(Xem: 1665)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2170)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

02-Bốn loại vật thực (āhāra)

08 Tháng Mười 201312:00 SA(Xem: 10103)

2 -Trí biết rõ về bốn loại vật thực.

 Chánh kinh.

“Chư Hiền, thế nào là thức ăn, thế nào là tập khởi của thức ăn, thế nào là đoạn diệt của thức ăn, thế nào là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn?

Chư Hiền, có bốn loại thức ăn này, khiến các loài hữu tình đã sanh được an trú (bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā), hay các loài hữu tình sẽ sanh được phò trợ (sambhavesinaṃ vā anuggahāya). Thế nào là bốn?

Đoàn thực thô hay tế (ālāra oḷāriko và sukhumo), xúc thực là thứ hai (phasso dutiyo), tư niệm thực là thứ ba (manosañcetana tatiyo), thức thực là thứ tư (viññanaṃ catuttho).

Từ tập khởi của Ái có tập khởi của thức ăn (taṅhā samudayā āhārasamudayo). Từ đoạn diệt ái có đoạn diệt thức ăn (taṅhānirodha āhāranirodho). Thánh đạo tám ngành (ariyo aṭṭhanigiko maggo) là con đường đưa đến đoạn diệt của thức ăn, tức là: Chánh kiến (sammādiṭṭhi), chánh tư duy (sammāsaṅkappo), chánh ngữ (sammāvācā), chánh nghiệp (sammākammanto), chánh mạng (sammā-ājīvo), chánh tinh tấn (sammāvāyāmo), chánhniệm (sammāsati), chánh định (sammāsamādhi)”.

Giải:

Đoạn kinh văn trên nêu lên bốn loại vật thực là: Đoàn thực, xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

Và ái là nguyên nhân có thức ăn này, trừ diệt ái là đoạn diệt thức ăn.

Đức Phật có tuyên bố:

Sabbe sattā āhāraṭṭhika:

Tất cả hữu tình tồn tại do vật thực”[1].

Có câu hỏi: Bốn loại thức ăn này cần phải hiểu, hay cần phải tu tập? Câu trả lời là: “Cần phải hiểu rõ một cách rộng rãi (pariññeyya).

Đức Sāriputta có dạy:

“Katame cattāro dhammā pariññeyyā?

Cattāro āhārā, kabaliṅkāro āhāro oḷāriko vā sukhumo vā, phasso dutiyo, manosañcetanā tatiyā, viññāṇaṃ catutthaṃ.

Ime kho cattāro dhammā pariññeyyā.

“Thế nào là bốn pháp cần phải biến tri (pariññeyyā)?

Bốn thực (cattāro āhārā): Đoàn thực thô hay tế, xúc thực là thứ hai, tư niệm thực là thứ ba, thức thực là thứ tư.

Đó là bốn pháp cần phải biến tri [2].

Chữ pariññeyya = Pari (trọn vẹn, đầy đủ) + ñeyya (điều nên hiểu biết).

Pariññeyya là điều nên hiểu biết trọn vẹn, hiểu biết đầy đủ không dư sót.

Chữ āhāra = ā + ngữ căn har.

Căn har là “mang lại, đem lại, dẫn đến”.

Tập Sớ giải thích āhāra là duyên (paccayā) vì tự mang kết quả đến, tức làm duyên cho pháp khác sinh lên.

Có câu giải tự về vật thực (āhāra) như sau:

Āhāriyatīti = āhāro: Những chất bổ dưỡng, làm cho tiến hóa (tăng trưởng), gọi là āhāra.

Attano udayānaṃtaraṃ rūpaṃ janatīti = ojā:

Giúp các pháp liên hệ được sinh ra, gọi là chất bổ dưỡng (ojā). [3]

Như vậy, gọi là vật thực (āhāra) vì có dưỡng tố (ojā), dưỡng tố là phần tinh túy của vật thực, chính dưỡng tố duy trì và làm tăng trưởng sắc pháp.

Hỏi: Vật thực làm duyên cho pháp khác sinh lên, là như thế nào?

Đáp: Vật thực (āhāra) mang ý nghĩa là duyên (paccaya) đã được Đức Thế Tôn thuyết giảng như sau:

“Ko ca, bhikkhave, āhāro anupannassa vā kāmacchandassa uppādāya, upannassa vā kāmacchadassa bhuyyobhāvāya vepullāya?.

Atthi, bhikkhave, subhanimittaṃ.

Tattha ayonisomanasikārabahulīkāro-ayamāhāro anuppannassa vā kammacchandassa uppādāya, uppannassa vā kāmacchandassa bhuyyobhāvāya vepullāya...

“Này các Tỳkhưu, cái gì là món ăn khiến cho dục tham (kāmacchanda) chưa sinh, được sinh khởi, hay dục tham đã sinh, được tăng trưởng quảng đại?

Này các Tỳkhưu, có tịnh tướng.

Ở đây, nếu phi như lý tác ý, làm cho sung mãn, chính cái này là món ăn khiến cho dục tham chưa sinh được sinh khởi, hay dục tham đã sinh được tăng trưởng quảng đại...” [4]

Và:

“Dveme, bhikkhave, paccayā rāgassa uppādāyā. Katame dve?

Subhanimittañca ayoniso ca manasikāro. Ime kho, bhikkhave, dve paccayā rāgassa uppādāyā’ti”.

Có hai duyên này, này các Tỳkhưu, khiến tham (rāga) sinh khởi? Thế nào là hai?

- Tịnh tướng và không như lý tác ý. Những pháp này, này các Tỳ khưu là hai duyên khiến tham sinh khởi.[5]

Hay:

...uṭṭhānaṃ anālasyaṃ bhogānaṃ āhāro.

Maṇḍanā vibhūsanā vaṇṇassa āhāro.

Sappāyakiriyā ārogyassa āhāro...

... Hăng hái, không thụ động là món ăn cho các tài sản.

Trang sức, tô điểm là món ăn cho dung sắc.

Hành động thích ứng là món ăn cho không bịnh...” [6].

Những đoạn kinh trên cho thấy āhāra (vật thực) được dùng với ý nghĩa là “paccaya – duyên”.

 - Đoàn thực làm duyên cho sắc bất ly (avinibbhogarūpa).

Chữ avinibbhoga nghĩa là “không thể tách rời”.

Có tám loại sắc không thể tách rời, hễ sinh lên phải có đủ tám, gọi là sắc bất ly. Đó là: đất, nước, lửa, gió, sắc cảnh sắc, sắc cảnh khí, sắc cảnh vị và sắc vật thực (đây là đơn vị cơ bản của một đơn vị sắc pháp).

Pāli có giải thích:

Avinibbhogo’ti = avinibbhogo:

Không thể tách rời, gọi là bất ly.[7]

Theo Luận Atỳđàm, những đoàn sắc pháp (kalāparūpa) sau khi bình số là 51 bọn, cứ mỗi sátna tiểu của tâm có một bọn diệt đi, một bọn khác sinh lên (mỗi sátna tâm có ba sátna tiểu là: Sinh, trụ, diệt).

Do đó, các đoàn sắc pháp luôn bình số là 51 bọn.

Ví như ngọn lửa luôn tồn tại là nhờ có nhiên liệu, cũng vậy, tuy sắc pháp sinh diệt liên tục nhưng vẫn tròn đủ là do có sắc vật thực (đoàn thực) làm duyên trợ sinh.

Khi sắc vật thực cũ diệt đi, sắc vật thực mới sinh lên, thế là bảy sắc còn lại cũng sinh theo. Do đó nói rằng: “Sắc vật thực làm duyên cho sắc bất ly sinh lên”.

- Xúc thực làm duyên cho thọ sinh lên.

Như kinh văn: “Phassa paccayā vedanā: xúc duyên thọ”.

Người có thần kinh nhãn (cakkhu pasāda) tốt, gặp cảnh sắc (rūpārammaṇa) rõ, có sự nhận thức cảnh (là nhãn thức), ba pháp này hội lại, thế là nhãn xúc sanh lên, khi nhãn xúc sinh lên sẽ làm duyên cho những cảm thọ lạc, khổ hay xả phát sinh (trong lộ đổng lực), nên nói “xúc thực làm duyên cho thọ sinh ra”.

- Tư niệm thực làm duyên cho thức tái sinh (paṭisandhiviññāṇa).

Như nghiệp tương ưng với Dục giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Dục giới. Nghiệp tương ưng với Sắc giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Sắc giới. Nghiệp tương ưng với Vô sắc giới sẽ làm duyên cho thức tái sinh trong cõi Vô sắc giới.

Như vậy, tư niệm thực làm duyên cho tái sinh vào ba cõi.

-Thức thực làm duyên cho danh - sắc sinh lên bằng đồng sanh duyên (sahājātapaccayo).

Khi thức tục sinh hiện khởi, bấy giờ danh (nāma) cũng sinh lên, danh ở đây là ba uẩn: thọ, tưởng và hành uẩn.

