(Xem: 1440)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1806)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Khái niệm và thực tại "Tục đế và chân đế"

23 Tháng Tư 201312:00 SA(Xem: 26708)

Khái Niệm và Thực Tại

 

(Tục đế và Chân đế)

Thiền Sư U Silananda
Dịch Việt: TNDT – Hiệu đính: NK & BA

Là những hành giả thiền Quán, quý vị cần phải hiểu rõ ràng và chính xác sự khác biệt giữa Khái niệm và Thực tại, vì chỉ một trong hai điều này là đối tượng của thiền Minh sát (Vipassana).

Khi hành thiền Quán, thiền sinh cần phải chú tâm ghi nhận bất cứ đối tượng nào đang sanh khởi và nổi bật trong giây phút hiện tại. Trong ngữ cảnh nầy, từ ‘bất cứ’ có nghĩa là gì? Đó là bất cứ những gì thuộc Sự thật Tuyệt đối, hay Chân đế. Nói một cách khác, đó là bất cứ những gì chính nó thật sự hiện hữu.

Những gì hiện hữu do sự suy nghĩ và trí tưởng tượng của con người thì không thể dùng làm đề mục trong thiền Quán. Vipassana, thiền Minh Sát hay thiền Quán, là pháp hành thanh lọc tâm và mục đích của thiền Vipassana là để giúp ta nhận thức được ba đặc tướng (tam tướng), để có kinh nghiệm thực chứng bản chất vô thường, khổ,vô ngã nơi sự vật. Để hành giả thật sự thấy được ba đặc tướng này, đối tượng thiền tập của hành giả phải hội đủ ba đặc tướng đó.

Một đề mục hành thiền hội đủ ba đặc tướng này khi nó thật sự hiện hữu, sanh rồi diệt, và vì có sanh diệt nên mang bản chất vô thường, khổ, và vô ngã. Những gì chỉ hiện hữu qua sự suy nghĩ, qua trí tưởng tượng của chúng ta thì không thể là đề mục thiền Quán Vipassana, vì chúng không hội đủ ba đặc tướng, trong khi đó tác dụng của pháp thiền Vipassana là để thẩm thấu ba đặc tướng này.

Hãy lấy một ví dụ về ‘chiếc xe hơi’. Chiếc ‘Xe’ thoạt ‘trông như’ có thật, nhưng khi ta tháo rời từng bộ phận, ta không còn cái gọi là ‘Xe’ mà chỉ còn những bộ phận phụ tùng rời rạc. Cái mà ta gọi là Xe, thật sự chỉ là một khái niệm, chỉ hiện hữu trong trí óc suy nghĩ tưởng tượng của ta. Danh từ ‘Xe’ chỉ là một khái niệm quy ước được tạo ra để nói chuyện chứ không là một thực tại hiện hữu.

Một ví dụ khác là ‘bàn tay’. Với đôi mắt, ta nhìn thấy ‘bàn tay’, nhưng thật sự con ngươi không thấy ‘bàn tay’ mà chỉ thâu nhận những dữ kiện (về hình tướng) của bàn tay, và trí óc cho đó là bàn tay. Trí óc ta thật sự nhìn biết qua ‘tâm thấy’ (nhãn thức). Ngay sau ‘Tâm thấy’ đó lại có những chập tâm khác và chính tạiến trình một chuỗi những tâm sau này đã ghép lại những dữ kiện của bàn tay, và ta ‘thấy’ được bàn tay. Ta không thể thấy được sự khác biệt giữa những dữ kiện về bàn tay (từ Tâm thấy) và khái niệm về bàn tay (từ sự gom chấp những dữ kiện này trong tâm) vì chính tâm ta không đủ nhạy bén để thấy rõ được những tâm khác nhau đang nối tiếp sanh khởi không ngừng. Do đó, đối với ta, dữ kiện và khái niệm, cả hai xem như là một, và ta nói: Tôi thấy ‘bàn tay’.

Khái niệm gồm có hai loại: khái niệm về tên gọikhái niệm về sự vật. Trở lại với ví dụ ‘bàn tay’, danh từ ‘bàn tay’ là khái niệm về tên gọi (name concept), trong khi đó chính bàn tay năm ngón này là khái niệm về sự vật (thing concept). Khái niệm về tên gọi là những danh từ được đặt ra và gán vào một vật hoặc một người, trong khi đó khái niệm về sự vật chính là vật hay người được gán vào bằng những danh từ kia.

Ta không biết được điểm khởi đầu của một danh từ, một khái niệm về tên gọi và ta cũng không biết được khi nào danh từ này biến mất. Làm sao ta có thể thấy được sự sinh diệt của một đối tượng khi chính nó không sinh cũng chẵng diệt? Vì vậy, khái niệm không thể làm đề mục trong thiền Quán Vipassana.

