(Xem: 1967)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2363)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

39-40-Phẩm hạnh A La Hán...

30 Tháng Năm 201312:00 SA(Xem: 14491)


39 - Phẩm hạnh A La Hán

"Dù ít tụng nhưng hành đúng giáo lý,
diệt tham, sân, si,
tri kiến chân chánh, tâm siêu thoát,
không luyến ái, tại đây và về sau.
Người ấy sẽ chứng nghiệm thành quả
của đời sống phạm hạnh thiêng liêng." -- Kinh Pháp Cú

 

Trong Tam Tạng kinh điển có rất nhiều Phật ngôn mô tả trạng thái vắng lặng và hạnh phúc của một vị A La Hán, còn tạm trú trên thế gian cho đến khi ngũ uẩn chấm dứt, để phục vụ những ai muốn tìm Chân Lý, bằng lời giáo huấn và gương lành trong sạch.

Kinh Pháp Cú ghi lại những Phật ngôn sau đây:

Đối với người đã trải qua suốt cuộc hành trình [1], chấm dứt mọi ưu phiền [2], hoàn toàn siêu thoát [3], cắt đứt mọi trói buộc [4], nhiệt độ (tham ái) không còn nữa .[5] -- (câu 90)

Người tự lực cố gắng giữ tâm niệm, không luyến ái, không đeo níu theo nơi trú ẩn nào; cũng tựa hồ như những con thiên nga đã lìa ao hồ, người ấy rời bỏ nhà này đến nhà khác, và ra đi. [6] -- (câu 91)

Những ai không tích trữ [7], giữ chánh niệm khi dùng vật thực [8], những vị đã nhắm sự Giải Thoát, vốn hư không và vô hình tướng, như đối tượng của mình [9]. Lộ trình của những vị ấy không khác nào lộ trình của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại được. -- (câu 92)

Người tận diệt ô nhiễm, không luyến ái vật thực, nhắm đến Giải Thoát, vốn hư không và vô tướng, như đối tượng của mình. Con đường của Ngài không khác nào con đường của đàn chim bay trên không trung, không thể vẽ lại. -- (câu 93)

Chư vị A La Hán chứng nghiệm hạnh phúc Niết Bàn bằng cách chứng đắc Đạo Quả A La Hán trong kiếp sống hiện tiền. Đã chế ngự lục căn như tuấn mã được huấn luyện thuần thục, đã tiêu trừ ngã mạn và không còn ô nhiễm, người vững chắc như thế, chí đến chư Thiên cũng quý mộ. -- (câu 94)

Như đất, người giữ tâm quân bình và có nếp sống kỷ cương không còn xúc động. Người ấy như trụ đồng Indakhila [10], như ao hồ phẳng lặng, không bị bùn đất làm nhơ bẩn. Với người có tâm quân bình như thế [11], cuộc đi lang thang bất định của đời sống không còn lặp lại nữa [12]. -- (câu 95)

Tâm trầm tĩnh, ngôn ngữ trầm tĩnh, hành động trầm tĩnh, người ấy, hiểu biết chân chánh, trọn vẹn siêu thoát, hoàn toàn tịnh lạc và quân bình. -- (câu 96)

Người không nhẹ dạ [13], thấu triệt trạng thái Vô Sanh [14] (Niết Bàn), cắt đứt mọi hệ lụy [15], chấm dứt mọi cơ hội [16] (cho điều thiện và điều ác phát sanh) [17], tận diệt mọi tham ái [18], người ấy quả thật là tối thượng. -- (câu 97)

Dù ở làng mạc hay trong rừng sâu, ở non cao hay trũng thấp [19], bất luận nơi nào mà vị A La Hán trú ngụ, nơi ấy quả thật là tịnh lạc. -- (câu 98)

Quả thật tịnh lạc, chốn rừng sâu mà người trần tục không thích ở. Người hết dục vọng [20] sẽ hoan hỷ an trú (ở nơi ấy) vì các Ngài không tìm dục lạc. -- (câu 99)

Hạnh phúc thay, ta sống không hận thù giữa đám người thù hận. Giữa những người thù hận, ta sống không thù hận. -- (câu 197)

Hạnh phúc thay, ta sống mạnh khỏe [21] giữa những người ươn yếu. Giữa đám người bệnh hoạn ta được sống mạnh khoẻ. -- (câu 198)

Hạnh phúc thay, ta sống không khao khát (dục lạc) giữa những người khao khát. Trong đám người tham ái ta sống không dục vọng. -- (câu 199)

Hạnh phúc thay, ta sống không bị chướng ngại. Dưỡng nuôi phỉ lạc, ta sẽ như các vị Trời trong cảnh Quang Âm Thiên. -- (câu 200)

Người không còn bờ bên này [22] hay bên kia [23], cũng không còn cả hai bên, bên này và bên kia, người thoát ly phiền não và không còn bị ràng buộc [24] - Như Lai gọi ngườiay là Bà La Môn (Brahmana). [25] -- (câu 385)

Người có hành thiền [26], sống trong sạch và ẩn dật [27], hoàn thành nhiệm vụ và thoát ra khỏi mọi hoặc lậu [28], người đã thành tựu Mục Tiêu Tối Thượng [29] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 391)

Người đã cắt đứt mọi thằng thúc, người không còn run sợ, đã vượt hẳn ra khỏi mọi ràng buộc, không dính mắc - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 397)