Đồng thời với thức tục sinh, những đoàn sắc nghiệp cũng sinh lên, loại sắc nghiệp này gọi là sắc tục sinh (đây là nói cõi ngũ uẩn, cõi vô sắc chỉ có danh, ở cõi Vô tưởng chỉ có sắc Mạng quyền làm việc tục sinh).

Trong thời bình nhật, khi tâm sinh lên lập tức các tâm sở cũng hiện khởi, các tâm sở ấy là danh.

Đồng thời tâm cũng tạo ra một loại sắc để hành động hay nói, gọi là sắc tâm tạo (cittajarūpa), ngoại trừ ngũ song thức và các tâm quả Vô sắc không tạo sắc tâm, những tâm còn lại đều tạo sắc tâm.

Có Phật ngôn:

Viññāṇa paccayā nāmarūpaṃ: Thức duyên cho danh - sắc”.

Thức trong lý duyên khởi chỉ cho những tâm quả, một số tâm quả đảm nhiệm việc tục sinh, số khác thì không như nhãn thức, nhĩ thức chẳng hạn. Còn thức thực chỉ cho tất cả các tâm.

Có thể có người nghi ngờ câu Phật ngôn: “Sabbe sattā āhāraṭṭhitikā: chúng sanh tồn tại do vật thực” còn thiếu sót.

Vì rằng: Có chúng sanh là phạm thiên Vô tưởng (asaññī) không có đoàn thực, không có xúc thực, không có tư niệm thực, không có thức thực nhưng vị ấy vẫn tồn tại.

Đáp rằng: Chữ sattā (hữu tình hay chúng sanh) là ám chỉ cho uẩn (khandha).

Như có Pāli rằng:

“Katame dhammā sappaccayā? Pañcakkhandhā:

Thế nào là pháp hữu duyên? Năm uẩn (là pháp hữu duyên).

Khi các uẩn hội lại, gọi là sattā (chúng sinh) .

Như vậy, khi nói đến chúng sinh tức là nói đến uẩn, Phạm thiên Vô tưởng tuy chỉ có sắc uẩn, nhưng đó là loại sắc uẩn có mạng quyền, sắc Mạng quyền là loại sắc thành tựu do nghiệp lực.

“Sattā kammadāyadā: Chúng sinh là thừa tự của nghiệp” [8].

Và tuy chỉ có sắc uẩn nhưng Phạm thiên Vô tưởng vẫn được gọi là chúng sinh, vì thừa tự của nghiệp.

Ví như có nhiều nhà hội lại, gọi là làng, lửa cháy một nhà trong làng, người ta cũng gọi là cháy làng.

Tức là: “Nói đến làng ngầm nói đến nhà, nói đến chúng sinh ngầm nói đến uẩn. Nói đến nhiều nhà ngầm nói đến làng, nói đến uẩn ngầm nói đến chúng sinh.

Có làng có nhiều loại nhà, có làng chỉ có một loại nhà. Cũng vậy, có hạng chúng sinh nhiều uẩn (5 uẩn, hoặc bốn uẩn) ví như làng có nhiều loại nhà; có hạng chúng sinh một uẩn, ví như làng có một loại nhà.

Do đó, Phạm thiên Vô tưởng tuy chỉ có một uẩn vẫn được gọi là chúng sinh”.

Vị Thánh nữ Alahán Vajirā có dạy như sau:

… Yathā hi aṅgasambhātā, hoti saddo ratho iti;

Evaṃ khandhesu santesu, hoti sattohi sammuti…

“...Như bộ phận quy tụ, tên xe được nói lên,

Cũng vậy uẩn quy tụ, thông tục gọi chúng sinh...” [9].

a- Đoàn thực (kalaḷīkāra āhāra).

Đoàn thực là những miếng ăn, hay là dưỡng tố có trong miếng ăn.

Có câu giải tự:

Kalaḷīkāro āhāro āhārarūpaṃ nāma:

Gọi là đoàn thực là sắc vật thực (tức là chất bổ dưỡng trong miếng ăn).

Thành phần cơ bản của sắc vật thực là “đất, nước, lửa, gió”, chính “dưỡng tố (ojā)” mới là quan trọng.

Một cọng rau hay miếng thịt chỉ là “cách gọi tên (chế định)” chứ bản chất thực của chúng đều là đất, nước, lửa, gió, chúng chỉ khác nhau về dưỡng tố.

Theo thực tính pháp (sabhāvadhamma), sắc vật thực là tinh chất của tứ đại, nói cách khác nương từ tứ đại, sắc vật thực hình thành.

Có hai loại sắc vật thực là:

- Sắc vật thực bên ngoài (bahidhāhāra): Là những chất bổ dưỡng từ bên ngoài đưa vào thân thể.

- Sắc vật thực bên trong (ajjhattāhāra):Là chất bổ dưỡng của mỗi bọn sắc trong thân thể chúng sinh, đây là loại sắc thành tựu do nghiệp thủ (kammupādāna).

Kinh văn ghi “đoàn thực thô hay tế” là chỉ cho loại sắc vật thực bên ngoài, thô hay tế mang tính tương đối:

- Đoàn thực thô, tế.

*- Vật thực cứng gọi là thô (oḷāriko), vật thực mềm gọi là tế (sukhumo).

Cứng hay mềm chỉ là cách so sánh tương đối, gân mềm so với xương nhưng cứng so với thịt, thịt mềm so với gân nhưng cứng so với mở...

*- Vật thực có nhiều dưỡng tố là vật thực tế, ít dưỡng tố là vật thực thô.

Một người dùng chén cháo trắng đầy, không bao lâu lại cảm thấy đói, trái lại người dùng chén canh có nhiều dưỡng tố có thể no cả ngày.

Vật thực và dưỡng tố liên quan mật thiết với nhau, vật thực làm tan biến sự đói khát, nhưng không bảo dưỡng được sinh mạng chúng sinh, dưỡng tố bảo dưỡng duy trì được sinh mạng chúng sinh, nhưng không diệt trừ được đói khát.

Vật thực và dưỡng tố kết hợp nhau vừa dứt trừ sự đói vừa bảo dưỡng được sinh mạng chúng sinh.

Sau đây là một số nét tương đối của hai loại vật thực thô - tế.

- Vật thực của dân thành phố là tế so với vật thực của người dân thôn quê.

- Vật thực của vua quan là tế so với vật thực của dân thành phố.

- Vật thực của vua Chuyển Pháp Luân là tế so với vật thực của nhân loại.

- Vật thực của Chư thiên địa cầu là tế so với vật thực của vua Chuyển luân.

- Vật thực của Tứ Đại Vương vi tế hơn vật thực của Chư thiên địa cầu....

Có câu hỏi rằng: Vật thực bảo dưỡng cho các pháp khác được tồn tại và tăng trưởng? Vậy pháp nào bảo dưỡng cho vật thực?

Đáp: Chính vật thực tự bảo dưỡng cho mình. Ví như người mẹ bảo dưỡng hài nhi, giúp hài nhi lớn mạnh, chính người mẹ cũng tự bảo dưỡng mình.

Chúng sinh năm uẩn đang và sẽ hiện hữu với bốn loại thức ăn.

Chúng sinh bốn uẩn đang và sẽ hiện hữu với ba loại thức ăn: xúc thực, tư niệm thực và thức thực.

Chúng sinh Vô tưởng đang hiện hữu (ṭhīti) với sắc mạng quyền do nghiệp tạo, sắc mạng quyền là thành quả của tư niệm thực, tuy hiện tại không có tư niệm thực nhưng thành quả còn đó xem như có tư niệm thực, ví như di chúc của người quá cố.

Khi chúng sinh cõi Vô tưởng mệnh chung, thức tái sinh hiện khởi do duyên tư niệm thực.

b. Xúc thực (phassāhāra).

Là sự tiếp chạm giữa căn (indriya), cảnh (ārammaṇa) và thức (viññāṇa).

Khi các quyền (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) tiếp chạm với cảnh (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp) và thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức), bấy giờ phát sinh xúc tương ứng (nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc, ý xúc).

Vì sao cần phải có thức?

Vì không có sự hướng tâm đến cảnh sẽ không nhận thức cảnh, người có mắt, có cảnh sắc nhưng không chú ý đến cảnh sắc sẽ không nhận thức được.

Hay tuy có tai, có âm thanh nhưng không chú ý sẽ không nghe chi cả, dĩ nhiên trừ trường hợp cảnh quá lớn như cảnh kinh hoàng đột nhiên ập đến, tiếng sấm nổ, mùi nồng nặc...

Do đó, nói rằng: “Không có thức sinh lên thì xúc cũng không sinh”.

Đồng thời, chính vì căn, cảnh và thức sai biệt nên có xúc sai biệt.

“Dhātunānattaṃ, bhikkhave, paṭicca uppajjati phassanānattaṃ.

“Này các Tỳkhưu, do duyên giới sai biệt nên xúc sai biệt khởi lên” [10].

Giới (dhātu) ở đây, chỉ cho 18 giới, là sáu căn, sáu cảnh và sáu thức. Căn, cảnh, thức phối hợp tương thích với nhau, không hề lẫn lộn.

