy vong.

Đv:- Này Thừa tướng! Dù Trẫm bị chê trách như thế nào đi nữa, Trẫm cũng không thể bỏ dùng món thịt người được!

Vị quan Thừa tướng Kāḷahatthi tâu chuyện xưa lên Đức Vua Brahmadatta, để giúp làm cho Đức Vua thức tỉnh mà từ bỏ món thịt người như sau

Chuyện Con Cá Ānanda Ăn Cá Đồng Loại

Thời quá khứ, trong đại dương, một con cá tên Ānanda rất lớn và dài 50 do tuần, nó ăn đá và san hô. Các đàn cá suy tôn con cá Ānanda lên làm vua các loài cá. Hằng ngày, sáng chiều, các đàn cá đến chầu, phục vụ vua cá Ānanda. Một hôm, Vua cá Ānanda đi kiếm ăn đá và san hô, nó ăn phải một con cá dính trong bụi san hô mà không biết. Thịt con cá có vị ngon lan toả khắp toàn thân, nó nghĩ: “Đây là vị gì mà ta chưa hề được thưởng thức vị ngon đặc biệt như thế này bao giờ”?

Vua cá Ānanda khạc nhổ ra xem, thì biết đó là vị thịt một con cá đồng loại. Nó nghĩ tiếp: “Cá đồng loại có vị ngon như thế mà từ lâu ta không hề biết. Vậy từ nay, các đàn cá đến chầu phục vụ ta mỗi sáng chiều, ta sẽ bắt 1-2 con để ăn thịt. Nếu ta bắt ăn mà để chúng nó biết thì

chúng nó sẽ không đến chầu phục vụ ta nữa.

Vậy, ta nên chờ khi chúng nó chầu phục vụ xong trở về, ta sẽ lén bắt ăn con cá sau cùng”.

Nghĩ xong, nó thực hiện theo âm mưu độc ác ấy. Trải qua thời gian lâu dài, các đàn cá càng ngày càng giảm dần, chúng bàn luận với nhau rằng:

“Từ trước, các đàn cá bà con của chúng ta rất đông đảo, do nguyên nhân nào, nay bây giờ, đã giảm dần thưa tht như thế này? Do tai hoạ từ đâu?”

Một con cá thông minh nghĩ: “Vua cá Ānanda có những hành vi khác thường, ta nên lén theo dõi hành vi của y”.

Như thường lệ, các đàn cá đến chầu phục vụ xong rồi kéo nhau trở về. Con cá thông minh lén núp vào mang vua cá Ānanda. Khi các đàn cá kéo nhau ra về, vua cá Ānanda vồ bắt con cá đi cuối cùng ăn thịt, trước sự chứng kiến của con cá thông minh.

Nhìn thấy hành vi tàn nhẫn, độc ác của vua cá, con cá thông minh lén trở về thông báo, tố cáo hành vi tàn ác ấy cho các đàn cá.

Từ đó, tất cả các đàn cá hoảng sợ đều di chuyển đến nơi khác, không có một con cá nào dám đến chầu, phục vụ vua cá Ānanda nữa. Vì nó đã ăn thịt cá đồng loại có vị ngon đặc biệt, đã trở thành thói quen, nghiện vị thịt cá đồng loại, nên nó không muốn ăn đá, san hô như trước nữa. Cơn thèm khát hành hạ làm cho nó tối tăm, ngu muội. Khi bơi đi tìm đàn cá để bắt chúng ăn thịt, vua cá Ānanda gặp hòn núi lớn dưới đáy biển, nó nghĩ: “Các đàn cá trốn trong hòn núi này, bởi vì chúng sợ ta ăn thịt, ta sẽ vây chúng lại, không để một con nào trốn thoát khỏi miệng ta”.

 Nghĩ xong, nó dùng đầu và đuôi quấn quanh hòn núi lớn, bởi vì thân hình nó dài 50 do tuần, cho nên, khi đầu và đuôi của nó quấn quanh hòn núi lớn giáp nhiều vòng, thì đầu và đuôi của nó gặp nhau.

Đã mấy ngày qua chịu cảnh đói khổ thèm khát, vua cá Ānanda gặp cái đuôi của mình, tưởng nhầm rằng đuôi con cá khác trốn trong hòn núi ấy. Nó vừa nổi giận, vừa thèm khát, cắn cái đuôi của mình ăn ngon lành. Vua cá Ānanda phát sinh đau khổ, máu chảy lai láng, toả ra một vùng rộng lớn. Cuối cùng nó chết, bộ xương của nó chất thành đống như núi.

Các vị đạo sĩ có thần thông bay trên hư không nhìn thấy và biết rõ chuyện vua cá Ānanda này. Các Ngài đã trở về thuật lại cho mọi người trong cõi Nam thiện bộ châu đều biết chuyện vua cá Ānanda như vậy.

Kể xong câu chuyện con cá Ānanda, vị quan Thừa tướng tâu với Đức Vua rằng:

- Tâu Bệ hạ, vua cá Ānanda nghiện vị thịt cá đồng loại, khi không có đàn cá nữa, vua cá Ānanda tự cắn cái đuôi của mình để ăn rồi chết.

- Tâu Bệ hạ, nếu Bệ hạ là người dể duôi, ưa thích, thèm khát dùng món thịt người đồng loại, chưa biết thức tỉnh, thì Bệ hạ sẽ từ bỏ Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, những người trong hoàng gia, v.v… như vua cá Ānanda tự ăn thịt của mình rồi chết.

Dù vị Thừa tướng Kāḷahatthi đã cố gắng đem tích quá khứ tâu khuyên Đức Vua, nhưng Đức Vua vẫn khăng khăng một mực không thể từ bỏ món ăn thịt người được. Khi ấy, trước cửa cung điện, dân chúng la hét lớn rằng:

- Thưa Thừa tướng Kāḷahatthi, nếu Đức Vua không chịu từ bỏ món ăn thịt người, thì chúng ta mời Đức Vua rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này, không để cho Đức Vua ở lại cung điện nữa.

Nghe dân chúng la hét lớn như vậy, Đức Vua Brahmadatta có vẻ lo lắng. Vị Thừa tướng lại một lần nữa tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, xin Bệ hạ từ bỏ món ăn thịt người có được hay không?

Đức Vua truyền rằng:

- Này Kāḷahatthi! Trẫm không thể từ bỏ món ăn thịt người được!

Vị quan Thừa tướng Kāḷahatthi thỉnh mời Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, các cung phi mỹ nữ, những người trong hoàng gia, v.v… đến chầu Đức Vua Brahmadatta khóc than khẩn khoản, van xin Đức Vua từ bỏ món ăn thịt người, nhưng Đức Vua vẫn khăng khăng một mực truyền rằng:

- Trẫm không thể nào từ bỏ món ăn thịt người được! Ngôi vua và tất cả các người không phải là nơi yêu quý nhất của Trẫm, Trẫm chỉ có ưa thích nhất là món thịt người mà thôi, các người nên biết như vậy!

Khi ấy, vị quan Thừa tướng tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, nếu Bệ hạ quyết tâm không thể từ bỏ món ăn thịt người thì xin Bệ hạ rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này.

Đức Vua truyền rằng:

- Này Thừa tướng! Ngôi vua này không còn ích lợi gì đối với Trẫm nữa, Trẫm sẽ rời khỏi kinh thành Bārāṇasī, ra khỏi đất nước Kāsi này. Trẫm chỉ cần một thanh gươm, một người đầu bếp, một nồi nấu thịt và một cái giỏ đựng thịt mà thôi.

Vị Thừa tướng Kāḷahatthi ra lệnh cho người đem những thứ ấy dâng lên Đức Vua Brahmadatta. Sau khi nhận những thứ ấy xong, Đức Vua ngự rời khỏi kinh thành Bārāṇasī cùng người đầu bếp, không ngoảnh mặt lại, trước sự hiện diện của Thái Thượng Hoàng, Hoàng thái hậu, Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, các cung phi mỹ nữ, v.v…Đức Vua cùng người đầu bếp ngự đi vào rừng, ở dưới gốc cây da, chỉ có 2 người: Đức Vua và người đầu bếp. Hằng ngày, Đức Vua mang gươm ra đường, chặn người qua lại, giết chết đem về giao người đầu bếp làm món ăn dâng lên y dùng. Một hôm, Đức Vua chạy ra đường la hét lớn lên rằng:

- Ta là kẻ sát nhân Porisāda!