Người ấy đã cắt đứt dây cương (sân hận), dây thừng (luyến ái), và dây nọng (tà kiến), cùng các món đồ bắt kế (những khuynh hướng còn ngủ ngầm), vứt bỏ cây trục (vô minh), người đã giác ngộ (Phật) [30] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 398)

Người không tức giận, chịu đựng lời khiển trách, roi vọt, và hình phạt. Người lấy hạnh nhẫn nhục làm quân lực (để tự bảo vệ) - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 399)

Người không nóng giận, làm tròn bổn phận [31], giới hạnh trang nghiêm, thoát khỏi ái dục, thu thúc lục căn và mang xác thân ngũ uẩn này lần cuối cùng [32] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 400)

Như nước trên lá sen, như hột cải đặt trên đầu mũi kim, người không luyến ái dục lạc - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 401)

Tại đây, trên thế gian này, người chứng ngộ sự tận diệt phiền não của chính mình, người bỏ gánh nặng xong bên đàng [33] và siêu thoát - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 402)

Người có tri kiến thâm diệu, người trí tuệ, thấu hiểu đường chánh nẻo tà [34], người đã thành đạt mục tiêu tối thượng - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 403)

Người không trìu mến hàng cư sĩ cũng như hàng xuất gia, người du phương đó đây, không có một nơi ở nhất định, người không còn tham ái - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 404)

Người đã rời bỏ gậy gộc trong khi tiếp xúc với chúng sanh, mạnh hay yếu, không sát sanh hoặc làm tổn thương bất luận ai - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 405)

Thân hữu giữa những người thù nghịch, ôn hoà trong đám đông hung hăng, hỷ xả giữa người cố chấp [35] - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 406)

Nơi con người mà tham lam, sân hận, ngã mạn và phỉ báng (không còn bám vào được) lả tả rơi như hột cải để đầu mũi kim (phải rơi) - Như Lai gọi người ấy là Bà La Môn. -- (câu 407)

Người nói lời êm dịu, hiền hoà, xây dựng, chân thật và không xúc phạm đến ai - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 408)

Người không tham ái điều gì trong thế gian này hay thế gian kế, người dập tắt dục vọng và siêu thoát - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 410)

Người đã vượt khỏi điều thiện, điều ác, và mọi ràng buộc [36], người không ưu phiền, không ô nhiễm và tinh khiết - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 412)

Ngh không bợn nhơ, người trong sáng như mặt trăng, thanh tịnh, vắng lặng và không chao động [37], người đã tuyệt trừ tham ái thủ hữu - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 413)

Người đã tự tách rời ra những ràng buộc trong cảnh người và vượt qua những thằng thúc của cảnh Trời, thoát ly mọi hệ lụy - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 417)

Người đã dứt bỏ ưa [38] và ghét [39], thản nhiên, không bị ô nhiễm [40] làm hoen ố, người đã khắc phục thế gian [41] và kiên trì cố gắng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 418)

Người không bám vào ngũ uẩn trong quá khứ, vị lai hay hiện tại, không luyến ái (ái) và không bám chặt vào (thủ) - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 412)

Vô quý [42], cao thượng, anh dũng, đại hiện thánh [43], người đã khắc phục [44], không còn dục vọng, người ấy rửa sạch [45] (mọi ô nhiễm), đã giác ngộ [46] - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 422)

Bậc hiền thánh đã thấu hiểu tiền kiếp, đã thấy những cảnh hạnh phúc [47] và đau khổ [48], đã đến mức tận cùng của mọi kiếp sống [49], người đã, với trí tuệ cao siêu, tự mình cải tiến [50], hoàn tất [51] (đời sống phạm hạnh thiêng liêng) và chấm dứt mọi dục vọng - người ấy, Như Lai gọi là Bà La Môn. -- (câu 423).

Chú thích:

[1] Suốt cuộc hành trình trong vòng luân hồi: ám chỉ một vị A La Hán.

[2] Hành giả chấm dứt mọi ưu phiền lúc đắc Quả A Na Hàm, tầng thứ ba trong bốn tầng thánh. Đến tầng ấy, hành giả đã tận diệt mọi luyến ái đeo níu theo dục vọng và mọi hình thức bất mãn.

[3] Sabbadhi, hoàn toàn tự do, thoát ra khỏi mọi dính mắc đối với ngũ uẩn v.v...

[4] Có bốn loại trói buộc (gantha) là: a/ tham muốn (abhijja), b/ oán ghét (vyapada), c/ dễ duôi nương theo nghi thức lễ bái và cúng tế (silabbataparamasa, giới cấm thủ), d/ cố chấp trong thành kiến, khư khư chấp rằng thành kiến của mình là chân lý (idhamsaccabhinivesa, kiến thủ).

[5] Những câu này ám chỉ phẩm hạnh của một vị A La Hán. Có hai loại nhiệt độ: tinh thần và vật chất. Lúc còn sống, một vị A La Hán còn thọ cảm nhiệt độ của thể xác, nhưng không quan tâm đến. Tuy nhiên, Ngài không còn có nhiệt độ của tham vọng, hay lửa tham ái.

[6] Chư vị A La Hán đi lang thang bất định, không luyến ái một nơi ở nhất định nào bởi vì các Ngài đã hoàn toàn tự do, đã thoát ra khỏi mọi quan niệm về "Ta" và "Của Ta".

[7] Có hai loại tích trữ là hoạt động có liên quan đến nghiệp (tức tích trữ nghiệp hay hành), và bốn món cần thiết trong đời sống của một vị tỳ khưu (tứ vật dụng: thuốc men, chỗ ở, y bát và vật thực). Loại tích trữ đầu tiên có khuynh hướng kéo dài cuộc hành trình trong vòng luân hồi. Tứ vật dụng, mặc dù cần thiết, có thể là một trở ngại cho tiến bộ tinh thần.

[8] Dứt khoát từ bỏ mọi thèm muốn về vật thực.

[9] Giải Thoát, hay Niết Bàn, là thoát ra khỏi mọi phiền não (Vimokkha). Gọi là hư không vì còn lòng tham-sân-si, chớ không phải Niết Bàn là hư vô, không có gì hết hay tuyệt diệt. Niết Bàn là trạng thái siêu thế tích cực, không thể mô tả bằng ngôn ngữ tại thế. Không có dấu vế của tham-sân-si, chư vị A La Hán chứng nghiệm quả vị Niết Bàn lúc còn ở trong kiếp sống này. Nói rằng sau khi từ bỏ kiếp này, các Ngài sẽ còn sống, "tại", hay hết sống, "bất tại", đều không đúng, bởi vì Niết Bàn không phải vĩnh cửu cũng không phải hư vô. Không có cái gì để vĩnh viễn hóa cũng không có cái gì, ngoại trừ khát vọng, để tuyệt diệt (hư vô hoá).

[10] Indakhila là một cây cột vừa vững chắc vừa cao của Trời Đế Thích, hoặc là cây trụ chánh ở cổng vào một thị trấn.

Các nhà chú giải ghi nhận rằng Indakhila này là những trụ cột vững chắc, dựng lên bên trong hay bên ngoài các thị trấn cho đẹp mắt. Thông thường, các trụ cột này làm bằng gạch hoặc bằng gỗ, hình bát giác. Những trụ cột này được chôn thật sâu dưới đất. Do đó có thành ngữ "vững chắc như trụ Indakhila".

[11] "Tadi" là người đã buông xả, không còn luyến ái những gì ưa thích, không bất mãn với điều không vừa lòng, cũng không bám níu vào điều gì. Giữa tám điều kiện thăng trầm của thế sự - được và thua, tán dương và khiển trách, danh thơm và tiếng xấu, hạnh phúc và đau khổ - một vị A La Hán sống hoàn toàn bình thản. Tâm quân bình, không chao động, không biểu hiện lòng ưa thích hay bất mãn, không hỷ hạ vui cười mà cũng không lo âu sầu muộn.

[12] Bởi vì các Ngài không còn sanh tử nữa.

[13] Assaddho, theo sát nghĩa là không tín nhiệm hay không trung thành. Vị A La Hán không chấp nhận suông những nguồn hiểu biết, vì chính Ngài đã tự chứng nghiệm chân lý.

[14] Akata, Vô Sanh, là Niết Bàn. Akatannu cũng có thể được hiểu là người vô ân bạc nghĩa.

[15] Những dây nối liền trong kiếp nhân sinh. Sandicchedo cũng có nghĩa là người phá nhà, một tên trộm.

[16] Hata + avakaso là người đã tiêu trừ cơ hội.

[17] Vanta + aso, người ăn đồ ói mửa, là một định nghĩa khác của danh từ này.

[18] Bằng bốn Thánh Đạo. Những hình thức thô kịch của tham ái được chế ngự trong ba tầng Thánh đầu tiên. Hình thức vi tế được tận diệt trong tầng cuối cùng.

[19] Nina và Thala, sát văn tự là những lớp thấp và những đất cao, những thung lũng và những đồi cao.

[20] Chư vị A La Hán đã dứt bỏ dục vọng,thích ở nơi vắng vẻ ẩn dật trong rừng sâu, nơi mà người trần tục không thích.

[21] Khỏe mạnh, không còn những chứng bệnh của tham ái.

[22] Bờ bên này, tức Param, lục căn: nhãn, nhĩ, tỹ, thiệt, thân, ý.

[23] Bờ bên kia, tức Aparam, lục trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp.

[24] Không dính mắc, không bị ràng buộc vào điều gì như "Ta" và "Của Ta".

[25] Brahmana là một danh từ có liên quan đến giai cấp Bà La Môn, giai cấp được ưu đãi nhất thời bấy giờ, và cũng là danh từ để gọi những người theo đạo Bà la Môn. Mặc dù vậy ở đây Brahmana có nghĩa là người đã hoàn tất Con Đường, người đã chứng nộ Đạo và Quả, tức một vị Phật hay một vị A La Hán. Trong chương này danh từ Bà La Môn được dùng theo ý nghĩa này.

[26] Người thực hành thiền Vắng Lặng (Samatha, chỉ) và thiền Minh sát (Vipassana, quán).

[27] Asinam, người sống một mình trong rừng, ẩn dật.

[28] Bằng cách chứng ngộ Tứ Diệu Đế và tận diệt các Thằng Thúc.

[29] Tức chứng ngộ Niết Bàn.

[30] Đã thông suốt Tứ Diệu Đế.

[31] Bổn phận đối với đạo giáo.

[32] Vì người đã tận diệt dục vọng không còn tái sanh nữa.

[33] Gánh nặng của ngũ uẩn.