- Nhãn căn (thần kinh nhãn) + cảnh sắc + nhãn thức à nhãn xúc.

- Nhĩ căn (thần kinh nhĩ) + cảnh thinh + nhĩ thức à nhĩ xúc.

- Tỷ căn (thần kinh tỷ) + cảnh mùi + tỷ thức à tỷ xúc.

- Thiệt căn (thần kinh thiệt) + cảnh vị + thiệt thức à thiệt xúc.

- Thân căn (thần kinh thân) + cảnh xúc + thân thức à thân xúc.

- Ý thức + cảnh pháp à ý xúc.

Như vậy, có sáu xúc: nhãn xúc, nhĩ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Sáu xúc này sai biệt nhau.

c. Tư niệm thực (manosañcetanā).

Sự cố ý (cetanā) Ngài gọi là Tư niệm thực, cetanā luôn là duyên (vật thực) để sinh khởi thức (tâm quả).

Nhưng manosañcetanā [11] là “ý hướng đến”, tức là sự suy nghĩ khắn khít để sinh khởi thức tái sinh trong tương lai.

“Yañca, bhikkhave, ceteti yañca pakappeti yañca anuseti, ārammaṇametaṃ hoti viññāṇassa ṭhitiyā, ārammaṇe sati patiṭṭhā viññāṇassa hoti.

Tasmiṃ patiṭṭhite viññāṇe viruḷhe nati hoti. Natiyā sati āgatigati hoti…

“Này các Tỳkhưu, cái gì chúng ta tư niệm (ceteti), cái gì chúng ta tư lường, cái gì chúng ta có thầm ý (anuseti) [12], cái ấy trở thành cảnh [13] cho thức an trú, khi nào có cảnh thời có thức an trú.

Do thức ấy an trú và tăng trưởng nên có hướng về (nati). Do có hướng về nên có đi đến tái sinh...” [14].

Hay:

“Này các Tỳkhưu, có tám thọ sanh do bố thí (dānupāpattiyo)...

Ở đây, này các Tỳkhưu, có hạng người căn bản làm phước bố thí cho các Sa môn, Bàlamôn với đồ ăn, đồ uống... người ấy bố thí và mong hưởng quả (paccāsimsatiṇ). Người ấy thấy các Sát đế lỵ đại phú, hay các Bàlamôn đại phú, hay các gia chủ đại phú, sung túc đầy đủ, thọ hưởng năm dục tăng trưởng. Người ấy suy nghĩ sau: “mong rằng, sau khi thân hoại mệnh chung, được sanh cộng trú với Sát đế lỵ đại phú...”   [15].

Ý nghĩa bài kinh này cho thấy: “Người tạo phước mong mõi sinh hữu trong tương lai”, chính sự mong mõi sinh hữu trong tương lai, được gọi là sañcetanā (tư niệm thực).

Như vậy, sañcetanā là: “Hướng đến tái sinh trong tương lai”, sự hướng đến tái sinh này do ái làm duyên, nên Đức Xálợiphất có dạy: “Từ tập khởi của ái, có tập khởi cũa thức ăn” (là thức thực – Ns).

Lại nữa, sự hướng đến tái sinh trong tương lai có hai cách:

- Có khuynh hướng thiên về.

Là khi tạo phước lúc nào cũng mong mõi được tái sanh về cành an vui như được làm người cao sang, quyền quý hay được là vị thiên nhân.

Câu truyện nàng Patipūjikā là minh chứng.

Nàng Patipūjikā [16].

Ở cõi trời Ba mươi ba (Tāvatiṃsa) có vị thiên tử tên là Mālabhārī (người mang vòng hoa), có ngàn thiên nữ tùy tùng.

Một lần nọ, thiên tử cùng ngàn thiên nữ đi vào vườn Nandavana (Hỷ lạc lâm) để vui chơi, một nửa thiên nữ leo lên cây để hái hoa ném xuống, một nửa kết hoa làm vòng hoa cho thiên tử Mālabhārī.

Bất ngờ một thiên nữ đang ngồi trên cành cây mệnh chung , tái sinh về nhân loại, trong một gia đình trưởng giả trong thành Sāvatthī (Xávệ), (chư thiên mệnh chung ví như ngọn đèn chợt tắt, không lưu lại thi hài, vì sắc chư thiên là sắc tế).

Khi được 16 tuổi, nàng được cha mẹ gả cho một công tử thuộc gia đình có môn đăng hộ đối.

Do phước duyên còn dư sót, nàng nhớ lại kiếp trước của mình, nàng ước ao sinh về cõi chư thiên, là vợ của thiên tử Mālabhārī như kiếp trước.

Vào những ngày Uposatha (Bốtát), nàng thường cúng dường vật thực, nước và phục vụ chư tăng chu đáo, nàng ước nguyện “được trở về với chồng”, nên nàng có tên Patipūjikā (người nữ cúng dường để được gần chồng).

Thời gian ở nhân loại của nàng là 32 năm, nàng có được 4 người con.

Một hôm, sau khi cúng dường đến chư Tăng, thọ trì giới Bát quan, nàng ngồi nghe pháp. Đến tối, đột nhiên nàng lâm bịnh và qua đời, tái sinh trở lại nơi thiên giới trong vườn Nandavana, nơi nàng mệnh chung khi trước.

Chợt thấy cô, thiên tử Mālabhārī hỏi:

- Từ sáng đến giờ nàng đi đâu? (một ngày đêm cõi Ba mươi ba bằng trăm năm cõi nhân loại, nên 32 năm cõi nhân loại chỉ hơn nửa ngày ở cõi chư thiên).

Nàng Patipūjikā thuật lại mọi việc cho thiên tử nghe, vị Thiên tử than rằng:

“Đời sống nhân loại ngắn ngủi như thế, sao họ không lo tạo việc lành nhỉ?”.

Hôm sau, chư Tỳkhưu biết nàng Patipūjikā mệnh chung, bạch hỏi Đức Thế Tôn về cảnh giới tái sinh của nàng, Đức Thế Tôn giải đáp thắc mắc cho chư Tỳkhưu xong, nhân đó Ngài thuyết lên kệ ngôn:

“Pupphāni h’eva pacinantaṃ. Byā sattamanasaṃ naraṃ

Atittaṃ yeva kāmesu. Antako kurute vasaṃ

“Người nhặt các loại hoa. Ý đắm say, tham nhiễm

Các dục chưa thỏa mãn. Đã bị chết chinh phục”(HT. TMC dịch).

- Không có khuynh hướng thiên về.

Tuy không có khuynh hướng thiên về, nhưng những gì được tạo ra bởi tâm sở Tư (cetanā cetasika), tâm sở Tư sẽ khắn khít với cảnh giới phù hợp với tâm quả (làm việc tục sinh) sau này.

Như tâm sở Tư trong ác, bất thiện nghiệp sẽ khắn khít với bốn khổ cảnh (rõ ràng chẳng một chúng sinh nào thích thú hướng tâm đến 4 khổ cảnh cả, nhưng kẻ làm ác vẫn phải sinh về một trong 4 cõi này).

Tâm sở Tư thiện sẽ khắn khít với nhàn cảnh (cho dù người tạo thiện nghiệp không mong cầu, khi mệnh chung, tâm sở Tư vẫn tạo tâm quả tục sinh cho sinh vào nhàn cảnh).

Ngoài ra, tư niệm thực còn mang ý nghĩa là: Tạo ra tâm quả thiện hay tâm quả bất thiện trong thời bình nhật.

d. Thức thực.

Mỗi sátna tâm đều làm duyên cho các tâm sở sinh lên, đồng thời các sắc pháp (sắc tâm) được hình thành, nên mỗi tâm được gọi là thức thực.

Luận Atỳđàm có ghi “Nhân cận (padaṭṭhānaṃ) của tâm sở là “phải có tâm sanh (cittuppāda)” [17].

Hiểm họa của bốn vật thực.

a- Hiểm họa của đoàn thực là ái luyến sắc thân.

Vật thực nuôi dưỡng thân, thân được xinh tốt là do vật thực có nhiều dưỡng tố, đồng thời chính vị chất của dưỡng tố làm tâm đắm nhiễm.

Vật thực là một nhu cầu không thể thiếu được của chúng sinh trong cõi Dục.

Chính vì nhu cầu này nên chúng sanh phải đi tìm kiếm (ngoại trừ những chúng sanh có nhiều quả lành như Chư thiên).

Sự tìm kiếm vật thực không phải dễ dàng, loài người phải làm việc vất vả mới có được.

Chính vì vật thực mà người ta có thể tạo ra những ác bất thiện pháp như sát sanh, trộm cắp, lừa dối, giết hại lẫn nhau…

Ngay cả loài thú cũng vì miếng ăn, đôi khi chúng phải đổ máu, mang thương tật hay bị thiệt mạng.

Nhiều tai nạn, bất trắc, ác bất thiện pháp nảy sinh từ miếng ăn, đây là hiểm họa của vật thực.

Đói khát là sự sợ hãi lớn, hằng đè nặng tâm của chúng sinh, đói khát là một chứng bịnh trầm kha không bao giờ dứt.

Thông thường, khi đau ốm người ta dùng những dược chất thích hợp để trị, bịnh sẽ thuyên giảm rồi dứt hẳn, nhưng bịnh đói thì bất trị, hễ ăn no rồi sau đó lại đói.

“Jighachā paramā rogā: Đói là chứng bịnh tối trọng”. [18]

Trong Trung bộ kinh II, bài kinh Catuma, có nêu lên:

 “Ví như người lội xuống nước có bốn điều sợ hãi chờ đợi là: Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy, sợ hãi về cá dữ. Cũng vậy, bậc xuất gia cũng có bốn điều sợ hãi chờ đợi là: Sợ hãi về sóng, sợ hãi về cá sấu, sợ hãi về nước xoáy và sợ hãi về cá dữ.

Sợ hãi về cá sấu là sợ đói, không kham nhẫn trong vật thực vị Tỳkhưu có thể vì đói khát mà hoàn tục, hoặc do đắm nhiễm trong vị ngon của vật thực phải trở về với đời sống thế gia. Câu truyện sau đây là minh chứng.

Tôn giả Cūlapiṇḍapatika Tissa.

Thanh niên Tissa là con độc nhất của một gia đình giàu có trong thành Vương xá.

Một hôm được nghe pháp từ Đức Thế Tôn, vị ấy suy nghĩ: “Theo lời dạy của Đức Thế Tôn thì đời sống tại gia, giới hạnh không được bóng sáng như vỏ ốc xa cừ được đánh bóng. Vậy ta hãy xuất gia”.

Thế rồi, Tissa về nhà xin với cha mẹ cho phép chàng xuất gia, cha mẹ chàng không đồng ý, Tissa bỏ ăn 7 ngày như công tử Ratthapāla (Kinh Trung bộ, số 83) và chàng được xuất gia.

Sau khi xuất gia, Tôn giả Tissa đi đến thành Sāvatthī (Xávệ) trú ngụ nơi Jetavanavihāra (Tinh xá Kỳviên), thực hành hạnh đầu đà “đi khất thực ăn”, nên Ngài được gọi là Cullapiṇḍapatika Tissa.

Tại thành Vương xá (Rājagaha), nhân một ngày lễ hội, cha mẹ của Tissa lấy đồ trang sức của Tissa thường dùng bỏ vào trong hộp bạc, cầm hộp bạc đặt trên ngực mình than khóc:

- Trong những ngày lễ hội, con ta thường mang những trang sức này. Sa môn Gotama mang đứa con yêu quý nhất của chúng ta đến thành Xávệ. Nay con chúng ta ngồi ở đâu? Đứng ở đâu?

Một kỹ nữ xinh đẹp đi ngang qua, thấy bà trưởng giả than khóc, liền hỏi vì sao bà than khóc. Bà trưởng giả kể lại câu chuyện, nàng kỹ nữ hỏi thăm:

- Thưa bà, con trai bà ưa thích gì?

- Nó ưa thích thứ này, thứ này…

- Nếu bà cho con chủ quyền hoàn toàn trong gia đình này. Con sẽ đem con trai bà về.

Bà trưởng giả đồng ý lời đề nghị của nàng kỹ nữ, cho tiền phí tổn đến nàng bảo rằng:

- Hãy đi và dùng sức mạnh của nữ nhân đem con trai ta về.

Nàng kỹ nữ đi đến thành Sāvatthī (Xávệ), thuê căn nhà có 7 tầng lầu trên đường Ngài Cullapiṇḍapatika Tissa đi khất thực.

Khi Tôn giả đi khất thực ngang qua nhà nàng, nàng cúng dường vật thực loại thượng vị vào bát Tôn giả.

Vài ngày sau nàng cho tiền bọn trẻ, bảo bọn trẻ tung bụi lên khi nàng cúng dường vật thực cho Tôn giả Cullapiṇḍapatika Tissa. Bọn trẻ làm theo lời dặn, nàng bạch với Tôn giả:

- Thưa Ngài, bọn trẻ quấy rối quá, xin Ngài hãy ngự vào trong nhà.

Tôn giả đi vào trong nhà nhận vật thực, vài ngày sau nàng lại cho tiền bọn trẻ, bảo chúng hãy ném gạch đá vào nhà, rồi nàng thỉnh Tôn giả ngự lên lầu một.

Theo cách thức ấy, nàng đưa Tôn giả đến lầu bảy.

Tôn giả Cullapiṇḍapatika Tissa vì tham vị chất ngon ngọt, đã rơi vào bẩy của nàng kỹ nữ. Khi lên đến lầu bảy nàng khêu gọi dục tình của Tôn giả Cullapiṇḍapatika Tissa và Tôn giả đã phá hoại giới cấm, từ bỏ đời sống xuất gia trở về đời sống thế tục. [19]

Trong chú giải kinh Pháp cú cũng có mẫu truyện tương tự, chỉ khác là Tôn giả Sundarasamudda (Mỹ Hải), thoát ra cạm bẩy của nàng kỹ nữ nhờ sự trợ giúp của Đức Thế Tôn, Ngài phóng quang ảnh đến trước mặt Tôn giả Sundarasamudda, nói lên kệ ngôn:

Yo’dha kāme pahatvāna. Anāgāro paribbaje.

Kāmabhava parikkhīṇaṃ. Taṃ ahaṃ brūmi brāhmanaṃ.

Ai ở đời, đoạn dục. Bỏ nhà sống xuất gia

Dục hữu được đoạn tận. Ta gọi Bàlamôn.[20]

Nghe được kệ ngôn, Tôn giả Sundarasamudda đình chỉ dục vọng, đưa tâm quán xét chứng quả Alahán, Ngài dùng thần thông xuyên qua nóc nhà cô kỹ nữ về đến Jetavanavihāra (Tinh xá Kỳviên), đảnh lễ Đức Thế Tôn.

Lại nữa, một người dùng vật thực nhiều dưỡng tố và đầy đủ, xác thân sẽ tươi nhuận xinh đẹp, trái lại do thiếu vật thực, thân xác gầy guộc, xấu xí…

Do thân thể xinh đẹp, người này có thể rơi vào ái luyến thân của mình, từ đó dẫn đến tham đắm các mỹ phẩm sắc, hương, cùng các vật trang điểm khác để tô điểm thân xác này thêm xinh đẹp.

Thế là tâm đắm chìm trong dục (kāma) dẫn đến luân hồi trong cõi dục, đây là một trong những hiểm họa của đoàn thực.

Điển hình là nàng Abhirūpanandā (em gái Ngài Nanda, con của bà Pajāpati Gotamī) thuộc gìòng Thích ca, được xuất gia trong Pháp luật này, chỉ vì ái luyến thân xinh đẹp của mình nên không chịu đi nghe Pháp từ Đức Thế Tôn.

Tuy nhiên, khi duyên lành hội tụ, Tỳkhưu ni Abhirūpananda đến nghe Pháp từ Đức Thế Tôn, Đức Phật dùng thần thông hóa ra một nữ nhân xinh đẹp đứng quạt hầu Ngài.

Nữ nhân này nhan sắc rất diễm lệ, sắc đẹp của nàng Abhirūpananda so với sắc đẹp của nàng chẳng khác nào con quạ đen so với con công.

Khi tâm trí nàng Abhirūpanandā chỉ còn biết lặng ngắm nữ nhân xinh đẹp, Đức Thế Tôn khiến thiếu nữ phát triển từ từ, có một con, 2 con … rồi già, bịnh, chết.

Tấm thân xinh đẹp trước đây, khi ấy chỉ còn là một khối sình thối, rữa nát... Nàng chợt tỉnh ngộ, tiếp theo Đức Phật dạy kệ ngôn:

Aṭṭhinaṃ nagaraṃ kataṃ. Maṇsalohitalepanaṃ.

Yattha jarā ca macu ca. Māno makkho ca ohito.

“Thành trì (này) dựng lên bằng xương, đấp thịt và máu bên ngoài, trong đó tích trữ bịnh tật, chết chóc, ngã mạn và phỉ báng. [21]

Nghe xong bà chứng quả Alahán trở thành vị nữ Thánh nữ Alahán

Câu truyện của bà Hoàng Khemā cũng tương tự như vậy (kệ ngôn tiếp dẫn của của Đức Đạo sư có khác) và bà trở thành vị Thánh nữ Alahán đệ nhất trí tuệ của Đức Thế Tôn…

Đức Phật có dạy:

“Upādāniyesu, bhikkhave, dhammesu assādānupassino viharato taṅhā pavaḍḍhati.

“Này các Tỳkhưu, ai sống thấy vị ngọt trong các pháp được chấp thủ (upādāniya dhammā), ái được tăng trưởng” [22].