Vậy khi thấy một bàn tay, ta phải ghi nhận và chú niệm ra sao? “Bàn tay, bàn tay…” hay là “Thấy, thấy…”? Ta phải niệm “thấy, thấy…”. Nếu ta niệm ‘bàn tay’ là ta đang niệm về một khái niệm, và ta sẽ không bao giờ thấy được ba đặc tính vô thường, khổ, và vô ngã nơi nó. Nếu ta niệm ‘thấy, thấy…’ là ta đang ghi nhận Tâm thấy. ‘Tâm thấy’ sinh ra rồi hoại diệt. Đây là một sự thật tuyệt đối, một chân đế mà ta có thể kinh nghiệm được, có thể dùng làm đề mục thiền quán. Điểm này là một điểm rất quan trọng.

Hầu hết mọi vật đều mang hai loại khái niệm: tên gọi và sự vật. Con người cũng vậy, cũng mang hai loại khái niệm về tên gọi và về sự vật. Danh từ ‘con người’ là khái niệm về tên gọi và con người bằng xương bằng thịt là khái niệm về sự vật. Vậy trong con người, có sự thật tuyệt đối chăng, có chân đế chăng? Thân và tâm là những sự thật tuyệt đối trong con người. Trong sự phân tích rốt ráo tột cùng, chỉ có thân-tâm là thật sự hiện hữu, là những sự thật tuyệt đối, ngoài ra không có gì khác.

Chân đế là gì? Thực tại là gì? Đó là cái gì đúng y như vậy, không sai chạy như đã được nhận biết. Một ví dụ là những dữ kiện về một vật thấy. Một định nghĩa khác của thực tại hoặc chân lý tuyệt đối là những gì ta có thể nhận biết qua sáu giác quan (tai, mắt, mũi, lưỡi, thân, và ý), là những gì ta có thể kinh nghiệm được qua thiền Quán Vipassana.

Qua phương pháp thiền Quán Vipassana, ta có thể kinh nghiệm được thân-tâm một cách rõ ràng, thấy được sự sinh diệt của chúng. Ta biết được thân-tâm là những thực tại, những sự thật tuyệt đối vì ta có thể thực chứng kinh nghiệm được chúng qua sự thiền tập. Những gì một người thực chứng được là những chân đế. Ta có thể đọc sách về những sự thật tuyệt đối, hoặc nghe giảng về chúng, nhưng đối với ta, chúng chỉ thật sự là những thực tại khi nào chính bản thân ta có kinh nghiệm về chúng.

Ví dụ ta có thể nghe nói đến hoặc đọc về cái ‘thấy’. ‘Thấy’ là một sự thật tuyệt đối. Nhưng nếu một người không kinh nghiệm được cái thấy (như trường hợp một người bẩm sinh bị mù), đối với người này, cái ‘thấy’ không phải là một kinh nghiệm thực chứng, không là một thực tại, mà chỉ là một điều nghe lại từ người khác hoặc học biết qua sách vở.

Một ví dụ khác: Ta học Vi Diệu Pháp, về 121 loại Tâm và 52 loại Tâm sở. Chúng là những sự thật tuyệt đối. Khi nào ta chưa thực sự kinh nghiệm chúng qua chính bản thân, qua thiền tập của chính mình, lúc đó đối với ta, chúng vẫn chỉ là những khái niệm, vì ta chỉ biết đến chúng qua từ ngữ trong kinh điển. Khi ta hành thiền Quán Vipassana và thật sự trông thấy tâm đang đồng sinh khởi với Tham, ta kinh nghiệm tâm Tham ngay trong bản thân mình, và lúc đó đối với ta, tâm Tham là một chân đế không sai chạy. Cùng là một sự thật, đối với một người chưa kinh nghiệm qua, nó chỉ là một khái niệm, nhưng đối với người đã từng kinh nghiệm nó, nó là một sự thật tuyệt đối, một chân đế. Do đó, một chân đế chỉ được biết qua sách vở hoặc nghe lại từ người khác vẫn chỉ là một khái niệm mà thôi.

Đọc về sách thiền, ta biết có một trng thái tâm gọi là hỷ (piti). Trong sự hiểu biết này, hỷ vẫn là một khái niệm. Khi hành thiền và thực chứng hỷ, tâm sở hỷ nay trở nên một thực tế đối với ta. Do đó, bất cứ chân lý nào khi chưa được thực chứng kinh nghiệm qua chính bản thân thì nó chỉ là một khái niệm.

Khi nói về thực tại, tất cả những gì mà ta thấy hoặc kinh nghiệm ngoài thiền Quán đều là những thực tế ‘bề ngoài’ (apparent realities). Ví dụ, khi nhìn một đàn kiến từ xa thì chúng trông chẳng khác nào một đường đen không dứt đoạn, hoặc khi một cây đuốc được xoay tròn thì nó tạo ảo ảnh một vòng lữa, hoặc một dòng cát chảy từ một túi treo trên cao tạo hình ảnh một cột cát nối liền từ túi cát đến mặt đất. Người ta thường hay nói “có thấy thì mới tin”. Tuy nhiên, có rất nhiều cái thấy mà lại không đúng với thực tế, như những ví dụ nêu trên. Chúng chỉ là những “thực tại bề ngoài”, chính vì chúng mà ta không thấy được sự thật tuyệt đối, chúng che lấp thực tại của sự vật, chúng chỉ là những khái niệm. Chỉ khi nào ta hành thiền Quán Vipassana, ta mới có khả năng xuyên qua những lớp vỏ bề ngoài này và thấu suốt vào sự thật tuyệt đối bên trong.

Do đó, khi hành thiền Quán Vipassana, ta phải cố gắng thấu đạt Chân đế, dùng ‘thực tế tuyệt đối’ này làm đề mục hành thiền. Có như vậy ta mới phá vỡ được những lớp vỏ ‘thực tế bề ngoài’ và xuyên thấu vào chân đế từng bị chúng che lấp. Chỉ có sự quán niệm liên tục và sắc bén mới có khả năng xuyên thấu chân đế.

Hành giả sơ cơ rất dễ lầm lộn một đối tượng do khái niệm và nghĩ rằng mình đang quán sát một đối tượng thuộc chân đế, hoặc có khi thì ghi nhận đối tượng do khái niệm, có lúc thì lại ghi nhận đối tượng thuộc chân đế, không phân biệt được rõ ràng.

Ví dụ khi thiền sinh theo dõi hơi thở ra vào nơi đầu mũi. Nếu cảm nhận như có một cây bút chì đang di chuyển vào ra nơi mũi, quý vị đang ghi nhận một khái niệm. Chỉ khi nào quý vị cảm thấy được sự di chuyển hoặc đặc tính căng dãn của hơi thở, lúc đó quý vị mới có được chánh niệm trên bản chất thật sự của hơi thở, trên chân lý tuyệt đối trong hơi thở. Khi quán sát hơi thở, ta không chú niệm vào hình dáng của hơi thở mà phải chú niệm vào đặc tính của nó — sự chuyển động hoặc căng dãn. Thấy được những đặc tính này, ta thấy được chân lý tuyệt đối trong hơi thở.

Cũng như thế đối với đề mục phồng xẹp nơi bụng. Khi hành giả theo dõi được sự chuyển động, sự căng phồng và thư dãn nơi bụng, hành giã đang có chánh niệm trên chân đế của đối tượng đang quán sát — đó là nguyên tố Gió (phong đại). Đặc tính của nguyên tố gió là sự chuyển động. Lúc đó hành giả cảm nhận rõ ràng sự chuyển động và căng dãn nhưng không nhận thấy được hình dáng của bụng hoặc màng bụng. Lý do là vì tâm định của hành giả lúc này khá mạnh, có khả năng xuyên thấu vào chân lý tuyệt đối, nên tâm không chú vào những gì thuộc khái niệm.

Các thiền sư bên Miến Điện vẫn thường nói: “Khi Khái niệm được nhận thấy rõ ràng, Chân đế bị che khuất. Khi Chân đế được quán thấy, Khái niệm dần mờ phai”. Trong tiến trình tu quán niệm, tâm định càng vững trụ, chân đế càng rõ ràng. Chân đế càng rõ ràng, khái niệm càng phai biến.

Chúng ta vẫn sống trong một thế giới của Khái niệm, ngôn ngữ ta dùng, âm thanh ta nghe, tư tưởng ta suy nghĩ… biết bao khái niệm trong từng ngày của cuộc sống. Do đó, khi ta hành thiền quán Vipassana và bắt đầu có kinh nghiệm với chân lý tuyệt đối, ta thường hay bỡ ngỡ, cảm thấy khó chịu như có gì không ổn. Có cảm giác như vậy chẳng qua là vì trong giai đoạn này, khái niệm bắt đầu mờ phai mà thực tại thì chưa thể hiện rõ ràng.

Do đó ta cần phải cố gắng ghi nhận cho được chân đế, chứ không ghi nhận khái niệm khi hành thiền Quán Vipassana. Đề mục của Vipassana phải là Chân đế chứ không là Khái niệm, vì khái niệm không có sinh diệt, và do đó, không mang ba đặc tướng Vô thường, Khổ và Vô ngã. Nếu dùng khái niệm làm đề mục thiền quán, ta sẽ không thực chứng được bản chất sinh diệt của đối tượng, sẽ không thấy được tính chất vô thường, khổ, và vô ngã của chúng. Trong khi mục đích của thiền Quán Vipassana là trí tuệ để xuyên thấu ba đặc tướng, nếu đối tượng thiền quán lại không hội đủ tam tướng này, làm sao thiền tập mang đến kết quả?

