- Mục Lục
- -Kinh tụng 1-Kinh Tam Bảo
- -Kinh tụng 2-Lễ Tam Bảo
- -Kinh tụng 3-Kinh Cầu an-Kinh Tâm Từ
- -Kinh tụng 4-Kinh Hạnh phúc
- -Kinh tụng 5- Hồi hướng pháp thí đến chư Thiên.
- -Kinh tụng 6-Kinh cầu siêu.
- -Kinh tụng 7-Quán tưởng tứ vật dụng.
- -Kinh tụng 8-Kinh chuyển Pháp Luân.
- -Kinh tụng 9-Kinh vô ngã tướng
- -Kinh tụng 10-Kệ hộ trì Uẩn
-Phần Pali
-Ngữ vựng
-Dịch sát nghĩa
-Dịch theo Kinh tụng
-Dịch theo văn vần
KINH TAM BẢO
1-ĀRĀDHANĀ DEVATĀ
Sagge kāme ca rūpe giri sikhara-taṭe c’antalikkhe vimāne dīpe raṭṭhe ca gāme taru-vana-gahaṇe geha-vatthumhi khette bhummā c’āyantu Devā jala-thala-visame Yakkha-Gandhabba-Nāgā tiṭṭhantā santike yaṃ Muni-vara-vacanaṃ sādhavo me suṇantu.
Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.
Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.
Dhamma-ssavana kālo ayaṃ bhadantā.
Dịch nghĩa:
Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời dục giới cùng sắc giới,
trên đỉnh núi, bờ sông, nơi Thiên cung, trong quốc độ, giữa hư không, nơi làng
mạc, rừng rú, trên cây cối, ruộng vườn, mặt đất, trong nhà.
Các vị Dạ-Xoa, Càn-thát-bà, Long vương ngự trên bờ, dưới nước ở quanh đây, xin cung thỉnh. Lành thay, xin chư vị lắng nghe tôi tụng đọc lời dạy cao quý của Đấng Thanh Tịnh.
Thưa Chư tôn giả, đây là thời khắc (thích hợp) để nghe Pháp. (3 lần)
Ngữ vựng:
Sagga: cõi trời
Kāma: dục giới
Ca: và
Rūpa: sắc giới
Giri: núi
Sikhara: đỉnh
Giri-sikhara: đỉnh
núi
Taṭa: bờ sông
C’antalikkha = ca + antalikkha: bầu trời hư không
Vimāna: cung
trời
Dīpa: hòn đảo, ngọn đèn
Raṭṭha: quốc độ
Gāma: làng
Taru:
cây
Vana: rừng lớn
Gahaṇa: rừng rậm
Geha (gehaṃ, geho): nhà
Vatthu: đất
vườn
Khetta: ruộng
Bhummā: mặt đất
C’āyantu
= ca + ayantu (ayāti): hãy
đến
Devā: Chư Thiên
Jala: nước
Thala:
đất
liền
Visama: gồ ghề
Yakkha: dạ-xoa
Gandhabba: càn-thát-bà
Nāga: long
vương
Tiṭṭhantā (tiṭṭhati): ở
Santika:
gần
Yaṃ (ya): nào
Muni:
bậc
ẩn sĩ, Phật
Vara: cao quý
Vacana: lời nói
Sādhu: lành thay
Me: của
tôi
Suṇāti: nghe
Dhamma: Pháp
Savana: sự nghe
Kāla: thời
giờ
Ayaṃ: này
Bhadanta: bậc đáng kính, tôn giả
THỈNH CHƯ THIÊN
Xin thỉnh Chư Thiên ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới; Chư Thiên ngự trên đỉnh núi, núi không liền, hoặc nơi hư không; ngự nơi cồn bãi, đất liền hoặc các châu quận; ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn; Chư Dạ Xoa, Càn Thát Bà, cùng Long Vương dưới nước trên bờ, hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, xin thỉnh hội họp lại đây. Lời nào là kim ngôn cao thượng của Đức Thích Ca Mâu Ni mà chúng tôi tụng đây, xin các bậc Hiền Triết nên nghe lời ấy.
Xin các ngài đạo đức, giờ nầy là giờ nên nghe Pháp Bảo. (3 lần)
Ba tòa thanh tịnh Bồ-Đề
Mười phương thiên chúng hội về nghe kinh
Pháp mầu diệt tận vô minh
Pháp mầu độ khổ sinh linh vạn loài.