Hay: “Saṃyojaniyesu dhammesu assādānupassitā:

Thấy vị ngọt trong các pháp, có thể khởi lên giây trói buộc”. [23]

 Trong Tương ưng kinh, Đức Phật có dạy:

“Cattārome, bhikkhave, āhārā bhūtānaṃ vā sattānaṃ ṭhitiyā sambhavesīnaṃ vā anuggahāya

 “Này các Tỳkhưu, bốn loại đồ ăn này đưa đến sự tồn tại hay sự chấp thủ tái sinh cho các hữu tình hay các loài chúng sinh” [24].

Và Đức Thế Tôn dạy chư Tỳkhưu nên quán xét đoàn thực ví như người phải ăn thịt chính con của mình.

Đoạn kinh văn miêu tả như sau: Ví như hai vợ chồng cùng với đứa con khả ái, thương mến, họ mang theo một ít lương thực, đi qua một quảng đường hoang vu.

Thế rồi, lương thực hết quảng đường còn dài, khi đứa con chết hai vợ chồng đành dùng thịt con mình làm lương thực, để vượt qua vùng hoang dã.

“Taṃ kiṃ maññatha, bhikkhave, api nu te davāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, madāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, maṇḍanāya vā āhāraṃ āhāreyyuṃ, vibhūsanāya vā āhāraṃ āhāreyyun’ti?

 – No hetaṃ, bhante.

“Này các Tỳkhưu, các ngươi nghĩ thế nào? Chúng ăn món ăn có phải để vui chơi? Hay chúng ăn món ăn để tham đắm? Hay chúng ăn món ăn để trang điểm (thân)? Hay chúng ăn để được béo tốt? “

- Thưa không phải vậy, bạch Thế Tôn.

- Nanu te, bhikkhave, yāvadeva kantārassa nittharaṇatthāyaāhāraṃ āhāreyyun’ti?

- Evaṃ, bhante.

- Có phải chúng ăn món ăn chỉ với mục đích vượt qua vùng hoang vu.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

- Evameva khvāhaṃ, bhikkhave, kabaḷīkāro āhārodaṭṭhappo’ti vadāmi.

Kabaḷīkāre, bhikkhave, āhāre pariññāte pañcakāmaguṇiko rāgo pariññāto hoti.

Pañcakāmaguṇike rāge pariññāte natthi taṃ saṃyojanaṃyena; saṃyojanena saṃyutto ariyasāvako puna imaṃ lokaṃ āgaccheyya.

- Cũng vậy, này các Tỳkhưu, Ta nói, đoàn thực cần phải nhận xét như vậy.

Này các Tỳkhưu, khi đoàn thực được hiểu biết, thời lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết.

Khi lòng tham đối với năm dục trưởng dưỡng được hiểu biết, thời không còn kiết sử[25], do kiết sử này một vị Thánh đệ tử bị trói buộc để phải sanh lại đời này” (sđd).

Sách Thanh Tịnh Đạo có giải thích [26].

- Không phải để vui chơi.

Là dùng vật thực không phải với mục đích để vui đùa như những thanh niên nam nữ.

Không phải để vui chơi “ám chỉ từ bỏ si, làm cho si không tăng trưởng”.

- Không phải để tham đắm.

Là dùng vật thực không phải với mục đích say mê, như võ sĩ say mê với sức mạnh.

Lẽ thường, những võ sĩ tìm những loại thức ăn thích hợp để tăng cường sức mạnh. Cũng vậy, vị Tỳkhưu không đi tìm những loại thức ăn hợp khẩu vị theo mong muốn, vị Tỳkhưu không đòi hỏi “thức ăn này phải như vầy... như vầy...”, để tăng cường sức lực cho thân.

Đức Phật có dạy: “Vị xuất gia cần phải nên quán sát: Sự sống của ta tùy thuộc vào người khác nên bậc xuất gia phải là người dễ nuôi dưỡng [27]”, không đòi hỏi những loại vật thực thích hợp với khẩu vị.

Câu “không phải tham đắm” là từ bỏ sân, không làm cho sân tăng trưởng.

Vì sao? Vì khi nhận những loại vật thực không theo ý sẽ làm sân sinh khởi, nhận nhiều lần loại vật thực không ưng ý khiến sân tăng trưởng.

- Không phải để trang sức.

Là dùng vật thực không phải với mục đích làm cho thân thể có vóc dáng xinh đẹp như những vũ nữ của Đức vua, những kỹ nữ... những người này dùng vật thực với mục đích “làm cho thân thể trở nên hấp dẫn người khác”.

Vị Tỳkhưu dùng vật thực không phải với mục đích “có được thân thể xinh đẹp, tươi tốt”.

- Không phải để béo tốt.

Là không dùng vật thực với mục đích làm cho thân thể được tăng trưởng nhiều thịt, nhiều mở.

Không phải để trang sức” và “không phải để béo tốt” là từ bỏ tham, không làm tham tăng trưởng.

Bản sớ giải kinh Chánh tri kiến [28] có nêu lên chín thứ thịt đáng nhờm gớm là:

1- Thịt của bản thân mình.

2- Thịt của quyến thuộc.

3- Thịt của con mình.

4- Thịt của người yêu quý.

5- Thịt của trẻ nhỏ.

6- Thịt sống.

7- Thịt không phải đễ ăn.

8- Thịt phải ăn khi không muốn ăn.

9- Thịt không được nướng chín.

Do đó, khi dùng vật thực nên quán tưởng “loại vật thực đang dùng là một trong 9 thứ thịt đã nêu”.

Lại nữa, “quán tưởng thức ăn” là một trong mười đề mục tùy niệm (anussati).

Sách Thanh Tịnh đạo có mô tả “vị Tỳkhưu quán xét sự không trong sạch của vật thực”[29].

Tóm lược vài nét như sau:

- Vật thực tìm được dù có vẻ tốt đẹp bên ngoài, nhưng khi đưa từng miếng vào miệng, bị răng nghiền nát, vẻ đẹp ban đầu không còn, rồi bị nước bọt tẩm ướt, nước bọt ấy hòa lẫn chất bẩn nơi chân răng chỗ tăm không xỉa đến được và vật thực ấy trở nên dơ bẩn.

- Khi nuốt vào bao tử, đối với phàm nhân có bốn thứ rỉ ra, thấm vào thức ăn là: mật, đàm, mủ, máu (Độc Giác Phật và Chuyển Luân Vương chỉ có một trong bốn chất trên rỉ ra, thấm vào vật thực, không thấy sách Thanh Tịnh đạo đề cập đến Đức Chánh Đẳng Giác và bậc Alahán, không rõ vì sao? Có lẽ hai bậc này cũng tương tự, nhất là vị Alahán. Tức là từ khi trở thành bậc Alahán, các Ngài chỉ có 1 trong bốn thứ rỉ ra, còn bậc Chánh giác chất rỉ ra giồng như vua Chuyển Luân).

Khi thức ăn được mật rỉ ra nhiều thấm vào, nó có mùi buồn nôn, khi được đàm tiết ra nhiều thấm vào, nó có mùi tanh tưởi của đàm, khi được mủ tiết ra nhiều thấm vào, nó có mùi hôi thối như sữa chua thối rữa, khi được máu rỉ ra nhiều thấm vào, nó như được nhuộm hoàn toàn với màu máu đáng ghê tỡm ...

Do quán tưởng vật thực bất tịnh như thế, tâm hành giả không còn tham đắm trong vị chất của vật thực. Và quán thấy đoàn thực như thịt đứa con mình, sẽ chế ngự được sự ham muốn khi thọ dụng vật thực thô hay tế.

“Kabaḷīkāre ce, bhikkhave, āhāre atthi rāgo atthi nandī atthi taṅhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ viruḷhaṃ.

“Này các Tỳkhưu, nếu đối với đoàn thực, có tham, có hỷ, có ái, chỗ ấy thức được an trú, tăng trưởng.

Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ viruḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassa avakkanti.

Chỗ nào thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh.

Yattha atthi nāmarūpassa avakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi.

Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng.

Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti.

Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sinh trong tương lai.

Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha āyatiṃ jātijarāmaranaṃ.

Chỗ nào hữu được tái sinh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già, chết trong tương lai.

Yattha atthi āyatiṃ jātijarāmaranaṃ, sasokaṃ taṃ, bhikkhave sadaraṃ sa upāyāsanti

Chỗ nào có sanh, già, chết trong tương lai, này các Tỳ khưu, Ta nói chỗ ấy có sầu, có não.”[30]

Đoạn kinh trên cho thấy: “Đoàn thực mang đến sự tồn tại chúng sinh trong tương lai”. Và đó là hiểm họa cao nhất của đoàn thực.

b- Hiểm họa của Xúc thực là dính mắc.

Xúc làm duyên cho thọ sinh lên. Thọ có ba là: Khổ thọ, lạc thọ và xả thọ.

Khổ thọ dẫn đến dính mắc với sân, lạc thọ dẫn đến dính mắc với tham, xả thọ dẫn đến dính mắc với si.

Lẽ thường chúng sinh không hài lòng với khổ thọ hay xả thọ, chỉ thích thú đối với lạc thọ. Và lạc thọ chỉ khởi lên do có xúc.