Theo Vi Diệu Pháp, có bốn loại Chân lý tuyệt đối: Tâm (citta), Tâm sở (cetasika), Sắc hay Thân (Rupa) và Niết bàn (Nibbana). Bốn chân đế này thực sự hiện hữu, chúng ta có thể thực chứng kinh nghiệm chúng qua chính bản thân. Trong bốn chân đế, chỉ có Niết bàn là không thể lấy làm đề mục cho thiền Quán Vipassana, vì Niết bàn không có khởi đầu và không có chấm dứt (vô thỉ vô chung), không sinh không diệt (bất sinh bất diệt), không mang đặc tính vô thường và khổ. Chỉ có tâm, tâm sỡ, và thân mới có thể dùng làm đề mục thiền Quán Vipassana.

Trong Phạn ngữ Pàlại, Tâm là citta, được định nghĩa là sự ‘nhận biết đối tượng’. Tâm là sự nhận biết đơn thuần chớ không phải là sự ghi nhận (chánh niệm) khi ta hành thiền Quán. Với thiền quán Vipassana, các thiền sư vẩn thường nhắc nhở : “Hãy để tâm ghi nhận, hãy có chánh niệm lên đề mục.” Tâm nhận biết đơn thuần – citta – được phiên dịch qua Anh ngữ là ‘awareness’, mà tâm ghi nhận chánh niệm Sati cũng được dịch là ‘awareness’. Do đó quý vị nên hiểu sự khác biệt giữa tâm nhận biết (citta) và tâm sở chánh niệm (sati).

Khi tâm chỉ đơn thuần ghi nhận, những đặc tính của đối tượng chưa được nhận rõ. Ví dụ trong cái thấy, có tâm thấy. Tâm thấy này chỉ làm sự móc nối giữa tâm và đối tượng, lúc này ta chưa biết được màu sắc của đối tượng, hay đối tượng kia là đàn ông hay đàn bà, vv..

Tâm luôn đồng sanh khởi với những tâm sở như: cảm thọ, chú ý, tự tin, thương hại, hiểu biết, chánh niệm, định, vv… Có 52 tâm sỡ nhưng không phải lúc nào tất cả 52 tâm sở này đồng sanh khởi với tâm. Có những nhóm tâm sở khác nhau đồng sanh khởi với những loại tâm khác nhau. Gọi là ‘tâm sở’ vì những tâm này tuỳ thuộc vào tâm để có mặt, do đó mà kinh điển có dạy ‘tâm dẫn đầu mọi tâm sở’, tâm được xem như yếu tố cầm đầu. Không có tâm ta không thể có tâm sở.

Tâm và tâm sở thuộc về Tâm (hoặc Danh), Phạn ngữ Pàli gọi là Nàma. Trong lúc thiền, khi một âm thanh sanh khởi, ta niệm ‘nghe, nghe…’, đó là ta đang niệm tâm — tâm nghe hoặc nhĩ thức. Khi tâm phóng đi đây đó, ta niệm ‘phóng tâm, phóng tâm…’ đó là ta đang niệm tâm — tâm phóng dật. Hoặc khi ta mong cầu ham muốn điều gì, ta niệm ‘ham muốn, ham muốn…’. Đó là ta đang niệm tâm sở Tham ái – Lobha. Khi cảm thấy giận dữ, ta niệm ‘giận, giận…’ ta đang niệm tâm sở Sân – Dosa. Và nếu ta niệm vào ý thức biết mình đang giận, ta đang niệm tâm, sự nhận biết.

Chân lý tuyệt đối thứ ba là Thân hoặc Sắc, Phạn ngữ Pàli là Rupa. Thân hoặc vật chất là cái gì thay đổi vì sự nóng lạnh, đói khát, muỗi mòng,…. Thân không có khả năng nhận biết, không thể bắt đối tượng vì chính nó là đối tượng.

Thân gồm 28 yếu tố: 4 nguyên tố — Tứ đại, đất nước gió lửa, và 24 yếu tố phụ, tùy thuộc vào Tứ đại này để sanh khởi. Trong 24 yếu tố phụ thuộc gồm có 6 giác quan và 6 đối tượng của chúng, vv… Thân là một chân đế. Thân thật sự hiện hữu, mang trọn tam tướng vô thường, khổ, và vô ngã, và là đề mục thiền Quán Vipassana.

Khi ta hành thiền quán Vipassana với đề mục hơi thở ra vào nơi đầu mũi, hoặc sự phồng xẹp nơi bụng, đó là ta đang dùng Thân làm đề mục thiền. Khi ghi nhận hơi thở ra vào hoặc sự phồng xẹp nơi bụng, ta đang quán thân. Và khi một âm thanh sanh khởi, nếu ta nghi nhận ‘nghe, nghe…’ ta đang niệm tâm, nếu ta chú vào ghi nhận ‘âm thanh, âm thanh…’ ta đang niệm thân, vì âm thanh chính là đối tượng của tâm nghe hoặc nhĩ thức.

Khi hành thiền Quán Vipassana, hành giả chú tâm cố gắng thấy cho được Chân đế, những thực tại tuyệt đối. Để thấy được chân đế, chớ không khái niệm, hành giả cần áp dụng Chánh niệm, tâm ghi nhận đơn thuần lên đối tượng đang nổi bật trong giây phút hiện tại. Tâm ghi nhận này là một tâm vững mạnh và liên tục, chớ không là một sự ghi nhận hời hợt. Một tâm ghi nhận nông cạn, hời hợt không thể được gọi là Chánh niệm — vì danh từ Phạn ngữ Pali của Chánh niệm là Sati, và Sati có nguyên nghĩa là “không nổi bồng bềnh trên mặt”. Do đó, Chánh niệm là tâm ghi nhận đơn thuần đi thẳng sâu vào đối tượng, chẳng khác nào viên sỏi chìm sâu vào đáy hồ.

Với một Chánh niệm vững chắc, sắc bén, và xuyên thấu như vậy, hành giả mới có khả năng xuyên vượt qua những lớp vỏ khái niệm và đạt vào chân đế, mà chân đế này, thực tại tuyệt đối này là đối tượng thực sự của thiền Quán Vipassana, là đối tượng mang trọn ba đặc tướng vô thường, khổ, và vô ngã, là đối tượng mà chúng ta đang nỗ lực quán sát rõ ràng.

Do đó khi hành thiền Quán Vipassana, chúng ta cần phải có một cố gắng tinh tấn liên tục giữ tâm Chánh niệm lên đối tượng đang nổi bật trong từng giây phút hiện tại, và tâm Chánh niệm này phải đủ vững, đủ mnh để có thể xuyên thấu vào đối tượng một cách sâu sắc. Nếu được như vậy, hành giả sẽ thấu suốt vào được chân đế, hành giả sẽ tự kinh nghiệm được những loại chân đế khác nhau. Một khi những chân đế này được thực chứng, hành giả sẽ kinh nghiệm được sự sinh diệt của chúng và thấy rõ được bản chất vô thường, khổ, và vô ngã của chúng.

Với trí tuệ xuyên thấu bản chất vô thường, khổ, và vô ngã, từng bước một, từng giai đoạn một, hành giả tiến gần đến mục tiêu tối thượng — đó là sự thực chứng Tứ Diệu Đế. Vì vậy, chúng ta phải nỗ lực quán niệm đễ thấy được Chân đế, ngay trong chính kinh nghiệm của ta, ngay trong chính thân tâm ta, và cứ vậy mà tiến mãi cho đến lúc viên thành mục tiêu tối thượng đó.

Đến đây, Sư xin trình bày thêm về đề tài ‘thiền sư và đề mục thiền’.

Khi hành thiền và dạy thiền, thông thường mỗi vị thầy có đề mục theo sở thích riêng. Tuy nhiên nếu đề mục ấy thuộc Chân đế, thì đó là đề mục chính đáng của thiền quán Vipassana. Có những thiền sư, dựa vào kinh nghiệm bản thân riêng mình, thích hợp với một đề mục nào đó, nên khi dạy thiền, truyền dạy phương pháp đã đem kết quả cho chính mình. Những vị này suy nghiệm rằng đề mục này hợp cho mình thì có thể hợp với đa số các thiền sinh. Do đó, chúng ta có những vị thầy dạy thiền với những đề mục khác nhau.

Hòa thượng Mahasi, khi dạy thiền Tứ Niệm Xứ, lấy chuyển động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục chính. Thật ra, Hoà thượng không phải là người đầu tiên nghiệm ra đề mục phồng xẹp và chính Hòa thượng trước tiên cũng không hành thiền Quán với đề mục này. Đề mục này đầu tiên do một thiền sư cư sĩ áp dụng và giảng dạy. Vị này là bạn đồng môn của Ngài Mahasi, cùng là đệ tử của Hòa thượng thiền sư danh tiếng Mingun Sayadaw. Vị thiền sư cư sĩ này dạy môn đệ quán lên sự phồng xẹp nơi bụng và nhận thấy đa số các thiền sinh dễ bắt rõ đề mục này hơn là hơi thở ra vào nơi đầu mũi. Ngài Mahasi đồng ý về điểm này qua kinh nghiệm dạy thiền và nhận xét của chính mình. Do đó mà về sau, Ngài luôn luôn dùng cử động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục chính để dạy thiền Quán. Trong khi đó, những thiền sư khác có thể chưa bao giờ áp dụng đề mục Phồng xẹp này và dùng những đề mục khác để dạy thiền Quán.

