(Xem: 1836)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2288)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Bát Quan Trai _ ý nghĩa của Bát Quan Trai

02 Tháng Mười Hai 201212:00 SA(Xem: 16645)


Bát Quan Trai là gì.?
Ý nghĩa Bát Quan Trai.


Ngài Đại Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác giảng trong khóa tu học tại Âu Châu.

Bát Quan Trai giới là một phương pháp tu hành tích cực và thù thắng của người tại gia cư sĩ. Đời sống tại gia rất bận rộn phiền phức nhiêu khê do đó ít có thì giờ để tiến tu đạo hạnh một cách tích cực hầu tạo điều kiện giải thoát giác ngộ cho bản thân. Do vậy vì lòng đại từ đại bi Đức Bổn Sư Từ Phụ có cho phép người tại gia cư sĩ ở trong sáu ngày người ta biết tới đó là danh từ ở trong kinh tạng dùng ý nói: ngày mùng 8, 14,15, ngày 23, 29, 30, gọi là sáu ngày người ta biết tới theo phong tục cổ truyền Ấn Độ và các tôn giáo cũng như những người không có tín ngưỡng cũng nhìn nhận sáu ngày này là sáu ngày rất quan trọng và liên hệ đến đời sống của con người, và nhất là tất cả những ước vọng hoài bảo mà người nào muốn thành tựu những hoài bảo ước vọng đó thì họ đến cây cao bóng mát chùa hương ngũ sập hoặc giả là những nơi linh thiêng ở trong những ngày này: mùng 8, 14, 15, 23, 29, 30, để cầu tài, cầu lộc, cầu lợi, cầu tự, cầu danh, bất cứ cầu phước, cầu gì thì cũng chọn một trong sáu ngày này cho nên trong kinh gọi sáu ngày này là ngày người ta biết tới.

Ở đây chúng ta phải nhìn nhận một điều đó là đời sống của người tại gia cư sĩ ở Âu Châu, Úc Châu cũng như ở Mỹ Châu, những ngày làm việc quả thực vô cùng bận rộn không có thì giờ để tu hạnh Bát Quan Trai, nếu hạ quyết tâm thì cũng có thể tu được, đó là trong sáu ngày ấy thức dậy sớm rồi sau khi lên nhang lên đèn hoa quả cúng Phật và lễ Phật rồi phát nguyện trước kim thân Phật bằng giấy, bằng xi măng, bằng gì cũng được, rồi tự phát nguyện thọ trì Bát Quan Trai giới:

"Bạch Đức Thế Tôn, hôm nay là ngày Bát Quan Trai giới của đệ tử, đệ tử xin phát nguyện thọ trì Bát Quan Trai giới"

Và sau khi nói như vậy rồi tự mình lập lấy:

"Đệ tử xin quy y Phật, xin quy y Pháp, xin quy y Tăng, lần thứ hai đệ tử xin quy y Phật, xin quy y Pháp, xin quy y Tăng, lần thứ ba đệ tử xin quy y Phật, xin quy y Pháp, xin quy y Tăng".

Rồi sau đó đọc tám giới:

"Đệ tử nguyện giữ giới không sát hại sanh vật, không lấy của không cho, không hành vi phạm hạnh, không nói sai sự thật, không say đắm rượu men rượu nấu, không ăn phi thời và không ca vũ nhạc kịch và trang điểm, không xử dụng sàng toạ quá cao sang lộng lẫy."

Sau đó tự phát quyết lấy bản thân:

"Đệ tự nguyện thọ trì Tam Quy và Bát Quan Trai giới trọn đủ tám đêm mà Đức Thế Tôn giáo truyền hầu vâng giữ hành theo cho được trong sạch trọn ngày nay và đêm nay hầu gieo duyên lành giải thoát ở trong ngày vị lai."

Thì ngày hôm đó trở thành ngày thọ trì Bát Quan Trai giới và bản thân trở thành hành giả của Bát Quan Trai Gìới, tuy nhiên vì là ngày làm việc sợ e không được thanh tịnh và trong sạch lắm vì đi làm giờ giấc không được nhất định do đó thường thường thì qúi Phật tử vào ngày cuối tuần, và Chư Tăng cũng hoan hỷ trao truyền Bát Quan Trai giới cho vào ngày cuối tuần như thời giờ rỗi rảnh của qúi vị. Nhất là một cơ duyên rất đáng khích lệ và rất thù thắng đó là qúi vị có thể đến chùa sống ở chùa 24 tiếng, nếu được Chư Tăng hướng dẫn nữa thì quả thật là một ngày thanh tịnh vô cùng hoan hỷ, nhưng nếu không có Chư Tăng hướng dẫn thì qúi vị cũng tự hoan hỷ lấy hạnh tu cao của mình và đó là công đức vô lậu.

Công đức tức là phước, có hai: hữu lậu và vô lậu.

Hữu lậu là những công đức mà qúi vị phát tạo trong cuộc sống như bố thí cúng dường, nhưng lẽ dĩ nhiên qúi vị thụ hưởng được ở trong vô số lượng kiếp về sau được năm cái hạnh phúc đó là: sắc thù thắng, thọ mạng lâu dài, và hạnh phúc tròn đầy, sức khỏe phi thường, và trí tuệ minh mẫn, ở trong vô số lượng kiếp mà tối thiểu cũng phải 500 kiếp sống về sau. Khi nghĩ đến những công đức mình có thể gặt hái được ở trong những kiếp lai sinh thì chúng ta cũng có phần hoan hỷ, nhưng phần hoan hỷ này có lẫn lộn với phiền não tức là vẫn còn tiếp tục tham sân si mạn nghi hỉ nộ ái ố dục lạc thất tình lục dục và ma vương vẫn còn chi phối chúng ta và con đường sinh tử luân hồi vẫn còn kéo dài, nhưng nếu ngày Bát Quan Trai Giới thì nhờ công đức hành trì Bát Quan Trai Giới đó tạo được một công đức vô lậu chứ không phải là hữu lậu

Vô lậu tức là công đức Bát Quan Trai Giới có khả năng trợ duyên hành giả thoát khỏi nguồn sanh tử luân hồi và đoạn trừ được tất cả những phiền não nghiệp chướng do đó công đức này vô cùng phi thường cao thượng thù thắng, nó rộng lớn cho đến đỗi ở trong kinh đưa ra một hình ảnh để thí dụ người nào đó có đầy đủ điều kiện có thể cúng dường tứ sự tức là y phục, thực phẩm, chỗ ở, thuốc men cho Chư Phật mà ngự đầy trong vũ trụ này, tức là ở trong vũ trụ này Chư Phật ngự đầy hết mà cúng dường như vậy mỗi ngày, suốt cả một trăm năm của đời sống này, cúng dường như vậy cũng không bằng một 1/16 của công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới, thì qúi vị thấy công đức thọ trì Bát Quan Trai Giới lớn tới mức nào.

Nhưng tại sao nói về lẽ cúng dường Chư Phật thì qúi vị cũng hưởng vô lượng công đức, nhưng hồi nãy Thầy nói dung sắc thù thắng thọ mạng lâu dài hạnh phúc trọn đời sức khỏe phi thường và trí tuệ minh mẫn ở trong vô số lượng kiếp vẫn còn sinh tử luân hồi. Tất cả chúng ta phát tâm thọ trì Bát Quan Trai Giới thì qúi vị trở thành hành giả Bát Quan Trai Giới, nhờ công đức của Bát Quan Trai Giới này sẽ trợ duyên cho tất cả qúi vị thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi mà Chư Phật chỉ có một đại nguyện đó là khai thị chúng sanh ngộ nhập tri kiến tức là khai mở cho tất cả chúng sanh ngộ tức là thấy được đắc được, cơ thể nhập vào tri kiến tức là sự thấy sự biết Chư Phật hay gọi là Phật tính hay là giác tính hay là Bồ Đề tính do đó hôm nay tất cả qúi Phật tử là hành giả của Bát Quan Trai Giới, cái công đức này quả thật là vô cùng thù thắng.

Trong đời sống của tất cả qúi vị nếu không được Chư Tăng hướng dẫn thì quả thật khó mà tạo được công đức này. Trong bản chương trình ĐĐ Giác Đẳng có giải thích một cách rất ngắn và gọn, qúi vị có bản đó thì lật ra sẽ thấy lời giải thích rất là hàm xúc, gọn gãy và sáng sủa, chỉ đọc qua là hiểu ngay tại sao chúng ta phải tu hạnh Bát Quan Trai Giới. Hôm nay có thể nói được là đời sống của tất cả qúi vị trong 24 giờ đồng hồ này nó tương đồng lại với đời sống của Chư Tăng, Chư Tăng cũng vậy thôi, nhưng nếu không phải là ngày Bát Quan Trai giới thì đời sống của tất cả qúi vị không tương đồng với đời sống của Chư Tăng. Đời sống của Chư Tăng ngoài ra không sát hại sinh vật, không lấy của không cho, không hành phi phạm hạnh, không nói sai sự thật, không say đắm rượu men rượu nấu, thì tất cả qúi vị ngày hôm nay với Chư Tăng giống nhau là không ăn phi thời, đại ý nói ba giới sau là để tiết chế những ái dục, những tham dục, những dục niệm, những dục vọng, những phiền não mà tất cả có thể bắt nguồn từ đó mà ra, từ cái ăn, từ cái mặt từ cái trang điểm, từ cái thấy cái nghe sắc đẹp tiếng hay mùi thơm vị ngon, từ cái xúc chạm và phiền não từ đó mà có chứ không phải phiền não từ đâu, thường thường thì chúng ta tưởng rằng phiền não nó ở đâu, nhưng sự thật là phiền não ở ngay trong thân ta tức là ở mắt, ở tai, ở mũi, ở miệng, ở thân, và ở trong chúng ta, do vậy để tiết chế và đồng thời cũng để sống thật sự làm chủ lấy mình đó là tự thắng tự chủ.

Đời sống tự thắng tự chủ này nếu không phải là ngày Bát Quan Trai Giới thì quả thật qúi vị không có giờ phút nào cả, qúi vị là nô lệ của ác ma, bị ác ma sai xử và tất cả chúng ta trở thành thân phận của con cá nuốt lấy mồi của ác ma, mồi là sắc đẹp tiếng hay mùi thơm vị ngon xúc lạc, trong khi nuốt phải miếng mồi của ác ma đó rồi thì ác ma là người bỏ miếng mồi đó và trong miếng mồi đó có lưỡi câu, lưỡi câu đó là sanh tử già bịnh chết ái biệt ly oán hội cầu bất đắc sầu bi khổ ưu não, và tất cả những khổ đó chính là lưỡi câu, còn miếng mồi đó sắc đẹp tiếng hay mùi thơm mà ác ma chính là kẻ câu cá, thì khi thân phận của chúng ta là con cá mà lỡ nuốt mồi trong đó có lưỡi câu rồi thì quả thật con cá không cưỡng lại được, thân phận của con cá cuối cùng như thế nào thì chúng ta biết rồi, từ cái đau khổ đến cái chết.

Nhưng ngày hôm nay tất cả chúng ta lại là một con cá khôn ngoan vẫn tự do bơi lội thong dong trong giòng nước mát và tùy theo sở thích của mình muốn bơi đi đâu thì đi muốn lặn đi đâu thì lặn tùy theo sở thích của mình mà không bị bất cứ một sự ràng buột nào, đó là hình ảnh của con cá không tham mồi, không nuốt mồi và không mắc lưỡi câu. Đây là hình ảnh ngày hôm nay của tất cả qúi vị là hành giả Bát Quan Trai Giới.

Hình ảnh thứ hai mà ở trong kinh "Bẩy mồi" đó là thân phận của tất cả chúng sinh mà không phải là hành giả của Bát Quan Trai Giới, không tu giới, không tu thiền thì giống như những con nai tơ còn nhỏ háo ăn thiếu kinh nghiệm, do đó những người thợ săn chuyên môn họ theo dõi và họ biết đường đi nước bước lối về của những con nai thì họ chận đường đó lại và họ mở thêm một con đường mới, và khi họ mở thêm con đường mới họ bỏ mồi ngon theo những con đường mới đó, bây giờ đây không đi được nữa thì thấy có con đường khác thì lại đi theo con đường đó, thấy có mồi ngon thì những con nai tơ vì thiếu kinh nghiệm và háo ăn cho nên thấy mồi thì ăn, ăn miếng mồi này thì thấy ở phía trước có mồi nữa và tiếp tục ăn như vậy rồi cuối cùng thì bị bẫy của những người thợ săn chuyên nghiệp, đó là thân phận của chúng sanh mà không hành Bát Quan Trai Giới, không tu giới và không tu thiền thì thân phận đó giống như những con nai tơ vừa háo ăn và vừa thiếu kinh nghiệm và thân phận của những con nai này như thế nào thì chúng ta biết rồi.

Nhưng nếu đó là hành giả của Bát Quan Trai Giới thì trong kinh cho rằng đó là hình ảnh của những con nai không háo ăn lớn rồi có kinh nghiệm và đi con đường quen thuộc không được, đường đi lối về bị ngăn nghẽn và bây giờ có con đường mới thì không còn cách nào nên phải đi, nhưng rất là cẩn thận, từng bước quan sát và sau khi quan sát từng bước thì thấy có mồi, nhờ có quan sát, nhờ không háo ăn, nhờ có kinh nghiệm sống cho nên những con nai già dặn này không ăn những miếng mồi đó và nhờ vậy không bị bẫy, điều thứ hai từ từ ăn, ăn một cách thận trọng chầm chậm khôn ngoan dè dặn, nhờ dè dặn thận trọng khôn ngoan và ăn được mồi nhưng không bị bẫy đó là hình ảnh của tất cả hành giả thọ Bát Quan Trai Giới ngày hôm nay, tức là hôm nay mắt chúng ta vẫn nhìn được chứ chúng ta không đui, tai ta vẫn nghe chứ không điếc, miệng ta vẫn nói và lưỡi ta vẫn ăn vì chúng ta không có câm, và chân ta vẫn đi, tay ta vẫn làm, vì chúng ta không què, tuy là như vậy nhưng cái nhìn hôm nay cái nghe, cái ngửi, cái nói, cái ăn, cái đụng chạm, cái suy nghĩ khác hơn những ngày thuờng, những ngày thường vì thiếu chánh niệm: nhìn thiếu chánh niệm, nghe thiếu chánh niệm, ngửi thiếu chánh niệm, ăn thiếu chánh niệm, nói thiếu chánh niệm, và đụng chạm thiếu chánh niệm, đi đứng thiếu chánh niệm. Ngày hôm nay thì cũng làm chừng đó việc nhưng có chánh niệm tức là biết mình, tỉnh và giác, nhờ có chánh niệm, có tỉnh và giác cho nên ngày hôm nay ngày mà hành giả Bát Quan Trai Giới thật sự đã đánh lạc hướng theo dõi của ác ma. Chúng ta khó lọt ra khỏi qũi đạo của ác ma, Đức Phật Ngài đã lọt ra khỏi, Chư Thanh Văn Đệ Tử các bậc Thánh Nhân đã lọt ra khỏi, ở trong đó có Tỳ Kheo, Tỳ Kheo Ni, có U Bà Tắt, có U Bà Di tức là thiện nam tín nữ đã lọt ra rồi, nhưng tất cả chúng ta cho tới ngày hôm nay vẫn chưa thoát ra khỏi cái qũi đạo của ác ma, chúng ta vẫn còn đi ở trong qũi đạo đó, nhưng ngày hôm nay thì quả thật chúng ta không đi trong qũi đạo của ác ma, chúng ta đã chọn cho mình một hướng đi khác. Hướng đi của ác ma là tham sân si mạn nghi hỉ nộ ái ố ai dục lạc sắc đẹp tiếng hay mùi thơm vị ngon xúc lạc, nhưng hướng đi ngày hôm nay của tất cả chúng ta chọn không phải như vậy. Qúi vị chỉ bình tâm một chút thôi thì qúi vị thấy ở trong tám giới qúi vị giữ đó quả thật là qúi vị đã tự chọn cho mình hướng đi khác rồi, hướng đi ngày hôm nay không tham, không sân, không si, không mạn, không nghi, cái hướng đi ngày hôm nay không có hỉ nộ ái ối ai dục lạc, cái hướng đi ngày hôm nay không vì sắc đẹp tiếng hay mùi thơm vị ngon và xúc lạc, tất cả những cái đó đối với chúng ta ngày hôm nay quả thật gần là vô nghĩa, thế thì qúi vị bình tâm một chút qúi vị sẽ thấy rằng chúng ta thật sự là tu rất cao, đời sống tu hành của tất cả người tại gia cư sĩ nghĩa là hành giả Bát Quan Trai Giới ngày hôm nay là ngang hàng với đời sống của Tăng lữ./.


**Vì không có số điện thoại hay địa chỉ để liên lạc xin phép, và muốn phổ biến PHẬT PHÁP đến với mọi người.
Vô Môn Thiền Tự xin phép được đăng lại một số bài viết hoặc Pháp âm của Quý Chư Tăng - Phật Tử - Thân hữu.
Trân trọng


**Đây là một bài của Phật tử sưu tầm và gửi về để chúng ta tham khảo.
Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 78611)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 81202)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 75936)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 51686)
Những lời Kinh tụng có linh nghiệm hay không? Sám hối có hết tội không? Làm sao để biết có sự linh nghiệm khi chúng ta tụng Kinh hoặc sám hối? Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại
(Xem: 152242)
Thời gian an cư là 16/6 ÂL đến 15/9 ÂL, còn gọi là Tiền An cư (purimika vassūpanāyika). Nhờ có sự an cư kiết hạ mà chư Tăng, Ni mới làm cho Phật pháp được sống còn, vì có an cư kiết hạ mà Giới, Định, Tuệ mới có điều kiện phát huy. Nơi nào còn Giới, Định, Tuệ, nơi đó mới còn Phật pháp
(Xem: 32219)
45 năm, 45 mùa an cư kiết hạ của Đức Thế Tôn đã trải qua. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại được nhưng những bước chân của Ngài và chư Tăng trên khắp nẻo đường để thuyết pháp tế độ chúng sanh vẫn lưu lại. Đó là hình ảnh đẹp, tấm gương sáng về một bậc vĩ nhân duy nhất trong tam giới này.
(Xem: 112390)
Quyết định chọn ngày lễ Tam Hợp như là ngày lễ Đức Phật Đản Sanh đã được nghi thức hoá tại hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới - World Fellowship of Buddhists (W.F.B.) diễn ra tại Tích Lan vào năm 1950, mặc dù ngày nay các ngày lễ Phật giáo trên thế giới đã có truyền thống từ hàng thế kỷ nay.
(Xem: 24794)
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu nhân, phàm ra thánh. Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được gọi là Appamannà (vô lượng). Gọi như vậy bởi vì Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn bao la, không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định.
(Xem: 21948)
Kinh văn Pāli có ý nghĩa rõ ràng, không phải là mật chú. Người đọc tụng các bài Kinh Pāli nếu hiểu được ý nghĩa thì tín tâm sẽ được hun đúc, trí tuệ sẽ được phát triển, và phước báu càng thêm tăng trưởng. Nhờ vậy thời công phu tụng Kinh sẽ được thành tựu oai lực trọn vẹn, không những có kết quả hộ trì trong thời hiện tại, mà còn là nhân duyên để không bị xu huớng theo tà kiến ngoại đạo, để được gặp Phật, rồi nhờ vào thiện pháp đã tích lũy mà được thoát khỏi các nỗi khổ đau, và thành tựu quả vị giải thoát không còn sanh tử luân hồi trong ngày vị lai
(Xem: 26817)
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy - Nam Tông, câu kệ lễ Phật "Namo Tassa bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa" (phiên âm theo tiếng Việt: Ná-mô tá-sá phá-gá-vá-tô á-rá-há-tô sâm-ma sâm-bút-thá-sá) được dịch nghĩa theo kinh tụng Phật giáo Nam tông Việt Nam là "Con đem hết lòng thành kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy"
(Xem: 22939)
12 nhân duyên sanh tử luân hồi được hình thành hay cụ thể hoá trong vòng bánh xe luân hồi. Sau này đối với bên Hán học bên Bắc Tông cụ thể là HT Minh Châu dịch là Duyên Khởi và sau này đối với Ngài Tịnh Sự thì đôi khi Ngài dịch là Duyên Sinh, đôi khi Ngài dịch là Liên Quan Tương Sinh, rồi sau cuối cùng của đời Ngài dịch là Y Tương Sinh
(Xem: 21903)
Sau ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày kết thúc an cư mùa mưa, chư Tăng phải hội lại tại trú xứ mà mình nhập hạ để làm lễ tự tứ (pavāraṇā). Ngày Tự tứ có thể thực hiện vào ngày rằm tháng 9, cuối tháng 10 hoặc là trễ lắm là vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, nghĩa là phải làm lễ tự tứ trong thời gian mùa mưa, không được quá mùa mưa. Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu hay nói cách khác là sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ khưu đương sự thấy lỗi của mình mà sửa sai và hoàn thiện bản thân.
(Xem: 19780)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
(Xem: 24927)
Đây là lễ hội hàng năm duy nhất của Phật giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế. Đối với những người dân theo Phật giáo Nguyên thủy, đại lễ dâng y kathina mang một ý nghĩa hết sức to lớn, vừa thể hiện thiện tâm của người phật tử đối với việc hộ trì tăng đoàn, vừa tạo nên niềm vui lớn trong mùa lễ hội cho người phật tử tại gia, đồng thời đại lễ dâng y cũng còn nhắc nhở cho tứ chúng, cả hàng phật tử xuất gia và tại gia, luôn nhớ về và trân trọng tấm lòng của đàn tín.
(Xem: 92931)
Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á.
(Xem: 30295)
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần. Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng
(Xem: 20522)
Đó không phải chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa học. Theo cách dùng thông thường, từ mindfulness trong tiếng Anh có ý nghĩa đơn giản là biết, hay lưu ý. Sati có ý nghĩa phong phú hơn, vì thế những ai muốn thực hành thiền Phật giáo cần phải hiểu rõ từ này và những từ liên quan khác dựa trên những văn liệu có thẩm quyền nhất có thể có được. Nếu không, thiền Phật giáo sẽ nhanh chóng phát triển thành một loại tư tưởng “đây và bây giờ” hồ đồ, mà nơi đó, sự thâm sâu và phong phú của những truyền thống thiền Phật giáo siêu việt sẽ bị mai một.
(Xem: 36807)
Có một hành giả học giả (vì biết vị này có ngồi thiền và cũng có nghiên cứu Kinh điển) làm research cho biết rằng: Ở bản dịch Trung Bộ Kinh có tới 232 chữ chánh niệm, còn chữ sammāsati (23) sammāsatiyā (3) sammāsatiṃ (2) sammāsatissa (2), chỉ gặp có 30 lần. Cũng như đã gặp ở 1 đề tài gần đây về chữ satimā (được dịch là “chánh niệm”, thay vì CÓ NIỆM. khiến số lượng các chữ “chánh niệm” nhiều hơn đến 202 lần. Trong ngôn ngữ thường ngày hình như chữ “chánh niệm” được sử dụng cũng nhiều, ví dụ như vị Trụ Trì của Sư ngày xưa thường hay nhắc nhở rằng: “Mấy Sư phải có chánh niệm một chút.” Vậy nên hiểu NIỆM VÀ CHÁNH NIỆM như thế nào đây ?
(Xem: 105107)
Tỉnh thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức, ngay cả trong lúc thở, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v. Mục đích của sự chú tâm là kiểm soát và làm lắng dịu tâm. Đây là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái mình muốn.
(Xem: 101888)
Phương pháp tu thiền vipassana là con đường dẫn đến giải thoát mọi ràng buộc khổ đau; nó đoạn trừ tham, sân, si là nguyên nhân của mọi khổ đau. Hành giả vipassana tu tập để dời đi, một cách tuần tự, căn nguyên của khổ và thoát ly sự đen tối của những căng thẳng từ trước để dẫn đến cuộc sống sung túc, lành mạnh và hạnh phúc