Người uống rượu thích thú khi thấy rượu (nhãn xúc), người đam mê âm nhạc sẽ hài lòng khi nghe bản nhạc y tâm đắc (nhĩ xúc), người thích thụ hưởng cảm thấy an lạc khi nằm trên giường nệm êm ái (thân xúc) ….

Một khi có sự tiếp xúc với cảnh nghịch ý (cảnh xấu) thì có cảm giác khó chịu, bấy giờ tâm đã dính mắc với sân. Người nghiện rượu không hài lòng khi nghe ai khuyên họ bỏ rượu (nhĩ xúc), người đam mê âm nhạc sẽ khó chịu khi nghe bản nhạc tồi tệ, nằm trên đất, trên cỏ là sự khó chịu đối với người thích thụ hưởng nệm êm chăn ấm..…

Khi dính mắc với lạc thọ qua xúc chạm với cảnh khả ý, cảnh đáng hài lòng, một khi đối tượng ấy mất, chúng sinh này cảm thấy đau khổ, cố tìm lại đối tượng đã mất.

Thế là, chúng sinh ấy có thể rơi vào những ác bất thiện pháp, bị tù tội, bị hành phạt ngay trong hiện tại, đời sau cũng đau khổ do nhân ác ấy. Như một người mất số tiền họ cố tìm lại số tiền ấy, bằng cách lừa gạt người khác, trộm cắp của người …

Do vậy, sự dính mắc trong xúc chạm đáng hài lòng được xem là một hiểm họa.

Để ngăn trừ sự dính mắc trong xúc thực, Đức Phật dạy xúc thực cần phải nhận xét như con bò cái bị lột da.

Lớp da bao bên ngoài thịt đã bị lột ra, khi ấy chạm bất cứ nơi nào trên thân đều đau nhức, rát buốt. Cũng vậy, xúc thực đối với bất kỳ đối tượng (cảnh) nào cũng chỉ mang lại đau khổ.

“Seyyathāpi, bhikkhave, gāvī niccammā kuṭṭaṃ ce nissāya tiṭṭheyya, ye kuṭṭa nissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Rukkhaṃ ce nissāya tiṭṭheyya, ye rukkhanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Udakaṃ ce nissāya tiṭṭheyya, ye udakanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Ākāsaṃ ce nissāya tiṭṭheyya, ye ākāsanissitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Yaṃ yadeva hisā, bhikkhave, gāvī niccammā nissāya tiṭṭheyya, ye tanniṭṭhitā pāṇā te naṃ khādeyyuṃ.

Ví như này các Tỳkhưu, một con bò cái bị lột da, nếu nó đứng dựa vào tường thì các sinh vật sống ở tường cắn nó.

Nếu nó dựa vào cây, thời các sinh vật sống ở cây cắn nó.

Nếu nó đứng ở trong nước, thời các sinh vật sống ở trong nước cắn nó.

Nếu nó đứng giữa hư không, thời các sinh vật sống giữa hư không cắn nó.

Này các Tỳkhưu, con bò cái ấy đứng dựa chỗ nào, thời các sinh vật trong chỗ ấy cắn nó…”[31]

Vị Tỳkhưu quán thấy xúc thực này giống như con bò bị lột da, đụng chạm vào bất cứ cảnh nào: xấu, tốt, không xấu không tốt cũng đều mang lại đau khổ, nhờ vậy sẽ chế ngự ham muốn trong xúc chạm với đối tượng (cảnh) đáng hài lòng, chế ngự phẩn nộ, khó chịu khi xúc chạm cảnh không hài lòng.

Vì sao? Vì xúc duyên cho thọ, thọ duyên cho ái.

“Phasse, bhikkhave āhāre pariññāte tisso vedanā pariññātā honti.

Tisu vedanāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti.

Này các Tỳkhưu, khi xúc thực được hiểu biết, thời ba cảm thọ [32] được hiểu biết.

Khi ba cảm thọ được hiểu biết thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có gì cần phải làm thêm nữa” (sđd).

Và:

“Phassa ce, bhikkhave, āhāre atthi rāgo atthi nandī atthi taṅhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ viruḷhaṃ.

Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ viruḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassa avakkanti.

Yattha atthi nāmarūpassa avakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi.

Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti.

Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha jātijarāmaranaṃ.

Yattha atthi āyatiṃ jātijarāmaranaṃ, sasokaṃ taṃ, bhikkhave sadaraṃ sa upāyāsanti

“Này các Tỳkhưu, nếu đối với xúc thực có tham, có hỷ, có ái, chỗ ấy thức được an trú, tăng trưởng.

Chỗ nào thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh.

Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng.

Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sinh trong tương lai.

 Chỗ nào hữu được tái sinh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già, chết trong tương lai.

Chỗ nào có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có não.”[33]

Xúc thực làm sinh khởi thọ, thọ dẫn đến ái. Ái dẫn đến sinh tử luân hồi, đây là hiểm họa cao nhất của xúc thực.

c- Hiểm họa của Tư niệm thực là huân tập.

Khi chúng sinh tạo ra những nghiệp bất thiện hay những nghiệp thiện hữu lậu, những nghiệp này dẫn chúng sinh trôi lăn trong ba cõi.

Có một số người không tin luân hồi, không tin nghiệp báo, hạng người này không từ chối bất kỳ ác nghiệp nào, họ thực hiện các ác nghiệp để phục vụ cho sự an lạc nhất thời của mình, đó là huân tập ác nghiệp. Truyện đồ tể Cunda là điển hình.

Đồ tể Cunda

Tương truyền rằng, đồ tể Cunda sống bằng nghề giết mổ heo suốt cả 55 năm.

Khi muốn giết heo, ông trói heo thật chặt và0 cây cộc rồi dùng chày vồ đánh lên khắp mình con heo cho sưng lên để thịt được mềm. Sau đó ông chống hai hàm heo bằng cây nêm nhỏ, đổ nước sôi vào trong họng heo, nước nóng thấm vào dạ dày heo làm lỏng phẩn trôi ra hậu môn, bao giờ còn phẩn thì nước còn đục, khi nước chảy ra trong vắt thì heo hết phẩn (dĩ nhiên con heo đau khổ, kêu la inh ỏi cho đến lúc chết).

Rồi ông cạo lông, đốt những lông cứng bằng cây đuốc, sau đó ông quay heo, dùng máu heo thoa lên lớp da đang quay. Ông cùng gia đình dùng thịt heo ấy, phần còn lại đem bán.

Ông sinh sống bằng cách như thế trong 55 năm, nhà ông tuy ở gần Tinh xá Trúc Lâm (Veḷuvanavihāra), nhưng Cunda không hề cúng dường đến Đức Thế Tôn hay chư Tăng dù chỉ một nắm hoa hay một muổng cơm, không hề làm một công đức chi cả.

Một hôm ông lâm bịnh, ác nghiệp giết heo trả quả, ông bò như heo khắp nhà, miệng kêu như heo đang bị hành hạ. Sau 7 ngày ông mệnh chung, tái sinh vào địa ngục Atỳ (avīciniraya).

Nhân câu truyện này Đức Thế Tôn thuyết lên kệ ngôn:

Idha socati pecca socati. Pāpakārī ubhayattha socati.

So socati so vihaññati. Disvā kammakiliṭṭham attano.

Nay sầu, đời sau sầu. Kẻ ác hai đời sầu.

 Nó sầu, nó ưu não. Thấy nghiệp uế mình làm.[34]

Một số người tuy có trí, có niềm tin vào luân hồi, nghiệp báo, nhưng tham đắm vào sự an lạc, họ tránh xa ác, bất thiện pháp, cố gắng tạo mọi thiện pháp để mai hậu hưởng quả an lành, điển hình là nàng Patipūjikā (cúng dường vì chồng).

Với nghiệp bất thiện chúng sinh bị đọa vào bốn khổ cảnh, chịu nhiều đau khổ.

Với nghiệp thiện tuy sinh vào nhàn cảnh, ít đau khổ hơn nhưng vẫn bị già, bịnh, chết dày vò, còn bị bức bách bởi định luật sinh diệt liên tục của pháp hữu vi.

Vì thế, sự tạo nghiệp đồng nghĩa với khổ và sự huân tập trong nghiệp xem như là một hiễm họa sinh tử luân hồi.

Để chế ngự sự ham muốn trong tư niệm thực, Đức Phật dạy cần phải nhận xét tư niệm thực như hầm lửa đỏ.

“Seyyathāpi bhikkhave, aṅgārakāsu sāthikaporisā puṇṇā aṅgārānaṃ vītacchikānaṃ vītadhūmānaṃ.

Atha puriso āgaccheyya jīvitukāmo amaritukāmo sukhakāmo dukkhappaṭikūlo.

Tamenaṃ dve balavanto purisā nānābāhāsu gahetvā taṃ aṅgārakāsuṃ upakaḍḍheyyuṃ.

Atha kho, bhikkhave, tassa purisassa ārakāvassa cetanā ārakā patthāna ārakā paṇidhi.