Từ Dục giới vân đài sáu cõi
Đến Thiên cung sắc giới hữu hình
Chư Thiên đã tạo duyên lành
Do theo phước quả, thiện sanh đến giờ
Các Ngài ngự bến bờ, đồng ruộng
Hoặc hư không, châu quận, thị phường
Non xanh, rừng rậm, đất bằng
Hoặc nơi quán cảnh, xóm làng gần xa
Xin đồng thỉnh Dạ-xoa chư chúng
Càn-thát-bà, Long chủng nơi nơi
Đầm ao, thành quách lâu đời
Hoặc là sông nước, biển khơi trùng trùng
Pháp vi diệu, nghìn thân nan ngộ
Đạo thậm thâm, kiên khổ khó vào
Ngày tàn, tháng lụn qua mau
Đắm si trần cảnh, đuối đầu tử sinh.
Đây là giờ chuyển kinh Vô Thượng
Đây là giờ đọc tụng Pháp Âm
Lời vàng lý nghĩa cao thâm
Xin chư hiền giả lắng tâm thọ trì.
(Đoạn cuối tụng 3 lần, 1 lạy)
oooOooo
RATANATTAYAPUJĀ
Imehi dīpa-dhūp’ādi sakkārehi Buddhaṃ Dhammaṃ Saṅghaṃ
abhipūjayāmi
mātā-pit’ādīnaṃ guṇavantānañca mayhañca dīgharattaṃ atthāya hitāya sukhāya.
Dịch nghĩa:
Đệ tử thành kính cúng dường đèn, hương, lễ phẩm các loại
lên ba ngôi Tam Bảo.
Nguyện cầu cho các bậc ân nhân, nhất là cha mẹ đệ tử được an lạc, lợi ích và tốt đẹp lâu dài.
Ngữ vựng:
Imehi (ima): với những (cái này)
Dīpa: đèn
Dhūpa: nhang, hương
Adi: v.v……...
Sakkārehi (sakkāra): với sự cung kính
Buddhaṃ (Buddha): đến Phật
Dhammaṃ (Dhamma): đến Pháp
Saṅghaṃ (Saṅgha): đến Tăng
Abhipūjayāmi (abhipūjayati): cúng dường
Mātu: mẹ
Pitu: cha
Mātu-pitu: cha mẹ
Guṇavantu: ân nhân, bậc có ân Đức
Mayhaṃ (mama): đến cho con, của con
Dīgharattaṃ: lâu dài
Attha: tốt đẹp, tốt lành
Hita: lợi ích
Sukha: an lạc
DÂNG HƯƠNG
Con xin dâng các lễ vật
này, nhứt là nhang đèn để cúng Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo,
ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, nhứt là cha mẹ con và con đều được sự tấn hóa, sự lợi ích, sự bình an lâu dài. (lạy)
Trước Tam Bảo uy linh tối thượng
Đèn trầm hương, tâm niệm chí thành
Nguyện cầu Pháp giới chúng sanh
Nhất là cha mẹ muôn phần phước duyên
Mãi tấn hóa trên đường thiện nghiệp
Mãi vun bồi hạnh phúc Như Chân
Liên hoa nở thắm biển trần
Khổ đau vắng lặng, tham
sân đoạn lìa.
oooOooo
BUDDHARATANAPAṆĀMA
Namo tassa Bhagavato Arahato Sammā Sambuddhassa. (3 lần)
Dịch nghĩa:
Kính lễ Đức Thế Tôn, Bậc Ứng Cúng, Chánh Biến Tri.
Ngữ vựng:
Namo (Namati): kính lễ
Tassa (Ta): đó
Bhagavato: Đức Thế Tôn
Arāhato: bậc ứng cúng
Sammā: chánh
Sambuddho:
Đấng
Toàn Giác, Biến Tri Đẳng Giác
LỄ PHẬT
Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Bhagavā đó,
Ngài là bậc Arahaṃ cao
thượng,
được chứng quả Chánh Biến Tri, do Ngài tự ngộ, không thầy chỉ dạy. (3 lần, 1 lạy)
Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ Tôn
Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường
Con nguyện thân tâm thường thanh tịnh
Làm lành, lánh dữ lợi
quần sanh. (3 lần,
1 lạy)
oooOooo
TÁN DƯƠNG PHẬT
Yo sannisinno vara-bodhi-mūle
Māraṃ sasenaṃ mahatiṃ vijeyyo
Sambodhim’ āgacchi ananta ñāṇo
Lok’uttamo taṃ paṇamāmi Buddhaṃ.