Đề mục chẳng qua chỉ là một phương tiện để hành giả có được tâm định. Lúc mới đầu, hành giả thường thấy khái niệm (tục đế) nhiều hơn, nhưng một khi đã giữ tâm được trên một đối tượng hoặc đề mục nào đó, hành giả sẽ phát triển được định tâm. Một vị thầy có thể dùng bất cứ đề mục gì để dạy pháp môn thiền Quán, miễn là đề mục đó là một Chân đế, một thực tế tuyệt đối chứ không phải là một khái niệm.

Mục đích của sự lựa chọn đề mục chính ở đây là giúp thiền sinh có được tâm định càng dễ dàng và mau chóng càng tốt. Do đó, ta không thể cho rằng đề mục này sai hay đề mục kia đúng. Nếu đề mục đó thuộc chân đế, nếu quý vị thử tu tập và thấy thích hợp với chính mình, thấy mình có được tâm định một cách dễ dàng, quý vị cứ giữ lấy khi nhận biết rằng, đây là đề mục tốt nhất cho chính mình. Không có đề mục thiền Quán nào tốt hơn đề mục nào, chúng đều là những đề mục mà thôi.

Câu hỏi được đặt ra ở đây là tại sao Hòa thượng Mahasi Sayadaw lại dùng chuyển động phồng xẹp nơi bụng làm đề mục dạy thiền Quán Vipassana? Trong bản chú giải của kinh Đại Niệm Xứ có ghi, “thiền quán niệm hơi thở đưa dẫn đến nhập thiền Jhana, đây là phương pháp thiền Chỉ Samatha”, và khi giảng về phương pháp quán niệm hơi thở, Chú giải giảng qua thiền Chỉ Samatha rất cặn kẽ. Nhưng, như quý thiền sinh đã biết, khi hành thiền nếu ta dùng khái niệm hơi thở làm đề mục, ta đang hành thiền Chỉ Samatha. Nhưng khi ta chú tâm ghi nhận bản chất của hơi thở, ví dụ yếu tố gió trong hơi thở, sự chuyển động của hơi thở nơi đầu mũi, ta đang hành thiền Quán Vipassana vì yếu tố Gió, một trong bốn nguyên tố Đất Nước Gió Lữa, là một thực tại tuyệt đối, một chân đế. Nếu chọn đề mục hơi thở nơi đầu mũi để dạy thiền, Hòa thượng cứ phải lặp đi lập lại sự khác biệt giữa khái niệm hơi thở nơi đầu mũi với bản chất thật sự của hơi thở nơi đầu mũi, do đó Ngài dùng sự phồng xẹp nơi bụng làm đề mục dạy thiền để tránh cho thiền sinh khỏi lẫn lộn.

Từ bao năm qua, Sư đến Thiền Viện này để dạy Pháp học cũng như hướng dẫn những khóa thiền. Sư thấy được sự phát triển của Trung tâm Thiền này. Ngày nay, Trung tâm này được xem như là một trung tâm Thiền đứng đắn và nhiều uy tín, một nơi mà pháp môn thiền Quán Vipassana được hành trì một cách thuần khiết, không pha lẫn trà trộn với pháp môn nào khác. Tại đây, chúng ta hành trì thiền Quán Vipassana như được chỉ dạy trong Tam Tạng Kinh, trong các Chú giải, theo đúng truyền thống Đạo Phật Nguyên thủy.

Sư sẽ luôn cố gắng đến với quý vị thường xuyên dựa vào thời khóa biểu của chính Sư cũng như vào sự thỉnh mời của quý vị. Sư luôn hoan hỉ đến với Như Lai Thiền Viện vì Sư xem quý vị như là những người bạn đồng hành, cùng đi với Sư trên con đường hoằng dương Giáo Pháp Đức Phật tại phương Tây này, về Pháp Học cũng như về Pháp Hành — Pháp môn Thiền Quán Vipassana thuần túy.

Cùng chung sức, chúng ta có thể đem rất nhiều lợi lạc đến tất cả những ai có tâm mong cầu học hiểu Giáo Pháp Đức Phật. Mặc dù Sư rất bận bịu với những trách nhiệm Phật sự khắp nơi, nhưng mỗi lần bước chân vào Như Lai Thiền Viện này, Sư luôn hết lòng chia xẻ sự hiểu biết và kinh nghiệm của Sư đến quý vị. Sư rất mang ơn quý vị đã cho Sư cơ hội đem Giáo Pháp Đức Phật đến chia xẻ cùng quý vị cũng như đến những ai có tâm mong cầu Pháp bảo.

Sau đây là những câu Paritta chúc phúc Sư xin gửi đến quý vị:

Mong phước báu đến với người
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Phật
Mong Hạnh phúc đến cùng người.

Mong phước báu đến với người
Mong Chư thiên che chở người
Do Oai lực của Pháp bảo
Mong Hạnh phúc đến cùng người.

Mong phước báu đến với người
Mong các Chư thiên che chở người
Do Oai lực của chư Thánh Tăng
Mong Hạnh phúc đến cùng người.

Mong quý vị được sức khỏe, hạnh phúc và an lành.
Mong quý vị chứng đạt được Niết Bàn trong thời gian ngắn ngủi nhất.

SADHU! SADHU! SADHU!

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29884)
Trung tâm cuả triết lý cuả Luận là Abhidhamma Pitaka,(Tạng Vi Diệu Pháp) một trong các bộ phận thuộc kho tàng kinh điển được Phật giáo Therevada công nhận là chính truyền cuả Phật Pháp. Kho tàng kinh điển này được soạn thảo bởi ba Hội đồng Phật giáo lớn được tổ chúc tại Ấn độ trong những thế kỷ đầu sau khi Phật viên tịch.
(Xem: 92105)
Qua kinh nghiệm cá nhân cũng như qua các trao đổi với các bạn thiền sinh khác, tôi nghĩ rằng chúng ta cần có một chương trình hành thiền tại nhà, sắp đặt rõ ràng tuần tự từng bước. Trước tiên, cần phải có một chỗ thích hợp cho việc thực tập hằng ngày, để khỏi bị làm phiền trong lúc tập. Nơi hành thiền cần phải yên tĩnh và thoáng mát. Nếu có được một phòng nhỏ dành riêng cho việc hành thiền thì thật là tốt
(Xem: 20919)
-Định của thiền định là tâm sở nhất tâm, trụ tâm nằm trên một đề mục cố định duy nhất. Đề mục của thiền định là tục đế (chế định), không có sanh diệt. Thiền định sử dụng đại định, kiên cố định và an chỉ định. -Định của thiền quán là tâm sở nhất hành, thực hành thiền Vipassana, hành giả có khả năng định trên nhiều đối tượng khác nhau. Đề mục của thiền Vipassana là chơn đế, có sanh diệt. Thiền quán sử dụng cận định và sát na định
(Xem: 28170)
"Tạng" hay "Tàng" là giỏ chứa, chổ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa tại các chùa lớn thường có một thư viện gọi là "Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ kinh quí. Tam Tạng theo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The Three Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng (Sutta Pitaka), và Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng).
(Xem: 27672)
Để thảo luận vấn đề thường được nhiều người hỏi: sự khác nhau giữa đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy là gì? Để hiểu được điều này chính xác, chúng ta hãy ôn lại lịch sử của đạo Phật và tìm nguồn gốc của đạo Phật Đại thừa và đạo Phật Nguyên thủy.
(Xem: 20012)
Đức Phật đã dạy trong tất cả các sinh hoạt của chúng ta – đi, đứng, ngồi, nằm, chúng ta phải để sức nóng thiêu huỷ các tật xấu ấy. Nếu chúng ta không làm thế, chúng sẽ thiêu huỷ chúng ta trong sinh hoạt hàng ngày….Cách thức để trang bị đầy đủ là thực hành thiền định, khi chúng ta giữ hơi thở trong tâm thức. Đây là cách giúp chúng ta luôn giữ lấy chánh niệm, để sẵn sàng đối phó với nhiễm ô, và như vậy chúng ta có thể hàng phục được nhiễm ô trước khi chúng xuất hiện, chỉ cần chúng ta luôn ghi nhớ đề mục thiền quán trong tâm thức nội tại
(Xem: 20981)
Có hai đường lối để hộ trì Phật Giáo. --Một, được gọi là āmisapūjā, dưỡng nuôi, hay hộ trì bằng sự dâng cúng vật chất, như bốn món vật dụng: y phục, chỗ ở, vật thực và thuốc men. --Hai, dâng cúng bằng cách thực hành Giáo Pháp (patipatipūjā -- dâng cúng pháp hành) là dưỡng nuôi Phật Giáo theo đường lối thiết thực nhất, người dưỡng nuôi Phật Giáo phải phát triển Giới, Định, Tuệ cho đến khi ba phần nầy luôn luôn ở với mình. Đó là người dưỡng nuôi Phật Giáo theo đường lối chân chánh.
(Xem: 25306)
Kể từ khi vắng đức Phật và các đại đệ tử, Phật giáo thường phải đối đầu với những tình trạng đen tối với những diễn dịch sai lạc, bên cạnh đó chưa kể đến những thành phần bất hảo trong Tăng đoàn. Tuy nhiên may mắn có những vị Trưởng lão Thánh Tăng từng thời kỳ đã mang trách nhiệm và quan tâm đến việc gìn giữ và phát huy nền đạo pháp. Do đó, những thời kỳ kết tập kinh điển ra đời để bảo tồn các lời dạy của Đức Phật.
(Xem: 28080)
Lời dạy của Đức Phật là: "Khi chúng ta thấy bất cứ điều gì, đừng có dính mắc vào điều đó, mà hãy chú tâm để phát huy sự hiểu biết sâu sắc vào bản chất thật của sự vật.". Hãy theo dõi tâm để thoát khỏi sự dính mắc của trần cảnh. Khi quý vị nghe âm thanh hay hoặc dỡ, chỉ nghe bằng sự tỉnh thức. Bạn phải có chánh niệm để ngă
(Xem: 47016)
Tu tập thiền chỉ là thiện pháp và vẫn còn sinh tử luân hồi. Nó có trước thời Đức Phật. Tu tập thiền quán là thiện pháp nhưng nó vượt khỏi Luân hồi sanh tử do đức Phật khám phá.
(Xem: 46461)
Đạo Phật nguyên thủy là Đạo Phật được dạy bởi Đức Phật Gautama và giáo pháp của ngài hiện vẫn còn được lưu giữ lại trong tam tạng kinh điển hệ Pali (Nikaya). Dù rằng trong thực tế đa số người tìm đến Đạo Phật chỉ như một nhu cầu tín ngưỡng, vẫn có một số ít cá thể thực sự tìm đến với Đạo Phật với lòng khao khát giải thoát
(Xem: 39369)
Muốn hành thiền, trước tiên bạn phải tìm một nơi thích hợp để giúp cho việc hành thiền của bạn được tốt đẹp. Nơi thích hợp là nơi yên tịnh. Bạn có thể tìm được nơi yên tịnh trong thiên nhiên. Tuy nhiên, nếu bạn hành thiền trong nhà, bạn phải tìm một nơi thích hợp cho việc định tâm của bạn, và mỗi khi hành thiền bạn nên đến đó.
(Xem: 31552)
KINH PHÁP CÚ Dhammapada là tập hợp 423 bài kệ do đức Phật nói ra trong nhiều dịp khác nhau, trong suốt 45 năm hoằng dương Chánh Pháp của Ngài. Các bài kệ nầy được sắp xếp trong 26 phẩm, do các vị đại đệ tử thu xếp và tụng đọc trong Đại hội Kết tập Kinh điển lần đầu tiên sau khi Đức Phật nhập diệt.
(Xem: 20769)
Bởi vì thân thể con người không thể nào chịu đựng được cách ngồi nầy trong nhiều giờ, nên chúng ta xen kẽ các suất ngồi thiền với các suất đi kinh hành. Vì pháp Thiền Hành, hay đi kinh hành, là một pháp thiền quan trọng, tôi muốn thảo luận ở đây về bản thể, tầm quan trọng, và các lợi ích của pháp thiền nầy.
(Xem: 19793)
Có 2 bộ Kinh thuộc về Đại Tạng Kinh. Khi in ấn để phát hành các loại sách, thì cũng chỉ có 2 bộ kể trên là đã có in rõ ràng các chữ: "Đại Tạng Kinh" ở trên bìa. Đó là: 1. Bộ Nikaya Sutta được dịch từ tiếng Pali. 2. Bộ Kinh A Hàm được dịch từ tiếng Trung Hoa
(Xem: 15931)
Phật giáo ngày nay có nhiều tông phái với các truyền thống khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta thường phân biệt hai tông phái chính: Phật Giáo Đại thừa - Mahayana, và Phật Giáo Nguyên thủy - Theravada. Phật Giáo Mahayana thịnh hành ở các nước Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên, và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật Giáo Theravada được lưu truyền rộng rãi ở Tích Lan (Sri Lanka), Miến Điện, Thái Lan, Lào và Cam Bốt.
(Xem: 16520)
Bát Quan Trai giới là một phương pháp tu hành tích cực và thù thắng của người tại gia cư sĩ. Bát Quan Trai là gì.? Ý nghĩa Bát Quan Trai. Đã được Ngài Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác giảng trong khóa tu học tại Âu Châu