“Này các Tỳkhưu, ví như một hố than hừng, sâu hơn một thân người, chứa đầy than cháy đỏ rực, hừng cháy không có khói.

Rồi một người đi đến, muốn sống không muốn chết, muốn lạc chán ghét khổ.

Có hai người lực sĩ đến, nắm chặt lấy hai cánh tay nó, kéo nó đến hố than hừng ấy.

Này các Tỳkhưu, người ấy quyết chí muốn lánh xa, tinh cần muốn lánh xa, phát nguyện muốn lánh xa (hố than hừng ấy)”. [35]

Hố than hừng ví như tam giới, còn rơi vào tam giới là còn khổ, còn bị những than hừng già, bịnh, chết thiêu đốt.

Người có trí khi tạo thiện nghiệp không mong cầu hưởng an lạc trong tam giới, chỉ muốn lánh xa tam giới, tức là chỉ muốn thoát ra khỏi sinh tử luân hồi, như vậy được gọi là “không huân tập trong tư niệm thực”.

Khi còn sinh tử luân hồi là do còn ái, khi hiểu rõ và chấm dứt ba ái thì sự luân chuyển trong tam giới không còn.

“Manosañcetanāya, bhikkhave, āhāre pariññāte tisso taṅhā pariññātā honti.

Tisu taṅhāsu pariññātāsu ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti.

“Này các Tỳkhưu, khi tư niệm thực được hiểu biết, thời ba ái [36] được hiểu biết.

Khi ba ái được hiểu biết, Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không có làm gì thêm nữa.” (sđd).

Và:

“Manosañcetanāya ce, bhikkhave, āhāre atthi rāgo atthi nandī atthi taṅhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ viruḷhaṃ.

Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ viruḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassa avakkanti.

Yattha atthi nāmarūpassa avakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi.

Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti.

Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha āyatiṃ jātijarāmaranaṃ.

Yattha atthi āyatiṃ jātijarāmaranaṃ, sasokaṃ taṃ, bhikkhave sadaraṃ sa upāyāsanti.

“Này các Tỳkhưu, nếu đối với tư niệm thực có tham, có hỷ, có ái, chỗ ấy thức được an trú, tăng trưởng.

Chỗ nào thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh.

Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng.

Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sinh trong tương lai.

Chỗ nào hữu được tái sinh trong tương lai, chỗ ấy có sanh, già, chết trong tương lai.

Chỗ nào có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có não.”[37]

d- Hiểm họa của Thức thực là sự tái sinh.

Thức thực làm duyên cho danh sắc trong thời điểm tục sinh (paṭisandhi), điều này đồng nghĩa xuất hiện một chúng sinh mới, tiếp theo là già, bịnh, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não và toàn bộ sự khổ sinh lên cho chúng sinh ấy. Từ sự sinh lên này, những nỗi thống khổ từ đó sinh lên.

Do đó hiểm họa của thức thực là danh sắc trong thời điểm tục sinh, nói cách khác hiểm họa của thức thực là sự tái sinh.

Lẽ thường chúng sinh trong thế gian thường mong cầu “được thông minh, có trí tuệ”, “là người giàu sang, có danh tiếng, có quyền uy…” hay mong mỏi “có sắc đẹp, có sức mạnh, tai thính, mắt tinh”. Họ cố gắng tạo những việc lành phù hợp với những mong cầu này.

Khi mệnh chung, thiện nghiệp ấy cho quả là tâm tục sinh, chính tâm tục sinh này tạo ra danh sắc phù hợp với ước nguyện trước đó, nhưng rồi kết quả này cũng bị vô thường chi phối, lại trở về với khổ (nếu còn tái sinh, còn danh sắc).

Chẳng khác nào người cần cù làm việc trong một thời gian dài, tích lũy nhiều tài sản, rồi lại phung phí hưởng thụ, sau cùng lại trở nên bần khổ như xưa.

Trái lại, người tạo ác nghiệp, nghiệp này cho quả là thức tái sinh (thức thực), thức tái sinh ấy cũng tạo ra danh sắc thích ứng với cảnh giới tái sinh. Như một chúng sinh bị đọa vào địa ngục, thức thực tạo ra danh sắc thích ứng với lửa địa ngục, không bị lửa này làm tiêu hoại.

Vua Milinda có hỏi Đức Nāgasena (Natiên) về “lửa địa ngục rất nóng, một tảng đá lớn như cái nhà, rơi vào địa ngục sẽ tiêu hoại trong giây lát. Vì sao chúng sinh có thể sống trong đó thời gian cả ngàn năm hay lâu hơn để chịu khổ được?”.

Đức Nāgasena trả lời: “Đó là do sức mạnh của ác quả gìn giữ mạng sống chúng sinh ấy.”

Ngài Nāgasena có cho ví dụ: Những vật thực đi vào bụng người nữ bị tiêu hoại bởi sức nóng của lửa, nhưng thai bào nằm trong bụng mẹ thì vô sự. [38]

Chính thức tục sinh tạo ra danh sắc phù hợp với môi trường hiện khởi của chúng sinh và thức tục sinh này nâng đở, gìn giữ chúng sinh được tồn tại nhờ sức mạnh của ác quả ấy”. Như Phật ngôn:

“So na ca tāva kālaṃ kareyya yāva na taṃ pāpakammaṃ byantī hoti:

Nếu không có thời gian dài trôi chảy, ác quả (của) nghiệp ấy không tiêu hoại.

Để ngăn trừ dính mắc trong thức thực (tức là dính mắc trong danh sắc tốt đẹp), Đức Phật cho ví dụ 300 ngọn giáo.

Kinh văn nêu ví dụ: Đức vua bắt được tên trộm, Đức vua ra lịnh hành phạt tội nhân, vào buổi sáng đâm vào người tội nhân 100 ngọn giáo (satti), nhưng không cho tội nhân chết, vào buổi trưa đâm vào người tội nhân 100 ngọn giáo, vào buổi chiều đâm vào người tội nhân 100 ngọn giáo.

“Taṃ kiṃ maññattha bhikkhave, api nu so puriso divasaṃ tīhi sattisatehi haññamāno tato nidānaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyethā’ti?

“Này các Tỳkhưu, các ngươi nghĩ thế nào? Người ấy trong một ngày bị đâm 300 ngọn giáo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu chăng?

Ekissāpi bhante, sattiyā haññamāno tato nidānaṃ dukkaṃ domanassaṃ paṭisaṃvediyetha; ko pana vādo tīhi sattisattehi haññamāno’ti.

- Bạch Thế Tôn, chỉ một ngọn giáo, do nhân duyên ấy có cảm thọ khổ ưu, còn nói gì bị đâm 300 ngọn giáo.

Evameva khvāhaṃ bhikkhave, viññāṇāhāro daṭṭhabboti vadāmi.

- Như vậy, này các Tỳkhưu, Ta nói thức thực cần phải nhận xét.

Viññāṇe, bhikkhave, āhāre pariññāte nāmarūpaṃ pariññātaṃ hoti.

Nāmarūpe pariññāte ariyasāvakassa natthi kiñci uttarikaraṇīyanti vadāmi.

-Này các Tỳkhưu, khi thức thực được hiểu rõ, thời danh sắc được hiểu rõ.

Khi danh sắc được hiểu rõ thời Ta nói rằng vị Thánh đệ tử không làm gì thêm nữa.”[39]

Với chỉ một vết thương cũng đau khổ, nhức nhối khôn tả rồi, huống hồ là 300 vết thương do ngọn giáo đâm vào chỉ trong một ngày, thì sự đau đớn khốc liệt vô cùng.

Sự tái sinh ví như bị ngọn giáo đâm vào, danh sắc hiện khởi ví như vết thương, những đau khổ khác biệt nhau sinh khởi từ vết thương ví như sự khổ khác biệt của danh sắc. Vết thương nối tiếp vết thương chỉ trong một ngày thì nỗi thống khổ của danh sắc này đủ để ngán ngẫm.

Khi có danh sắc thì có ba sự khổ phát sinh, đó là:

- Khổ khổ (dukkha dukkhatā).

Là sự khổ thân và khổ tâm. Thân nhận lãnh thọ khổ, tâm nhận lãnh thọ ưu.

- Hữu vi khổ (saṅkhāra dukkhatā).

Là sự khổ khi còn pháp hữu vi, pháp hữu vi luôn sinh diệt, còn sinh diệt thì còn dẫn đến khổ.

Lại nữa, còn pháp hữu vi (danh sắc) thì còn phải nhận lãnh những ác quả lẫn thiện quả do nghiệp đã tạo trong quá khứ hay trong hiện tại.

Chí đến Đức Chánh giác, khi chưa Vô dư Nípbàn, còn thân năm uẩn Ngài vẫn phải nhận những ác quả do ác - bất thiện nghiệp đã gieo trong quá khứ.

- Hoại khổ (viparinṇāma dukkhatā).

Là sự khổ sinh lên khi bị biến hoại, nói cách khác là do vô thường chuyển đổi. Như sự an lạc thân tâm mất đi, chúng sinh còn tham ái, cảm thấy khổ sở vô hạn.