Những người đi đường hoảng sợ vấp té, tên sát nhân Porisāda thích người nào là giết người ấy chết, rồi mang 2 chân lên trên, cái đầu xuống dưới, đem về giao cho người đầu bếp làm món ăn để cho y dùng. Mọi người gần xa biết khu rừng ấy có tên sát nhân Porisāda, nên không có một ai dám đi lại. Một hôm, tên sát nhân Porisāda không giết được người nào, trở về tay không. Thấy vậy, người đầu bếp tâu y rằng:

- Tâu Bệ hạ, hạ thần làm gì bây giờ?

Tên sát nhân Porisāda bảo người đầu bếp nhóm lửa, đặt nồi nước lên bếp. Người đầu bếp nghĩ: “hôm nay, chắc chắn ta sẽ là món ăn của Đức Vua”. Vì nghĩ như thế nên y vừa khóc vừa phải làm phận sự nhóm lửa, đặt nồi nước lên bếp. Tên sát nhân Porisāda giết chết người đầu bếp, tự mình làm thịt, nấu chín rồi ăn ngon lành.

Trong rừng tại gốc cây da, chỉ còn một mình tên sát nhân Porisāda.

Vào thời ấy, một người lái buôn Bà-la-môn giàu sang có 500 cổ xe bò chở hàng thường đi ngang qua khu rừng ấy. Bây giờ, nghe tin có tên sát nhân Porisāda ẩn núp trong khu rừng thường ra đón đường giết người, nên ông lái buôn Bà-la-môn thuê mướn một nhóm người vệ sĩ đi theo bảo vệ ông và 500 cỗ xe hàng khi đi ngang qua khu rừng này với số tiền lớn 1.000 Kahāpana.

Nhóm người vệ sĩ này đồng ý, ông lái buôn Bà-la-môn cho 500 cỗ xe bò chở hàng đi trước. Ông ngồi trên cỗ xe nhỏ xinh đẹp bằng con bò trắng lực lượng kéo đi đằng sau, có nhóm người vệ sĩ đi theo bảo vệ ông và đoàn xe.

Khi ấy, tên sát nhân Porisāda leo lên cây cao quan sát, nhìn thấy đoàn xe bò đi qua theo tuần tự, đến cỗ xe sang trọng có ông lái buôn Bà-la-môn ngồi trong xe. Nhìn thấy ông lái buôn Bà-la-môn, Y cảm thấy thèm chảy nước miếng. Khi cỗ xe bò ấy đến gần, Y từ trên cây cao nhảy xuống tung gươm la hét lớn lên 3 lần rằng:

Ta là tên sát nhân Porisāda đây!”.

Nhóm vệ sĩ đi theo bảo vệ ông lái buôn Bà-la-môn, không có một người nào đứng vững, tất cả đều giật mình té xuống đất. Tên sát nhân Porisāda bắt ông Bà-la-môn ấy, nắm 2 chân đưa lên trên, đầu chúc xuống đất mang đi. Nhóm vệ sĩ đứng dậy bảo nhau rằng:

- Ông lái buôn Bà-la-môn thuê mướn chúng ta đi theo bảo vệ ông, bây giờ ông bị bắt, chúng ta không làm gì được hay sao?

Trong nhóm vệ sĩ ấy, một người có tài chạy rất nhanh, cầm gươm đuổi theo kịp tên sát nhân Porisāda. Nhìn lại đằng sau thấy có người đuổi theo kịp, y mang ông lái buôn Bà-la-môn tung người nhảy qua bụi cây cản đường, đụng phải gốc cây nhọn đâm vào bàn chân bị thương nằm quỵ xuống, máu tuôn xối xả.

Nhìn thấy y bị thương, người vệ sĩ la lớn lên rằng:

 - Tên sát nhân đã bị thương rồi! Chúng ta hãy vây bắt y.

Nhìn thấy nhóm người chạy đến gần, tên sát nhân Porisāda bỏ ông lái buôn Bà-la-môn lại, một mình ráng chạy thoát thân. Nhóm vệ sĩ bảo nhau rằng:

- Chúng ta có phận sự bảo vệ ông lái buôn Bà-la-môn, nay chúng ta cứu ông được rồi, chúng ta không có bổn phận bắt tên sát nhân ấy.

Nhóm vệ sĩ không đuổi theo tên sát nhân nữa, mà dìu ông lái buôn Bà-la-môn lên xe và họ tiếp tục lên đường. Tên sát nhân Porisāda cố gắng đi về đến chỗ ở dưới gốc cây da nằm nghỉ.

Cầu Chư Thiên Cội Cây Chữa Trị

Do vết thương làm đau nhức quá không chịu nổi, tên sát nhân Porisāda cầu xin chư thiên cội cây chửa trị cho mau lành. Y thề rằng:

- Thưa vị chư thiên cội cây này! Nếu Ngài chửa trị vết thương của tôi lành hẳn trong vòng 7 ngày thì tôi hứa sẽ lấy máu ở cổ của các Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, để làm lễ cúng dường đến Ngài, và lấy thịt của các Đức Vua ấy làm món ăn cúng dường đến Ngài.

Nhưng thật ra, khi tên sát nhân Porisāda nhịn ăn suốt 7 ngày, đã làm cho vết thương bàn chân lành hẳn, đi lại được tự nhiên. Y nghĩ: “Vết thương của ta được lành là do nhờ oai lực của vị chư thiên cội cây này chữa trị. Ta phải nên thực hiện lời hứa làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây này”.

Tên sát nhân Porisāda ăn thịt người được ít ngày sau, thì sức khoẻ được hồi phục trở lại, y nghĩ tiếp: “Vị chư thiên cội cây này là ân nhân đã giúp chửa trị vết thương của ta lành, ta phải đền ơn vị chư thiên này đúng theo lời hứa của ta”.

Nghĩ xong, y cầm gươm rời khỏi cội cây da, với quyết tâm bắt cho được 101 Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, đem về làm lễ cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này đã giúp chữa lành vết thương của y.

Khi ấy, một Dạ-xoa (Yakkha)[1] vốn là bạn thân tiền kiếp của y (tiền kiếp của y là một Dạ-xoa), đang đi ngược chiều gặp lại y, nhớ lại vốn là bạn thân ở kiếp trước, Dạ-xoa hỏi y rằng:

- Này bạn! Bạn có nhớ tôi không?

Tên Porisāda trả lời rằng:

- Tôi không nhớ được, nhưng tôi cảm thấy thân quen.

Dạ-xoa nhắc lại chuyện tiền kiếp của y là một Dạ-xoa, thì y cảm thấy thân quen thật sự, nên 2 người trở thành bạn thân thiết như kiếp trước. Dạ-xoa hỏi về thân thế của y thế nào, tại sao ở một mình trong khu rừng này. Tên sát nhân Porisāda thuật lại mọi việc xảy ra trong cuộc đời của mình cho Dạ-xoa nghe, và hiện đang lo làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây, nên y yêu cầu Dạ-xoa giúp đỡ rằng:

- Này bạn, xin bạn hãy giúp đ tôi, chúng ta cùng đi với nhau bắt 101 Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu này, để đem về làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây đã cứu chữa lành vết thương của tôi. 

Dạ-xoa trả lời rằng:

- Này bạn! Bây giờ tôi chưa có thể cùng đi với bạn được, bởi vì tôi có phận sự phải làm, nhưng tôi có biết phép thuật (manta) tên Padalakkhaṇa, có khả năng đặc biệt, có sức mạnh phi thường, chạy nhanh như gió, có nhiều oai lực, tôi sẽ dạy bạn phép thuật manta ấy. Bạn nên học phép thuật này, vì nó sẽ giúp bạn thành tựu mọi điều như ý.

