(Xem: 1492)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1857)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Lời vàng Phật dạy_Kinh Pháp Cú

03 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 31598)


Kinh Pháp Cú

Tác giả: Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch Việt

 phat_tc-0051-content

Giới Thiệu

Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới. Pháp (Dhamma) có nghĩa là đạo lý, chân lý, lời dạy của Đức Phật; Cú (Pada) là lời nói, câu kệ. Ngoài ra, trong ngữ văn Pali, "Pada" còn có nghĩa là con đường. Do đó, Dhammapada thường được dịch là Con đường Chân lý (Path of Truth), Con đường Phật Pháp (Path of the Buddha's Teaching).
Dhammapada là tập hợp 423 bài kệ do đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau, trong suốt 45 năm hoằng dương Chánh Pháp của Ngài. Các bài kệ nầy được sắp xếp trong 26 phẩm, do các vị đại đệ tử thu xếp và tụng đọc trong Đại hội Kết tập Kinh điển lần đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt. Mỗi bài kệ chứa đựng một nội dung tu học rất sâu sắc và phong phú, không thể nào chỉ đọc một lần mà hiểu hết được. Cần phải đọc đi đọc lại nhiều lần, tra cứu các bản chú giải, và suy nghiệm từ các tu chứng tự thân thì mới mong thông ngộ và thấu đạt ý nghĩa của các lời dạy cao quý đó. Mỗi bài kệ là một nguồn cảm hứng cao đẹp, một lối đi mới lạ, một sức mạnh kỳ diệu giúp chúng ta có một niềm tin vững chắc hơn trên con đường tu học để tiến đến giác ngộ, giải thoát. (...)

Bình Anson,

===Quý vị có thể:

** Đọc các câu Pháp phía dưới
** Hoặc nghe những câu Pháp dưới thể diễn ngâm.


I - Phẩm Song Yếu
<(nghe diễn ngâm)


*1. "Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo;
Nếu với ý ô nhiễm, Nói lên hay hành động,
Khổ não bước theo sau, Như xe, chân vật kéo ". 

*2. "Ý dẫn đầu các pháp, Ý làm chủ, ý tạo,
 Nếu với ý thanh tịnh, Nói lên hay hành động,
An lạc bước theo sau, Như bóng, không rời hình ".

*3. "Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi "
Ai ôm hiềm hận ấy, Hận thù không thể nguôi.
 
*4. "Nó mắng tôi, đánh tôi, Nó thắng tôi, cướp tôi, "
Không ôm hiềm hận ấy, Hận thù được tự nguôi.

*5. "Với hận diệt hận thù, Đời này không có được.
Không hận diệt hận thù, Là định luật ngàn thu ". 
*6. "Người khác không hiểu biết, Chúng ta đây bị hại.
Chỗ ấy, ai biết được Tranh luận được lắng êm."

*7. "Ai sống nhìn tịnh tướng, không hộ trì các căn,
ăn uống thiếu tiết độ, biếng nhác, chẳng tinh cần.
Ma uy hiếp kẻ ấy, như cây yếu trước gió ".
 
*8. "Ai sống quán bất tịnh, Khéo hộ trì các căn,
 ăn uống có tiết độ, có lòng tin, tinh cần,
 Ma không uy hiếp được, Như núi đá, trước gió"

*9. "Ai mặc áo cà sa, tâm chưa rời uế trược,
không tự chế, không thực, không xứng áo cà sa ". 
 
*10. "Ai rời bỏ uế trược, giới luật khéo nghiêm trì,
tự chế, sống chơn thực, thật xứng áo cà sa."

*11. "Không chân, tưởng chân thật, Chân thật, thấy không chân
Họ không đạt chân thật Do tà tư tà hạnh.
 
*12 "Chân thật, biết chân thật, Không chân, biết không chân.
Chúng đạt được chân thật, do chánh tư, chánh hạnh."

*13 "Như ngôi nhà vụng lợp, Mưa liền xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm không tu, Tham dục liền xâm nhập." 

*14 "Như ngôi nhà khéo lợp, Mưa không xâm nhập vào.
Cũng vậy tâm khéo tu, Tham dục không xâm nhập."

*15 "Nay sầu, đời sau sầu, Kẻ ác, hai đời sầu;
Nó sầu, nó ưu não, Thấy nghiệp uế mình làm."
 
*16 "Nay vui, đời sau vui, Làm phước, hai đời vui.
Người ấý vui, an vui, Thấy nghiệp tịnh mình làm."

*17 "Nay than, đời sau than, Kẻ ác, hai đời than,
than rằng: "Ta làm ác " Đọa cõi dữ, than hơn." 
 
*18. "Nay sướng, đời sau sướng, Làm phước, hai đời sướng.
Mừng rằng: "Ta làm thiện ", Sanh cõi lành, sướng hơn."

*19- "Nếu người nói nhiều kinh, Không hành trì, phóng dật;
Như kẻ chăn bò người, Không phần Sa môn hạnh." 
 
*20- "Dầu nói ít kinh điển, Nhưng hành pháp, tùy pháp,
Từ bỏ tham, sân, si, Tỉnh giác, tâm giải thoát,
Không chấp thủ hai đời, Dự phần Sa môn hạnh."

II. Phẩm Không Phóng Dật
<(nghe diễn ngâm)


*21. "Không phóng dật, đường sống, Phóng dật là đường chết.
Không phóng dật, không chết, Phóng dật như chết rồi." 
 
*22. "Biết rõ sai biệt ấy, Người trí không phóng dật,
Hoan hỷ, không phóng dật, An vui hạnh bậc Thánh."

*23. "Người hằng tu thiền định, Thường kiên trì tinh tấn.
Bậc trí hưởng Niết Bàn, Ách an tịnh vô thượng." 

*24. "Nỗ lực, giữ chánh niệm, Tịnh hạnh, hành thận trọng
Tự điều, sống theo pháp, Ai sống không phóng dật,Tiếng lành ngày tăng trưởng."

*25. "Nỗ lực, không phóng dật, Tự điều, khéo chế ngự.
Bậc trí xây hòn đảo, Nước lụt khó ngập tràn." 

*26. "Họ ngu si thiếu trí,Chuyên sống đời phóng dật.
Người trí, không phóng dật,Như giữ tài sản quý."

*27. "Chớ sống đời phóng dật, Chớ mê say dục lạc.
Không phóng dật, thiền định, Đạt được an lạc lớn." 

*28. "Người trí dẹp phóng dật, Với hạnh không phóng dật,
 Leo lầu cao trí tuệ, Không sầu, nhìn khổ sầu,
 Bậc trí đứng núi cao, Nhìn kẻ ngu, đất bằng."

*29. "Tinh cần giữa phóng dật, Tỉnh thức giữa quần mê.
Người trí như ngựa phi, Bỏ sau con ngựa hèn." 

*30. "Đế Thích không phóng dật, Đạt ngôi vị Thiên chủ.
Không phóng dật, được khen; Phóng dật, thường bị trách."

*31. "Vui thích không phóng dật, Tỷ kheo sợ phóng dật,
Bước tới như lửa hừng, Thiêu kiết sử lớn nhỏ." 

*32. "Vui thích không phóng dật, Tỷ kheo sợ phóng dật,
Không thể bị thối đọa, Nhất định gần Niết Bàn."

III. Phẩm Tâm
<(nghe diễn ngâm)



*33. "Tâm hoảng hốt giao động, Khó hộ trì, khó nhiếp,
Người trí làm tâm thẳng, Như thợ tên, làm tên." 

*34. "Như cá quăng trên bờ, Vất ra ngoài thủy giới;
Tâm này vũng vẫy mạnh, Hãy đoạn thế lực Ma."

*35. "Khó nắm giữ, khinh động, Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm; Tâm điều, an lạc đến." 

*36. "Tâm khó thấy, tế nhị, Theo các dục quay cuồng.
Người trí phòng hộ tâm, Tâm hộ, an lạc đến."

*37. "Chạy xa, sống một mình, Không thân, ẩn hang sâu
Ai điều phục được tâm, Thoát khỏi Ma trói buộc" 

*38. "Ai tâm không an trú, Không biết chân diệu pháp,
Tịnh tín bị rúng động, Trí tuệ không viên thành."

*39. "Tâm không đầy tràn dục, Tâm không (hận) công phá,
Đoạn tuyệt mọi thiện ác, Kẻ tỉnh không sợ hãi," 

*40. "Biết thân như đồ gốm, Trú tâm như thành trì,
Chống ma với gươm trí; Giữ chiến thắng không tham"

*41 "Không bao lâu thân này, Sẽ nằm dài trên đất,
Bị vất bỏ, vô thức, Như khúc cây vô dụng." 

*42. "Kẻ thù hại kẻ thù, Oan gia hại oan gia,
Không bằng tâm hướng tà, Gây ác cho tự thân."

*43. "Điều mẹ cha bà con, Không có thể làm được
Tâm hướng chánh làm được Làm được tốt đẹp hơn." 
 
IV. Phẩm Hoa
<(nghe diễn ngâm)


*44. "Ai chinh phục đất này. Dạ ma, Thiên giới này?
Ai khéo giảng Pháp cú, Như người khéo hái hoa?" 

*45. "Hữu học chinh phục đất, Dạ ma, Thiên giới này.
Hữu học giảng Pháp cú, Như người khéo hái hoa."

*46. "Biết thân như bọt nước, Ngộ thân là như huyễn,
Bẻ tên hoa của ma, Vượt tầm mắt thần chết." 

*47. "Người nhặt các loại hoa, Ý đắm say, tham nhiễm,
Bị thần chết mang đi, Như lụt trôi làng ngủ."

*48.Người nhặt các loại hoa, Ý đắm say tham nhiễm,
Các dục chưa thỏa mãn, Đã bị chết chinh phục." 

*49. "Như ong đến với hoa, Không hại sắc và hương,
Che chở hoa, lấy nhụy. Bậc Thánh đi vào làng ".

*50. "Không nên nhìn lỗi người, Người làm hay không làm.
Nên nhìn tự chính mình. Có làm hay không làm." 