[34] Người thông suốt con đường dẫn đến những cảnh khổ, con đường dẫn đến các nhàn cảnh và con đường Niết Bàn.

[35] Những người còn thành kiến ngã chấp, còn luyến ái ngũ uẩn.

[36] Những ràng buộc ấy là: tham, sân, si, ngã mạn và tà kiến.

[37] Không bị ô nhiễm làm chao động.

[38] Tức luyến ái, đeo níu theo nhục dục ngũ trần.

[39] Arati, ghét bỏ, không chịu cuộc sống ở chốn rừng sâu (theo bản Chú giải).

[40] Upadhi, bợn nhơ. Có bốn loại upadhi là: ngũ uẩn (khanda), khát vọng (kilesa), tác hành (abhisankhara), và dục lạc (kama).

[41] Thế gian là ngũ uẩn.

[42] Usabham, là con trâu cổ - Ý nói người vô úy, không sợ sệt, như con trâu cổ.

[43] Mahesim, người tìm giới định, tuệ, cao thượng.

[44] Vijitavinam, người đã khắc phục mọi khát vọng.

[45] Nahatakam, người đã thanh lọc mọi ô nhiễm.

[46] Buddham, người đã thông suốt Tứ Diệu Đế.

[47] Sagga, là sáu cảnh Trời Dục, mười sáu cảnh Trời Sắc Giới, bốn cảnh Trời Vô Sắc Giới. (Xem Chương 27).

[48] Apaya là bốn khổ cảnh.

[49] Jatikkhayam là đạo quả A La Hán.

[50] Abhinnavosito tức là đến mức cùng tột bằng cách thông suốt những điều phải được thông suốt, xa lìa những điều phải xa lìa, chứng ngộ những gì phải chứng ngộ và trau dồi những gì phải trau dồi (theo bản Chú giải).

[51] Sabbavositavosanam tức là đã sống đời phạm hạnh thiêng liêng dẫn đến mức tận cùng là tuệ giác có liên quan đến Con Đường A La Hán, chấm dứt mọi khát vọng.


40 - Lý tưởng của Bồ Tát, hay Bồ Tát Đạo

"Tấm thân bằng thịt bằng máu mà tôi mang đây,
Chỉ để làm cho thế gian được an lành và hữu phước." -- Sri Sanghabodhi

Trong giáo lý của Đức Phật, có ba phương cách, hay ba con đường, để thành đạt tuệ giác (bodhi). Người có chú nguyện đạt cho kỳ được mục tiêu phải tùy bản tánh mình, chọn một trong ba đường ấy là: Thinh Văn Giác (Savaka Bodhi [1]), Độc Giác (Pacceka Bodhi), và Toàn Giác (Samma Sambodhi).

Thinh Văn Giác (Savaka Bodhi), cũng được xem là lý tưởng A La Hán [2], là sự giác ngộ của một đệ tử, hay A La Hán Đạo. người có nguyện vọng đi theo con đường A La Hán thường phải tìm sự hướng dẫn của một đạo sư cao thượng đã chứng ngộ Đạo Quả. Đối với người đệ tử có trình độ tinh thần tiến bộ đầy đủ, chỉ một lời chỉ giáo đơn sơ của vị chân sư cũng có thể khai thông trí tuệ và đưa vào vòng Thánh Đạo. Như Đức Sariputta (Xá Lợi Phất) chẳng hạn, chỉ được nghe nửa bài kệ của vị A La Hán Assaji đã chứng đắc tầng Thánh đầu tiên. Bà Patacara, trong cơn suy sụp tinh thần vì chồng, con, cha, mẹ và em bị tử nạn thê thảm, được duyên lành đưa đến Đức Phật và đắc Quả A La Hán trong khi rửa chân dưới ờ suối, bà nhìn những giọt nước từ chân gieo điểm xuống dòng. Kisagotami là một người phụ nữ khác, tính tình chân chất, đến van nài Đức Phật cứu sống cho đứa con của bà vừa mới chết, cũng đắc Quả Thánh trong khi quan sát những ngọn đèn đang lụi dần. Vị tỳ khưu Cula Panthaka, không thể học thuộc một câu kệ trong bốn tháng, cũng đắc Quả A La Hán khi quán tưởng đến bản chất vô thường của một cái khăn lau tay sạch.

Sau khi đã thành tựu nguyện vọng, vị A La Hán dành trọn khoảng thời gian còn lại của đời mình để tế độ những ai muốn tìm trạng thái thanh bình an lạc, bằng cách nêu gương lành trong sạch và ban truyền giáo huấn thâm sâu. Trước tiên Ngài tự thanh lọc, và sau đó cố gắng giúp người khác gội rửa bợn nhơ, bằng cách giảng dạy giáo lý mà chính Ngài đã thực hành. Một vị A La Hán có đủ tư cách để truyền dạy Giáo pháp hơn các vị đạo sư phàm tục thường, chưa chứng ngộ Chân Lý, vì Ngài dạy với kinh nghiệm bản thân.

Trong lý tưởng cao quý của bậc Thinh Văn A La Hán không có chi là vị kỷ bởi vì Đạo Quả A La Hán chỉ có thể thành đạt được sau khi hành giả tuyệt trừ mọi hình thức ngã chấp. Ảo kiến về sự tự ngã và lòng vị kỷ là những dây trói buộc mà người có chú nguyện noi theo con đường A La Hán phải cắt đứt cho kỳ được để thành tựu mục tiêu cứu cánh. Những bậc thiện trí, nam cũng như nữ, trong thời Đức Phật và về sau, đã được duyên lành gặp cơ hội vàng son khai thông trí tệ trong kiếp sống hiện tiền.

Độc Giác Phật (Pacceka Bodhi), là sự khai minh giác ngộ đơn độc của một người tự lực cố gắng tiến đến Đạo Quả, không nhờ một ai dạy dỗ hay giúp đỡ. Vì đặc tính đơn độc giác ngộ, nên chư Phật Độc Giác không dắt dẫn ai đến nơi giác ngộ bằng lối đơn độc giác ngộ được. Các Ngài chỉ nêu gương đức hạnh và trí dũng.

Hơn nữa, chư Phật Độc Giác chỉ ra đời trong lúc không có Phật Pháp. Số Phật Độc Giác không phải chỉ có một trong một thời kỳ riêng biệt, như trường hợp của bậc Toàn Giác (Samma Sambuddho). Như Đức Phật Gotama, mặc dù đã viên tịch lâu đời, nhưng bao giờ Giáo Pháp của Ngài còn tỏ rạng và tinh thuần như lúc ban sơ, thì không thể có một vị Phật Độc Giác ra đời trên thế gian này.

Trong kinh Khaggavisana Sutta của bộ Sutta Nipata (Kinh Tập) có những lời dạy của chư Phật Độc Giác như sau:

"1.- Sống giữa chúng sanh, hãy dẹp lại một bên, gươm đao và các loại khí giới. Không gây tổn thương cho bất luận ai. Không làm cho ai phải xót đau vì một đứa con hay một người bạn. Nhưng, hãy mạnh dạn tiến bước, như chúa sơn lâm, đơn độc một mình.

2.- Thân mật sanh trìu mến. Do trìu mến có ưu phiền. Hãy nhận chân niềm bất hạnh phát sanh do trìu mến và, như chúa sơn lâm, hãy mạnh dạn tiến bước, đơn độc một mình.

3.- Chúng ta chắc chắn tán dương giá trị của tình bằng hữu. Hãy thân cận với bậc cao nhân hoặc người ngang bằng ta. Nếu không được vậy, hãy sống đời trong sạch không đáng bị khiển trách và, như chúa sơn lâm, hãy đơn độc mạnh tiến.

4.- Khoái lạc vật chất trong đời sống quả thật vô số kể, vừa êm dịu, vừa ngọt ngào và quyến rũ. Dưới đủ hình thức, dục lạc làm cho lòng người say đắm. Hãy nhận chân hiểm họa của nó và một mình, đơn độc, hãy vững tiến như chúa sơn lâm.

5.- Trong sương tuyết lạnh lùng và nắng chan nóng bức, khi đói, lúc khát, nào gió, nào mặt trời, nào muỗi mòng, rắn rít. Hãy khắc phục tất cả và, như chúa sơn lâm, một mình, đơn độc, hãy mạnh dạn vững bước.

6.- Như loài hùm, loài sư tử, không bị tiếng động làm, giựt mình, run sợ. Như gió thoảng qua, không dính mắc trong màn lưới. Như hoa sen, từ bùn nhơ nước đục vượt lên, nhưng không vướng bợn nhơ của bùn của nước, hãy mạnh dạn tiến bước, đơn độc một mình.

7.- Rồi đúng lúc, đúng thời cơ, hãy trau giồi tâm Từ, tâm Xả, tâm Bi, tâm Xuất Gia (tâm từ khước), tâm Hỷ và, không để thế gian làm hư hỏng, hãy mạnh dạn, như chúa sơn lâm, đơn độc tiến bước."

Toàn Giác (Samma Sambodhi) là đỉnh giác ngộ tối cao của bậc đã thành tựu mức độ trí tuệ tuyệt luân, vô lượng, từ bi, thông suốt mọi lẽ. Bậc đã chứng đắc Đạo Quả tối thượng siêu việt này gọi là Toàn Giác Phật hay Chánh Đẳng Chánh Giác, hoặc Chánh Biến Tri. Phạn ngữ "Samma Sambuddho" có nghĩa là người tự mình trở nên hoàn toàn giác ngộ. Tự lực cố gắng khai thông tuệ giác, không thầy chỉ dạy. Các Đấng Toàn Giác, sau khi chứng quả vô thượng bồ đề liền đem ra phổ cập trong quần sanh, tận tụy hướng dẫn chư Thiên và nhân loại đến nơi hoàn toàn trong sạch, giải thoát khỏi vòng quanh vô tận của định luật tử sanh, sanh tử. Không phải như chư Phật Độc Giác, trong một châu kỳ chỉ có một vị Phật Toàn Giác duy nhất ra đời, như đoá hoa duy nhất chỉ trổ sanh trên một loại cây hy hữu.

Người cố gắng tu dưỡng tâm tánh với chí nguyện thành đạt Đạo Quả Chánh Giác được gọi là Bodhisatta (Bồ Tát). Trong cõi trần thế đầy ngã chấp và ích kỷ này, thử nghĩ có cái chi quý đẹp thanh cao bằng hy sinh tất cả để trau giồi cuộc sống của mình cho được trong sạch, hầu mưu cầu hạnh phúc cho tha nhân?

Trong cuộc đi bất định theo vòng luân hồi, những ai phát tâm muốn phục vụ thế gian và tiến đến mức toàn thiện đều được hoàn toàn tự do đi theo con đường Bồ Tát. Nhưng không có sự ép buộc, thúc đẩy tất cả mọi người phải cố gắng thành đạt cho kỳ được Đạo Quả Phật. Vả lại, trong thực tế, đó là điều không thể làm được.

Cũng có lời phê bình rằng Bồ Tát Đạo là con đường có khuynh hướng đưa hành giả ra khỏi nếp sống gò bó, chật hẹp, bình thản, êm đềm và yên tĩnh của những tu viện. Luận như vậy chỉ tỏ ra mình kém hiểu biết Giáo Pháp thuần túy của Đức Phật.

Sách Abhisamayalankara-Aloka, một tác phẩm Bắc Phạn (Sanskrit) mới sau này, và là một án chú giải Kinh Bát Nhã Ba La Mật Đa (Prajna Paramita) có ghi:

"Những vị đại đệ tử (Sravakas) đã chứng ngộ hai hạng tuệ giác (tức hạng Thinh Văn Giác, Sravaka, và Độc Giác, Pratyeka Buddha) trong khi còn, và sau khi thân ngũ uẩn chấm dứt vẫn còn tâm sợ sệt, bởi vì các Ngài chưa thành đạt Đại Bi và Trí Tuệ Cao Thượng (Uru karuna prajna vaikal-yena, Vô Thượng Bát Nhã Đại Bi). Do sự chấm dứt sinh lực tạo nên bởi những năng lực trong quá khứ, các Ngài có thể đắc Niết Bàn. Tuy nhiên, trong thực tế, (các vị Thánh tiểu thừa) chỉ thành đạt cái gì mường tượng như Niết Bàn, gọi là Niết Bàn, giống như ánh sáng bị dập tắt. Không còn trở lại tam giới nữa, nhưng sau kiếp sống trần gian này, chư vị A La Hán sẽ tái sanh vào cõi thanh tịnh nhất trong cảnh gới hoàn toàn tinh khiết (anasravadhatu), ở trong một trạng thái xuất thần nhập hoá, mơ mơ màng màng, bên trong những cánh hoa sen (Padmaphutesu jayante). Sau đó, Đức Phật A Di Đà (Amitabha) và các vị Phật khác giống như vầng thái dương, sẽ đem các Ngài lên gội rửa cho trí tuệ được trong sáng (akilishta nana). Từ đó chư vị A La Hán tận lực tiến đến Giác Ngộ Tối Thượng và, mặc dù đã đạt thành trạng thái giải thoát, các Ngài hoạt động (trong thế gian hữu vi), cũng giống như các Ngài đi xuống địa ngục. Rồi, tích trữ dần dần những yếu tố cần thiết của Đạo Quả Chánh Đẳng Chánh Giác, các Ngài trở thành đạo sư của tất cả chúng sanh (tức thành Phật)."

Trên đây là một lý luận hết sức lạ lùng, xa hẳn tinh thần của những lời dạy căn nguyên mà Đức Phật đã ban truyền.

Người ta còn luận rằng Quả A La Hán là vị ngã, ích kỷ và khuyên mỗi người phải cố gắng tu hành cho đến qủa vị Phật để cứu độ chúng sanh. Luận như vậy cũng hữu lý, nhưng thử hỏi, mục tiêu của Đức Phật là gì? Phải chăng là dắt dẫn người khác đến Đạo Quả A La Hán và cứu vớt họ? Nếu quả thật vậy, thì ta phải mặc nhiên kết luận rằng chính Đức Phật nuôi dưỡng tinh thần ích kỷ nữa sao? Không thể được.

Trong ba con đường, dĩ nhiên Đạo Quả Phật là cao siêu hơn cả, nhưng không phải tất cả ai ai cũng nhất định thành Phật được, cũng như không phải tất cả những khoa học gia đều có thể trở thành Einstein hay Newton. Tuy nhiên, mỗi nhà khoa học đều có thể phục vụ nhân loại tùy khả năng của mình.

Danh từ Nam Phạn (Pali) "Bodhisatta", Bồ Tát, gồm hai phần. "Bodhi" là trí tuệ hay giác tuệ, và "Satta" là "gia công để..., hay chuyên cần để...". Vậy, Bodhisatta, Bồ Tát, là người gia công, hay chuyên chú nỗ lực để thành đạt trí tuệ hay giác tuệ. Đúng ra, hình thức Bắc Phạn (Sanskrit) của danh từ Bodhisatta phải là Bodishakta, nhưng thường người ta dùng một danh từ phổ thông là Bodhisattva, "trí tuệ chúng sanh", nghĩa là chúng sanh có nguyện vọng trở thành Phật.

Danh từ này thường được dùng để chỉ bất luận ai, cố gắng thành đạt tuệ giác, nhưng theo đúng nghĩa của nó, Bodhisatta là người đã có lập lời chú nguyện đi theo con đường Chánh Đẳng Chánh Giác và đã có được thọ ký [3].

Hiểu theo một lối, tất cả mọi chúng sanh đều có khả năng trở thành Phật, bởi vì Đạo Quả Phật không phải là một đặc ân dành riêng cho hạng người tốt nào.

Người Phật tử không tin rằng bên trong tất cả mọi người đều có một điểm linh quang, được thần linh phú cho, mà ta cần phải trau giồi để trở thành Phật. Phật Giáo phủ nhận sự hiện hữu của một Thần Linh Tạo Hoá hay một tha lực bí ẩn nào có thể đặt cái điểm linh quang ấy vào bên trong ta. Tuy nhiên, người Phật tử thấu hiểu và tin tưởng nơi những khả năng cố hữu và năng lực sáng tạo của con người.

Phật Giáo cũng phủ nhận một linh hồn trường cửu chuyển sinh mãi mãi, từ kiếp này sang kiếp sống khác và, mãi mãi thu nhận kinh nghiệm. Thay vì một linh hồn bất biến, cái được gọi là tinh hoa của con người, Phật Giáo chủ trương có một luồng sinh lực luôn luôn cuộc chảy, không ngừng đổi thay. Chỉ có tiến trình diễn biến là đồng nhất, trước cũng như sau.

Thái Tử Siddhattha (Sĩ Đạt Ta) là một người. Nhờ ý chí dũng mãnh, trí tuệ cao siêu và từ bi vô lượng, Thái Tử Đắc Quả Phật, trạng thái toàn thiện đến mức cùng tột, và Ngài đã vạch ra cho nhân loại con đường duy nhất dẫn đến nơi chí thiện ấy. Một đặc điểm của Phật Giáo là bất luận ai cũng có thể có nguyện vọng chính mình trở nên chí thiện, nếu kiên trì chuyên cần và cố gắng đúng mức. Đức Phật không bao giờ dành độc quyền thành Phật. Mọi người đều có khả năng thành đạt, nhưng Đạo Quả Phật phải được thành tựu bằng chí lực, bằng tinh tấn của chính mình cơ không phải nhờ sự hỗ trợ nào từ bên ngoài. Đức Phật không bao giờ lên án, gọi ai là tội lỗi, đáng thương hại, phải mỗi mãi ở trong khổ cảnh. Thay vì làm nản lòng hay tạo mặc cảm tự ti cho tín đồ và giữ riêng cho mình Đạo Quả Phật, Đức Phật vạch ra con đường và khuyến khích tất cả những ai hoan hỷ lắng tai nghe, theo dấu chân Ngài để làm được như Ngài, thành đạt Đạo Quả Vô Thượng, Chánh Đẳng Chánh Giác.

Bồ Tát không nhất thiết phải là Phật tử. Trong hiện tại ta có thể gặp nhiều vị Bồ Tát đầy lòng từ bi, bác ái, mặc dù các Ngài có thể không hay biết gì về lời chú nguyện thành Phật của mình. Các vị ấy có thể ở trong hàng Phật tử, cũng có thể không.

Ba Hạng Bồ Tát:

Theo Phật Giáo, có ba hạng Bồ Tát là:

a) Trí tuệ Bồ Tát (Pannadhika),
b) Tín Đức Bồ Tát (Saddhadhika) và
c) Tinh Tấn Bồ Tát (Viriyadhika).

Ba hạng trên đây tuần tự tương đương với ba hạng du dà (yoga) trong Ấn Độ Giáo: Nana Yogi, Bhakti Yogi, và Karma Yogi.

Trí Tuệ Bồ Tát ít thiên về lòng nhiệt thành sùng đạo nhưng kiên trì tinh tấn chuyên cần hơn trên đường phát triển trí tuệ. Tín Đức Bồ Tát sùng mộ, tin tưởng nơi lễ bái thờ phượng, mà ít chú trọng về công trình trau giồi tâm trí và bồi đắp công đức vị tha. Tinh Tấn Bồ Tát thì tập trung vào tinh thần phục vụ. Thật hy hữu nếu không phải là không bao giờ - ba đặc điểm trên điều hòa kết tụ vào một người. Đức Phật Gotama được xem là hạng Trí Tuệ.

Theo kinh sách, con đường của bậc Trí Tuệ Bồ Tát ngắn nhất. Tín Đức Bồ Tát phải trải qua một thời gian dài hơn; và Tinh Tấn Bồ Tát, càng dài hơn nữa.

Trí Tuệ Bồ Tát chú trọng về công phu phát triển trí tuệ và hành thiền nhiều hơn là nhiệt thành với những hình thức lễ bái cúng dường bề ngoài. Các Ngài luôn luôn đi theo sự hướng dẫn của lý trí và không chấp nhận điều gì một cách mù quáng. Không tự bó tay qui hàng một lý thuyết nào, cũng không làm nô lệ cho một quyển sách, một bộ kinh, hay một cá nhân nào. Trí Tuệ Bồ Tát thích trầm tĩnh, yên lặng để trau giồi thiền tập. Từ nơi vắng vẻ tịch mịch ấy, Ngài rải ra những tư tuởng an lành, tuy trầm lặng nhưng hùng dũng, bủa khắp thế gian, để đem lại sự hỗ trợ tinh thần cho nhân loại đau khổ.

Tín Đức Bồ Tát đặt trọn niềm tin nơi hiệu lực của tâm thành, Saddha, hay niềm tin chân thành là đặc điểm chánh yếu của ngài. Cùng với Saddha (niềm tin nơi Tam Bảo) như người bạn đồng hành trung tín, Ngài thành tựu mục tiêu. Tất cả các hình thức về lễ bái, thờ phượng bụt tượng, là sở trường của vị Tín Đức Bồ Tát. Tượng Phật là một nguồn gợi cảm quan trọng đối với Ngài.

Nên hiểu rằng người Phật Tử không sùng bái pho tượng vì chính cái pho tượng bằng đồng hay bằng gỗ ấy, người Phật Tử bày tỏ lòng kỉnh mộ tinh thần cao cả mà pho tượng tượng trưng, và suy niệm về phẩm hạnh, và ân đức của đức Từ Tôn. Càng suy tưởng đến Đức Phật, càng kỉnh mộ Ngài. Đó là lý do tại sao mà Phật Giáo không khi nào phủ nhận các hình thức ngưỡng mộ bề ngoài (amisa puja) mặc dầu pháp hành (patipatti puja) đáng được khuyến khích hơn và chắc chắn là bổ ích hơn. Vả lại, để đi đến thành quả thỏa đáng, đôi khi trí thức khô khan cũng cần được hưởng chút ít hương vị của Bhakti (đức tin). Nhưng Bhakti, đức tin, quá đáng thì cũng phải nhờ trí tuệ kềm hãm để khỏi phải sa vào cuồng tín.

Tinh Tấn Bồ Tát thì luôn luôn tìm cơ hội để phục vụ kẻ khác. Không có gì làm cho vị Bồ Tát hoan hỷ bằng tích cực phục vụ. Đối với các Ngài, "làm việc là hạnh phúc và hạnh phúc là làm việc". Không tích cực hoạt động thì các Ngài không có hạnh phúc. Như đức vua Sangha-bodhi xứ Sri Lanka nói: "Ta mang tấm thân bằng thịt và máu này là chỉ để đem lại trạng thái tốt đẹp và an lành cho thế gian."

Bồ Tát không chỉ sống cho riêng mình mà còn sống cho kẻ khác nữa.

Luôn luôn hoạt động luôn luôn làm việc, không ngừng, không biết mệt, không chán, không phải làm việc như người nô lệ, mà như một chủ nhân. Các Ngài không ham muốn, không bám vào danh thơm tiếng tốt. Các Ngài chú trọng đến việc làm, đến sự phục vụ. Ai biết, ai không biết mình làm gì, điều ấy không quan trọng. Chẳng màng được khen, không bị sợ chê, Bồ Tát thản nhiên trước lời tán dương hay khiển trách.

Bồ Tát quên mình trong khi phục vụ kẻ khác, có khi phải hy sinh mạng sống của mình để cứu mạng chúng sanh khác, những người bạn đồng hành trên bước đường dài dẵng của vòng luân hồi.

Muốn quên mình để hiến thân cứu mạng cho một chúng sanh khác, Bồ Tát phải hành tâm Bi và tâm Từ đến mức độ đặc biệt.

Bồ Tát ước mong sự tốt đẹp và an lành của thế gian. Ngài thương chúng sanh như bà từ mẫu thương đứa con duy nhất của bà. Bồ Tát hòa mình với tất cả mọi người như anh, như chị. Thương yêu tất cả như mẹ, như cha, như bạn, như thầy.

"Tâm Bi của Bồ Tát nhằm thực hiện tánh cách bình đẳng giữa Ngài và người khác (para atma samata) và cũng đặt mình trong kẻ khác (para atma parivartana)".

Trong khi thực hành như vậy, BồTát mất dần ý niệm về cái "Ta" và không còn thấy sự khác biệt giữa Ngài và người khác. Ngài tự đồng hóa với tất cả, lấy tốt trả xấu, lấy thiện trả ác lấy, lành trả dữ, giúp đỡ tất cả, chí đến những người chủ tâm hại mình, bởi vì Bồ Tát hiểu rằng "lực lượng của người dẫn đạo là pháp nhẫn".

Bị nhục ma nhưng không nhục mạ lại, bị đánh đập nhưng không đánh đập lại, bị làm phiền nhưng không gây phiền nhiễu ai, Bồ Tát một mực giữ đức khoan hồng. Tựa như đất mẹ trầm lặng, Bồ Tát âm thầm chịu đựng tất cả những lỗi lầm của kẻ khác.

Chú thích:

[1] Savaka, Thinh Văn: Đúng theo nghĩa đen là "người nghe".

[2] Theo đúng ngữ nguyên, Arahant (A La Hán) là bậc Ứng Cúng, hay người đã dập tắt mọi khát vọng.

[3] Giáo sư Rhys Davids viết như sau trong quyển Buddhist Birth Stories (trang xxxiv): "Một quyển tiểu thuyết có tính cách tôn giáo tựa đề "Barlaam and Joasaphat" kể lại câu chuyện một hoàng tử Ấn Độ được Barlaam cảm hoá và trở nên đạo sĩ ẩn dật. Người đọc sẽ lấy làm ngạc nhiên được nghe rằng chuyện này là một đoạn trong tiểu sử của Đức Phật, và (nhân vật) Joasaph là Đức Phật dưới một tên khác."

Chữ Joasaph, hay Joasaphat chỉ là biến thể của danh từ "Bodhisattva". Joasaphat trong tiếng Á Rập, cũng được viết là Yudasatf, và đó là do sự lẫn lộn giữa hai mẫu tự "Y" trong tiếng Á Rập, và "B". Bodhisat trở thành Yudasatf. Xem "Encyclopaedia of Religion and Ethics", tập 6, trang 567.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn