(Xem: 1508)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 1867)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Đạo Phật và kinh doanh.

18 Tháng Tám 201312:00 SA(Xem: 23153)


ĐẠO PHẬT VÀ KINH DOANH

(Bài phỏng vấn Hòa thượng Viên Minh. Thực hiện: Như Hải - Bạch Hoa)

 

NH: Thưa Thầy, có mối liên hệ nào giữa Đạo Phật và Kinh Doanh hay không ạ?

Tk.VM: Cần phải biết doanh nhân tìm đến Đạo Phật nhằm mục đích gì? Có thể có doanh nhân làm ăn thất bại, nên đến với Đạo Phật để tìm cách làm ăn thành công hơn. Thật ra, Phật giáo không loại trừ điều này (kinh doanh → lợi nhuận), vì đó là một trong những nhu cầu sinh tồn của loài người. Nếu một người thông suốt được phương diện đạo đức của Phật giáo, họ sẽ làm tốt những sinh hoạt trong đời thường, bất kỳ sinh hoạt nào, không nhất thiết là kinh doanh.

blank

Người xưa nói “phi thương bất phú” nghĩa là không kinh doanh không thể giàu được, như vậy phải chăng mục đích của kinh doanh là chỉ để làm giàu? Thực ra làm giàu cũng không hoàn toàn sai. Đức Phật dạy nếu một người có năng lực làm giàu nhờ công sức và trí tuệ của chính mình, và biết sử dụng của cải vật chất đó làm lợi mình lợi người thì rất tốt. Còn cái giàu do lừa dối để lợi mình hại người thì không được.

Hiện nay nhiều người nói “thương trường như chiến trường”, là sát phạt lẫn nhau v.v… Ví dụ, nếu một hợp đồng giữa hai công ty A & B mà bên nào cũng chỉ nghĩ làm sao thu lợi nhiều nhất mà không nghĩ đến quyền lợi của bên đối tác, thì đúng là “chiến trường” chứ còn gì nữa! Điều đó rất đáng sợ. Còn nếu một công ty vận tải hàng hóa thấy đường bộ thường bị kẹt xe liền phát triển phương tiện vận tải đường sông. Như vậy vừa có lợi cho công ty mình mà vừa phục vụ hiệu quả cho người tiêu dùng, tức không chỉ nghĩ đến lợi nhuận cho mình mà còn có tinh thần trách nhiệm đáp ứng nhu cầu của đối tác, nghĩa là hai bên cùng có lợi.

Kinh doanh là giúp cho sinh hoạt xã hội cân bằng và tương trợ lẫn nhau dựa vào nguyên tắc lợi mình lợi người (chứ không phải lợi mình hại người).

NH: Thưa thầy nếu áp dụng Đạo Phật vào kinh doanh thì có điểm gì hạn chế, khó khăn?

Tk.VM: Trong giới Phật tử không ít người có liên hệ đến ngành kinh doanh. Để việc kinh doanh mang lại lợi ích cho xã hội, người Phật tử phải thông hiểu nguyên tắc đạo đức trong giáo lý nhà Phật thì sẽ có lợi chứ không có hại. Nguyên tắc chính yếu đó là phải nhận thức đúng và hành xử tốt. Đúng là đúng với quy luật tự nhiên và quy định xã hội. Tốt là không hại mình, hại người, hay lợi mình hại người.

Cũng chính vì nguyên tắc đó mà Phật giáo có hạn chế một số ngành kinh doanh có hại như kinh doanh ma túy, rượu bia, chất độc, vũ khí, sát sinh v.v… Nếu họ không kinh doanh những thứ đó thì sẽ không gây tổn hại cho con người, cho xã hội, cho môi sinh và cho nền hòa bình thế giới.

Tất nhiên không có gì tuyệt đối. Tính đạo đức thực tế trong cuộc sống là tương đối vì chỉ cần hiệu quả tốt nhất chứ không thể hoàn hảo. Ví dụ như Vua Trần Nhân Tông là thiền sư mà vẫn điều quân khiển tướng ra trận đánh giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh đất nước cần người cầm quân đánh giặc, nhà sư Trần Nhân Tông là người biết rõ đạo lý mà hi sinh đi đánh giặc thì sẽ giảm thiểu tối đa tổn hại tài sản và nhân mạng cho cho cả hai bên, nếu để người cầm quân hung bạo hiếu sát thì sẽ gây ra vô số thiệt hại. Lịch sử cho thấy thời Lý Trần là thời hòa bình thịnh vượng nhất của đất nước Việt Nam vì đã biết ứng dụng Đạo Phật vào trong việc cai quản đất nước, về mọi mặt, không ngoại trừ phương diện kinh tế mà kinh doanh là một phần trong đó.

NH: Thưa thầy, nếu ứng dụng vào kinh doanh thì theo Đạo Phật yếu tố nào giúp doanh nhân đạt được hiệu quả cao?

TVM: Đạo Phật có 3 yếu tố giúp cho mọi sinh hoạt đều có thể trở nên tốt đẹp, đó là trong lành (giới), định tĩnh (định), sáng suốt (tuệ) mà trong đời sồng hàng ngày thường được biểu hiện dưới ba hình thức thiết thực là thận trọng, chú tâm, và quan sát. Nếu doanh nhân biết ứng dụng 3 yếu tố này thì sẽ rất dễ thành công.

- Thận trọng là cẩn thận kỹ lưỡng trong mọi công việc…

- Chú tâm là sự chuyên tâm, thành ý, không xao lãng

- Quan sát là xem xét thẩm tra mọi việc một cách khách quan rõ ràng.

Đó là ba yếu tố cần thiết giúp chúng ta biết điều chỉnh cho hoàn hảo tất cả mọi lãnh vực hoạt động của con người dù việc nhỏ hay lớn. Ví dụ như trước khi đầu tư vào một việc gì cần phải chú tâm quan sát một cách thận trọng để xem chúng ta nên kinh doanh gì, có phù hợp với khả năng và vốn đầu tư không, thị trường tiêu dùng như thế nào v.v… Như vậy kế hoạch đầu tư mới khả thi.

Ngoài ra còn có 4 điều kiện cơ bản để thành công gọi là bốn điều như ý (Iddhipāda), đó là:

1) Có nhu cầu hay nguyện vọng chính đáng (Chand’iddhipāda)

2) Có chuyên cần nỗ lực để thực hiện (Viriy’iddhipāda)

3) Có quyết tâm không thối chí nản lòng (Citt’iddhipāda)

4) Có nhận thức rõ tiến trình thực hiện (Vimams’iddhipāda)

Thiếu bốn điều kiện trên thì không thể nào thành công trong bất kỳ việc gì, kể cả kinh doanh.

Thực ra, trong Phật giáo có vô số những pháp giúp cho doanh nhân làm giàu một cách chân chính, ví dụ Tứ nhiếp pháp, Tứ vương pháp v.v…

NH: Nhân tiện xin thầy cho một ví dụ nữa chứng tỏ Phật pháp rất hữu ích cho doanh nhân.

Tk.VM: Ví dụ như 4 pháp sau đây:

1) Thức thời đạt vụ (saccamedha).

2) Thấu hiểu nhân tâm (purisamedha).

3) Có biện pháp đúng (sammāpāsa).

4) Biết cách giao tiếp (vācāpeyya) là 4 pháp có thể giúp doanh nhân thành đạt một cách chính đáng.

NH: Thưa thầy, những người bản chất đã tốt, có thể dễ dàng thực hành những yếu tố trên, còn những doanh nhân không biết cách, chỉ tập trung vào lợi riêng thì bằng cách nào giúp họ trở lại “hướng thiện” được ạ?

Tk.VM: Nếu được nên mở những lớp giáo dục đào tạo hay những buổi thảo luận về đạo đức trong kinh doanh để những người có kinh nghiệm trong lãnh vực này truyền đạt cho người khác. Sách báo viết về những đề tài này cũng là phương tiện truyền đạt những thông tin tích cực. Đồng thời những Phật tử chân chính nên ứng dụng đạo đức kinh doanh trước và chứng minh được sự thành công của mình để làm những tấm gương điển hình cho những người khác.

NH: Thưa thầy, có cách nào ứng dụng những giá trị trên vào kinh doanh một cách đơn giản nhất không ạ?

Tk.VM: Thường biết mình biết người hay nói cách khác là thường sống tỉnh thức. Biết mình trong tỉnh thức thì mới điều chỉnh được nhận thức và hành vi cho đúng tốt với mọi người.

NH: Thưa thầy, vậy doanh nhân có cần phải ngồi thiền hàng ngày để có khả năng biết mình trong tỉnh thức như thầy nói không ạ?

Tk.VM: Không cần thiết phải ngồi, vì thường sáng suốt, định tĩnh, trong lành hay thận trọng, chú tâm quan sát chính mình trong công việc hay trong quan hệ với hoàn cảnh xung quanh đã là thiền rồi. Nỗ lực ngồi thiền đôi lúc tạo ra căng thẳng và mất thì giờ vô ích, vì cố gắng ổn định chính là làm mất sự ổn định tự nhiên, và ngay khi cố ổn định là đã tạo ra lực mâu thuẫn đối kháng rồi làm sao mà nhất tâm được nữa. Chính sự đối kháng này tạo ra bất an và tiêu hao năng lực.

Khi có điều kiện thuận lợi nên ngồi thư giãn buông xả cho tâm rỗng lặng trong sáng thì tâm sẽ tự ổn đinh chứ không phải dụng công hay dồn nén cho mất sức. Trong bản chất con người có khả năng tự điều chỉnh, nhưng vì quá vọng động tạo tác mà mất đi. Nếu doanh nhân hành động, nói năng, suy nghĩ một cách sáng suốt, định tĩnh, trong lành thì chính việc kinh doanh là thiền, chứ không phải ngồi thiền để kinh doanh.

NH: Thưa thầy, vậy thầy nghĩ thế nào về nói dối trong kinh doanh, liệu có chấp nhận được không, có đi ngược lại với giới luật nhà Phật không?

Tk.VM: Thực ra lời nói dối hay không dối không quan trọng bằng lời nói đó có hại người hại mình hay không. Nói thật mà hại mình hại người thì còn nguy hiểm hơn là nói dối nhưng lợi mình, lợi người.

Một lời nói có giá trị cần 5 yếu tố:

1. Chân (sacca) là nói đúng sự thật

2. Thiện (kusala) là sự thật đó có hiệu quả tốt đẹp, lợi mình lợi người.

3. Mỹ (piya) là cách nói khéo léo sao cho người nghe vui lòng chấp nhận.

4. Thời (kāla) là nói đúng lúc

5. Vị (thana) là nói đúng chỗ

Không nên nói dối với mục đích lừa gạt để lợi mình hại người. Nhưng nếu biết cách nói khéo léo, hư cấu để đem lại lợi ích cho mình và người thì đó có vẻ như không đúng sự thật nhưng không phải là nói dối.

Trong kinh Phật có 2 câu chuyện sau đây minh chứng điều đó:

Câu chuyện thứ nhất là: Có một người tiều phu, khi vợ mang thai muốn ăn món ngon vật lạ nhưng giữa rừng không có, liền nghĩ cách giả làm làm nhà sư đi vào cung vua khất thực, được vua cúng dường cao lương mỹ vị mang về cho vợ. Anh ta cố gắng giữ tướng mạo trang nghiêm khi đi khất thực nên nhà vua đem lòng tôn kính. Vua sai một vị đại thần đi theo nhà sư cho biết chỗ để vua sẽ đích thân đến cúng dường. Vị đại thần theo đến nơi phát hiện sự thật, nhưng nghĩ rằng nếu nói thật thì nhà vua sẽ nổi trận lôi đình mà giết gã tiều phu, vì vậy, để không hại vua mà cũng không hại gã tiều phu, vị đại thần đã trình tấu rằng: “Thần theo đến trong rừng thì nhà sư biến mất”. Nói như vậy là hư cấu chứ không nói dối vì nhà sư bỏ y vàng ra trở lại một tiều phu cũng giống như biến mất tướng mạo nhà sư.

Câu chuyện thứ hai là: Một nhà sư (thật) đang ngồi thiền trong rừng thấy một con nai chạy ngang qua, sau đó có mấy người thợ săn đến hỏi nhà sư có thấy con nai chạy ngang qua đây không. Nhà sư đứng dậy và nói: “Đứng đây ta không thấy con nai nào cả”. Lời nói có vẻ như dối nhưng lại thật vì khi ngồi thì thấy chứ khi đứng đâu có thấy! 

Như vậy vấn đề là ở chỗ lương tâm và cách thể hiện lời nói sao cho có hiệu quả lương thiện chứ không phải cứ nói thật mà lại có thâm ý hại người.

NH: Xin cám ơn thầy đã dành thời gian trả lời phỏng vấn giúp chúng con sáng tỏ hơn về vấn đề Đạo Phật và Kinh Doanh. Kính chúc thầy luôn được mạnh khỏe.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 61881)
Hấp hối có nghĩa là gần chết. Có nhiều từ đồng nghĩa cùng biểu đạt cho trạng thái này như đang lâm chung, thời gian cận tử, lúc sắp chết… Độ ở đây mang ý nghĩa chuyển hóa, giúp người vượt qua, giáo hóa cho người.
(Xem: 78251)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 80783)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 74756)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 18453)
Sân hận là loại cảm xúc thường gây khó cho nhiều người. Thí dụ khi bạn đang ngồi thiền, bỗng nhiên tâm sân khởi lên, và bạn nghĩ “Ồ không, tâm sân!”, -đó là thái độ phản kháng. Nhưng sẽ thế nào nếu bạn nghĩ, “Ồ tuyệt vời, tâm sân!” Bạn có thấy sự khác biệt không? Chúng ta thường có xu hướng dễ chấp nhận sự dễ chịu, nhưng ghét bỏ sự khó chịu.
(Xem: 18940)
Theravada (đọc như là tê-rê-va-đa), Học thuyết cuả các Trưởng lão, là một trường phái Phật giáo tiếp nhận giáo lý kinh điển từ Tipitaka, hay là kho tàng Thánh Điển Pali, mà theo như các học giả thường đồng ý với nhau rằng còn lưu lại được những ghi chép các giaó lý ban đầu cuả Đức Phật còn tồn tại với thời gian.
(Xem: 54675)
Trong suốt 45 năm giáo hóa, từ Thành đạo cho đến Niết Bàn, Phật quy tụ xung quanh hào quang của Ngài một số đệ tử cả xuất gia lẫn tại gia. Trong số này, những bậc xuất sắc ưu tú, chứng được thánh quả A La Hán gồm có 1250 vị. Đặc biệt có 10 vị mệnh danh là Thập Đại Đệ tử, trong 10 vị này mỗi vị đều có sở trường riêng, sở chứng riêng và đạo hạnh riêng.
(Xem: 17436)
Cái tinh thần chung của Phật là gì? Là tinh thần dắt dẫn, khuyến hóa chúng sanh biến đổi điều dữ ra điều lành, mê ra ngộ, khổ ra vui trong cảnh giải thoát Niết-bàn. Vậy bất cứ là kinh nào trong Tam tạng, dù mỗi kinh với mỗi sự trình bày khác nhau, nhưng nếu nhận có tinh thần giải thoát, có mục đích Niết-bàn trong đó tức chúng ta phải đem hết tinh thần khoáng đạt mà cố công tham cứu và học hỏi,
(Xem: 19013)
Được biết, xuất gia gieo duyên là một truyền thống lâu đời của các nước Phật giáo Nam tông như Thái Lan, Lào, Campuchia, Myanmar và Sri Lanka - nơi Phật tử tại gia có thể thực hiện ước nguyện xuất gia, sống đời tu sĩ trong thời gian ngắn hạn 3 ngày, 7 ngày, 1 tháng, 3 tháng, 1 năm hoặc 3 năm. Theo đó, các Phật tử xuất gia gieo duyên tại thiền viện sẽ có thời khóa tu học như các chư Tăng tại thiền viện gồm học giáo lý, học kinh luật, ngồi thiền, tụng kinh, kinh hành, trồng cây, làm công quả...
(Xem: 18322)
Thuyết Vô Ngã chỉ tìm thấy trong Phật Giáo. Như vậy, thuyết Vô Ngã khiến cho Phật Giáo khác hẵn các tôn giáo khác. Bởi vì hầu hết các tôn giáo khác đều có sự tin tưởng ngược hẵn với thuyết Vô Ngã (Anatta). Thuyết Vô Ngã là thuyết nòng cốt hay thuyết cốt yếu của Phật giáo
(Xem: 113316)
Cái hại của sự ngu si đối với chính mình, phá hoại chính công việc của mình là điều mà kinh Phật thường nói đến. Người ngu làm những việc mà họ không nhận thức được lợi hại, có khi như một kẻ mất trí, không biết mình đang làm gì. Trong Kinh Tiểu bộ, một loạt bài kinh phê phán ngu si tự phá hại việc làm của mình được đặt liền kề nhau.
(Xem: 117026)
Nếu ai làm cho mình bực thì mình qui trách cho người đó, kể như xong chuyện. Nhưng, Đức Phật thì Ngài nói đến những trạng thái tham sân. Trạng thái sân đến từ nhiều căn đế, mà chúng ta rất khó có thể tưởng tượng, nếu chúng ta không phải là người hiểu Phật Pháp
(Xem: 108716)
Phật giáo Nam Tông người Kinh phát triển chủ yếu tại hai thành phố lớn làSaigon và Thừa Thiên – Huế. Khoảng thập niên 30 của thế kỷ 20, Phật giáo Nam Tông người Kinh có mặt tại Sài Gòn – Gia Định. Đó là các nhà sư người Việt sang Campuchia tu học và trở thành những đoàn truyền giáo Phật giáo Nguyên Thủy đầu tiên tại Việt Nam bao gồm: hòa thượng Thiện Luật, hòa thượng Hộ Tông, hòa thượng Huệ Nghiêm.
(Xem: 18353)
Lý tưởng A-la-hán thường được xem là lý tưởng dẫn đạo cho Phật giáo Nguyên Thủy và lý tưởng Bồ tát là lý tưởng dẫn đạo của Phật giáo Đại Thừa. Nhận định này không hoàn toàn đúng, vì truyền thống Nguyên Thủy đã thể nhập lý tưởng Bồ tát trong giáo lý cơ bản và như vậy đã công nhận giá trị của quả vị A-la-hán và quả vị Phật đều là hạnh nguyện tu tập của người xuất gia. Vì thế, nói một cách chính xác hơn thì lý tưởng A-la-hán và lý tưởng Bồ tát là những lý tưởng dẫn đạo cho cả Phật giáo Tiền Nguyên Thủy lẫn Phật giáo Đại thừa
(Xem: 22199)
Tín ngưỡng dân gian cho rằng phóng sinh là một hành động thể hiện lòng từ bi và giải trừ được nghiệp chướng. Tục thả chim phóng sinh (sanh) vì thế rộn ràng nhất vẫn là vào các ngày rằm và ngày lễ vía, đặc biệt những ngày đầu năm mới.
(Xem: 18611)
Đạo Phật Việt Nam giống và khác nhau với đạo Phật Trung Hoa, Nhật Bản, Tây Tạng, Thái Lan, Miến Điện chỗ nào? Đạo Phật còn khác nhau về các ‘thừa’: Tiểu Thừa (Theravada- Nguyên Thuỷ), Đại thừa, Kim Cương thừa, các tông phái liên hệ đến cách hành trì: Thiền & Tịnh Độ. Ngay cả trong Thiền còn chia ra thành Lâm Tế & Tào Động & Đốn Ngộ & Tiệm Tu. Những người ngoài cửa hay mới vào cửa đã thấy nhức đầu và tẩu hỏa nhập ma
(Xem: 18998)
Tốt và xấu có phạm vi ý nghĩa khá rộng, và sự đánh giá tốt xấu về một người, một hành vi, còn tùy thuộc vào quan niệm xã hội, những quy định, quy ước và cả cách nhìn của mỗi cá nhân. Tốt và xấu là những tiêu chí để đánh giá đạo đức. Thông thường, một người tốt được nghĩ là một người có đạo đức, và ngược lại. Cũng như vậy, những hành vi được xem là tốt khi hành vi ấy tuân theo những nguyên tắc đạo đức nào đó; và ngược lại, những hành vi được coi là xấu khi chúng chệch ra khỏi những nguyên tắc đạo đức.
(Xem: 88057)
Phước đức dù cực khổ gieo tạo nhiều đời, nhưng do cái miệng tạo nghiệp, phê bình, chỉ trích, nói lời ác... thì trong giây phút cũng có thể tiêu tan.Cái miệng, lưỡi của người thế gian điều hại sẽ nhiều hơn điều lợi rồi. Tạo hóa sinh ra con người có hai lổ tai, nhưng chỉ có một cái miệng, cho nên phải nghe nhiều hơn nói, mới đúng với tự nhiên, được thân người là khó, có đầy đủ lục căn và miệng lưỡi trọn vẹn là phước đức quá rồi, hãy nhân vốn phước báu nầy mà gieo trồng thêm phước đức ra nữa, thì mới là người khôn, bởi vậy phải lo: Tu cái miệng là điều cần thiết nhất và xem như tu hơn nửa đời người rồi.
(Xem: 34047)
Trước hết phải nói rằng trong giới luật thuộc truyền thống Nguyên Thủy, không có giới cấm ăn thịt cá, mặc dầu có giới cấm sát sanh. Phật giáo Nguyên Thủy quan niệm rằng ăn cách nào cũng được, tùy duyên mà ăn cho có đủ sức khỏe để hành trì giáo pháp, ăn chay mà thân thể yếu đuối xanh xao, tinh thần bạc nhược thì rất tai hại, đường tu đạo đã không được tiến hóa mà còn trở ngại cho sự tu hành.
(Xem: 115322)
Việc đầu tiên của đức Phật sau khi giác ngộ là thành lập Tăng đoàn gồm những đệ tử xuất gia theo Ngài, những hiền nhân nay đây mai đó, những người từ bỏ tất cả để học Phật pháp và hoằng dương giáo lý giải thoát. Họ sống bằng cách đi khất thực từ nhà này đến nhà khác, và sở hữu của họ không có gì ngoài ba chiếc áo và một cái bình bát. Danh từ khất sĩ có từ đó. Khất Sĩ có nghĩa là khất thực và khất pháp, tức là xin vật thực của người đời để nuôi thân và xin Pháp của Phật để tu hành nuôi tâm.