*51. "Như bông hoa tươi đẹp, Có sắc nhưng không hương.
Cũng vậy, lời khéo nói, Không làm, không kết quả."

*52. "Như bông hoa tươi đẹp, Có sắc lại thêm hương;
Cũng vậy, lời khéo nói, Có làm, có kết quả." 

*53. "Như từ một đống hoa, Nhiều tràng hoa được làm.
Cũng vậy, thân sanh tử, Phải làm nhiều việc lành."

*54. "Hương các loại hoa thơm, Không ngược bay chiều gió.
 Nhưng hương người đức hạnh. Ngược gió khắp tung bay.
 Chỉ có bậc chân nhân Tỏa khắp mọi phương trời." 

*55. "Hoa chiên đàn, già la, Hoa sen, hoa vũ quý,
Giữa những hương hoa ấy, Giới hương là vô thượng."

*56. "Ít giá trị hương này, Hương già la, chiên đàn;
Chỉ hương người đức hạnh, Tối thượng tỏa Thiên giới." 

*57. "Nhưng ai có giới hạnh, An trú không phóng dật,
Chánh trí, chơn giải thoát, Ác ma không thấy đường."

*58. "Như giữa đống rác nhớp, Quăng bỏ trên đường lớn,
Chỗ ấy hoa sen nở, Thơm sạch, đẹp ý người." 

*59. "Cũng vậy giữa quần sanh, Uế nhiễm, mù, phàm tục,
Đệ tử bậc Chánh Giác, Sáng ngời với Tuệ Trí."

V. Phẩm Ngu
<(nghe diễn ngâm)



*60. "Đêm dài cho kẻ thức, Đường dài cho kẻ mệt,
Luân hồi dài, kẻ ngu, Không biết chơn diệu pháp." 

*61. "Tìm không được bạn đường, Hơn mình hay bằng mình,
Thà quyết sống một mình, Không bè bạn kẻ ngu."

*62. "Con tôi, tài sản tôi, Người ngu sanh ưu não,
Tự ta, ta không có, Con đâu, tài sản đâu." 

*63. "Người ngu nghĩ mình ngu, Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu tưởng có trí, Thật xứng gọi chí ngu."

*64. "Người ngu, dầu trọn đời, Thân cận người có trí,
Không biết được Chánh pháp, Như muỗng với vị canh." 

*65. "Người trí, dầu một khắc, Thân cận người có trí,
Biết ngay chân diệu pháp, Như lưỡi với vị canh."

*66. "Người ngu si thiếu trí, Tự ngã thành kẻ thù.
Làm các nghiệp không thiện, Phải chịu quả đắng cay." 

*67. "Nghiệp làm không chánh thiện, Làm rồi sanh ăn năn,
Mặt nhuốm lệ, khóc than, Lãnh chịu quả dị thục."

*68. "Và nghiệp làm chánh thiện, Làm rồi không ăn năn,
Hoan hỷ, ý đẹp lòng, Hưởng thọ quả dị thục." 

*69. "Người ngu nghĩ là ngọt, Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi, Người ngu chịu khổ đau."

*70. "Tháng tháng với ngọn cỏ, Người ngu có ăn uống
Không bằng phần mười sáu Người hiểu pháp hữu vi." 

*71. "Nghiệp ác đã được làm, Như sữa, không đông ngay,
Cháy ngầm theo kẻ ngu, Như lửa tro che đậy."

*72. "Tự nó chịu bất hạnh, Khi danh đến kẻ ngu.
Vận may bị tổn hại, Đầu nó bị nát tan." 

*73. "Ưa danh không tương xứng, Muốn ngồi trước tỷ kheo,
Ưa quyền tại tịnh xá, Muốn mọi người lễ kính."

*74. "Mong cả hai tăng, tục, Nghĩ rằng (chính ta làm).
Trong mọi việc lớn nhỏ, Phải theo mệnh lệnh ta "
 Người ngu nghĩ như vậy Dục và mạn tăng trưởng. 

*75. "Khác thay duyên thế lợi, Khác thay đường Niết Bàn.
Tỷ kheo, đệ tử Phật, Hãy như vậy thắng tri.
Chớ ưa thích cung kính, Hãy tu hạnh viễn ly."

VI. Phẩm Hiền Trí
<(nghe diễn ngâm)


*76. "Nếu thấy bậc hiền trí, Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy, Chỉ tốt hơn, không xấu." 

*77. "Những người hay khuyên dạy, Ngăn người khác làm ác,
Được người hiền kính yêu, Bị người ác không thích."

*78. "Chớ thân với bạn ác, Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành, Hãy thân bậc thượng nhân." 

*79. "Pháp hỷ đem an lạc, Với tâm tư thuần tịnh;
Người trí thường hoan hỷ, Với pháp bậc Thánh thuyết."

*80. "Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn gỗ, Bậc trí nhiếp tự thân." 

*81. "Như đá tảng kiên cố, Không gió nào giao động,
Cũng vậy, giữa khen chê, Người trí không giao động."

*82. "Như hồ nước sâu thẳm, Trong sáng, không khuấy đục,
Cũng vậy, nghe chánh pháp, Người trí hưởng tịnh lạc." 

*83. "Người hiền bỏ tất cả, Người lành không bàn dục,
Dầu cảm thọ lạc khổ, Bậc trí không vui buồn."

*84. "Không vì mình, vì người. Không cầu được con cái,
Không tài sản quốc độ, Không cầu mình thành tựu,
Với việc làm phi pháp.
Vị ấy thật trì giới, Có trí tuệ, đúng pháp." 

*85. "Ít người giữa nhân loại, Đến được bờ bên kia
Còn số người còn lại, Xuôi ngược chạy bờ này."

*86. "Những ai hành trì pháp, Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia, Vượt ma lực khó thoát." 

*87.Kẻ trí bỏ pháp đen, Tu tập theo pháp trắng.
Bỏ nhà, sống không nhà, Sống viễn ly khổ lạc."

*88. "Hãy cầu vui Niết Bàn, Bỏ dục, không sở hữu,
Kẻ trí tự rửa sạch, Cấu uế từ nội tâm." 

*89. "Những ai với chánh tâm, Khéo tu tập giác chi,
Từ bỏ mọi ái nhiễm, Hoan hỷ không chấp thủ.
Không lậu hoặc, sáng chói, Sống tịch tịnh ở đời."

VII. Phẩm A-La-Hán
<(nghe diễn ngâm)


*90. "Đích đã đến, không sầu, Giải thoát ngoài tất cả,
Đoạn trừ mọi buộc ràng, Vị ấy không nhiệt não." 

*91. "Tự sách tấn, chánh niệm, Không thích cư xá nào,
Như ngỗng trời rời ao, Bỏ sau mọi trú ẩn."

*92. "Tài sản không chất chứa, Ăn uống biết liễu tri,
Tự tại trong hành xứ, "Không vô tướng, giải thoát, "
Như chim giữa hư không, Hướng chúng đi khó tìm." 

*93. "Ai lậu hoặc đoạn sạch, Ăn uống không tham đắm,
Tự tại trong hành xứ, "Không, vô tướng giải thoát. "
Như chim giữa hư không, Dấu chân thật khó tìm. "

*94. "Ai nhiếp phục các căn, Như đánh xe điều ngự,
Mạn trừ, lậu hoặc dứt, Người vậy, Chư Thiên mến." 

*95. "Như đất, không hiềm hận, Như cột trụ, kiên trì,
Như hồ, không bùn nhơ, Không luân hồi, vị ấy."

*96. "Người tâm ý an tịnh, Lời an, nghiệp cũng an,
Chánh trí, chơn giải thoát, Tịnh lạc là vị ấy." 

*97. "Không tin, hiểu vô vi. Người cắt mọi hệ lụy
Cơ hội tận, xả ly Vị ấy thật tối thượng."

*98. "Làng mạc hay rừng núi Thung lũng hay đồi cao,
La Hán trú chỗ nào, Đất ấy thật khả ái ". 

*99. "Khả ái thay núi rừng, Chỗ người phàm không ưa,
Vị ly tham ưa thích, Vì không tìm dục lạc."

VIII. Phẩm Ngàn 
<(Nghe diễn ngâm)


*100. "Dầu nói ngàn ngàn lời, Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu nghĩa, Nghe xong, được tịnh lạc." 

*101. "Dầu nói ngàn câu kệ, Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn nói một câu, Nghe xong, được tịnh lạc."

*102 "Dầu nói trăm câu kệ, Nhưng không gì lợi ích,
Tốt hơn một câu pháp, Nghe xong, được tịnh lạc." 

*103. "Dầu tại bãi chiến trường, Thắng ngàn ngàn quân địch,
Tự thắng mình tốt hơn, Thật chiến thắng tối thượng."

*104. "Tự thắng, tốt đẹp hơn, Hơn chiến thắng người khác.
Người khéo điều phục mình, Thường sống tự chế ngự." 

*105. "Dầu Thiên Thần, Thát Bà, Dầu Ma vương, Phạm Thiên
Không ai chiến thắng nổi, Người tự thắng như vậy."

*106. "Tháng tháng bỏ ngàn vàng, Tế tự cả trăm năm,
Chẳng bằng trong giây lát, Cúng dường bậc tự tu.
Cùng dường vậy tốt hơn, Hơn trăm năm tế tự." 

*107. "Dầu trải một trăm năm, Thờ lửa tại rừng sâu,
Chẳng bằng trong giây lát, Cúng dường bậc tự tu.
Cúng dường vậy tốt hơn, Hơn trăm năm tế tự."

*108. "Suốt năm cúng tế vật, Để cầu phước ở đời.
Không bằng một phần tư Kính lễ bậc chánh trực." 

*109. "Thường tôn trọng, kính lễ Bậc kỳ lão trưởng thượng,
Bốn pháp được tăng trưởng: Thọ, sắc, lạc, sức mạnh."

*110.Dầu sống một trăm năm. Ác giới, không thiền định,
Tốt hơn sống một ngày, Trì giới, tu thiền định." 

*111. "Ai sống một trăm năm, Ác tuệ, không thiền định.
Tốt hơn sống một ngày, Có tuệ, tu thiền định."

