Nói năng như Chánh Pháp

Sunday, October 20, 201312:00 AM(View: 18508)

Nói năng như Chánh Pháp

Vĩnh Trưng

 

Bottom of Form

 Khách thập phương viếng thăm cảnh chùa đôi khi bắt gặp câu “Nói năng như Chánh pháp” được thể hiện đâu đó trong khung cảnh trang nghiêm thanh nhã của chốn thiền môn.

Đó là câu nói khá quen thuộc của nhà Phật, cốt yếu khuyên nhắc những người con Phật, đặc biệt là người xuất gia, cần phải lưu tâm gìn giữ và vận dụng lời nói của mình sao cho phù hợp với Chánh pháp hay thể hiện lời nói đúng như lời Phật dạy. Nghĩa là những lời nói ra phải bảo đảm mang lại lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác.

blankTrong phương pháp giáo dục của Ngài, Đức Phật quan tâm huấn luyện các học trò mình rất kỹ, cốt yếu tập cho họ có được một nền tảng đạo đức trong sáng, thể hiện trong đời sống cá nhân cũng như trong quan hệ ứng xử với mọi người. Cụ thể là việc rèn luyện thân, miệng, ý trở nên đoan chánh ngay thẳng, không rơi vào khiếm khuyết hư hỏng. Tất cả mọi hành vi thiện hay ác, tốt hay xấu của con người đều xuất phát từ ba cửa ngõ là thân, miệng, ý. Do đó, nếu một người mà thân, miệng, ý không được uốn nắn cho ngay thẳng thì mọi hành vi của người ấy sẽ rơi vào khiếm khuyết xấu ác, đưa đến hại mình hại người. Trái lại, người nào có thân tu tập, có lời tu tập, có tâm tu tập thì mọi hành động của người ấy sẽ trở nên hiền thiện tốt đẹp, đưa đến lợi mình lợi người. Vậy thế nào là lời nói đưa đến lợi mình lợi người hay “nói năng như Chánh pháp”?

Trước hết, người con Phật phải biết giữ gìn lời ăn tiếng nói của mình, không để cho miệng lưỡi rơi vào những lời nói sai trái xấu ác gây tổn hại cho tự thân và phương hại đến người khác như nói láo, nói hai lưỡi, nói lời thô ác, nói lời phù phiếm vô ích. Thay vào đó, vị ấy chỉ nên nói những điều chân thật, đúng đắn; những điều đưa đến đoàn kết, hòa hợp; những điều tao nhã, hiền hòa; những điều có ý nghĩa, lợi lạc. Đức Phật nhắc nhở các học trò mình:

“Vị Thánh đệ tử từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo; nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi; nghe điều gì ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp. Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người, vui lòng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy. Vị ấy từ bỏ nói lời phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ý nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi”.

Như vậy, nói năng như Chánh pháp hay thể hiện lời nói đúng như lời Phật dạy trước hết là tập dứt bỏ nói dối, chỉ chuyên tâm nói đúng sự thật; dứt bỏ nói lời gây chia rẽ người này người khác, chỉ nói những lời đưa đến hòa hợp; dứt bỏ nói những lời thô ác, chỉ nói những lời nhẹ nhàng hiền hòa; dứt bỏ nói những điều phù phiếm vô ích, chỉ nói những điều có ý nghĩa, khiến tâm tư được tịnh lạc. Theo lời Phật, người nào thể hiện lời nói của mình theo cách trên tức là có khẩu hành thanh tịnh, biết nghĩ đến lợi ích của mình và lợi lạc cho người khác[1].

Một phương diện quan trọng khác liên quan đến việc thể hiện lời nói phù hợp với Chánh pháp hay đúng với tinh thần lời Phật dạy, đó là người Phật tử cần phải cân nhắc lời nói của mình, xem điều mình nói ra có đúng thời hay không, có chân thật hay không, có nhu nhuyến hay không, có lợi ích hay không và có từ tâm hay không. Nếu lời nói ra hội đủ năm đức tính trên thì được xem là “nói năng như Chánh pháp” hay thực tập “khẩu hành thanh tịnh” đưa đến tự lợi và lợi tha. Nói cách khác, Đức Phật khuyên chúng ta nên nói đúng thời, nói lời chân thật, nói lời nhu thuận, nói lời có lợi ích và nói với lòng từ bi thương quý mọi người. Ngài nhắc nhở các đệ tử:

“Chư Tỷ-kheo, có năm loại ngôn ngữ mà các Thầy có thể dùng khi nói với các người khác: đúng thời hay phi thời, chơn thực hay không chơn thực, nhu nhuyến hay thô bạo, có lợi ích hay không lợi ích, với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói đúng thời hay phi thời. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời chơn thực hay nói lời không chơn thực. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời nhu nhuyến hay nói lời thô bạo. Chư Tỷ-kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói lời lợi ích hay nói lời không lợi ích. Chư Tỷ- kheo, khi nói với các người khác, các Thầy có thể nói với từ tâm hay với sân tâm. Chư Tỷ-kheo, ở tại đây, các Thầy cần phải học tập như sau: “Chúng ta sẽ giữ tâm của chúng ta không biến nhiễm, chúng ta sẽ không thốt ra những lời ác ngữ, chúng ta sẽ sống với lòng lân mẫn, với tâm từ bi, với nội tâm không sân hận. Chúng ta sẽ sống bao phủ người này với tâm câu hữu với từ. Và với người này là đối tượng, ta sống biến mãn cùng khắp thế giới với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân”. Chư Tỷ-kheo, như vậy các Thầy cần phải học tập”
[2].

http://www.thienvienphuocson.net/home/images/10a-2013/noi-nang-nhu-chanh-phap2.jpg

Đúng thời tức là lời nói ra phải đúng lúc, hợp thời, đúng đối tượng, khiến cho người nghe có thể tiếp thu lời nói một cách có hiệu quả. Một người đang ăn hay đang mải mê làm công việc mà nói cho người ta nghe về điều gì đó thì không đúng lúc và lời nói sẽ không có hiệu quả. Hãy để cho người ta rảnh tay đã rồi mới nói thì lời nói mới có tác dụng tốt đẹp. Tương tự, một người đang học cấp một mà nói những vấn đề thuộc trình độ cấp ba thì cũng không đúng lúc và lời nói cũng không có hiệu quả.

Chân thật tức là lời nói ra phải chân chánh đúng đắn, xuất phát từ tâm chân trực, thẳng thắn, không thiên vị, không vụ lợi. Kinh Phật gọi là “nói như hoa”, nghĩa là lời nói đúng sự thật, thấy thì nói có thấy, không thấy thì nói không thấy; biết thì nói có biết, không biết thì nói không biết; nghe thì nói có nghe, không nghe thì nói không nghe [3]…

Nhu nhuyến tức là lời nói ra phải nhẹ nhàng, từ tốn, hiền hòa, thuận tai, dễ nghe, khiến người khác hoan hỷ, hài lòng, phát khởi lòng tin hướng về thiện pháp. Kinh Phật gọi là “nói như mật” hay nói lời từ tốn, tức là “lời nói không hại, khiến tai ưa nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích, được nhiều người thích ý” [4] hay “mặt đối mặt với ai, không nói lời mất lòng; chỉ nói từ từ, không có vội vàng” [5]

Có lợi ích nghĩa là lời nói ra phải bảo đảm đưa đến lợi lạc cho người nghe, khiến cho người nghe phát khởi tín tâm, tăng trưởng điều lành, giảm thiểu điều ác, tăng trưởng giới đức, tâm đức, tuệ đức, giải thoát và giải thoát tri kiến đức. Để làm được điều này, người con Phật phải biết tránh đề cập các vấn đề thuộc lãnh vực dục vọng thế gian, chỉ tập trung thảo luận hay làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến Phật pháp, khiến cho người nghe tăng trưởng tín tâm mà chuyên tâm thực hành lời Phật dạy [6].

Có từ tâm nghĩa là lời nói ra phải xuất phát từ động cơ thương quý người khác, mong muốn cho người nghe được lợi ích an lạc, không phải vì ghét bỏ hay do sân hận bực phiền mà “trút lên đầu người ta” những lời báng bổ. Đức Phật khuyên các học trò mình nuôi dưỡng thái độ tôn trọng và thương quý người khác bằng cách thực thi thân hành từ ái, khẩu hành từ ái, ý hành từ ái đối với hết thảy mọi người, cả trước mặt lẫn sau lưng [7]. Khẩu hành từ ái tức là những lời nói ra có từ tâm, xuất phát từ lòng thương quý người khác, mong muốn cho người khác được tiến bộ lợi lạc trong thiện pháp.

Để hỗ trợ cho việc thực thi lời nói có hiệu quả tốt đẹp, nghĩa là đúng thời, chân thật, nhu nhuyến, có lợi ích và có từ tâm, Đức Phật khuyên mỗi người chúng ta cần phải biết nuôi dưỡng tâm ý trong sáng, không biến nhiễm, có lòng lân mẫn đối với người khác, có nội tâm an tịnh, không hận, không sân, tuyệt không nói lời ác. Bởi mỗi lời nói hay việc làm là hiện thân của ý tưởng hay hệ quả sự vận hành của tâm thức. Vì vậy, nếu một người có tâm ý trong sạch, an tịnh, không cấu uế, không giận dữ bực phiền, có lòng thương quý người khác thì tự nhiên sẽ có lời nói chân chánh, hiền thiện, lợi mình lợi người. Tâm trong sáng hiền thiện thì lời nói trong sạch hiền hòa.

Nhìn chung, “nói năng như Chánh pháp” hay thực thi lời nói phù hợp với Chánh pháp, đúng như lời Phật dạy, là một pháp môn tu tập hết sức căn bản và quan trọng của người con Phật. Tu tập lời nói thuộc về phạm trù đạo đức, giúp cho cá nhân cơ hội thực tập và hoàn thiện nhân cách của chính mình, đồng thời khiến cho cuộc sống trở nên hiền thiện tốt đẹp, đưa đến hạnh phúc an lạc cho nhiều người. Do tầm quan trọng của nó trong cuộc sống, đạo Phật xem lời nói là một phương tiện hữu hiệu, cần được sử dụng đúng đắn và thích đáng để thiết lập hạnh phúc cho mình và tạo an lạc cho người khác. Nói như thế nào để không gây tổn hại cho mình và không phương hại đến người khác, để mang lại lợi ích cho mình và lợi lạc cho người khác. Người con Phật luôn tự dặn lòng mình như thế và tìm thấy các chỉ dẫn căn bản cho việc thực thi lời nói của mình thông qua những lời dạy hiền thiện của Đức Bổn sư.

Chú thích:

1. Kinh Những người ở Veludvàra, Tương Ưng Bộ.

2. Kinh Ví dụ cái chưa, Trung Bộ.

3. Kinh Nói như hoa, Tăng Chi Bộ.

4. Kinh Nói như hoa, Tăng Chi Bộ.

5. Kinh Vô tránh phân biệt, Trung Bộ.

6. Kinh Những đề tài câu chuyện, Tăng Chi Bộ.

7. Tiểu kinh Tùy phiền não, kinh Kosambiya, Trung Bộ.

Theo: Văn hóa Phật giáo số 153/ vanhoaphatgiaoblog.com

 

Send comment
Your Name
Your email address
(View: 18653)
Cúng dường lên đức Phật bằng cách HÀNH ĐẠO là cao thượng nhất. Tuy nhiên, đó là nói về Lý. Còn Sự để tỏ lòng thành kính lên đấng CHÍ TÔN người Phật tử cũng có thể dùng hương, đèn, trầm, hoa lên cúng Phật với đầy đủ Lý và Sự cũng được chấp thuận nhận là hiệp theo lẽ Đạo.
(View: 26908)
Chúng ta, những người hậu học, chúng ta hãy thử không chấp nê vào từ ngữ, và nghiên cứu xem những gì là mới, là sáng tạo mà các Tổ Sư đã đem lại cho nội dung và hình thức của Thiền Như Lai, tức là Thiền Nguyên Thủy, như chúng ta có thể biết rõ trong các bài kinh nổi danh, như "Kinh Tứ Niệm Xứ (Satipatthana-sutta)" Trung Bộ 1 trang 96. Các Kinh "Nhập tức xuất tức niệm", "Thân hành Niệm", "Đại kinh bốn mươi" (Trung Bộ III, trang 194, 206, 184) v.v...