Dịch nghĩa:
Người đã ngồi dưới cội bồ-đề cao quý, đại thắng ma quân và
đạt đến chánh giác,
là bậc có trí tuệ vô biên và là đấng tối thượng trên thế gian. Con cúi đầu đảnh lễ Đức Phật ấy.
Ngữ vựng:
Yo (ya): người mà
Sannisinna: đang ngồi
Bodhi: tuệ giác, cây bồ đề
Mūla: gốc cây
Māra: ma
Sasena: đoàn binh
Mahati: lớn
Vijeyya: chiến thắng
Sambodhi: sự giác ngộ hoàn toàn
Agacchati: đạt đến
Ananta: vô biên
Ñāṇa: trí (tuệ)
Loka: thế gian
Uttama: tối thượng
Taṃ (ta): đó
Paṇamati (ṇamati): đảnh lễ
TÁN DƯƠNG PHẬT
Đức Phật tham thiền về sổ tức quán, ngồi trên Bồ đoàn, dưới gốc cây Bồ Đề quý báu và đánh thắng toàn bọn Ma Vương mà thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác. Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sanh, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Ngài. (lạy)
Cội Bồ-Đề trang nghiêm thiền tịnh
Thắng thiên ma, vạn chướng trùng trùng
Con xin lạy đấng Đại Hùng
Rọi Vô Biên Trí tận cùng thế gian. (lạy)
oooOooo
LỄ TAM THẾ PHẬT
Ye ca Buddhā atītā ca
Ye ca Buddhā anāgatā
Paccuppannā ca ye Buddhā
Ahaṃ vandāmi sabbadā.
Dịch nghĩa:
Chư Phật nào (có mặt) trong quá khứ
Chư Phật nào (có mặt) trong vị lai
Chư Phật nào (có mặt) trong hiện tại
Con thường xin đảnh lễ ba đời Chư Phật.
Ngữ vựng:
Ye (ya): những vị nào
Atīta: quá khứ
Anāgata: vị lai
Paccuppanna: hiện tại
Ahaṃ: con, tôi, đệ tử
Vandati: lễ, lạy
Sabbadā: tất cả, toàn thể
LỄ TAM THẾ PHẬT
Chư Phật đã thành Chánh Giác trong kiếp quá khứ.
Chư Phật sẽ thành Chánh Giác trong kiếp vị lai.
Chư Phật đang thành Chánh Giác trong kiếp hiện tại này.
Con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Phật trong tam thế ấy. (lạy)
Từ quá khứ vô vàn Phật hiện
Ở đương lai vô lượng Phật thành
Hiện tiền Chư Phật độ sinh
Con xin kính lễ, tâm minh nguyện cầu. (lạy)
oooOooo
BUDDHA GUṆA
Iti’pi so Bhagavā:
Arahaṃ, Sammā Sambuddho, Vijjā-caraṇa-sampaṇṇo,
Sugato, Lokavidū,
Anuttaro, Purisa-damma-sārathi, Satthā-deva-manussānaṃ, Buddho, Bhagavā’ti.
Dịch nghĩa:
Đức thế Tôn ấy (có danh hiệu) như thế này:
ứng Cúng, Chánh
Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sỉ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Ngữ vựng:
Iti’pi: như thế
So (ta): đó
Arahaṃ: A la hán, ứng Cúng
Sammā: chánh
Sambuddho: Đấng Toàn Giác, Biến Tri Đẳng Giác
Vijjā: minh
Caraṇa: hạnh
Sampanno: đầy đủ (túc)
Sugata: Thiện thệ (khéo đi không trở lại)
Vidū: người biết
Loka-vidū: Thế gian giải
Anuttara: vô thượng
Purisa: trượng phu
Damma: điều ngự, chế phục
Sārathi: người đánh xe
Satthā: thầy
Manussa: người
ÂN ĐỨC PHẬT
Itipi so Bhagavā
1- Arahaṃ (Ứng Cúng).
Đức Thế Tôn hiệu Arahaṃ, bởi Ngài đã xa lìa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được trọn lành.
2- Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri).
Đức Thế Tôn hiệu Sammāsambuddho, bởi Ngài đã thành bậc Chánh Đẳng, Chánh Giác, tự Ngài ngộ lấy không thầy chỉ dạy.
3- Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc).
Đức Thế Tôn hiệu Vijjācaraṇa-sampanno, bởi Ngài toàn đắc 3 cái giác, 8 cái giác, và 15 cái hạnh.
4- Sugato (Thiện Thệ).
Đức Thế Tôn hiệu Sugato, bởi Ngài đã ngự đến nơi an lạc, bất sanh, bất diệt, Đại Niết Bàn.
5- Lokavidū (Thế Gian Giải).
Đức Thế Tôn hiệu Lokavidū, bởi Ngài đã thông suốt Tam Giới.
6- Anuttaro (Vô Thượng sĩ)
Đức Thế Tôn hiệu Anuttaro, bởi Ngài có đức hạnh không ai bì.
7- Purisadammasārathi (Điều Ngự Trượng Phu).
Đức Thế Tôn hiệu Purisadammasārathi, bởi Ngài là đấng tế độ những người hữu duyên nên tế độ.
8- Satthā-devamanussānaṃ (Thiên Nhơn Sư).
Đức Thế Tôn hiệu Satthā-devamanussānaṃ, bởi Ngài là thầy cả Chư Thiên và nhân loại.
9- Buddho (Phật).
Đức Thế Tôn hiệu Buddho, bởi Ngài Giác ngộ lý Tứ Diệu Đế và đem ra giáo hóa chúng sanh cùng biết với.
10- Bhagavā’ti (Thế Tôn).
Đức Thế Tôn hiệu Bhagavā, bởi Ngài đã siêu xuất Tam Giới tức là Ngài không còn luân hồi lại nữa. (lạy)
Hồng danh Phật: nhiệm mầu ỨNG CÚNG
CHÁNH BIẾN TRI, MINH HẠNH trọn đầy
Ơn đức THIỆN THỆ cao dày
Bậc THẾ GIAN GIẢI chỉ bày chơn tâm
VÔ THƯỢNG SĨ đoạn mầm ách phược
Bậc Trọn Lành: ĐIỀU NGỰ TRƯỢNG PHU
TRỜI, NGƯỜI quy phục Đạo-Sư
PHẬT, THẾ TÔN hiển Chơn Như độ đời. (lạy)
oooOooo
BUDDHA-ATTAPAṬIÑÑĀ
N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ
Buddho me saraṇaṃ varaṃ
Etena sacca-vajjena
Hotu me jaya-maṅgalaṃ.
Dịch nghĩa:
Không có sự nương tựa nào khác cho con,
Đức Phật là nơi nương tựa quý báu
Do lời chân thật này
Hãy là hạnh phúc thù thắng cho con.
Ngữ vựng:
N’atthi (na + atthi): không có
Me: cho con, cho tôi
Saraṇa: sự quy y, nơi nương tựa
Añña: khác
Etena (eta): do…..này
Sacca: chân thật
Vajja: lời nói
Hotu: hãy là, xin cho
Jaya: thắng
Maṅgala: hạnh phúc
Jaya-maṅgala: hạnh
phúc thù thắng
LỜI BỐ CÁO QUY Y PHẬT BẢO
Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, chỉ có Đức Phật là quý báu,
nên con phải hết lòng thành
kính mà nương theo,
đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)
Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng
Bằng Phật Đà vô thượng chí tôn
Chúng con quy ngưỡng một lòng
Y lời chân thật, cầu
mong an lành. (lạy)
oooOOooo
BUDDHA-KHAMĀPANA
Uttam’aṅgena vande’haṃ
Pāda-paṃsuṃ var’uttamaṃ
Buddhe yo khalito doso
Buddho khamatu taṃ mamaṃ.
Dịch nghĩa:
Con xin cúi đầu đảnh lễ bụi trần cao quý dưới chân Đức Phật.
Tội nào con mạo phạm đến Đức Phật, cúi xin Đức Phật tha thứ cho con.
Ngữ vựng:
Uttaṃ’aṅga (uttama+aṅga): cái đầu
Vande’haṃ (vanda+ahaṃ): con đảnh lễ
Pāda: cái chân
Paṃsu: bụi, vi trần
Var’uttama (vara+uttama): cao thượng
Khalita: lỗi lầm
Dosa: sân, tội
Khamati: tha thứ
Mamaṃ (mama): cho con
SÁM HỐI PHẬT BẢO
Con đem hết lòng thành kính cúi đầu làm lễ vi trần
dưới chân Đức Phật, là Đấng Chí Tôn Chí Thánh.
Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Phật Bảo, cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)
Gieo năm vóc vi trần đảnh
lễ
Những lỗi lầm vô ý gây nên
Cúi xin Ân Phật vô biên
Cho con sám tội tiền
khiên từ rày. (lạy)
oooOooo
DHAMMARATANAPANĀMA
Aṭṭh’aṅgik’āriya-patho janānaṃ
Mokkha-ppavesāya ujū ca maggo
Dhammo ayaṃ santi-karo paṇīto
Nīyāniko taṃ paṇamāmi Dhammaṃ.
Dịch nghĩa:
Con đường Thánh gồm 8 chi của người là con đường trực tiếp
dẫn đến giải thoát.
Pháp ấy làm cho thanh tịnh và siêu thoát. Con đảnh lễ Pháp hướng đến giải thoát đó.
Ngữ vựng:
Aṭṭha: 8
Aṅgika: gồm...phần (chi)
Ariya: thánh
Patha: con đường
Jana: người
Mokkha: giải thoát
Pavesa: dẫn đến
Uju: thẳng, ngay thẳng
Magga: đạo, con đường
Santi: an tịnh
Kara: làm cho
Paṇīta: siêu việt, giải thoát
Nīyānika = niyyānika: hướng đến giải thoát
LỄ BÁI PHÁP BẢO
Các Pháp đúng theo đạo Bát Chánh, là con đàng đi của bậc Thánh Nhân, là con đàng chánh, dẫn người hữu chí nhập Niết-bàn được. Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ và các điều phiền não, là Pháp chỉ dẫn chúng sanh thoát khỏi cái khổ sanh tử luân hồi, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Pháp ấy. (lạy)
Bát Thánh Đạo: Con đường chánh giác
Đưa chúng sanh vượt thoát bờ mê
Con nay một niệm quay về
Quy y Pháp Bảo: Bồ-Đề tự
tâm. (lạy)
oooOooo
LỄ TAM THẾ PHÁP
Ye ca Dhammā atītā ca
Ye ca Dhammā anāgatā
Paccuppannā ca ye Dhammā
Ahaṃ vandāmi sabbadā.
Dịch nghĩa:
Giáo Pháp nào (có mặt) trong quá khứ
Giáo Pháp nào (có mặt) trong vị lai
Giáo Pháp nào (có mặt) trong hiện tại
Con thường xin đảnh lễ ba đời Pháp bảo.
LỄ TAM THẾ PHÁP
Các Pháp của Chư Phật
đã có trong kiếp quá khứ. Các Pháp của Chư Phật sẽ có trong kiếp vị lai.
Các
Pháp của Chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại này.
Con đem hết lòng thành kính mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy. (lạy)
Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp
Ở đương lai vô lượng Pháp Mầu
Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu
Thuyền Từ phương tiện bắc
cầu độ sanh. (lạy)
oooOooo
DHAMMA GUṆA
Svākkhāto Bhagavatā Dhammo:
Sandiṭṭhiko, Akāliko, Ehipassiko, Opanayiko, Paccattaṃ veditabbo viññūhī’ti.
Dịch nghĩa:
Pháp đã được Đức Thế Tôn khéo khai thị là Pháp thiết thực
hiện tiền,
không bị hạn chế bởi thời gian, là Pháp đến để thấy,
có khả năng hướng thượng, bậc trí tự mình liễu giải.
Ngữ vựng:
Svākkhāta (su+akkhāta): đã khéo tuyên thuyết
Akkhati: giảng giải, khai thị,tuyên thuyết
Sandiṭṭhika: thiết thực hiện tại, thực tại hiện tiền
Akālika (a+ kālika): vượt qua thời gian, phi thời gian
Ehipassika (ehi+passika): hãy đến mà thấy (tự chứng)
Passati: thấy
Opanāyika:( upa+ nayika) hướng thượng, dẫn đến Niết Bàn
Paccattaṃ: mỗi người, từng cá nhân
Veditabba (vedeti): nhận thức, liễu giải
Viññū: người biết, người trí
ÂN ĐỨC PHÁP BẢO
1- Svākkhāto Bhagavatā dhammo nghĩa là Tam Tạng Pháp Bảo của Đức Thế Tôn đã khẩu truyền y theo chánh pháp.
2- Dhammo là Pháp Thánh có 9 hạng: "4 đạo, 4 quả và 1 Niết Bàn".
3- Sandiṭṭhiko là Pháp mà Chư Thánh đã thấy chắc, biết chắc bởi nhờ kiến tánh, chẳng phải vì nghe, vì tin kẻ nào khác, nghĩa là tự mình thấy rõ chơn lý.
4- Akāliko là Pháp độ cho đắc quả không chờ ngày giờ, là khi nào đắc đạo thì đắc quả không chậm trễ.
5- Ehipassiko là Pháp của Chư Thánh đã đắc quả rồi, có thể ứng hóa cho kẻ khác biết được.
6- Opanayiko là Pháp của Chư Thánh đã có trong mình do nhờ phép Thiền Định.
7- Paccattaṃ veditabbo viññūhi: là Pháp mà các hàng trí tuệ nhất là bậc Thượng Trí được biết, được thấy tự nơi tâm. (lạy)
Pháp Bất Diệt: Cha lành khéo dạy
Lìa danh ngôn, hý luận, nghĩ bàn
Vượt thời gian, vượt không gian
Thiết thực hiện tại, hoát nhiên tỏ tường.
Pháp hướng thượng, đến rồi thấy rõ
Lìa si mê, xả bỏ vọng trần
Trí nhân ngộ tánh chân nhân
Tự mình chứng nghiệm
Pháp Thân Diệu Thường. (lạy)
oooOooo
DHAMMA-ATTAPAṬIÑÑĀ
N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ
Dhammo me saraṇaṃ varaṃ
Etena sacca-vajjena
Hotu me jaya-maṅgalaṃ.
Dịch nghĩa:
Không có sự nương tựa nào khác cho con,
Giáo pháp là nơi nương tựa quí báu
Do lời chơn thật này
Hãy là hạnh phúc thù thắng cho con.
LỜI BỐ CÁO QUY Y PHÁP BẢO
Chẳng có chi đáng cho
con phải nương theo,
chỉ có Pháp Bảo là quí báu, nên con phải hết lòng thành
kính mà nương theo,
đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)
Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng
Bằng Đạo Vàng Vô Thượng Chí Tôn
Chúng con quy ngưỡng một lòng
Y lời chân thật, cầu mong an lành.
oooOooo
DHAMMAKHAMĀPANA
Uttam’aṅgena vand’ehaṃ
Dhammañca du-vidhaṃ varaṃ
Dhamme yo khalito doso
Dhammo khamatu taṃ mamaṃ.
Dịch nghĩa:
Con xin cúi đầu đảnh lễ hai loại Giáo Pháp cao thượng (pháp học và pháp hành).
Tội lỗi nào con đã mạo phạm đến Pháp bảo, cúi xin Pháp bảo tha thứ cho con.
Ngữ vựng:
Du (dvi, dve, dvā): 2
Vidhaṃ (vidha): gồm
có...lần (hạng, thứ, bậc, loại)
SÁM HỐI PHÁP BẢO
Con đem hết lòng thành
kính, cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo là Pháp Học và Pháp Hành.
Các tội lỗi mà con đã vô ý phạm đến Pháp Bảo, cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)
Gieo năm vóc vi trần đảnh lễ
Những lỗi lầm vô ý khởi sanh
Cúi xin Pháp Học, Pháp Hành
Cho con sám tội tâm
thành từ đây. (lạy)
oooOooo
SAṄGHARATANAPANĀMA
Saṅgho visuddho vara-dakkhineyyo
Sant’indriyo sabba mala-ppahīno
Guṇehi nekehi samiddhi-patto
Anāsavo taṃ paṇamāmi Saṅghaṃ.
Dịch nghĩa:
Tăng là bậc thanh tịnh, xứng đáng thọ nhận cúng dường,
lục
căn vắng lặng, đã đoạn tận tất cả ô nhiễm bất tịnh,
đã chứng đạt nhiều Đức tính vô lậu. Con xin đảnh lễ Chư Tăng ấy.
Ngữ vựng:
Visuddha: thanh tịnh trong sạch
Dakkhineyya: đáng thọ trí
Santi: tịch tịnh, an tịnh
Indriya: căn (lục căn )
Sabba: tất cả
Mala: ô nhiễm
Pahīna: trừ diệt
Guṇa: ân Đức, Đức tính
Neka: nhiều
Samiddhi: thành
Patta (pāpuṇāti): đạt
Āsava: lậu hoặc
An-Āsava: vô lậu
LỄ BÁI TĂNG BẢO
Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quí báu là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường,
vì lục căn của các
Ngài đã thanh tịnh, lòng tham muốn đã dứt trừ,
là Tăng đã thoát ly trần tục, con xin hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng ấy. (lạy)
Tăng là bậc từ hòa, nghiêm tịnh
Dứt trần lao, Đạo quả viên thành
Lục căn vắng lặng vô sanh
Ứng Cúng Cao Thượng: nhân lành thế gian. (lạy)
oooOooo
LỄ TAM THẾ
TĂNG
Ye ca Saṅghā atītā ca
Ye ca Saṅghā anāgatā
Paccuppannā ca ye Saṅghā
Ahaṃ vandāmi sabbadā.
Dịch nghĩa:
Tăng già nào (có mặt) trong quá khứ,
Tăng già nào (có mặt) trong vị lai,
Tăng già nào (có mặt) trong hiện tại,
Con thường xin đảnh lễ ba đời Tăng bảo.
Chư Tăng đã đắc Đạo
cùng Quả trong kiếp quá khứ. Chư Tăng sẽ đắc Đạo cùng Quả trong kiếp vị lai.
Chư Tăng đang đắc Đạo cùng Quả trong kiếp hiện tại này, con đem hết lòng thành kính mà làm lễ Chư Thánh Tăng trong tam thế ấy. (lạy)
Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng
Ở đương lai vô lượng Thánh, Hiền
Ơn sâu Tăng Bảo hiện tiền
Con xin kính lễ, gieo duyên Niết-Bàn. (lạy)
oooOooo
SAṄGHA GUṆA
Su-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.
Uju-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.
Ñāya-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.
Sāmīci-paṭipanno Bhagavato Sāvakasaṅgho.
Yad’idaṃ cattāri purisa-yugāni, aṭṭha purisa-puggalā. Esa Bhagavato Sāvakasaṅgho:
Āhuṇeyyo, Pāhuṇeyyo, Dakkhiṇeyyo, Añjali-karaṇīyo, Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’ti.
Dịch nghĩa:
Chư Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc thiện hạnh.
Chư Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc trực hạnh.
Chư Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc ứng lý hạnh.
Chư Thanh văn đệ tử của Đức Thế Tôn là bậc hoà kính hạnh.
Nghĩa là 4 đôi:Tu-đà-hoàn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm, A-la-hán, tức
8 chúng:
Tu-đà-hoàn đạo, Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm đạo, Tư-đà-hàm quả, A-na-hàm đạo, A-na-hàm quả, A-la-hán đạo, A-la-hán quả.
Chư Thanh văn đó là bậc đáng kính, đáng tôn trọng, đáng cúng dường, đáng chấp tay lễ bái, bậc vô thượng phước điền của thế gian.
Ngữ vựng:
Su: thiện, tốt, diệu
Paṭipanna: hành theo, sống theo, hạnh
Sāvaka: Thanh văn
Uju: ngay thẳng, chính trực
Ñāya: ứng lý, như lý, chánh lý
Sāmīci: như pháp, hoà kính
Yad’idaṃ: nghĩa là
Cattāri: 4
Yuga: đôi
Puggala: chiếc,cá nhân
Esa (eta): đó, ấy
Āhuṇeyya: đáng kính trọng
Pāhuṇeyya: đáng tôn kính
Dakkhiṇeyya: đáng cúng dường
Añjali-karaṇīya: đáng lễ bái, đáng chấp tay
Anuttara: vô thượng
Puñña: phước
ÂN ĐỨC TĂNG BẢO
1- Supaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chín chắn y theo Chánh Pháp.
2- Ujupaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu hành chính chắn y theo Thánh Pháp.
3- Ñāyapaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài tu hành để Giác Ngộ Niết-Bàn, là nơi an lạc dứt khỏi các sự thống khổ.
4- Sāmīcipaṭipanno bhagavato sāvakasaṅgho: Tăng là các bậc Thanh Văn đệ tử Phật, các Ngài đã tu theo phép Giới Định Tuệ.
5- Yadidaṃ cattāri purisayugāni: Tăng nếu đếm đôi thì có bốn bậc:
- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả Tu-Đà-Hườn.
- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả Tư Đà Hàm.
- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả A Na Hàm.
- Tăng đã đắc Đạo cùng Quả A La Hán.
6- Aṭṭha purisapuggalā: Tăng nếu đếm chiếc thì có tám bậc:
- Tăng đã đắc Đạo Tu-Đà-Hườn.
- Tăng đã đắc Quả Tu-Đà-Hườn.
- Tăng đã đắc Đạo Tư Đà Hàm.
- Tăng đã đắc Quả Tư Đà Hàm.
- Tăng đã đắc Đạo A Na Hàm.
- Tăng đã đắc Quả A Na Hàm.
- Tăng đã đắc Đạo A La Hán.
- Tăng đã đắc Quả A La Hán.
7- Esa Bhagavato sāvakasaṅgho: Chư Tăng ấy là các Bậc Thinh Văn đệ tử Phật.
8- Āhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh bốn món vật dụng của tín thí, ở phương xa đem đến dâng cúng cho những người có giới hạnh.
9- Pāhuneyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của tín thí, mà họ dành để cho thân quyến cùng bầu bạn ở các nơi, nhưng họ lại đem đến dâng cúng cho các Ngài.
10- Dakkhiṇeyyo: Các Ngài đáng thọ lãnh của Tín thí, tin lý nhân quả đem đến dâng cúng.
11- Añjalikaraṇīyo: Các Ngài đáng cho chúng sanh lễ bái.
12- Anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa: Các Ngài là phước điền của chúng sanh không đâu bì kịp. (lạy)
Bậc Diệu Hạnh: Thinh Văn Đệ Tử
Bậc Chánh Chơn: Pháp Lữ Tăng-Già
Bậc Mô Phạm cõi ta-bà
Thân tâm Trực Hạnh lìa xa luân hồi.
Thánh Đạo, Quả: bốn đôi, tám chúng
Đệ tử Phật, Ứng Cúng tôn nghiêm
Cung nghinh, kính lễ một niềm
Ân Đức cao cả, phước điền dày sâu.
oooOooo
SAṄGHA-ATTAPATIÑÑĀ
N’atthi me saraṇaṃ aññaṃ
Saṅgho me saraṇaṃ varaṃ
Etena sacca-vajjena
Hotu me jaya-maṅgalaṃ.
Dịch nghĩa:
Không có sự nương tựa nào khác cho con,
Tăng Bảo là nơi nương tựa quý báu;
Do lời chân thật này,
Mong rằng con có được hạnh phúc thù thắng.
LỜI BỐ CÁO QUY Y TĂNG BẢO
Chẳng có chi đáng cho
con phải nương theo,
chỉ có Đức Tăng là quí báu, nên con phải hết lòng thành
kính mà nương theo,
đặng cầu sự an lạc đến cho con, y như lời chơn thật này. (lạy)
Chẳng có nơi nương nhờ cao trọng
Bằng Tăng-già vô thượng chí tôn
Chúng con quy ngưỡng một lòng
Y lời chân thật, cầu mong an lành.
oooOooo
SAṄGHAKHAMĀPANA
Uttam’aṅgena vande’haṃ
Saṅghañ ca duvidh’ottamaṃ,
Saṅghe yo khalito doso
Saṅgho khamatu taṃ mamaṃ.
Dịch nghĩa:
Con xin cúi đầu đảnh lễ hai bậc Tăng cao quý (phàm tăng và
thánh tăng).
Tội lỗi nào mà con đã mạo phạm đến Tăng bảo, cúi xin Tăng bảo tha thứ cho con.
Ngữ vựng:
Duvidh’ottamaṃ:
du+vidha+uttamaṃ: hai bậc cao quý.
SÁM HỐI TĂNG BẢO
Con đem hết lòng thành
kính, cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo là Phàm Tăng và Thánh Tăng,
các tội lỗi
mà con đã vô ý phạm đến Tăng Bảo, cúi xin Tăng Bảo xá tội lỗi ấy cho con. (lạy)
Gieo năm vóc vi trần đảnh lễ
Những lỗi lầm ngã mạn, kiêu căng
Cúi xin chư Thánh, Phàm Tăng
Cho con sám tội, ăn năn từ rày. (lạy)