 Nghe Dạ-xoa giới thiệu, tên sát nhân Porisāda vô cùng vui vẻ xin học phép thuật ấy.

Lễ Cúng Dường Tạ Ơn Chư Thiên Cội Cây

Thật vậy, sau khi học phép thuật ấy xong, tên sát nhân Porisāda có sức mạnh phi thường, có tài chạy nhanh như gió, y đi tìm bắt 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu trong vòng 7 ngày, đem về xâu 2 bàn tay của 101 Đức Vua treo quanh cây da, 2 bàn chân chạm đất. Thật là một cảnh tượng đáng thương tâm.

Tên sát nhân Porisāda không bắt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma là vì Ngài đã từng là vị thầy, phụ dạy y trong thời gian đang học tại kinh thành Takkasilā. Hơn nữa, nếu bắt Đức Vua Sutasoma làm lễ cúng dường chư thiên, thì trong cõi Nam thiện bộ châu này không còn Đức Vua nào cả. Để chuẩn bị làm lễ cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây, y gom củi chất thành đống chờ châm lửa, y ngồi làm những cây lui nướng thịt.

Vị chư thiên cội cây thấy vậy nghĩ: “Tên sát nhân Porisāda này sẽ tạo ác nghiệp sát sinh, giết 101 Đức Vua, lấy máu làm lễ cúng dường tạ ơn ta, lấy thịt của 101 Đức Vua làm món ăn cúng dường tạ ơn ta. Sự thật, vết thương của y được lành ấy, ta không giúp chửa trị gì cho y cả. Bây giờ, y sẽ sát hại 101 Đức Vua lấy máu, lấy thịt làm lễ cúng dường tạ ơn cho ta. Đó là tội ác lớn lao.

Vậy, ta nên làm cách nào ngăn cản việc làm ác của y, để cứu sống 101 Đức Vua này”.

 Suy xét thấy mình không có khả năng ngăn cản được việc làm ác của tên sát nhân Porisāda, vị thiên nam cội cây đến cầu cứu Tứ đại Thiên vương giúp ngăn cản việc làm ác của y, nhưng Tứ đại thiên vương cũng không có khả năng ngăn cản việc làm ác của y được. Tứ đại Thiên vương giới thiệu lên cầu cứu Đức Vua trời Sakka cõi Tam thập Tam thiên. Vị thiên nam cội cây đến chầu Đức Vua trời Sakka tâu rõ sự việc như vậy, và cầu cứu Đức Vua trời Sakka giúp ngăn cản việc làm ác giết người khủng khiếp ấy, nhưng Đức Vua trời Sakka cũng không có khả năng ngăn cản y được.

Đức Vua trời Sakka suy xét: “Trong các hàng chúng sinh, ngoài Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ra, không có một ai có khả năng ngăn cản được việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda” nên Đức Vua trời Sakka truyền bảo rằng:

- Này thiên nam! Trẫm không có khả năng ngăn cản việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda được.

 Trẫm biết chỉ có Đức Vua Sutasoma ngự tại kinh thành Indapatta, trị vì đất nước Kuru, mới có khả năng đặc biệt thuyết phục được tên sát nhân Porisāda chịu từ bỏ ăn thịt người, và cứu sống 101 Đức Vua trong cõi Nam thiện bộ châu này được mà thôi.

Ngoài Đức Vua Sutasoma ra, Trẫm không thấy có một ai trong các cõi giới này, có khả năng ngăn cản được việc làm tàn ác của tên sát nhân Porisāda.

Vâng theo lệnh của Đức Vua trời Sakka truyền dạy, vị thiên nam cội cây trở lại gốc cây da, rồi hóa ra một bậc xuất gia đứng không xa tên sát nhân Porisāda.

Nhìn thấy bậc xuất gia, y nghĩ: “Ta nên bắt bậc xuất gia này để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cùng với 101 Đức Vua này”.

Nghĩ xong, y cầm gươm chạy nhanh đến, thì bậc xuất gia bước đi khoan thai một cách tự nhiên với dáng thu thúc lục căn, còn y dù chạy hết tốc lực suốt 3 do tuần mà vẫn không đuổi kịp bậc xuất gia ấy. Y đuối sức mệt lử, đứng lại nghĩ: “Từ trước, voi, ngựa chạy, ta còn đuổi theo kịp, còn bậc xuất gia này bước đi khoan thai một cách tự nhiên, dù ta chạy hết tốc lực mà vẫn không đuổi kịp bậc xuất gia này”. Y gọi lớn lên rằng:

- Này Sa-môn kia, hãy dừng lại!

Vị Sa-môn vẫn bước đều đặn tự nhiên, không quay lại, trả lời rằng:

- Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chỉ có ngươi hãy nên dừng lại mà thôi!

Tên sát nhân Porisāda hỏi rằng:

- Này Sa-môn! Thông thường, vị Sa-môn không nói dối, dù vì sinh mạng. Tại sao Ngài nói dối như vậy? Ngài tưởng rằng thanh gươm của tôi là chiếc lông nhỏ hay sao?

Vị Sa-môn trả lời rằng:

- Này Đại Vương! Bần đạo là người đã dừng lại mọi ác nghiệp từ lâu, chỉ hành thiện nghiệp mà thôi, không đổi tên, không đổi nòi giống.

Từ trước, Đại Vương có tên là Brahmadatta cao quý, nay thay đổi là kẻ sát nhân Porisāda tàn nhẫn, độc ác hành ác nghiệp giết người ăn thịt. Trước kia, Đại Vương sinh ra trong dòng dõi vua chúa, nay Đại Vương ăn thịt người như loài Dạ-xoa, thay đổi nòi giống.

- Này kẻ sát nhân! Ngươi đã hành ác nghiệp, sau khi chết, ác nghiệp sẽ cho quả tái sinh trong cõi ác giới: địa ngục, Atula, ngạ quỷ, súc sinh.

- Này kẻ sát nhân! Sự thật, chính ngươi là người nói dối! Ngươi đã cầu khẩn và hứa với ta rằng: “Tôi sẽ lấy máu trên cổ của các Đức Vua trong toàn cõi Nam thiện bộ châu, để làm lễ cúng dường, tạ ơn chư thiên…”

Bây giờ, ngươi chỉ bắt các Đức Vua nước nhỏ đem về mà thôi, còn Đức Vua Sutasoma nước lớn, ngươi không bắt đem về được. Như vậy, ngươi là người nói dối. Vậy, ngươi phải đi bắt cho được Đức Vua Sutasoma về đây.

Sau khi nói xong, vị Sa-môn ấy liền biến đổi hình dạng trở lại là vị thiên nam cội cây đứng trên hư không có hào quang sáng ngời. Tên sát nhân Porisāda nghe tiếng nói và nhìn thấy vị thiên nam ấy bèn hỏi rằng:

- Thưa Ngài, Ngài là ai vậy?

- Ta là vị thiên nam cội cây da này.

Tên sát nhân Porisāda vô cùng hoan hỷ tận mắt nhìn thấy vị thiên nam rồi thưa rằng:

- Thưa vị thiên nam, xin Ngài an tâm, tôi sẽ đi bắt Đức Vua Sutasoma đem về đây.

Khi ấy, mặt trời đã lặn và mặt trăng đang mọc, tên sát nhân Porisāda nhìn các vì sao biết được, ngày hôm sau là ngày Đức Vua Sutasoma ngự đến vườn thượng uyển, tắm tại hồ nước lớn theo truyền thống hằng năm. Y nghĩ: “Ngày mai, các đội binh hộ giá bảo vệ Đức Vua Sutasoma suốt 3 do tuần. Vậy, đêm nay ta đến vườn thượng uyển, xuống nằm dưới hồ nước ngâm mình chờ đợi, trong khi các đội binh chưa chuẩn bị giữ gìn an ninh bảo vệ Đức Vua Sutasoma”.

Y đã thực hiện theo ý ghĩ ấy của mình.

Trong khi ấy, một vị Bà-la-môn Nanda thỉnh 4 bài kệ gọi là Satārahagāthā từ kinh thành Takkasilā đến kinh thành Indapatta khoảng cách 120 do tuần, vị Bà-la-môn Nanda nghỉ đêm ở ngoài cửa thành.

Sáng hôm sau, các đội binh: đội tượng binh, đội mã binh, đội quân xa, đội bộ binh, v.v… kéo dài suốt 3 do tuần bảo vệ Đức Vua Bồ Tát Sutasoma.

Sáng sớm dùng vật thực xong, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự lên voi báu Maṅgala được trang hoàng lộng lẫy, xung quanh có các bộ binh hộ giá đi ra khỏi kinh thành Indapatta.

Cũng sáng hôm ấy, vị Bà-la-môn Nanda đi vào kinh thành, nhìn thấy Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự ra cửa thành hướng đông, ông chắp 2 tay trên trán, tỏ vẻ cung kính chúc tụng Đức Vua Bồ Tát.

Nhìn thấy vị Bà-la-môn, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma cho voi đến gần truyền hỏi rằng:

- Này vị Bà-la-môn! Ngươi từ đâu đến kinh thành này có mục đích gì? Ngươi hãy tâu cho Trẫm rõ.

Vị Bà-la-môn tâu rằng:

- Muôn tâu Đại Vương, kẻ tiện dân từ kinh thành Takkasilā đến đây. Nghe tin rằng Đại Vương là bậc đa văn túc trí, hiếu học, nên kẻ tiện dân thỉnh 4 bài kệ tên là Satārahagāthā có ý nghĩa sâu sắc mà Đức Phật Kassapa đã thuyết giảng, đến kinh thành này vì sự lợi ích của Đại Vương.

Kính xin Đại Vương lắng nghe 4 bài kệ này, để được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Lắng nghe vị Bà-la-môn tâu như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vô cùng hoan hỷ truyền bảo rằng:

- Kính thưa Bà-la-môn, tốt lành thay, Ngài đã đến đây, nhưng bây giờ Trẫm không thể hồi cung được, bởi vì hôm nay Trẫm ngự đi làm lễ tắm gội đầu theo phong tục truyền thống của triều đình xưa.

Vậy, sau khi Trẫm làm lễ tắm gội đầu xong, khi hồi cung, Trẫm sẽ xin lắng nghe 4 bài kệ Satārahagāthā ấy.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền các quan rằng:

- Này các khanh! Các khanh hãy mời vị Bà-la-môn này vào cung điện, nghỉ ngơi chỗ sang trọng, lo phục vụ những thứ cần thiết cho vị Bà-la-môn này.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tiếp tục ngự đến vườn thượng uyển. Xung quanh vườn thượng uyển có bờ thành cao 14 cùi tay, các cửa ra vào có các đội binh: đội tượng binh, đội mã binh, đội quân xa, đội bộ binh, v.v… kéo dài suốt 3 do tuần, để bảo vệ Đức Vua Bồ Tát.

Đến hồ nước, Đức Vua Bồ Tát cởi bộ đồ triều phục, thợ sửa râu tóc, các quan thoa vật thơm để tắm, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự xuống hồ nước lớn theo phong tục truyền thống của triều đình xưa. Làm lễ tắm gội đầu xong, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vẫn đứng dưới nước, các quan đem vật thoa, vật thơm, bộ đồ triều phục, và các đồ trang sức đến cho Ngài mặc.

Khi ấy, tên sát nhân Porisāda từ dưới nước nổi lên, cầm thanh gươm đưa lên khỏi đầu la hét lớn 3 lần rằng:

Ta là tên sát nhân Porisāda đây!

Khi nghe như vậy, các đội binh theo hộ giá Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, nếu những lính ngồi trên lưng voi, lưng ngựa, trên xe thì bị rơi xuống đất, những lính bộ thì té ngả xuống đất, v.v…

Tên Sát Nhân Porisāda Bắt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma

Tên sát nhân Porisāda đến nâng Đức Vua Bồ Tát Sutasoma lên đặt trên vai của mình. Đây là trường hợp đặc biệt, vì trước đây, khi bắt 101 Đức Vua khác, y đều nắm 2 chân đưa lên cao, đầu chúc xuống đất chạy nhanh như bay, nhưng đối với Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, y nâng cái mông của Ngài đặt trên vai của mình, không đi ra theo cửa ra vào mà bắn tung người lên nhảy ngang qua thành cao 14 cùi tay, đạp trên lưng con voi này đến lưng con voi khác, rồi đến lưng con ngựa này đến lưng con ngựa khác, rồi đến chiếc xe này đến chiếc xe khác,… chạy nhanh như gió khoảng 3 do tuần, nhìn lại không thấy một ai đuổi theo, nên y đi bình thường, rồi nghĩ: “Chúng sinh không sợ chết không có, ai cũng đều sợ chết cả. Còn Đức Vua Sutasoma có sợ chết hay không? Ta nên tâu hỏi cho rõ”. Nghĩ xong y bèn tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Đại Vương là bậc đại thiện trí, bậc đa văn túc trí có trí tuệ sáng suốt hiểu rõ nhân quả, chắc chắn Đại Vương không hoảng sợ. Bậc đại thiện trí như Đại Vương là nơi nương nhờ của mọi người khác, ví như hòn đảo giữa đại dương là nơi nương nhờ của những người đi trên thuyền bị bão táp.

Như vậy, bậc đại thiện trí như Đại Vương chắc chắn không khóc vì sợ chết. Nếu Đại Vương khóc vì sợ chết, thì những người si mê khác sẽ như thế nào?

- Tâu Đại Vương, do nguyên nhân nào làm cho Đại Vương khổ tâm sầu não như vậy? Có phải vì mình, vì Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, Đức Thái Thượng Hoàng, Bà Hoàng thái hậu, vì ngôi vua hay không?

Xin Đại Vương truyền bảo cho tôi biết rõ nguyên nhân ấy có được hay không?

Nghe Porisāda hỏi như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi không phải khổ tâm sầu não vì mình, hoặc vì Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, các công chúa, Đức Phụ Vương, Mẫu hậu, vì ngôi vua,…

Thật ra, tôi thực hành pháp hạnh chân thật của chư bậc thiện trí đã thực hành từ ngàn xưa, đó là lời nói chân thật mà tôi đã hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy, tôi không giữ gìn đúng theo lời nói chân thật hứa hẹn ấy, đó là nguyên nhân khiến tôi khổ tâm sầu não.

Sáng nay, trên đường đang ngự ra khỏi kinh thành, tôi gặp vị Bà-la-môn thỉnh 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa từ kinh thành Takkasilā đến tìm tôi, để thuyết lại cho tôi nghe 4 bài kệ ấy.

Tôi đã hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy rằng: “Sau khi Trẫm làm lễ tắm gội đầu xong, hồi cung trở về, Trẫm sẽ xin lắng nghe 4 bài kệ Satārahagāthā ấy”.

 Tôi đã truyền lệnh các quan đón tiếp vị Bà-la-môn ấy tại cung điện của tôi. Tôi đã mời vị Bà-la-môn ấy chờ đợi cho đến khi tôi hồi cung.

 Nay, tôi bị bạn bắt, tôi sẽ không thể gìn giữ đúng lời nói chân thật hứa hẹn với vị Bà-la-môn ấy.

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi xin bạn cho tôi hồi cung trở về, để nghe vị Bà-la-môn thuyết xong 4 bài kệ ấy, tôi sẽ là người không còn nợ nữa, tôi hứa chắc chắn sẽ trở lại gặp bạn, tôi xin giữ gìn đúng lời hứa chân thật này. Xin bạn hãy tin chắc nơi tôi.

Tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương cao thượng, người nào biết quý sinh mạng, mong mỏi kiếp sống an lạc, khi được ra khỏi tay kẻ thù là tử thần rồi, người ấy chắc chắn sẽ không trở lại gặp kẻ thù nữa. Cho nên, điều mà Đại Vương hứa, tôi chưa có thể tin được.

- Tâu Đại Vương cao thượng, Đại Vương sẽ không trở lại tìm tôi nữa đâu! Khi Đại Vương thoát ra khỏi tay của tôi, ngự trở lại cung điện, hưởng mọi sự an lạc trong cung điện, Đại Vương rất quý sinh mạng, sống an lành. Chẳng bao giờ Đại Vương có thể trở lại tìm tôi nữa!

Nghe Porisāda không tin vào lời hứa của mình, nên Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi với bạn cùng sống chung với nhau, cùng học chung một Tôn Sư qua nhiều năm trước đây, bạn đã từng nghe tôi nói dối bao giờ chưa? Nay, tôi có thể nói dối chỉ vì sinh mạng hay sao?

Dù gió thổi bay hòn núi lớn, mặt trời, mặt trăng rơi xuống mặt đất, nước dòng sông chảy ngược. Dù những điều ấy có thật thì tôi vẫn không thể nói dối được.

Dù hư không nứt rạn, nước trong các đại dương khô cạn, mặt đất có đảo ngược, núi Suneru bị nhổ chân núi. Dù những điều ấy có thật thì tôi vẫn không thể nói dối được.

Dù Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã truyền bảo như vậy, nhưng tên sát nhân Porisāda vẫn chưa chịu tin. Ngài nghĩ: Ta đã nói hết lời như vậy mà Porisāda vẫn chưa chịu tin, ta sẽ làm cho y tin bằng lời thề của ta”.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma vẫn còn đang ngồi trên vai của tên sát nhân Porisāda, nên Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Xin bạn hãy đặt tôi đứng xuống đất, tôi sẽ nói lên lời thề trước mặt bạn, để cho bạn tin lời thề chân thật của tôi.

Tên sát nhân Porisāda đặt Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đứng xuống đất. Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tay cầm thanh gươm báu dõng dạc phát lời thề rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi xin thề trước mặt bạn rằng: “Bạn thả tôi trở về cung điện, tôi sẽ gặp lại vị Bà-la-môn đúng theo hứa hẹn, để tôi được nghe vị Pháp Sư Bà-la-môn thuyết dạy 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa.

Sau khi nghe xong, tôi sẽ cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn. Khi ấy, tôi là người không còn mắc nợ nữa. Tôi xin thề chắc chắn sẽ trở lại tìm gặp bạn. Tôi xin giữ gìn lời thề chân thật này”.

Nghe lời thề của Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, tên sát nhân Porisāda suy xét: “Để giữ gìn lời hứa hẹn với vị Bà-la-môn Pháp Sư mà Đức Vua Sutasoma đã dám thề nặng như vậy, mà chắc chắn không có Đức Vua nào dám thề. Vậy, ta còn muốn gì hơn nữa. Dù Đức Vua Sutasoma có trở lại gặp ta hoặc không trở lại gặp ta, điều ấy không còn quan trọng gì nữa, bởi vì chính ta cũng là Đức Vua, nếu không có Đức Vua Sutasoma, thì ta sẽ lấy máu của ta làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cũng được vậy!” 

Sau khi suy xét xong, tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Lời hứa hẹn nào mà Đại Vương đã hứa hẹn với vị Pháp Sư Bà-la-môn, khi ngự ra khỏi thành, vậy, kính thỉnh Đại Vương hồi cung ngự trở về gặp vị Pháp Sư Bà-la-môn đúng theo lời hứa hẹn chân thật ấy.

Kính xin Đại Vương giữ lời hứa chân thật là sẽ ngự trở lại gặp tôi.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Xin bạn hãy an tâm. Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư Bà-la-môn, cúng dường đến vị Pháp Sư xong, tôi sẽ trở lại gặp bạn từ sáng sớm. Xin bạn hãy tin theo lời hứa chân thật của tôi.

Tên sát nhân Porisāda tâu với Đức Vua Bồ Tát rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Đại Vương đã truyền lời thề mà không có một Đức Vua nào dám thề cả. Vậy, kính xin Đại Vương nhớ lời hứa với tôi.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo với tên sát nhân Porisāda rằng:

- Này Porisāda bạn thân mến! Tôi với bạn cùng sống, cùng học chung với nhau trong thời thiếu niên, tôi chưa từng nói dối dù là lời nói đùa vui. Bây giờ, tôi đã là Đức Vua đứng đầu trong một nước, tôi lại có thể nói dối chỉ vì sinh mạng được hay sao!

 - Này Porisāda bạn thân mến! Bạn hãy tin lời hứa chân thật của tôi, chắc chắn tôi sẽ trở lại gặp bạn kịp lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi bạn sẽ ăn thịt tôi vào ngày mai.

Tên sát nhân Porisāda tâu với Đức Vua Bồ Tát rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Kính xin Đại Vương ngự trở về ngay bây giờ. Ngày mai, xin Đại Vương trở lại sớm. Bởi vì, nếu thiếu Đại Vương thì chư thiên không nhận lễ cúng dường tạ ơn của tôi. Vậy, kính xin Đại Vương đừng làm hỏng lễ cúng dường tạ ơn chư thiên của tôi.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma Được Phép Hồi Cung

Tên sát nhân Porisāda tiễn đưa Đức Vua Bồ Tát Sutasoma hồi cung ngự trở về. Rời khỏi tay tên sát nhân Porisāda, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma có sức mạnh như voi chúa ngự trở về kinh thành Indapatta.

Khi ấy, các đội binh đang đứng chờ Ngài ở ngoài cửa thành. Họ tin chắc rằng Ngài có tài thuyết pháp hay có thể thuyết phục được tên sát nhân Porisāda thả Ngài ngự trở về. Vả lại, các đội binh không dám vào kinh thành, bởi vì sợ Đức Thái Thượng Hoàng, Hoàng Thái hậu, dân chúng trong kinh thành chê trách: “Các đội binh hùng mạnh như vậy, tại sao không thể hộ giá bảo vệ Đức Vua được, để cho tên sát nhân Porisāda bắt Đức Vua đem đi”.

Khi nhìn từ xa thấy Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đang ngự trở về, tất cả các đội binh đứng nghiêm chỉnh đón tiếp Ngài, rồi tâu rằng:

- Tâu Bệ hạ, chúng hạ thần bất lực quá, không bảo vệ được Bệ hạ, để tên sát nhân Porisāda bắt Bệ hạ, long thể Bệ hạ có bất an hay không?

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này các khanh! Trẫm vẫn được bình an, tuy Pori-sāda là tên sát nhân tàn ác, nhưng nghe Trẫm thuyết phục bằng lời chân thật, y đã tin, rồi thả Trẫm trở về.

Các quan kính thỉnh Đức Vua Bồ Tát ngự lên voi báu cùng các quan ngự vào cung điện.

Nhìn thấy Đức Vua hồi cung, toàn thể dân chúng vô cùng hoan hỷ tung hô ca tụng Ngài. Ngài là bậc biết kính trọng pháp nên nghĩ: “Sau khi ta nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, ta sẽ ngự đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của ta”.

Vì nghĩ như vậy Ngài ngự thẳng đến cung điện, ngự lên ngai vàng rồi truyền các quan rằng:

- Này các khanh! Các khanh hãy gọi thợ đến sửa râu, tóc cho Pháp Sư Bà-la-môn, tắm rửa sạch sẽ, mặc trang phục sang trọng, rồi thỉnh Pháp Sư đến yết kiến Trẫm.

Tuân theo lệnh của Đức Vua Bồ Tát Sutasoma, các quan đã phục vụ vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, thỉnh đến chầu Ngài. Ngài kính dâng phần vật thực của mình đến cho vị Pháp Sư Bà-la-môn dùng, còn Ngài dùng phần vật thực khác.

Sau khi vị Pháp Sư Bà-la-môn dùng xong, Ngài kính thỉnh vị Pháp Sư ngồi trên ngai vàng, rồi cúng dường hoa, vật thơm với tâm tôn kính đến vị Pháp sư. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự một chỗ hợp lẽ thấp hơn, rồi kính thỉnh vị Pháp sư Bà-la-môn rằng:

- Kính thưa Pháp Sư, Trẫm xin kính thỉnh Pháp Sư thuyết cho Trẫm nghe 4 bài kệ gọi là “Satārahagāthā” để đem lại sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài cho Trẫm.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma kính thỉnh xong, vị Pháp sư Bà-la-môn rửa 2 tay bằng nước hoa thơm, đưa tay lấy 4 bài kệ từ trong hộp quý, 2 tay cầm bổn kệ ngay trước ngực tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, Bây giờ, kính xin Đại Vương lắng nghe 4 bài kệ gọi là “Satārahagāthā” mà Đức Phật Kassapa đã thuyết giảng, để chứng ngộ Niết Bàn bất tử, để diệt tham, sân, si. 4 bài kệ ấy như sau:

4 Bài kệ Satārahagāthā

1- “Sakideva Mahārājā, sabbhi hoti samāgamo Sā naṃ saṅgati pāleti, nāsabbhi bahu saṅgamo”.

Ý nghĩa:

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Sự thân cận với chư bậc thiện trí,

Dù chỉ một lần mà thôi,

Sự thân cận ấy cũng hộ trì người ấy được.

Dù gần gũi nhiều lần với những kẻ si mê,

Vẫn không thể hộ trì người ấy được.

2-“Sabbhireva samāsetha, sabbhi kubbetha santhavaṃ. Sataṃ saddhammamaññāya, seyyo hoti na pāpiyo”.

Ý nghĩa:

Hãy nên thân cận với chư bậc thiện trí,

Hãy nên gần gũi kết bạn thân với chư bậc thiện trí.

Sự hiểu biết chánh pháp của chư bậc thiện trí,

Chỉ có cao thượng chứ không có thấp hèn.

3- “Jīranti ve rājarathā sucittā, Atho sarīrampi jaraṃ upeti.

Satañca dhammo na jaraṃ upeti, Santo have sabbhi pavedayanti”.

Ý nghĩa:

Long xa được trang hoàng đẹp đẽ tuyệt vời,

Cũng có ngày bị cũ rích, hư hoại. Cũng như vậy,

Thân thể được điểm trang xinh đẹp lộng lẫy,

Cũng có ngày đến tuổi già nua, tan rã.

Chư Phật, chư Thánh đều ca tụng Niết Bàn,

Thật sự, pháp Niết Bàn là bất lão, bất tử.

4- “Nabhañca dūre pathavī ca dūre, Pāraṃ samuddassa tadāhu dūre.

Tato have dūrataraṃ vadanti, Satañca dhammo asatañca Rājā”.

Ý nghĩa:

Tâu Đại Vương Sutasoma,

Bầu trời xa cách mặt đất,

Mặt đất cũng xa cách bầu trời.

Bờ đại dương bên này xa cách bờ bên kia.

Thật sự, xa cách nhau hơn cả, đó là

Chánh pháp của bậc thiện trí,

Với tà pháp của kẻ si mê.

Thật nghìn trùng xa cách!

Nghe xong 4 bài kệ ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma suy xét: Sự trở về của ta đã đem lại sự lợi ích, sự tiến hoá, sự an lạc lớn lao quá! Bốn bài kệ này không phải là lời dạy của các vị đạo sĩ, cũng không phải lời thơ của các nhà thi sĩ, cũng không phải là lời dạy của chư Thanh Văn đệ tử Phật. Mà thật sự, 4 bài kệ này chính là lời giáo huấn của chư Phật Chánh Đẳng Giác.

Thật là vô cùng cao thượng! Thật là vô giá!

Nếu có thất báu chất đầy từ cõi người lên đến 6 cõi trời dục giới, các cõi trời sắc giới phạm thiên tột đỉnh, thì cũng không thể sánh được với 4 bài kệ này”.

Suy xét về sự cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn, Đức Bồ Tát Sutasoma xét thấy vị Pháp Sư chỉ có khả năng thọ nhận được số tiền mỗi bài kệ 1.000 Kahāpana mà thôi, nên Ngài truyền lệnh các quan đem ra 4.000 Kahāpana. Ngài thưa với vị Pháp Sư rằng:

- Kính thưa Pháp Sư, khi Pháp Sư thuyết 4 bài kệ này đến các Đức Vua khác, thì Pháp Sư được cúng dường mỗi bài kệ bao nhiêu? Thưa Ngài.

- Tâu Đại Vương, hạ thần được cúng dường mỗi bài kệ 100 Kahāpana. Do đó, bài kệ này có tên Satāraha-gāthā: bài kệ đáng giá 100 Kahāpana.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma thưa rằng:

- Kính thưa vị Pháp Sư, Trẫm xin cúng dường mỗi bài kệ 1.000 Kahāpana. Xin gọi là “Sahassarahagāthā" bài kệ đáng giá 1.000 Kahāpana.

- Kính thưa vị Pháp Sư, Trẫm kính xin cúng dường 4.000 Kahāpana đến Ngài, kính xin Ngài thọ nhận 4.000 đồng Kahāpana này.

Khi ấy, toàn thể chư thiên đều hoan hỷ thốt lên lời Sādhu! Sādhu! Sādhu! Lành thay vang rền khắp mọi nơi. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền các quan đem ban cho vị Pháp Sư Bà-la-môn một chiếc xe sang trọng, rồi tiễn vị Pháp Sư lên đường trở về cố quốc.

Sau đó Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, đảnh lễ song thân xong, đứng một nơi hợp lẽ.

Đức Thái thượng hoàng truyền hỏi rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Con đã thoát khỏi tay tên sát nhân Porisāda bằng cách nào vậy?

- Muôn tâu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, Porisāda đã cho phép con hồi cung trở về, để nghe 4 bài kệ mà con đã hứa hẹn với vị Pháp Sư Bà-la-môn tại cổng thành, trước khi con đi làm lễ tắm gội đầu ở hồ nước lớn trong vườn thượng uyển.

Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Pháp Sư, con cũng đã cúng dường đến vị Pháp Sư Bà-la-môn xong. Nay con kính dâng ngôi báu lại để Đức Phụ Vương trị vì đất nước này.

Còn con đã hứa hẹn với Porisāda, sau khi đã nghe 4 bài kệ, cúng dường vị Pháp Sư Bà-la-môn xong, con sẽ trở lại gặp y. Con thành kính đảnh lễ Đức Phụ Vương và Mẫu hậu, sáng sớm ngày mai, con phải trở lại gặp Porisāda đúng theo lời hứa chân thật của con với y.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tâu như vậy, Đức Thái Thượng Hoàng cảm thấy khổ tâm, truyền rằng:

- Này hoàng nhi yêu quý! Con không nên đi đến gặp tên sát nhân Porisāda tàn ác ấy, Đức Phụ Vương sẽ truyền lệnh đem các bộ binh vây bắt, giết tên sát nhân Porisāda ấy, bởi vì y là kẻ thù của chúng ta.

Nghe Đức Thái Thượng Hoàng truyền bảo như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tâu rằng:

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, Porisāda đã làm điều khó làm, y đã bắt sống được con, rồi lại thả cho con trở về. Con vẫn nhớ những hành vi của Porisāda đối xử tốt với con, và con đã nói lời hứa hẹn chân thật với y rằng: “Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Bà-la-môn Pháp Sư, rồi cúng dường đến vị Bà-la-môn Pháp Sư xong, tôi sẽ trở lại gặp bạn, vào sáng sớm ngày mai”.

- Muôn tâu Đức Phụ Vương, con phải giữ đúng lời hứa hẹn chân thật của con với y. Cho nên, con phải đi gặp y, chứ không thể nào thất hứa, làm khổ y được.

 - Muôn tâu Đức Phụ Vương, kính xin Đức Phụ Vương chớ nên bận tâm về con, bởi vì con đã tạo và tích luỹ mọi thiện nghiệp, để làm nơi nương nhờ cho con trong kiếp hiện tại lẫn nhiều kiếp vị lai rồi.

Khi ấy, Chánh cung Hoàng hậu của Đức Vua Sutasoma, các hoàng tử, các công chúa cùng với 16.000 Cung phi đều đến chầu Ngài, khóc than khẩn khoản van xin Ngài không nên ngự đến gặp tên sát nhân Porisāda. Các người trong hoàng tộc, các quan văn võ, các tướng lãnh đều khổ tâm, bởi nghe tin Ngài ngự đến gặp tên sát nhân Porisāda.

Dân chúng trong kinh thành nghe tin rằng: “Đức Vua Sutasoma đã nói lời hứa hẹn chân thật với tên sát nhân Porisāda. Sau khi đã nghe 4 bài kệ từ vị Bà-la-môn Pháp Sư, rồi cúng dường đến vị Bà-la-môn Pháp Sư xong, Đức Vua sẽ trở lại gặp tên sát nhân Porisāda”.

Biết Đức Vua sẽ trở lại gặp tên sát nhân Porisāda đúng theo lời hứa hẹn chân thật ấy. Dân chúng ai cũng cảm thấy khổ tâm sầu não.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ở lại tại cung điện suốt đêm hôm ấy, để dạy dỗ các hoàng hậu, hoàng tử, công chúa, cùng các hoàng thân cả thảy.

Đến lúc rạng sáng ngày hôm sau, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đến chầu đảnh lễ Đức Thái Thượng Hoàng và Hoàng Thái Hậu một lần nữa, rồi từ giã Chánh cung Hoàng hậu, các hoàng tử, công chúa, cung phi, các người trong hoàng tộc, các quan văn võ, tướng lĩnh, quân lính, cùng toàn thể dân chúng… Ai ai cũng cảm động trào nước mắt.

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma Ngự Trở Lại Gặp Porisāda

Đức Vua Bồ Tát Sutasoma rời khỏi cung điện, ngự ra cửa thành, mọi người đi theo tiễn đưa Ngài. Tại cửa thành, dân chúng cũng đứng chờ tiễn đưa Ngài đi. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đứng lại truyền bảo từ giã dân chúng, rồi tiếp tục ngự đi đến gặp tên sát nhân Porisāda. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma ngự đi trước, dòng người vẫn đi theo sau, Ngài dừng lại lấy cây gác ngang đường rồi truyền lệnh rằng:

- Nếu người nào còn kính yêu Trẫm, thì người ấy không nên bước ngang qua ranh giới bên này!

 Tất cả mọi người không một ai dám vượt qua ranh giới ấy. Họ đứng lại nơi ấy nhìn theo Đức Vua Bồ Tát Sutasoma cho đến khi không còn nhìn thấy hình bóng Ngài nữa. Tất cả mọi người vô cùng xúc động, khóc than tiễn biệt Ngài rồi trở về chỗ ở của mình. Đức Vua Bồ Tát Sutasoma là bậc dũng cảm như sư tử chúa một mình đến gặp tên sát nhân Porisāda.

 Suy Tư Của Tên Sát Nhân Porisāda

Từ khi Đức Vua Bồ Tát Sutasoma hồi cung trở về cung điện, tên sát nhân Porisāda nghĩ: Đại Vương Sutasoma, bạn thân thiết của ta, nếu muốn trở lại thì cũng tốt, nếu không muốn trở lại thì cũng được. Vị chư thiên cội cây này sẽ hành phạt ta thế nào ta cũng cam chịu. Ta sẽ giết các Đức Vua này lấy máu và lấy máu của ta thay máu của Đức Vua Sutasoma làm lể cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này, và sẽ lấy thịt các Đức Vua này làm món ăn cúng dường tạ ơn vị chư thiên cội cây này”.

Nghĩ xong, tên sát nhân Porisāda đốt đống củi, khi lửa đang còn cháy ngùn ngụt, khói lên nghi ngút, y đang ngồi cặm cụi làm những cây nhọn để lụi thịt nướng thì Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã ngự đến.

Nhìn thấy Ngài tên sát nhân Porisāda vui mừng đón tiếp, tâu rằng:

- Tâu Đại Vương kính mến! Đại Vương đã hoàn thành xong mọi phận sự, rồi mới ngự trở lại đây phải không?

Đức Vua Sutasoma truyền rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã hoàn thành xong mọi phận sự như: Tôi đã gặp vị Bà-la-môn đúng theo lời hứa hẹn chân thật vào buổi sáng hôm qua; tôi đã nghe vị Pháp Sư Bà-la-môn thuyết 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa, rồi tôi đã cúng dường xứng đáng đến vị Pháp Sư Bà-la-môn ấy; tôi đã đến chầu Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của tôi; tôi đã từ giã mọi người thân trong hoàng gia; các quan văn võ, các tướng lĩnh, các quân lính; toàn thể dân chúng….

Nay, tôi đến gặp bạn đúng theo lời hứa hẹn chân thật của tôi. Tôi là người không mắc nợ với ai nữa.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Ngay bây giờ, bạn có thể đem tôi để làm lễ vật cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý của bạn.

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda suy xét: Đức Vua Sutasoma đã nghe 4 bài kệ xong, trở thành người dũng cảm, không hề run sợ, chắc chắn là do oai lực của 4 bài kệ ấy.

Vậy, ta nên thỉnh cầu Đức Vua Sutasoma thuyết lại cho ta nghe 4 bài kệ ấy, ta cũng sẽ trở thành người dũng cảm, không run sợ”.

Tên sát nhân Porisāda đã tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Lễ cúng dường tạ ơn chư thiên cội cây này, ăn thịt của bạn. Đó là điều chắc chắn đối với tôi, tôi sẽ được như ý.

Nay lửa đang cháy, khói bốc lên nghi ngút, chờ trở thành than hồng, nướng thịt mới chín ngon được. Trong khi chờ đợi, kính xin Đại Vương thuyết lại 4 bài kệ ấy cho tôi nghe trước.

Nghe Porisāda kính xin như vậy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma nghĩ: Bây giờ Porisāda đang có tà kiến, ác tâm phát sinh. Vậy, ta nên thuyết phục y phát sinh thiện tâm, biết hổ thẹn tội lỗi, biết ghê sợ tội lỗi, rồi ta mới thuyết lại 4 bài kệ ấy cho y nghe”. Cho nên, Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn là người ác ăn thịt người, bị đuổi ra khỏi nước, bị lưu đày vào trong rừng sâu này. Bạn là kẻ sát nhân có đôi bàn tay đẫm máu, tạo ác nghiệp giết người ăn thịt với ác tâm tàn nhẫn, độc ác, không có tâm từ, không có tâm bi thương xót mọi người, mọi chúng sinh. Bạn tự làm khổ mình, làm khổ chúng sinh khác. Bạn hành tà pháp của kẻ si mê.

Còn 4 bài kệ của Đức Phật Kassapa này thuộc về chánh pháp của bậc thiện trí. Sao bạn có thể hiểu rõ ý nghĩa cao siêu của chánh pháp được.

Như vậy, nếu tôi thuyết lại 4 bài kệ này cho bạn nghe thì có ích lợi gì đâu?

Nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda không nổi giận, mà còn cảm thấy mát mẻ, bởi vì Ngài truyền bảo với tâm từ mong đem lại sự lợi ích cho y. Y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Các Đức Vua khác mang cung tên vào rừng săn bắn các con thú rừng như nai, v.v… để ăn thịt, tạo ác nghiệp sát sinh. Nếu hành động của các Đức Vua ấy hợp pháp thì hành động của tôi cũng hợp pháp.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Thông thường Đức Vua không được phép dùng 10 thứ thịt, trong đó có món thịt người. Bạn là Đức Vua đã dùng món thịt người, thì hợp pháp sao được. Bạn đã phạm tội lỗi rồi!

Tên sát nhân Porisāda không còn cách biện hộ cho mình được nữa, nên quay sang bắt lỗi Đức Vua Sutasoma rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Khi Đại Vương đã thoát ra khỏi tay của tôi, ngự trở lại cung điện của mình, đã thoát nạn, hưởng mọi sự an lạc trong cung điện. Đại Vương còn ngự trở lại gặp kẻ thù là tôi.

Như vậy, Đại Vương đã không hiểu rõ chiến lược của một Đức Vua, Đại Vương không biết được con đường tiến hoá và con đường thoái hoá của mình. Danh tiếng của Đại Vương được lan truyền khắp cõi Nam thiện bộ châu này rằng: “Đại Vương là bậc đại thiện trí có trí tuệ siêu việt”, nhưng thật ra, Đại Vương cũng chỉ là hạng người thiểu trí, si mê nhất mà thôi.

Nghe Porisāda chê trách mình như vậy, Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi hiểu biết rõ chiến lược của một Đức Vua, nếu những Đức Vua nào thi hành theo sách lược ấy, phần nhiều sau khi chết, ác nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi địa ngục. Do đó, tôi không thực hành theo sách lược ấy, mà tôi chỉ thực hành theo bậc thiện trí giữ gìn lời hứa hẹn chân thật của tôi mà thôi. Cho nên, tôi trở lại gặp bạn đúng theo lời hứa hẹn chân thật ấy.

 Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

Nghe Đức Vua Sutasoma truyền bảo như vậy, tên sát nhân Porisāda tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Bạn là một Đại Vương trị vì một đất nước rộng lớn, an hưởng mọi sự an lạc đế vương. Thế mà Đại Vương đã từ bỏ tất cả, trở lại gặp tôi, nghĩa là Đại Vương dám hy sinh thân mạng để giữ lời hứa hẹn chân thật với tôi.

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Bạn thấy quả báu thực hành giữ gìn lời hứa hẹn chân thật ấy thế nào, mà bạn dám hy sinh thân mạng của bạn vậy?

Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Lời chân thật là pháp vị cao quý nhất, cao thượng nhất trong các loại vị trong đời. Các bậc Sa-môn, Bà-la-môn, đều giữ gìn lời nói chân thật, giữ gìn 3 tiết chế chân thật (chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng) mới có thể dẫn đến chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát khổ tử sinh luân hồi. Do đó, pháp vị chân thật là pháp cao thượng hơn tất cả mọi thứ vị trong đời.

Lắng nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma truyền bảo về quả báu của pháp vị chân thật như vậy, tên sát nhân Porisāda nhìn thấy gương mặt của Ngài trong sáng, xinh đẹp như đoá hoa sen hé nở, như mặt trăng ngày rằm trong sáng, nên y mới tư duy: Dù nhìn thấy giàn hoả lửa hồng, dù thấy ta đang làm cây lụi nướng thịt, thế mà Đức Vua Sutasoma vẫn không hề tỏ vẻ sợ sệt chút nào cả. Đó là do oai lực của 4 bài kệ hoặc do oai lực của pháp chân thật của Đức Vua. Ta sẽ tâu hỏi cho rõ”. Suy xét xong, y tâu nhắc lại rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Bạn đã thoát khỏi tay tôi, bạn ngự trở về cung điện, an hưởng mọi sự an lạc, rồi bạn trở lại gặp tôi. Bạn không sợ chết hay sao?

Người Không Sợ Chết

Đức Vua Sutasoma truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã tạo mọi thiện nghiệp, đã tích luỹ mọi thiện nghiệp mà chư bậc thiện trí tán dương ca tụng. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã phụng dưỡng Đức Phụ Vương và Mẫu hậu của tôi một cách cung kính và chu đáo, tôi đã làm tròn phận sự người con rồi; tôi là Đức Vua đã trị vì đất nước bằng thiện pháp. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã nuôi dưỡng Chánh cung Hoàng hậu, các Cung phi, các hoàng tử, các công chúa, giúp đỡ thân quyến và bạn hữu một cách chu đáo; tôi là Đức Vua đã trị vì đất nước bằng thiện pháp. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

- Này Porisāda, bạn thân mến! Tôi đã làm phước bố thí cúng dường đến các Sa-môn, Bà-la-môn một cách cung kính, tế độ mọi người nghèo khổ. Như vậy, con đường thiện nghiệp của tôi dẫn đến cho quả tái sinh kiếp sau của tôi được rõ ràng chắc chắn rồi. Vả lại tôi là người có giới, đang trú trong mọi thiện pháp ấy. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

Và cũng chính những thiện pháp ấy sẽ làm cho thiện tâm của tôi trong sáng, sẽ không bị ô nhiễm bởi phiền não trong lúc lâm chung, hy vọng sau khi tôi chết, chắc chắn thiện nghiệp ấy sẽ cho quả tái sinh trong cõi thiện giới: cõi người hoặc cõi trời. Vậy, sao tôi lại phải sợ chết?

 - Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy đem tôi làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên theo ý muốn của bạn.

Lắng nghe Đức Vua Bồ Tát Sutasoma thuyết giảng như vậy, tên sát nhân Porisāda vô cùng hoảng sợ, nghĩ: “Đại Vương Sutasoma là bậc đại thiện trí cao thượng, có trí tuệ siêu việt, thuyết pháp rất hay, có ý nghĩa sâu sắc. Nếu ta giết Đức Vua Sutasoma để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi ăn thịt Đức Vua thì chắc chắn cái đầu của ta sẽ bị vỡ ra làm 7 mảnh, hoặc mặt đất nứt làm đôi rút ta vào trong lòng đất, bởi vì ác nghiệp nặng của ta”. Vì vậy, y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương Sutasoma, bạn thân mến! Đại Vương là bậc đại thiện trí cao thượng, tôi không dám giết Đại Vương để làm lễ cúng dường tạ ơn chư thiên, rồi ăn thịt. Nếu người nào dám giết Đại Vương, rồi ăn thịt của Đại Vương thì cái đầu của người ấy chắc chắn sẽ bị vỡ ra làm 7 mảnh.

Trước đây, tên sát nhân Porisāda muốn được nghe 4 bài kệ để trở thành con người dũng cảm, hoàn toàn chưa có đức tin trong sạch nơi chánh pháp. Nay, y muốn được nghe 4 bài kệ đễ hiểu biết được thiện pháp, ác pháp, nên y tâu rằng:

- Tâu Đại Vương, bạn thân mến! Thông thường những người được nghe chánh pháp mới hiểu biết được thiện pháp, ác pháp. Nếu tôi được nghe chánh pháp thì tôi cũng hiểu biết được thiện pháp, ác pháp vậy. Bây giờ, xin kính thỉnh Đại Vương từ bi tế độ tôi, thuyết cho tôi nghe lại 4 bài kệ ấy, để tôi được sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài.

Khi ấy, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma suy xét: “Bây giờ, Porisāda có nhận thức đúng đắn, có ý nguyện muốn nghe chánh pháp, để hiểu rõ thiện pháp, ác pháp. Vậy, ta nên thuyết lại 4 bài kệ ấy, để tế độ y”. Suy xét như vậy xong Ngài truyền bảo rằng:

- Này Porisāda, bạn thân mến! Bạn hãy nên lắng tai nghe rõ 4 bài kệ như sau:

Bắt đầu, Đức Vua Bồ Tát Sutasoma tán dương ca tụng bài kệ để cho Porisāda phát sinh đức tin trong sạch nơi chánh pháp. Khi ấy, chư thiên trong cõi trời dục giới đều vô cùng hoan hỷ, đồng thanh nói lên lời Sādhu! Lành thay! vang rền khắp các cõi trời. Tất cả chư thiên đều tán dương ca tụng Đức Vua Bồ Tát Sutasoma đã thuyết phục, tế độ được Porisāda. Ngài thuyết lại 4 bài kệ mà vị Bà-la-môn Pháp Sư đã thuyết cho Ngài như sau:

 



[[1] Tích Mahāsutasomajātaka trong bộ chú giải Jātakaṭṭhakathā, phần Asītinipāta.

[2] Ngài Đại Đức Aṅgulimāla, vốn tên thật mà cha mẹ của Ngài đặt là Ahiṃsakakumāra, có nghĩa Công tử Vô Hại. Nhưng về sau vào rừng, Ngài giết nhiều người cắt đầu ngón tay xâu làm vòng đeo trên cổ. Do đó, người ta thường gọi Ngài là Aṅgulimāla (aṅguli: đầu ngón tay + māla: vòng đeo cổ) (Tìm hiểu rõ chuyện này trong quyển 8 Sự tích Phật lực).

[1] Yakkha: Dạ-xoa là hạng chư thiên ở phương Bắc thuộc cõi trời Tứ đại Thiên vương, do Đức Đại Thiên Vương Kuvera cai quản. Yakkha có thể hoá ra người.

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn