(Xem: 1759)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2224)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Thờ Phật như thế nào?

20 Tháng Ba 201312:00 SA(Xem: 17715)
Thờ Phật như thế nào?
(Nguồn_VuonHoaPhatGiao)
img_3772b-contentCúng dường lên đức Phật bằng cách HÀNH ĐẠO là cao thượng nhất. Tuy nhiên, đó là nói về Lý. Còn Sự để tỏ lòng thành kính lên đấng CHÍ TÔN người Phật tử cũng có thể dùng hương, đèn, trầm, hoa lên cúng Phật với đầy đủ Lý và Sự cũng được chấp thuận nhận là hiệp theo lẽ Đạo.
 
Sách "MINH TÂM BỬU GIÁM" có bài Kệ như sau:
Lễ Phật giả, kỉnh Phật chi đức
Niệm Phật giả, cảm Phật chi ân
Khán kinh giả, minh Phật chi lý
Toạ Thiền giả, đăng Phật chi cảnh
Chứng ngộ giả, đắc Phật chi đạo

1. "LỄ PHẬT GIẢ, KÍNH PHẬT CHI ĐỨC": có nghĩa là lạy Phật, ta kính trọng cái đức của Phật, Ân đức trọn lành là BI, TRÍ, TỊNH của đấng ĐẠI GIÁC NGỘ, là tấm gương vô cùng cao quý, đáng cho chúng sanh lễ bái cúng dường.

2. "NIỆM PHẬT GIẢ, CẢM PHẬT CHI ÂN": Niệm tưởng hồng danh ba Đời chư Phật, là nhớ ơn cao dày, hoàn toàn bi mẫn, thương xót mọi người, mọi loài mà các Ngài đã từng hy sinh thân mạng máu xương trong vô lượng kiếp, bổ túc MƯỜI PHÁP BA LA MẬT tròn đủ, đã xã thân cầu đạo, mong cứu độ quần sanh, ví như cha mẹ đêm ngày dãi nắng dầm mưa để tạo ra cơm, áo tài sản cho các con được an vui sung sướng.

3. "KHÁN KINH GIẢ, MINH PHẬT CHI LÝ": Nghĩa là xem xét đọc tụng kinh, để suy nghiệm cho hiểu biết nghĩa lý lời vàng, tiếng ngọc của đức Phật đã giáo truyền, để thấy rõ thế nào là phải, thế nào là trái, đâu là nẻo chánh, đường tà, thế nào là lành, thế nào là dữ, đâu là sự khổ, đâu là nẻo vui, mà cố gắng hành theo cho được kết quả tốt đẹp.

4. "TOẠ THIỀN GIẢ, ĐĂNG PHẬT CHI CẢNH": Ngồi tham THIỀN, lắng lòng trong sạch thanh tịnh chú tâm trong đề mục chỉ quán hay minh sát để đè nén diệt trừ phiền não, trau giồi tâm cho sạch, sáng suốt, quán thấy vạn vật là vô thường, khổ, vô ngã và bất tịnh.

5. "CHỨNG NGỘ GIẢ, ĐẮC PHẬT CHI ĐẠO": Mục đích của PHẬT GIÁO là chuyển mê khai ngộ ly khổ đắc lạc. Vì mê lầm ngã chấp, cho vạn hữu là của TA. Vợ ta, con ta, gia tài sự sản của ta, rồi bo bo giữ lấy, làm cho tâm trí phải lo âu thống khổ. Khi tham thiền, quán tưởng, nhận thấy các pháp hữu vi đều phải chịu dưới sự chi phối của định luật vô thường hằng biến đổi, mà thức tỉnh cõi lòng để diệt trừ TAM ĐỘC là THAM SÂN và SI.

Tuy còn mang thân xác này, nhưng tâm trí được nhẹ nhàng minh mẫn, sáng suốt không còn bị ô nhiễm đắm đuối theo mùi trần, không còn bị phiền não lay động tâm, há chẳng phải là đạt đến cảnh giới NIẾT BÀN TỰ TẠI của chư Phật rồi sao?

NGƯỜI CƯ SĨ CÓ THỜ HÌNH TƯỢNG PHẬT ĐƯỢC KHÔNG?

Thờ phụng ảnh tượng cũng chỉ là phương tiện lấy giả để tầm chân, mượn cái có để nhắc nhở nội tâm đó thôi. Chứ thật ra tượng gỗ hay tượng đất tượng đồng hay xi măng cốt sắt, hình giấy hay ảnh lụa cũng chỉ là những vật liệu do con người cấu trúc kiến tạo ra, chứ đâu có phải đức Phật ngồi đó?

Có điều, mượn hình thức giả tạm đó để nhắc nhở tâm, ví như ta treo tấm gương để soi chiếu, để lau chùi rửa ráy mặt mình cho sạch sẽ gọi là LÝ. Còn treo GƯƠNG để làm cảnh, để trang hoàng chưng diện cho đẹp, thì chỉ là sự giả tướng mà thôi.

Có Sự mà không hiểu LÝ thì gọi là TU MÙ. Bằng chấp LÝ mà bỏ SỰ (Phật tại Tâm) thì coi như khô khan thiếu sót (cũng được gọi là tu què) vậy.

ĐEM HOA QUẢ, VẬT THỰC CÚNG DƯỜNG PHẬT ĐƯỢC KHÔNG?

Đặt trên bàn Phật vài nải chuối với ngũ quả. Năm bảy chén chè, vài chục cái bánh v.v...để gọi là cúng Phật. Hoặc giả có người để đến ba bốn ngày, đến đổi chè thiu chuối mốc, chư đức Phật có hưởng chút nào đâu?

Trái lại, ruồi lằn bu đậu, gián, chuột phá phách tiểu dãi trong đó, rồi vô tình đem ăn, sinh bệnh hoạn không khéo lại than trời, trách Phật nữa.

Đức Phật đã lên đường tịch diệt cách đấy hơn 25 thế kỷ mà còn ăn uống nỗi gì? Vả lại nói một cách cho dễ hiểu. Ví như các vị chư thiên thấp nhất của 26 từng trời là TỨ ĐẠI THIÊN VƯƠNG. Chư vị ấy, vật thực tự nhiên mà có do theo ý muốn, nhờ phước báu của sự bố thí theo hỗ trợ, chứ đâu phải nấu nướng chiên xào, mắm muối tiêu ớt như của thế tục đâu?

Đem vật thực của chúng ta dùng đây, dù là cao lương mỹ vị, sơn hào hải phẩm, dù cho ngon quý báu nhất cõi trần này, đem dâng cúng đến các Ngài, thì chẳng khác nào trâu bò đem rơm cỏ là món ăn ngon nhất của chúng cho loài người dùng có được không?

Vậy thì đức Phật là đấng Chí Tôn Chí Thánh, bậc đã đi đến nơi sáng suốt trọn lành, Ngài đã vượt ra khỏi vòng TAM GIỚI rồi, mà chúng ta lại đem dâng cúng đồ uế trược, phàm tục của chúng ta đến Ngài sao?

Vì cố chấp thủ cựu do sự bày đặt của người Trung Quốc mê tín nên chúng ta cứ nhắm mắt làm theo với quan niệm "XƯA BÀY NAY LÀM, TRƯỚC SAO, SAU VẬY" để cho NGOẠI ĐẠO chê cười là "ĐẠO PHẬT MÊ TÍN DỊ ĐOAN".
VẬY CÚNG PHẬT BẰNG GÌ, CHẢ LẼ THỜ KHÔNG VẬY SAO?

Cúng dường lên đức Phật bằng cách HÀNH ĐẠO là cao thượng nhất. Tuy nhiên, đó là nói về Lý. Còn Sự để tỏ lòng thành kính lên đấng CHÍ TÔN người Phật tử cũng có thể dùng hương, đèn, trầm, hoa lên cúng Phật với đầy đủ Lý và Sự cũng được chấp thuận nhận là hiệp theo lẽ Đạo.

Cúng dường hiệp theo lẽ Đạo có nghĩa là gì? Khi thắp đèn lên cho sáng, ta quán niệm. Đây là ngọn đèn tuệ của ba đời chư Phật đã vẹt tan màn bóng tối VÔ MINH đã che án chúng sanh trong vô lượng kiếp.

Đốt ba cây nhang là tượng trưng cho ba nén Hương Lòng "TÂM HƯƠNG" có mùi thơm ngào ngạt, đó là hương Giới, hương Định và hương Tuệ hay còn gọi là HƯƠNG TRÍ KIẾN và TRI KIẾN GIẢI THOÁT.

Dâng Hoa lên cúng Phật, chúng ta cũng quán niệm rằng "Hoa" này tốt đẹp xinh tươi, nhưng rồi đây nó cũng sẽ úa tàn theo năm tháng

Cũng như thân ta, vóc huyễn giả tạm nay, rồi cũng sẽ già, đau và chết như thế ấy.

Làm và quán niệm như thế để luôn luôn nhắc nhở tâm ta gọi là cúng dường Sự và Lý đúng theo Lẽ Đạo. Đúng với lòng tôn kính, cao quý lên Đức THẾ TÔN.

Nguồn VuonHoaPhatGiao

***Vì không có số điện thoại hay địa chỉ để liên lạc xin phép, và muốn phổ biến PHẬT PHÁP đến với mọi người.
Vô Môn Thiền Tự xin phép được đăng lại một số bài viết hoặc Pháp âm của Quý Chư Tăng - Phật Tử - Thân hữu.
Trân trọng



Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 62095)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(Xem: 78484)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 81074)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 75797)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 18510)
Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu.
(Xem: 18999)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(Xem: 56125)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(Xem: 17505)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(Xem: 19056)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(Xem: 18370)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(Xem: 113415)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(Xem: 117112)
Nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp
(Xem: 108787)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(Xem: 18398)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(Xem: 22267)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(Xem: 18655)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(Xem: 19053)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(Xem: 88267)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(Xem: 34175)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(Xem: 115409)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.