*112 "Ai sống một trăm năm, Lười nhác không tinh tấn,
Tốt hơn sống một ngàyTinh tấn tận sức mình." 

*113. "Ai sống một trăm năm, Không thấy pháp sinh diệt,
Tốt hơn sống một ngày, Thấy được pháp sinh diệt."

*114. "Ai sống một trăm năm, Không thấy câu bất tử,
Tốt hơn sống một ngày, Thấy được câu bất tử." 

*115. "Ai sống một trăm năm, Không thấy pháp tối thượng,
Tốt hơn sống một ngày, Thấy được pháp tối thượng."

IX. Phẩm Ác
<(nghe diễn ngâm)


116. "Hãy gấp làm điều lành, Ngăn tâm làm điều ác.
Ai chậm làm việc lành, Ý ưa thích việc ác." 

*117. "Nếu người làm điều ác, Chớ tiếp tục làm thêm.
Chớ ước muốn điều ác, Chứa ác, tất chịu khổ."

*118. "Nếu người làm điều thiện, Nên tiếp tục làm thêm.
Hãy ước muốn điều thiện, Chứa thiện, được an lạc." 

*119. "Người ác thấy là hiền. Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi, Người ác mới thấy ác."

*120. "Người hiền thấy là ác, Khi thiện chưa chín muồi.
Khi thiện được chín muồi, Người hiền thấy là thiện." 

*121. "Chớ chê khinh điều ác, Cho rằng "chưa đến mình ",
Như nước nhỏ từng giọt, Rồi bình cũng đầy tràn.
Người ngu chứa đầy ác Do chất chứa dần dần."

*122. "Chớ chê khinh điều thiện Cho rằng "Chưa đến mình, "
Như nước nhỏ từng giọt, Rồi bình cũng đầy tràn.
Người trí chứa đầy thiện, Do chất chứa dần dần." 

*123. "Ít bạn đường, nhiều tiền, Người buôn tránh đường hiểm.
Muốn sống, tránh thuốc độc, Hãy tránh ác như vậy."

*124. "Bàn tay không thương tích, Có thể cầm thuốc độc.
Không thương tích, tránh độc, Không làm, không có ác." 

*125. "Hại người không ác tâm, Người thanh tịnh, không uế,
Tội ác đến kẻ ngu, Như ngược gió tung bụi."

*126. "Một số sinh bào thai, Kẻ ác sinh địa ngục,
Người thiện lên cõi trời, Vô lậu chứng Niết Bàn." 

*127. "Không trên trời, giữa biển, Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời, Trốn được quả ác nghiệp."

*128. "Không trên trời, giữa biển, Không lánh vào động núi,
Không chỗ nào trên đời, Trốn khỏi tay thần chết." 

X. Phẩm Hình Phạt
<(nghe diễn ngâm)

 
*129. "Mọi người sợ hình phạt, Mọi người sợ tử vong.
Lấy mình làm ví dụ Không giết, không bảo giết." 

*130. "Mọi người sợ hình phạt, Mọi người thích sống còn;
Lấy mình làm ví dụ, Không giết, không bảo giết."

*131. "Chúng sanh cầu an lạc, Ai dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình, Đời sau không được lạc." 

*132. "Chúng sanh cầu an lạc, Không dùng trượng hại người,
Để tìm lạc cho mình, Đời sau được hưởng lạc."

*133. "Chớ nói lời ác độc, Nói ác, bị nói lại,
Khổ thay lời phẩn nộ, Đao trượng phản chạm mình." 

*134. "Nếu tự mình yên lặng, Như chiếc chuông bị bể.
Ngươi đã chứng Niết Bàn Ngươi không còn phẩn nộ."

*135. "Với gậy người chăn bò, Lùa bò ra bãi cỏ;
Cũng vậy, già và chết, Lùa người đến mạng chung." 

*136. "Người ngu làm điều ác, Không ý thức việc làm.
Do tự nghiệp, người ngu Bị nung nấu, như lửa."

*137. "Dùng trượng phạt không trượng, Làm ác người không ác.
Trong mười loại khổ đau, Chịu gấp một loại khổ." 

*138. "Hoặc khổ thọ khốc liệt, Thân thể bị thương vong,
Hoặc thọ bệnh kịch liệt, Hay loạn ý tán tâm."

*139. "Hoặc tai họa từ vua, Hay bị vu trọng tội;
Bà con phải ly tán, Tài sản bị nát tan." 

*140. "Hoặc phòng ốc nhà cửa Bị hỏa tai thiêu đốt.
Khi thân hoại mạng chung, Ác tuệ sanh địa ngục."

*141. "Không phải sống lõa thể Bện tóc, tro trét mình,
Tuyệt thực, lăn trên đất, Sống nhớp, siêng ngồi xổm,
Làm con người được sạch, Nếu không trừ nghi hoặc." 

*142 "Ai sống tự trang sức, Nhưng an tịnh, nhiếp phục,
Sống kiên trì, phạm hạnh, Không hại mọi sinh linh,
Vị ấy là phạm chí, Hay sa môn, khất sĩ."

*143. "Thật khó tìm ở đời, Người biết thẹn, tự chế,
Biết tránh né chỉ trích Như ngựa hiền tránh roi." 

*144. "Như ngựa hiền chạm roi, Hãy nhiệt tâm, hăng hái,
Với tín, giới, tinh tấn, Thiền định cùng trạch pháp.
Minh hạnh đủ, chánh niệm, Đoạn khổ này vô lượng."

*145. "Người trị thủy dẫn nước, Kẻ làm tên nắn tên,
Người thợ mộc uốn ván, Bậc tự điều, điều thân."

XI. Phẩm Già
<(nghe diễn ngâm)


*146. "Cười gì, hân hoan gì, Khi đời mãi bị thiêu?
Bị tối tăm bao trùm, Sao không tìm ngọn đèn?" 

*147. "Hãy xem bong bóng đẹp, Chỗ chất chứa vết thương,
Bệnh hoạn nhiều suy tư, Thật không gì trường cửu."

*148. "Sắc này bị suy già, Ổ tật bệnh, mỏng manh,
Nhóm bất tịnh, đỗ vỡ, Chết chấm dứt mạng sống." 

*149. "Như trái bầu mùa thu, Bị vất bỏ quăng đi,
Nhóm xương trắng bồ câu, Thấy chúng còn vui gì?"

*150. "Thành này làm bằng xương, Quét tô bằng thịt máu,
Ở đây già và chết, Mạn, lừa đảo chất chứa." 

*151. "Xe vua đẹp cũng già. Thân này rồi sẽ già,
Pháp bậc thiện, không già. Như vậy bậc chí thiện
Nói lên cho bậc thiện."

*152. "Người ít nghe kém học, Lớn già như trâu đực.
Thịt nó tuy lớn lên, Nhưng tuệ không tăng trưởng." 

*153. "Lang thang bao kiếp sống. Ta tìm nhưng chẳng gặp,
Người xây dựng nhà này, Khổ thay, phải tái sanh."

*154. "Ôi! Người làm nhà kia, Nay ta đã thấy ngươi!
Ngươi không làm nhà nữa. Đòn tay ngươi bị gẫy,
Kèo cột ngươi bị tan, Tâm ta đạt tịch diệt,
Tham ái thảy tiêu vong." 

*155. "Lúc trẻ, không phạm hạnh, Không tìm kiếm bạc tiền.
Như cò già bên ao, Ủ rũ, không tôm cá."

*156. "Lúc trẻ không phạm hạnh, Không tìm kiếm bạc tiền;
Như cây cung bị gẫy, Thở than những ngày qua." 

XII. Phẩm Tự Ngã 
<(nghe diễn ngâm)


157. "Nếu biết yêu tự ngã, Phải khéo bảo vệ mình,
Người trí trong ba canh, Phải luôn luôn tỉnh thức." 

*158. "Trước hết tự đặt mình, Vào những gì thích đáng.
Sau mới giáo hóa người, Người trí khỏi bị nhiễm."

*159. "Hãy tự làm cho mình, Như điều mình dạy người.
Khéo tự điều, điều người, Khó thay, tự điều phục!" 

*160. "Tự mình y chỉ mình, Nào có y chỉ khác.
Nhờ khéo điều phục mình, Được y chỉ khó được."

*161. "Điều ác tự mình làm, Tự mình sanh, mình tạo.
Nghiền nát kẻ ngu si, Như kim cương, ngọc báu." 

*162. "Phá giới quá trầm trọng, Như dây leo bám cây
Gieo hại cho tự thân, Như kẻ thù mong ước."

*163. "Dễ làm các điều ác, Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt, Thật tối thượng khó làm." 

*164. "Kẻ ngu si miệt thị, Giáo pháp bậc La Hán,
Bậc Thánh, bậc chánh mạng. Chính do ác kiến này,
Như quả loại cây lau Mang quả tự hoại diệt."

*165. "Tự mình, làm điều ác, Tự mình làm nhiễm ô,
Tự mình không làm ác, Tự mình làm thanh tịnh.
Tịnh, không tịnh tự mình, Không ai thanh tịnh ai!" 

*166. "Chớ theo pháp hạ liệt. Chớ sống mặc, buông lung;
Chớ tin theo tà kiến, Chớ tăng trưởng tục trần."

XIII. Phẩm Thế Gian 
<(ghe diễn ngâm)


*167. "Dầu lợi người bao nhiêu, Chớ quên phần tư lợi,
Nhờ thắng trí tư lợi. Hãy chuyên tâm lợi mình."
 
*168. "Nỗ lực, chớ phóng dật! Hãy sống theo chánh hạnh;
Người chánh hạnh hưởng lạc, Cả đời này, đời sau."

*169. "Hãy khéo sống chánh hạnh, Chớ sống theo tà hạnh!
Người chánh hạnh hưởng lạc, Cả đời này, đời sau." 

*170. "Hãy nhìn như bọt nước, Hãy nhìn như cảnh huyễn!
Quán nhìn đời như vậy, Thần chết không bắt gặp."

*171. "Hãy đến nhìn đời này, Như xe vua lộng lẫy,
Người ngu mới tham đắm, Kẻ trí nào đắm say." 

*172. "Ai sống trước buông lung, Sau sống không phóng dật,
Chói sáng rực đời này. Như trăng thoát mây che."

*173. "Ai dùng các hạnh lành, Làm xóa mờ nghiệp ác,
Chói sáng rực đời này, Như trăng thoát mây che." 

*174. "Đời này thật mù quáng, Ít kẻ thấy rõ ràng.
Như chim thoát khỏi lưới, Rất ít đi thiên giới."

*175. "Như chim thiên nga bay, Thần thông liệng giữa trời;
Chiến thắng ma, ma quân, Kẻ trí thoát đời này." 

*176. "Ai vi phạm một pháp, Ai nói lời vọng ngữ,
Ai bác bỏ đời sau, Không ác nào không làm."

*177. "Keo kiết không sanh thiên, Kẻ ngu ghét bố thí,
Người trí thích bố thí, Đời sau, được hưởng lạc." 

*178. "Hơn thống lãnh cõi đất, Hơn được sanh cõi trời,
Hơn chủ trì vũ trụ, Quả Dự Lưu tối thắng."

XIV. Phẩm Phật Đà 
<(nghe diễn ngâm)


*179. "Vị chiến thắng không bại, Vị bước đi trên đời,
Không dấu tích chiến thắng, Phật giới rộng mênh mông,
Ai dùng chân theo dõi Bậc không để dấu tích?" 

*180. "Ai giải tỏa lưới tham, Ái phược hết dắt dẫn,
Phật giới rộng mênh mông, Ai dùng chân theo dõi,
Bậc không để dấu tích?"

*181. "Người trí chuyên thiền định, Thích an tịnh viễn ly,
Chư thiên đều ái kính, Bậc chánh giác, chánh niệm." 
182. "Khó thay, được làm người, Khó thay, được sống còn,
Khó thay, nghe diệu pháp, Khó thay, Phật ra đời!"

*183. "Không làm mọi điều ác. Thành tựu các hạnh lành,
Tâm ý giữ trong sạch, Chính lời chư Phật dạy." 

*184. "Chư Phật thường giảng dạy; Nhẫn, khổ hạnh tối thượng,
Niết bàn, quả tối thượng; Xuất gia không phá người;
Sa môn không hại người."

*185. "Không phỉ báng, phá hoại, Hộ trì giới căn bản,
Ăn uống có tiết độ, Sàng tọa chỗ nhàn tịnh
Chuyên chú tăng thượng tâm, Chính lời chư Phật dạy." 

*186. "Dầu mưa bằng tiền vàng, Các dục khó thỏa mãn.
Dục đắng nhiều ngọt ít, Biết vậy là bậc trí."

*187. "Đệ tử bậc chánh giác, Không tìm cầu dục lạc,
Dầu là dục chư thiên, Chỉ ưa thích ái diệt." 

*188. "Loài người sợ hoảng hốt, Tìm nhiều chỗ quy y,
Hoặc rừng rậm, núi non, Hoặc vườn cây, đền tháp."

*189. "Quy y ấy không ổn, Không quy y tối thượng.
Quy y các chỗ ấy, Không thoát mọi khổ đau?" 

*190. "Ai quy y Đức Phật, Chánh pháp và chư tăng,
Ai dùng chánh tri kiến, Thấy được bốn Thánh đế."

*191. "Thấy khổ và khổ tập, Thấy sự khổ vượt qua,
Thấy đường Thánh tám ngành, Đưa đến khổ não tận." 

*192. "Thật quy y an ổn, Thật quy y tối thượng,
Có quy y như vậy, Mới thoát mọi khổ đau."

*193. "Khó gặp bậc thánh nhơn, Không phải đâu cũng có.
Chỗ nào bậc trí sanh, Gia đình tất an lạc." 

*194. "Vui thay, Phật ra đời! Vui thay, Pháp được giảng!
Vui thay, Tăng hòa hợp! Hòa hợp tu, vui thay!"

*195. "Cúng dường bậc đáng cúng, Chư Phật hoặc đệ tử,
Các bậc vượt hý luận, Đoạn diệt mọi sầu bi." 

*196. "Cúng dường bậc như vậy, Tịch tịnh, không sợ hãi,
Các công đức như vậy, Không ai ước lường được."

XV. Phẩm An Lạc 
<(ghe diễn ngâm)


*197. "Vui thay, chúng ta sống, Không hận, giữa hận thù!
Giữa những người thù hận, Ta sống, không hận thù!"

*198. "Vui thay, chúng ta sống, Không bệnh, giữa ốm đau!
Giữa những người bệnh hoạn, Ta sống, không ốm đau."

*199. "Vui thay, chúng ta sống, Không rộn giữa rộn ràng;
Giữa những người rộn ràng, Ta sống, không rộn ràng." 

*200. "Vui thay chúng ta sống, Không gì, gọi của ta.
Ta sẽ hưởng hỷ lạc, Như chư thiên Quang Âm."

*201. "Chiến thắng sinh thù oán, Thất bại chịu khổ đau,
Sống tịch tịnh an lạc. Bỏ sau mọi thắng bại." 

*202. "Lửa nào sánh lửa tham? Ác nào bằng sân hận?
Khổ nào sánh khổ uẩn, Lạc nào bằng tịnh lạc."

*203. "Đói ăn, bệnh tối thượng, Các hành, khổ tối thượng,
Hiểu như thực là vậy, Niết Bàn, lạc tối thượng." 

*204 "Không bệnh, lợi tối thượng, Biết đủ, tiền tối thượng,
Thành tín đối với nhau, Là bà con tối thượng.
Niết Bàn, lạc tối thượng."

*205. "Đã nếm vị độc cư, Được hưởng vị nhàn tịnh,
Không sợ hải, không ác, Nếm được vị pháp hỷ." 

*206. "Lành thay, thấy thánh nhân, Sống chung thường hưởng lạc.
Không thấy những người ngu, Thường thường được an lạc."

*207. "Sống chung với người ngu, Lâu dài bị lo buồn.
Khổ thay gần người ngu, Như thường sống kẻ thù.
Vui thay, gần người trí, Như chung sống bà con." 

*208. "Bậc hiền sĩ, trí tuệ Bậc nghe nhiều, trì giới,
Bậc tự chế, Thánh nhân; Hãy gần gũi, thân cận
Thiện nhân, trí giả ấy, Như trăng theo đường sao."

XVI. Phẩm Hỷ Ái 
<(nghe diễn ngâm)


209. "Tự chuyên, không đáng chuyên Không chuyên, việc đáng chuyên.
Bỏ đích, theo hỷ ái, Ganh tị bậc tự chuyên." 

*210. "Chớ gần gũi người yêu, Trọn đời xa kẻ ghét.
Yêu không gặp là khổ, Oán phải gặp cũng đau."

*211. "Do vậy chớ yêu ai, Ái biệt ly là ác;
Những ai không yêu ghét, Không thể có buộc ràng." 

*212. "Do ái sinh sầu ưu, Do ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi tham ái, Không sầu, đâu sợ hãi?"

*213. "Ái luyến sinh sầu ưu, Ái luyến sinh sợ hải.
Ai giải thoát ái luyến Không sầu, đâu sợ hải?" 

*214. "Hỷ ái sinh sầu ưu, Hỷ ái sinh sợ hãi.
Ai giải thoát hỷ ái, Không sầu, đâu sợ hãi?

*215. "Dục ái sinh sầu ưu, Dục ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi dục ái, Không sầu, đâu sợ hãi?" 

*216. "Tham ái sinh sầu ưu, Tham ái sinh sợ hãi.
Ai thoát khỏi tham ái, Không sầu, đâu sợ hãi."

*217. "Đủ giới đức, chánh kiến; Trú pháp, chứng chân lý,
Tự làm công việc mình, Được quần chúng ái kính." 

*218. "Ước vọng pháp ly ngôn Ý cảm xúc thượng quả
Tâm thoát ly ác dục, Xứng gọi bậc Thượng Lưu."

*219. "Khách lâu ngày ly hương, An toàn từ xa về,
Bà con cùng thân hữu, Hân hoan đón chào mừng." 

*220. "Cũng vậy các phước nghiệp, Đón chào người làm lành,
Đời này đến đời kia. Như thân nhân, đón chào."

XVII. Phẩm Phẫn Nộ 
<(nghe diễn ngâm)


*221. "Bỏ phẫn nộ, ly mạn, Vượt qua mọi kiết sử,
Không chấp trước danh sắc. Khổ không theo vô sản." 

*222. "Ai chận được phẫn nộ, Như dừng xe đang lăn,
Ta gọi người đánh xe, Kẻ khác, cầm cương hờ."

*223. "Lấy không giận thắng giận, Lấy thiện thắng không thiện,
Lấy thí thắng xan tham, Lấy chơn thắng hư ngụy." 

*224. "Nói thật, không phẫn nộ, Của ít, thí người xin,
Nhờ ba việc lành này, Người đến gần thiên giới."

*225. "Bậc hiền không hại ai, Thân thường được chế ngự,
Đạt được cảnh bất tử, Đến đây, không ưu sầu." 

*226. "Những người thường giác tỉnh, Ngày đêm siêng tu học,
Chuyên tâm hướng Niết Bàn, Mọi lậu hoặc được tiêu."

*227. "A-tu-la, nên biết, Xưa vậy, nay cũng vậy,
Ngồi im, bị người chê, Nói nhiều bị người chê.
Nói vừa phải, bị chê. Làm người không bị chê,
Thật khó tìm ở đời." 

*228. "Xưa, vị lai, và nay, Đâu có sự kiện này,
Người hoàn toàn bị chê, Người trọn vẹn được khen."

*229. "Sáng sáng, thẩm xét kỹ. Bậc có trí tán thán.
Bậc trí không tỳ vết, Đầy đủ giới định tuệ."
 
*230. "Hạnh sáng như vàng ròng, Ai dám chê vị ấy?
Chư thiên phải khen thưởng, Phạm Thiên cũng tán dương ".

*231. "Giữ thân đừng phẫn nộ, Phòng thân khéo bảo vệ,
Từ bỏ thân làm ác, Với thân làm hạnh lành." 

*232 "Giữ lời đừng phẫn nộ, Phòng lời, khéo bảo vệ,
Từ bỏ lời thô ác, Với lời, nói điều lành."

*233. "Giữ ý đừng phẫn nộ, Phòng ý, khéo bảo vệ,
Từ bỏ ý nghĩ ác, Với ý, nghĩ hạnh lành.’ 

*234. "Bậc trí bảo vệ thân, Bảo vệ luôn lời nói
Bảo vệ cả tâm tư, Ba nghiệp khéo bảo vệ."

XVIII. Phẩm Cấu Uế 
<(Nghe diễn ngâm)


*235. "Ngươi nay giống lá héo, Diêm sứ đang chờ ngươi,
Ngươi đứng trước cửa chết, Đường trường thiếu tư lương." 

*236. "Hãy tự làm hòn đảo, Tinh cần gấp, sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh, Đến Thánh địa chư Thiên."

*237. "Đời ngươi nay sắp tàn, Tiến gần đến Diêm Vương.
Giữa đường không nơi nghỉ, Đường trường thiếu tư lương." 

*238. "Hãy tự làm hòn đảo, Tinh cần gấp sáng suốt.
Trừ cấu uế, thanh tịnh, Chẳng trở lại sanh già."

*239. "Bậc trí theo tuần tự. Từng sát na trừ dần.
Như thợ vàng lọc bụi Trừ cấu uế nơi mình." 

*240. "Như sét từ sắt sanh, Sắt sanh lại ăn sắt,
Cũng vậy, quá lợi dưỡng Tự nghiệp dẫn cõi ác."

*241. "Không tụng làm nhớp kinh, Không đứng dậy, bẩn nhà,
Biếng nhác làm nhơ sắc, Phóng dật uế người canh" 

*242. "Tà hạnh nhơ đàn bà, Xan tham nhớp kẻ thí,
Ác pháp là vết nhơ, Đời này và đời sau."

*243. "Trong hàng cấu uế ấy, Vô minh, nhơ tối thượng,
Đoạn nhơ ấy, tỷ kheo, Thành bậc không uế nhiễm." 

244. "Dễ thay, sống không hổ Sống lỗ mãng như quạ,
Sống công kích huênh hoang, Sống liều lĩnh, nhiễm ô."

*245. "Khó thay, sống xấu hổ, Thường thường cầu thanh tịnh.
Sống vô tư, khiêm tốn, Trong sạch và sáng suốt." 

*246. "Ai ở đời sát sinh, Nói láo không chân thật,
Ở đời lấy không cho, Qua lại với vợ người."

*247. "Uống rượu men, rượu nấu, Người sống đam mê vậy,
Chính ngay tại đời này, Tự đào bới gốc mình." 

*248. "Vậy người, hãy nên biết, Không chế ngự là ác.
Chớ để tham phi pháp, Làm người đau khổ dài."

*249. "Do tín tâm, hỷ tâm. Loài người mới bố thí.
Ở đây ai bất mãn Người khác được ăn uống,
Người ấy ngày hoặc đêm, Không đạt được tâm định?" 

*250. "Ai cắt được, phá được, Tận gốc nhổ tâm ấy.
Người ấy ngày hoặc đêm, Đạt được tâm thiền định."

*251. "Lửa nào bằng lửa tham! Chấp nào bằng sân hận!
Lưới nào bằng lưới si! Sông nào bằng sông ái! " 

*252. "Dễ thay thấy lỗi người, Lỗi mình thấy mới khó.
Lỗi người ta phanh tìm, Như sàng trấu trong gạo,
Còn lỗi mình, che đậy, Như kẻ gian dấu bài."

*253. "Ai thấy lỗi của người, Thường sanh lòng chỉ trích,
Người ấy lậu hoặc tăng, Rất xa lậu hoặc diệt." 
 
*254. "Hư không, không dấu chân, Ngoài đây, không sa môn,
Chúng sanh thích hý luận, Như lai, hý luận trừ."

*255. "Hư không, không dấu chân, Ngoài đây, không sa môn.
Các hành không thường trú, Chư Phật không giao động." 

XIX. Phẩm Pháp Trụ
<(nghe diễn ngâm)


*256. "Ngươi đâu phải pháp trụ, Xử sự quá chuyên chế,
Bậc trí cần phân biệt Cả hai chánh và tà!" 

*257. "Không chuyên chế, đúng pháp, Công bằng, dắt dẫn người,
Bậc trí sống đúng pháp, Thật xứng danh pháp trụ."

*258. "Không phải vì nói nhiều, Mới xứng danh bậc trí.
An ổn, không oán sợ. Thật đáng gọi bậc trí." 

*259. Không phải vì nói nhiều, Mới xứng danh trì pháp,
Những ai tuy nghe ít, Nhưng thân hành đúng pháp,
Không phóng túng chánh pháp, Mới xứng danh trì pháp."

*260. Không phải là trưởng lão, Dầu cho có bạc đầu.
Người chỉ tuổi tác cao, Được gọi là: "Lão ngu." 

*261. "Ai chân thật, đúng pháp, Không hại, biết chế phục,
Bậc trí không cấu uế, Mới xứng danh Trưởng Lão."

*262. "Không phải nói lưu loát, Không phải sắc mặt đẹp,
Thành được người lương thiện, Nếu ganh, tham, dối trá." 

*263. "Ai cắt được, phá được Tận gốc nhổ tâm ấy
Người trí ấy diệt sân, Được gọi người hiền thiện."

*264. "Đầu trọc, không sa môn Nếu phóng túng, nói láo.
Ai còn đầy dục tham, Sao được gọi sa môn?" 

*265. "Ai lắng dịu hoàn toàn, Các điều ác lớn nhỏ,
Vì lắng dịu ác pháp, Được gọi là Sa môn."

*266. " Chỉ khất thực nhờ người, Đâu phải là tỷ kheo!
Phải theo pháp toàn diện, Khất sĩ không, không đủ." 

*267. " Ai vượt qua thiện ác, Chuyên sống đời Phạm Hạnh,
Sống thẩm sát ở đời, Mới xứng danh tỷ kheo."

*268. "Im lặng nhưng ngu si, Đâu được gọi ẩn sĩ?
Như người cầm cán cân, Bậc trí chọn điều lành." 

*269. " Từ bỏ các ác pháp, Mới thật là ẩn sĩ.
Ai thật hiểu hai đời Mới được gọi ẩn sĩ."

*270. " Còn sát hại sinh linh, Đâu được gọi Hiền thánh.
Không hại mọi hữu tình, Mới được gọi Hiền Thánh." 

*271. "Chẳng phải chỉ giới cấm, Cũng không phải học nhiều,
Chẳng phải chứng thiền định, Sống thanh vắng một mình."

*272. "Ta hưởng an ổn lạc, Phàm phu chưa hưởng được.
Tỷ kheo, chớ tự tin Khi lậu hoặc chưa diệt." 

XX. Phẩm Đạo
<(nghe diễn ngâm)


*273. "Tám chánh, đường thù thắng, Bốn câu, lý thù thắng.
Ly tham, pháp thù thắng, Giữa các loài hai chân,
Pháp nhãn, người thù thắng."
 
*274. "Đường này, không đường khác Đưa đến kiến thanh tịnh.
Nếu ngươi theo đường này, Ma quân sẽ mê loạn."

*275. "Nếu người theo đường này, Đau khổ được đoạn tận.
Ta dạy người con đường. Với trí, gai chướng diệt." 

*276. "Người hãy nhiệt tình làm, Như Lai chỉ thuyết dạy.
Người hành trì thiền định Thoát trói buộc Ác ma."

*277. "Tất cả hành vô thường." Với Tuệ, quán thấy vậy
Đau khổ được nhàm chán; Chính con đường thanh tịnh." 

*278. "Tất cả hành khổ đau, Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán; Chính con đường thanh tịnh."

*279. "Tất cả pháp vô ngã, Với Tuệ quán thấy vậy,
Đau khổ được nhàm chán Chính con đường thanh tịnh." 

*280. "Khi cần, không nỗ lực, Tuy trẻ mạnh, nhưng lười
Chí nhu nhược, biếng nhác. Với trí tuệ thụ động,
Sao tìm được chánh đạo?"

*281. "Lời nói được thận trọng, Tâm tư khéo hộ phòng,
Thân chớ làm điều ác, Hãy giữ ba nghiệp tịnh,
Chứng đạo thánh nhân dạy." 
 
*282. "Tu thiền, trí tuệ sanh, Bỏ Thiền, trí tuệ diệt.
Biết con đường hai ngả Đưa đến hữu, phi hữu,
Hãy tự mình nỗ lực, Khiến trí tuệ tăng trưởng."

*283. "Đốn rừng không đốn cây, Từ rừng, sinh sợ hãi;
Đốn rừng và ái dục, Tỷ kheo, hãy tịch tịnh." 

*284. "Khi nào chưa cắt tiệt, Ái dục giữa gái trai,
Tâm ý vẫn buộc ràng, Như bò con vú mẹ."

*285. "Tự cắt giây ái dục, Như tay bẻ sen thu,
Hãy tu đạo tịch tịnh, Niết-Bàn, Thiện Thệ dạy." 

*286. "Mùa mưa ta ở đây. Đông, hạ cũng ở đây,
Người ngu tâm tưởng vậy, Không tự giác hiểm nguy."

*287. "Người tâm ý đắm say, Con cái và súc vật,
Tử thần bắt người ấy, Như lụt trôi làng ngủ. " 

*288. "Một khi tử thần đến, Không có con che chở,
Không cha, không bà con, Không thân thích che chở."

*289. "Biết rõ ý nghĩa này, Bậc trí lo trì giới,
Mau lẹ làm thanh tịnh, Con đường đến Niết-Bàn."

XXI. Phẩm Tạp Lục
<(nghe diễn ngâm)


*290. "Nhờ từ bỏ lạc nhỏ, Thấy được lạc lớn hơn,
Bậc trí bỏ lạc nhỏ, Thấy được lạc lớn hơn." 

*291. "Gieo khổ đau cho người, Mong cầu lạc cho mình,
Bị hận thù buộc ràng Không sao thoát hận thù."

*292. "Việc đáng làm, không làm, Không đáng làm, lại làm,
Người ngạo mạn, phóng dật, Lậu hoặc ắt tăng trưởng." 

*293. "Người siêng năng cần mẫn, Thường thường quán thân niệm,
Không làm việc không đáng, Gắng làm việc đáng làm,
Người tư niệm giác tỉnh, Lậu hoặc được tiêu trừ."

*294. "Sau khi giết mẹ cha, Giết hai Vua Sát lỵ,
Giết vương quốc, quần thần Vô ưu, phạm chí sống." 

*295. "Sau khi giết mẹ cha, Hai vua Bà-la-môn,
Giết hổ tướng thứ năm Vô ưu, phạm chí sống."

*296. "Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác
Vô luận ngày hay đêm, Tưởng Phật Đà thường niệm." 

*297. "Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm, Tưởng Chánh Pháp thường niệm"

*298. "Đệ tử Gotama,Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm, Tưởng Tăng Già thường niệm." 

*299. "Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm, Tưởng sắc thân thường niệm."

*300. "Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm, Ý vui niềm bất hại." 

*301. "Đệ tử Gotama, Luôn luôn tự tỉnh giác,
Vô luận ngày hay đêm, Ý vui tu thiền quán."

*302. "Vui hạnh xuất gia khó,
Tại gia sinh hoạt khó, Sống bạn không đồng, khổ,
Trôi lăn luân hồi, khổ, Vậy chớ sống luân hồi,
Chớ chạy theo đau khổ." 

*303. "Tín tâm, sống giới hạnh. Đủ danh xưng tài sản,
Chỗ nào người ấy đến, Chỗ ấy được cung kính."

*304. "Người lành dầu ở xa Sáng tỏ như núi tuyết,
Người ác dầu ở gần Như tên bắn đêm đen." 

*305. "Ai ngồi nằm một mình. Độc hành không buồn chán,
Tự điều phục một mình. Sống thoải mái rừng sâu."

XXII. Phẩm Địa Ngục
<(nghe diễn ngâm)



*306. "Nói láo đọa địa ngục Có làm nói không làm,
Cả hai chết đồng đẳng, Làm người, nghiệp hạ liệt." 

*307. "Nhiều người khoác cà sa, Ác hạnh không nhiếp phục.
Người ác, do ác hạnh, Phải sanh cõi Địa ngục."

*308. "Tốt hơn nuốt hòn sắt. Cháy đỏ như lửa hừng,
Hơn ác giới, buông lung. Ăn đồ ăn quốc độ." 

*309. "Bốn nạn chờ đợi người, Phóng dật theo vợ người;
Mắc họa, ngủ không yên, Bị chê là thứ ba,
Đọa địa ngục, thứ bốn."

*310 "Mắc họa, đọa ác thú, Bị hoảng sợ, ít vui.
Quốc vương phạt trọng hình. Vậy chớ theo vợ người." 

*311. "Như cỏ sa vụng nắm, Tất bị họa đứt tay
Hạnh Sa môn tà vạy, Tất bị đọa địa ngục."

*312. "Sống phóng đãng buông lung, Theo giới cấm ô nhiễm,
Sống Phạm hạnh đáng nghi. Sao chứng được quả lớn? 

*313. "Cần phải làm, nên làm. Làm cùng tận khả năng
Xuất gia sống phóng đãng, Chỉ tăng loạn bụi đời."

*314. "Ác hạnh không nên làm, Làm xong, chịu khổ lụy,
Thiện hạnh, ắt nên làm, Làm xong, không ăn năn." 

*315. "Như thành ở biên thùy, Trong ngoài đều phòng hộ
Cũng vậy, phòng hộ mình, Sát na chớ buông lung.
Giây phút qua, sầu muộn. Khi rơi vào địa ngục."

*316. "Không đáng hổ, lại hổ. Việc đáng hổ, lại không.
Do chấp nhận tà kiến, Chúng sanh đi ác thú." 

*317. "Không đáng sợ, lại sợ, Đáng sợ, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến. Chúng sanh đi ác thú."

*318. "Không lỗi, lại thấy lỗi, Có lỗi, lại thấy không,
Do chấp nhận tà kiến, Chúng sanh đi ác thú." 

*319. "Có lỗi, biết có lỗi, Không lỗi, biết là không,
Do chấp nhận chánh kiến, Chúng sanh đi cõi lành."

XXIII. Phẩm Voi
<(nghe diễn ngâm)


*320. "Ta như voi giữa trận, Hứng chịu cung tên rơi,
Chịu đựng mọi phỉ báng. Ác giới rất nhiều người." 

*321. "Voi luyện, đưa dự hội, Ngựa luyện, được vua cưỡi,
Người luyện, bậc tối thượng. Chịu đựng mọi phỉ báng."

*322. "Tốt thay, con la thuần, Thuần chủng loài ngựa Sin.
Đại tượng, voi có ngà. Tự điều mới tối thượng." 

*323 "Chẳng phải loài cưỡi ấy, Đưa người đến Niết-Bàn,
Chỉ có người tự điều, Đến đích, nhờ điều phục."

*324. "Con voi tên Tài Hộ, Phát dục, khó điều phục,
Trói buộc, không ăn uống. Voi nhớ đến rừng voi." 

*325. "Người ưa ngủ, ăn lớn. Nằm lăn lóc qua lại,
Chẳng khác heo no bụng, Kẻ ngu nhập thai mãi."

*326. "Trước tâm này buông lung, Chạy theo ái, dục, lạc.
Nay Ta chánh chế ngự, Như cầm móc điều voi." 

*327. "Hãy vui không phóng dật, Khéo phòng hộ tâm ý.
Kéo mình khỏi ác đạo, Như voi bị sa lầy."

*328. "Nếu được bạn hiền trí Đáng sống chung, hạnh lành,
Nhiếp phục mọi hiểm nguy, Hoan hỷ sống chánh niệm." 

*329. "Không gặp bạn hiền trí. Đáng sống chung, hạnh lành
Như vua bỏ nước bại, Hãy sống riêng cô độc,
Như voi sống rừng voi."

*330. "Tốt Hơn sống một mình, Không kết bạn người ngu.
Độc thân, không ác hạnh Sống vô tư vô lự,
Như voi sống rừng voi." 

*331. "Vui thay, bạn lúc cần! Vui thay, sống biết đủ,
Vui thay, chết có đức! Vui thay, mọi khổ đoạn."

*332. "Vui thay, hiếu kính mẹ, Vui thay, hiếu kính cha,
Vui thay, kính Sa môn, Vui thay, kính Hiền Thánh." 

*333. "Vui thay, già có giới! Vui thay, tín an trú!
Vui thay, được trí tuệ, Vui thay, ác không làm."

XXIV. Phẩm Tham Ái
<(nghe diễn ngâm)


*334. "Người sống đời phóng dật, Ái tăng như giây leo.
Nhảy đời này đời khác, Như vượn tham quả rừng." 

*335. "Ai sống trong đời này, Bị ái dục buộc ràng
Sầu khổ sẽ tăng trưởng, Như cỏ Bi gặp mưa."

*336. "Ai sống trong đời này, Ái dục được hàng phục
Sầu rơi khỏi người ấy,Như giọt nước lá sen." 

*337. "Đây điều lành Ta dạy, Các người tụ họp đây.
Hãy nhổ tận gốc ái, Như nhổ gốc cỏ Bi.
Chớ để ma phá hoại, Như giòng nước cỏ lau."

*338. "Như cây bị chặt đốn, Gốc chưa hại vẫn bền
Ái tùy miên chưa nhổ, Khổ này vẫn sanh hoài." 

*339. "Ba mươi sáu dòng Ái, Trôi người đốn khả ái.
Các tư tưởng tham ái. Cuốn trôi người tà kiến."

*340. "Dòng ái dục chảy khắp, Như giây leo mọc tràn,
Thấy giây leo vừa sanh, Với tuệ, hãy đoạn gốc." 

*341. "Người đời nhớ ái dục, Ưa thích các hỷ lạc.
Tuy mong cầu an lạc, Họ vẫn phải sanh già."

*342 "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới. Họ sanh ái trói buộc,
Chịu khổ đau dài dài." 

*343. "Người bị ái buộc ràng, Vùng vẫy và hoảng sợ,
Như thỏ bị sa lưới. Do vậy vị tỷ kheo,
Mong cầu mình ly tham Nên nhiếp phục ái dục."

*344. "Lìa rừng lại hướng rừng Thoát rừng chạy theo rừng.
Nên xem người như vậy, Được thoát khỏi buộc ràng.
Lại chạy theo ràng buộc." 

*345. "Sắt, cây, gai trói buộc Người trí xem chưa bền.
Tham châu báu, trang sức. Tham vọng vợ và con."

*346. "Người có trí nói rằng: "Trói buộc này thật bền.
Rì kéo xuống, lún xuống, Nhưng thật sự khó thoát.
Người trí cắt trừ nó, Bỏ dục lạc, không màng." 

*347. "Người đắm say ái dục, Tự lao mình xuống dòng
Như nhện sa lưới dệt. Người trí cắt trừ nó,
Bỏ mọi khổ, không màng."

*348. "Bỏ quá, hiện, vị lai, Đến bờ kia cuộc đời,
Ý giải thoát tất cả, Chớ vướng lại sanh già." 

*349. "Người tà ý nhiếp phục, Tham sắc bén nhìn tịnh,
Người ấy ái tăng trưởng, Làm giây trói mình chặt."

*350. "Ai vui, an tịnh ý, Quán bất tịnh, thường niệm,
Người ấy sẽ diệt ái, Cắt đứt Ma trói buộc." 

*351. "Ai tới đích, không sợ, Ly ái, không nhiễm ô
Nhổ mũi tên sanh tử, Thân này thân cuối cùng."

*352. "Ái lìa, không chấp thủ. Cú pháp khéo biện tài
Thấu suốt từ vô ngại, Hiểu thứ lớp trước sau.
Thân này thân cuối cùng Vị như vậy được gọi,
Bậc Đại trí, đại nhân." 

*353. "Ta hàng phục tất cả, Ta rõ biết tất cả,
Không bị nhiễm pháp nào. Ta từ bỏ tất cả
Ái diệt, tự giải thoát. Đã tự mình thắng trí,
Ta gọi ai thầy ta?"

*354. "Pháp thí, thắng mọi thí! Pháp vị, thắng mọi vị!
Pháp hỷ, thắng mọi hỷ! Ái diệt, dứt mọi khổ!" 

*355. "Tài sản hại người ngu. Không người tìm bờ kia
Kẻ ngu vì tham giàu, Hại mình và hại người."

*356. "Cỏ làm hại ruộng vườn, Tham làm hại người đời.
Bố thí người ly tham, Do vậy được quả lớn." 

*357. "Cỏ làm hại ruộng vườn, Sân làm hại người đời.
Bố thí người ly sân, Do vậy được quả lớn."

*358. "Cỏ làm hại ruộng vườn, Si làm hại người đời,
Bố thí người ly si, Do vậy được quả lớn." 

*359. "Cỏ làm hại ruộng vườn, Dục làm hại người đời.
Bố thí người ly dục, Do vậy được quả lớn."

XXV. Phẩm Tỷ Kheo
<(nghe diễn ngâm)


*360. "Lành thay, phòng hộ mắt! Lành thay, phòng hộ tai.
Lành thay, phòng hộ mũi, Lành thay, phòng hộ lưỡi." 

*361. "Lành thay,phòng hộ thân! Lành thay, phòng hộ lời,
Lành thay, phòng hộ ý. Lành thay, phòng tất cả.
Tỷ kheo phòng tất cả. Thoát được mọi khổ đau."

*362. "Người chế ngự tay chân, Chế ngự lời và đầu,
Vui thích nội thiền định. Độc thân, biết vừa đủ,
Thật xứng gọi tỷ kheo." 

*363. "Tỷ kheo chế ngự miệng, Vừa lời, không cống cao,
Khi trình bày pháp nghĩa, Lời lẽ dịu ngọt ngào."

*364. "Vị tỷ kheo thích pháp, Mến pháp, suy tư Pháp.
Tâm tư niệm chánh Pháp, Không rời bỏ chánh Pháp." 

*365. "Không khinh điều mình được, Không ganh người khác được
Tỷ kheo ganh tị người, Không sao chứng Thiền Định."

*366. "Tỷ kheo dầu được ít, Không khinh điều mình được,
Sống thanh tịnh không nhác, Chư thiên khen vị này." 

*367. "Hoàn toàn, đối danh sắc, Không chấp Ta, của Ta.
Không chấp, không sầu não. Thật xứng danh Tỷ kheo."

*368. "Tỷ kheo trú từ bi, Tín thành giáo Pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tỉnh. Các hạnh an tịnh lạc." 

*369. "Tỷ kheo, tát thuyền này, Thuyền không, nhẹ đi mau.
Trừ tham, diệt sân hận, Tất chứng đạt Niết-Bàn."

*370. "Đoạn năm, từ bỏ năm Tụ tập năm tối thượng
Tỷ kheo vượt năm ái. Xứng danh "Vượt bộc lưu" 

*371. "Tỷ kheo, hãy tu thiền, Chớ buông lung phóng dật,
Tâm chớ đắm say dục, Phóng dật, nuốt sắt nóng
Bị đốt, chớ than khổ!"

*372. "Không trí tuệ, không thiền, Không thiền, không trí tuệ.
Người có thiền có tuệ, Nhất định gần Niết-Bàn." 

*373. "Bước vào ngôi nhà trống, Tỷ kheo tâm an tịnh,
Thọ hưởng vui siêu nhân Tịnh quán theo chánh pháp.

*374. "Người luôn luôn chánh niệm, Sự sanh diệt các uẩn,
Được hoan hỷ, hân hoan, Chỉ bậc bất tử biết." 

*375. "Đây Tỷ kheo có trí, Tụ tập pháp căn bản
Hộ căn, biết vừa đủ, Giữ gìn căn bản giới,
Thường gần gũi bạn lành, Sống thanh tịnh tinh cần."

*376. "Giao thiệp khéo thân thiện, Cử chỉ mực đoan trang.
Do vậy hưởng vui nhiều, Sẽ dứt mọi khổ đau." 

*377. "Như hoa Vassikā, Quăng bỏ cánh úa tàn,
Cũng vậy vị Tỷ kheo, Hãy giải thoát tham sân."

*378. "Thân tịnh, lời an tịnh, An tịnh, khéo thiền tịnh.
Tỷ kheo bỏ thế vật, Xứng danh "bậc tịch tịnh ". 

*379. "Tự mình chỉ trích mình, Tự mình dò xét mình,
Tỷ kheo tự phòng hộ Chánh niệm, trú an lạc."

*380. "Tự mình y chỉ mình, Tự mình đi đến mình,
Vậy hãy tự điều phục, Như khách buôn ngựa hiền." 

*381. "Tỷ kheo nhiều hân hoan, Tịnh tín giáo pháp Phật,
Chứng cảnh giới tịch tịnh, Các hạnh an tịnh lạc."

*382. "Tỷ kheo tuy tuổi nhỏ Siêng tu giáo pháp Phật,
Soi sáng thế gian này, Như trăng thoát khỏi mây." 

XXVI. Phẩm Bà-La-Môn
<(nghe diễn ngâm)


*383. "Hỡi này Bà là môn, Hãy tinh tấn đoạn dòng,
Từ bỏ các dục lạc, Biết được hành đoạn diệt,
Người là bậc vô vi." 

*384. "Nhờ thường trú hai pháp, Đến được bờ bên kia.
Bà-la-môn có trí, Mọi kiết sử dứt sạch."

*385. "Không bờ này, bờ kia. Cả hai bờ không có,
Lìa khổ, không trói buộc, Ta gọi Bà-la-môn." 

*386. "Tu thiền, trú ly trần, Phận sự xong, vô lậu,
Đạt được đích tối thượng, Ta gọi Bà-la-môn."

*387. "Mặt trời sáng ban ngày, Mặt trăng sáng ban đêm.
Khí giới sáng Sát lỵ, Thiền định sáng Phạm chí.
Còn hào quang đức Phật, Chói sáng cả ngày đêm." 


*388. "Dứt ác gọi Phạm chí, Tịnh hạnh gọi Sa môn,
Tự mình xuất cấu uế, Nên gọi bậc xuất gia."


*389. "Chớ có đập Phạm chí! Phạm chí chớ đập lại!
Xấu thay đập Phạm chí, Đập trả lại xấu hơn!" 

*390. "Đối vị Bà-la-môn, Đây không lợi ích nhỏ.
Khi ý không ái luyến, Tâm hại được chận đứng,
Chỉ khi ấy khổ diệt,"

*391. "Với người thân miệng ý, Không làm các ác hạnh
Ba nghiệp được phòng hộ, Ta gọi Bà-la-môn." 

*392. "Từ ai, biết chánh pháp, Bậc Chánh Giác thuyết giảng,
Hãy kính lễ vị ấy, Như phạm chí chờ lửa."

*393. "Được gọi Bà-la-môn, Không vì đầu bện tóc,
Không chủng tộc, thọ sanh, Ai thật chân, chánh, tịnh,
Mới gọi Bà-la-môn." 

*394. "Kẻ ngu, có ích gì, Bện tóc với da dê,
Nội tâm toàn phiền não, Ngoài mặt đánh bóng suông."

*395. "Người mặc áo đống rác, Gầy ốm, lộ mạch gân,
Độc thân thiền trong rừng. Ta gọi Bà-la-môn." 

*396 "Ta không gọi Phạm Chí, Vì chỗ sanh, mẹ sanh.
Chỉ được gọi tên suông,Nếu tâm còn phiền não.
Không phiền não, chấp trước, Ta gọi Bà-la-môn."

*397. "Đoạn hết các kiết sử, Không còn gì lo sợ
Không đắm trước buộc ràng,Ta gọi Bà-la-môn 

*398. "Bỏ đai da, bỏ cương, Bỏ dây, đồ sở thuộc,
Bỏ then chốt, sáng suốt, Ta gọi Bà-la-môn."

*399. "Không ác ý, nhẫn chịu, Phỉ báng, đánh, phạt hình,
Lấy nhẫn làm quân lực, Ta gọi Bà-la-môn." 

*400. "Không hận, hết bổn phận, Trì giới, không tham ái,
Nhiếp phục, thân cuối cùng, Ta gọi Bà-la-môn."

*401. "Như nước trên lá sen, Như hột cải đầu kim,
Người không nhiễm ái dục, Ta gọi Bà-la-môn." 

*402. "Ai tự trên đời này, Giác khổ, diệt trừ khổ,
Bỏ gánh nặng, giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn."

*403. "Người trí tuệ sâu xa, Khéo biết đạo, phi đạo
Chứng đạt đích vô thượng, Ta gọi Bà-la-môn." 

*404. "Không liên hệ cả hai, Xuất gia và thế tục,
Sống độc thân, ít dục, Ta gọi Bà-la-môn."

*405. "Bỏ trượng, đối chúng sanh, Yếu kém hay kiên cường,
Không giết, không bảo giết, Ta gọi Bà-la-môn." 

*406. "Thân thiện giữa thù địch, Ôn hòa giữa hung hăng.
Không nhiễm, giữa nhiễm trước, Ta gọi Bà-la-môn."

*407. "Người bỏ rơi tham sân, Không mạn không ganh tị,
Như hột cải đầu kim, Ta gọi Bà-la-môn." 

*408. "Nói lên lời ôn hòa, Lợi ích và chân thật,
Không mất lòng một ai, Ta gọi Bà-la-môn."

*409. "Ở đời, vật dài, ngắn, Nhỏ, lớn, đẹp hay xấu
Phàm không cho không lấy, Ta gọi Bà-la-môn." 

*410. "Người không có hy cầu, Đời này và đời sau,
Không hy cầu, giải thoát, Ta gọi Bà-la-môn."

*411. "Người không còn tham ái, Có trí, không nghi hoặc,
Thể nhập vào bất tử, Ta gọi Bà-la-môn." 

*412. "Người sống ở đời này, Không nhiễm cả thiện ác,
Không sầu, sạch không bụi, Ta gọi Bà-la-môn."

*413 "Như trăng, sạch không uế, Sáng trong và tịnh lặng,
Hữu ái, được đoạn tận, Ta gọi Bà là môn." 

*414. "Vượt đường nguy hiểm này, Nhiếp phục luân hồi, si,
Đến bờ kia thiền định, Không dục ái, không nghi,
Không chấp trước, tịch tịnh, Ta gọi Bà-la-môn."

*415. "Ai ở đời, đoạn dục, Bỏ nhà, sống xuất gia,
Dục hữu được đoạn tận, Ta gọi Bà-la-môn." 

*416. "Ai ở đời đoạn ái, Bỏ nhà, sống xuất gia,
Ái hữu được đoạn tận, Ta gọi Bà-la-môn."

*417. "Bỏ trói buộc loài người, Vượt trói buộc cõi trời.
Giải thoát mọi buộc ràng, Ta gọi Bà-la-môn." 

*418. "Bỏ điều ưa, điều ghét, Mát lạnh, diệt sanh y
Bậc anh hùng chiến thắng, Nhiếp phục mọi thế giới,
Ta gọi Bà-la-môn."

*419. "Ai hiểu rõ hoàn toàn,Sanh tử các chúng sanh,
Không nhiễm, khéo vượt qua, Sáng suốt chân giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn." 

*420. "Với ai, loài trời, người,Cùng với Càn thát bà,
Không biết chỗ thọ sanh, Lậu tận bậc La hán.
Ta gọi Bà-la-môn."

*421 "Ai quá, hiện, vị lai, Không một sở hữu gì,
Không sở hữu không nắm, Ta gọi Bà-la-môn." 

*422. "Bậc trâu chúa, thù thắng, Bậc anh hùng, đại sĩ,
Bậc chiến thắng, không nhiễm, Bậc tẩy sạch, giác ngộ,
Ta gọi Bà-la-môn."

*423. "Ai biết được đời trước, Thấy thiên giới, đọa xứ,
Đạt được sanh diệt tận,Thắng trí, tự viên thành
Bậc mâu ni đạo sĩ. Viên mãn mọi thành tựu
Ta gọi Bà-la-môn."

****Hết****


***Vì không có số điện thoại hay địa chỉ để liên lạc xin phép, và muốn phổ biến PHẬT PHÁP đến với mọi người.
Vô Môn Thiền Tự xin phép được đăng lại một số bài viết hoặc Pháp âm của Quý Chư Tăng - Phật Tử - Thân hữu.
Trân trọng




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26754)
Là những hành giả thiền Quán, quý vị cần phải hiểu rõ ràng và chính xác sự khác biệt giữa Khái niệm và Thực tại, vì chỉ một trong hai điều này là đối tượng của thiền Minh sát (Vipassana).
(Xem: 29912)
Trung tâm cuả triết lý cuả Luận là Abhidhamma Pitaka,(Tạng Vi Diệu Pháp) một trong các bộ phận thuộc kho tàng kinh điển được Phật giáo Therevada công nhận là chính truyền cuả Phật Pháp. Kho tàng kinh điển này được soạn thảo bởi ba Hội đồng Phật giáo lớn được tổ chúc tại Ấn độ trong những thế kỷ đầu sau khi Phật viên tịch.
(Xem: 92142)
Qua kinh nghiệm cá nhân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền sinh khác, tôi nghĩ rằng chúng ta cần có một chương trình hành thiền tại nhà, sắp đặt rõ ràng tuần tự từng bước. Trước tiên, cần phải có một chỗ thích hợp cho việc thực tập hằng ngày, để khỏi bị làm phiền trong lúc tập. Nơi hành thiền cần phải yên tĩnh và thoáng mát. Nếu có được một phòng nhỏ dành riêng cho việc hành thiền thì thật là tốt
(Xem: 20935)
-Định của thiền định là tâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất. Đề mục của thiền định là tục đế (chế định), không có sanh diệt. Thiền định sử dụng đại định, kiên cố định và an chỉ định. -Định của thiền quán là tâm sở nhất hành, thực hành thiền Vipassana, hành giả có khả năng định trên nhiều đối tượng khác nhau. Đề mục của thiền Vipassana là chơn đế, có sanh diệt. Thiền quán sử dụng cận định và sát na định
(Xem: 28207)
"Tạng" hay "Tàng" là giỏ chứa, chổ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa tại các chùa lớn thường có một thư viện gọi là "Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ kinh quí. Tam Tạng theo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The Three Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng).
(Xem: 27705)
Để thảo luận vấn đề thường được nhiều người hỏi: sự khác nhau giữa đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy là gì? Để hiểu được điều này chính xác, chúng ta hãy ôn lại lịch sử của đạo Phật và tìm nguồn gốc của đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy.
(Xem: 20031)
Đức Phật đã dạy trong tất cả các sinh hoạt của chúng ta – đi, đứng, ngồi, nằm, chúng ta phải để sức nóng thiêu huỷ các tật xấu ấy. Nếu chúng ta không làm thế, chúng sẽ thiêu huỷ chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày….Cách thức để trang bị đầy đủ là thực hành thiền định, khi chúng ta giữ hơi thở trong tâm thức. Đây là cách giúp chúng ta luôn giữ lấy chánh niệm, để sẵn sàng đối phó với nhiễm ô, và như vậy chúng ta có thể hàng phục được nhiễm ô trước khi chúng xuất hiện, chỉ cần chúng ta luôn ghi nhớ đề mục thiền quán trong tâm thức nội tại
(Xem: 20999)
Có hai đường lối để hộ trì Phật Giáo. --Một, được gọi là āmisapūjā, dưỡng nuôi, hay hộ trì bằng sự dâng cúng vật chất, như bốn món vật dụng: y phục, chỗ ở, vật thực và thuốc men. --Hai, dâng cúng bằng cách thực hành Giáo Pháp (patipatipūjā -- dâng cúng pháp hành) là dưỡng nuôi Phật Giáo theo đường lối thiết thực nhất, người dưỡng nuôi Phật Giáo phải phát triển Giới, Định, Tuệ cho đến khi ba phần nầy luôn luôn ở với mình. Đó là người dưỡng nuôi Phật Giáo theo đường lối chân chánh.
(Xem: 25324)
Kể từ khi vắng đức Phật và các đại đệ tử, Phật giáo thường phải đối đầu với những tình trạng đen tối với những diễn dịch sai lạc, bên cạnh đó chưa kể đến những thành phần bất hảo trong Tăng đoàn. Tuy nhiên may mắn có những vị Trưởng lão Thánh Tăng từng thời kỳ đã mang trách nhiệm và quan tâm đến việc gìn giữ và phát huy nền đạo pháp. Do đó, những thời kỳ kết tập kinh điển ra đời để bảo tồn các lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 28112)
Lời dạy của Đức Phật là: "Khi chúng ta thấy bất cứ điều gì, đừng có dính mắc vào điều đó, mà hãy chú tâm để phát huy sự hiểu biết sâu sắc vào bản chất thật của sự vật.". Hãy theo dõi tâm để thoát khỏi sự dính mắc của trần cảnh. Khi quý vị nghe âm thanh hay hoặc dỡ, chỉ nghe bằng sự tỉnh thức. Bạn phải có chánh niệm để ngă
(Xem: 47056)
Tu tập thiền chỉ là thiện pháp và vẫn còn sinh tử luân hồi. Nó có trước thời Đức Phật. Tu tập thiền quán là thiện pháp nhưng nó vượt khỏi Luân hồi sanh tử do đức Phật khám phá.
(Xem: 46504)
Đạo Phật nguyên thủy là Đạo Phật được dạy bởi Đức Phật Gautama và giáo pháp của ngài hiện vẫn còn được lưu giữ lại trong tam tạng kinh điển hệ Pali (Nikaya). Dù rằng trong thực tế đa số người tìm đến Đạo Phật chỉ như một nhu cầu tín ngưỡng, vẫn có một số ít cá thể thực sự tìm đến với Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát
(Xem: 39432)
Muốn hành thiền, trước tiên bạn phải tìm một nơi thích hợp để giúp cho việc hành thiền của bạn được tốt đẹp. Nơi thích hợp là nơi yên tịnh. Bạn có thể tìm được nơi yên tịnh trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu bạn hành thiền trong nhà, bạn phải tìm một nơi thích hợp cho việc định tâm của bạn, và mỗi khi hành thiền bạn nên đến đó.
(Xem: 20821)
Bởi vì thân thể con người không thể nào chịu đựng được cách ngồi nầy trong nhiều giờ, nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi thiền với các suất đi kinh hành. Vì pháp Thiền Hành, hay đi kinh hành, là một pháp thiền quan trọng, tôi muốn thảo luận ở đây về bản thể, tầm quan trọng, và các lợi ích của pháp thiền nầy.
(Xem: 19817)
Có 2 bộ Kinh thuộc về Đại Tạng Kinh. Khi in ấn để phát hành các loại sách, thì cũng chỉ có 2 bộ kể trên là đã có in rõ ràng các chữ: "Đại Tạng Kinh" ở trên bìa. Đó là: 1. Bộ Nikaya Sutta được dịch từ tiếng Pali. 2. Bộ Kinh A Hàm được dịch từ tiếng Trung Hoa
(Xem: 15955)
Phật giáo ngày nay có nhiều tông phái với các truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta thường phân biệt hai tông phái chính: Phật Giáo Đại thừa - Mahayana, và Phật Giáo Nguyên thủy - Theravada. Phật Giáo Mahayana thịnh hành ở các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên, và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật Giáo Theravada được lưu truyền rộng rãi ở Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt.
(Xem: 16552)
Bát Quan Trai giới là một phương pháp tu hành tích cực và thù thắng của người tại gia cư sĩ. Bát Quan Trai là gì.? Ý nghĩa Bát Quan Trai. Đã được Ngài Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác giảng trong khóa tu học tại Âu Châu