Vị Thánh Anahàm Visākha có hỏi Thánh nữ Alahán Dhammadinnā:

“Sukha pan’ ayye vedanā kiṃ sukhā kiṃ dukkhā?

- Thưa Ni cô, đối với lạc thọ, cái gì lạc, cái gì khổ?”

Vị Thánh nữ Alahán đáp rằng:

“Sukhā kho āvuso Visākha, vedanā ṭhitisukhā vipariṇāmadukkhā.

- Này hiền giả Visākha, đối với lạc thọ, cái gì trú là lạc, cái gì biến hoại là khổ.[40]

Đức Phật dạy:

“Viññāṇa, bhikkhave, āhāre atthi rāgo atthi nandī atthi taṅhā, patiṭṭhitaṃ tattha viññāṇaṃ viruḷhaṃ.

Yattha patiṭṭhitaṃ viññāṇaṃ viruḷhaṃ, atthi tattha nāmarūpassa avakkanti.

Yattha atthi nāmarūpassa avakkanti, atthi tattha saṅkhārānaṃ vuddhi.

Yattha atthi saṅkhārānaṃ vuddhi atthi tattha āyatiṃ punabbhavābhinibbatti.

Yattha atthi āyatiṃ punabbhavābhinibbatti, atthi tattha āyatiṃ jātijarāmaranaṃ.

Yattha atthi āyatiṃ jātijarāmaranaṃ, sasokaṃ taṃ, bhikkhave sadaraṃ sa upāyāsanti

“Này các Tỳkhưu, nếu đối với thức thực có tham, có hỷ, có ái, chỗ ấy thức được an trú, tăng trưởng.

Chỗ nào thức được an trú, tăng trưởng, chỗ ấy có danh sắc sanh.

Chỗ nào có danh sắc sanh, chỗ ấy có các hành tăng trưởng.

Chỗ nào có các hành tăng trưởng, chỗ ấy hữu được tái sinh trong tương lai.

Chỗ nào có sanh, già, chết trong tương lai, Ta nói chỗ ấy có sầu, có não (sđd).

Đối với chúng sinh là thai sinh, khi tục sinh có ba đoàn sắc là: Đoàn ý vật, đoàn tính (nam hay nữ), đoàn thân, sở dĩ ba đoàn này có mặt trước tiên vì:

- Đoàn thần kinh thân có nhiều nơi thân do đó đoàn thân sinh trước.

- Đoàn tính sinh lên để xác định nam hay nữ sau này.

- Đoàn ý vật sinh lên để làm nơi nương cho tâm tục sinh và những tâm hữu phần (bhavaṅga) sinh kế tiếp.

Đối với chúng sinh hóa sinh trong cõi có sắc, khi tâm tục sinh vừa hiện khởi thì những đoàn sắc do nghiệp tạo đồng sinh theo (cõi Phạm thiên Sắc giới có 4 đoàn: Đoàn nhãn, đoàn nhĩ, đoàn ý vật, đoàn mạng quyền. Chư thiên Dục giới, ngạ quỷ, chúng sinh địa ngục có đủ các đoàn sắc nghiệp tương ứng, Phạm thiên Vô tưởng thì tục sinh bởi đoàn mạng quyền).

Trong các đoàn sắc nghiệp có sắc vật thực bất ly (sắc vật thực trong đoàn bất ly), sắc vật thực bất ly là sắc do nghiệp thủ (kammupādāna) tạo thành, nghiệp thủ có là do ái tập khởi. Do đó, ái là tập khởi của đoàn thực.

Nên Đức Sāriputta dạy: “Từ tập khởi của ái, vật thực tập khởi”.

Nghĩa là khi còn ái thì còn tái sinh, còn luân hồi sinh tử. Duy trì sự tồn tại của chúng sinh là vật thực, nên nói “ái là tập khởi của vật thực”, rồi vật thực duyên ngược lại cho ái bằng Hổ tương duyên (nương qua nương lại, ví như hai cây nương vào nhau đứng vững trên đất).

Xúc thực duyên cho thọ, tư niệm thực duyên cho thức tái sinh, thức thực duyên cho danh sắc. Tất cả đều hiện khởi trong thời điểm tục sinh, do ái làm duyên.

Nên ghi nhận trong phần trí hiểu rõ về vật thực, Đức Sāriputta (XálợiPhất) trình bày hai loại vật thực:

Vật thực thành tựu do nghiệp thủ, vật thực thành tựu không do nghiệp thủ.

Nói cách khác: Có loại vật thực là nhân (vật thực thành tựu không do nghiệp thủ), có loại vật thực là quả (vật thực thành tựu do nghiệp thủ).

Vật thực thành tựu do nghiệp thủ.

  Là ba thực (xúc, tư niệm và thức thực) trong tâm quả hiệp thế, và sắc vật thực trong sắc nghiệp.

Vật thực thành tựu không do nghiệp thủ.

- Là sắc do thời tiết tạo (utujarūpa), sắc do vật thực tạo, những loại sắc ấy đều có sắc vật thực trong đoàn bất ly.

Riêng sắc do tâm tạo (cittajarūpa), có loại thành tựu do nghiệp thủ (là sắc do tâm quả hiệp thế tạo ra), có loại thành tựu không do nghiệp thủ (là những sắc do những tâm ngoài tâm quả hiệp thế tạo ra).

- Tâm bất thiện, tâm thiện, tâm duy tác là thức thực, đều có xúc thực, tư niệm thực, đây là những vật thực thành tựu không do nghiệp thủ.

Đức Sāriputta (Xálợiphất) dạy: “Vật thực diệt do ái diệt”.

Tức là khi không còn ái thì vật thực thành tựu do nghiệp thủ hay thành tựu không do nghiệp thủ trong tương lai sẽ không tồn tại, riêng trong hiện tại, bao giờ còn 5 uẫn, vị Thánh Alahán vẫn còn vật thực.

Nên câu nói “vật thực diệt do ái diệt”, ám chỉ sau thời điểm viên tịch của vị Thánh Alahán, tức là không còn tái sinh.

Dứt phần giải về vật thực.

-ooOoo-


[1]- A.v, 49.

[2]- HT. TMC (d), D.iv, Kinh Thập thượng (Dasuttarasutta).

[3]- Đại trưởng lão Tịnh Sự (soạn dịch) (kn), Siêu lý Sơ học.

[4]- HT. TMC (d), S.v, 102.

[5]- HT. TMC (d), A.i, 86.

[6]- HT. TMC (d), A.v, 135.

[7]-Đại trưởng lão Tịnh Sự (soạn dịch) (kn), Siêu lý sơ học.

[8]- HT. TMC(d), M. Kinh Tiểu nghiệp phân biệt.

[9]- S.i, 135. Vajirasuttaṃ (Phẩm Tương ưng Tỳkhưu ni). HT. TMC dịch.

[10]- HT. TMC (d), S.ii, 140.

[11]- Theo Chánh kinh.

[12]- Anuseti là một danh từ khác chỉ cho ái ngủ ngầm.

[13]- Ārammaṇa (cảnh), cảnh là đối tượng bị tâm biết.

[14]- HT. TMC (d), S.ii, 66. Tương ưng Nhân duyên , Tatiyacetanāsuttaṃ (Kinh Tư tâm sở 3).

[15]- HT. TMC (d), A.iv, 239.

[16]- DhpA, kệ ngôn số 48

[17]- Đại Trưởng lão Tịnh Sự (soạn dịch) (kn), Siêu Lý Sơ Học.

[18]- Dhp, câu 203.

[19]- Trần Phương Lan (dịch), JA, truyện số 14 (Vātamigajātaka).

[20]- HT. TMC (dịch),  Dhp- số 415.

[21]- Phạm Kim Khánh (d), Dhp, câu 150.

[22]- HT. TMC (d), S.ii, 84.

[23]- HT. TMC (d), A.i, 47 (saṃ yo janasuttaṃ)

[24]- S.ii, 97.

[25]- Saṃyojana: giây trói buộc.

[26]- Vsm, 90-91.

[27]- A.v, 87.

[28]- Đại Đức Thiện Phúc (dịch) (kn), Sớ giải kinh Chánh tri kiến.

[29]- Vsm, Chương XI, từ đoạn 11- 26.

[30]- HT, TMC(d), S.ii, 101.

[31]- HT. TMC (d), S.ii, 97

[32]- Lạc thọ, khổ thọ và xả thọ.

[33]- HT. TMC (dịch), S.ii, 101.

[34]- DhpA, câu số 15.

[35]- HT.TMC (d), S.ii, 97.

[36]- Dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Hay dục ái, hữu ái, vô hữu ái.

[37]- S.ii, 101.

[38]- Xem Milindapañhā, cuốn 1, phẩm iv, câu hỏi số 6 (pakati aggito nerayaggīmaṃ uṇhākarā)- Đại trưởng lão Giới Nghiêm dịch.

[39]- S.ii.97.

[40]- M.i, kinh Tiểu Phương quảng (Cūlavedallasuttaṃ).

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn