(Xem: 1995)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2438)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

02-Tuệ phát sinh do tu tập Thiền Định và Tuệ Quán (1)

20 Tháng Năm 201312:00 SA(Xem: 12732)

TUỆ & GIÁC NGỘ
BS. Phạm Doãn


Phần hai:

Tuệ phát sinh do tu tập Thiền Định và Tuệ Quán

 

I. Thiền Định

1. Tuệ của thiền định
2. Ánh sáng tâm trí
3. Các pháp chân đế: 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa), Sát-na tâm và các lộ trình của tâm
4. Sự cần thiết của thiền định
5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán
6. Giải thích một số các chất vấn: Visuddhimagga, Jhāna, Cận định, Sát-na định, Ly dục ly ác pháp, định thế gian (hiệp thế) và xuất thế gian (thánh định).
7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rõ biết”
8. Đức Phật đã tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định




 

I. Thiền Định

Các tôn giáo ở Ấn Độ đã tu tập và tích lũy một kho tàng kiến thức to thật lớn về các loại Yoga và thiền định. Bản thân Đức Phật cũng đã tu tập nhiều loại thiền định Bà La Môn trong sáu năm sống giữa các đạo sĩ vùng Bắc Ấn. Thiền Định là nền tảng cho mọi khuynh hướng phát triển tâm linh từ xưa cho đến nay.

1. Tuệ của thiền định

Trái với một số quan điểm cho rằng thiền định không phát sinh ra Tuệ, sự thực là Thiền Định có mang lại những tuệ nhất định, mà trong Đạo Phật gọi là Jhāna-ñāṇa, tức tuệ của Jhāna (tuệ của thiền định). Khi nhập vào an-chỉ định (appana samadhi), chủ thể nhận thức và đối tượng được nhân thức trở thành một [17]. Có người đã nhân ra ngay trong chánh định, một tuệ về trạng thái bất nhị. Chính cái cảm giác “một là tất cả, tất cả là một”, khiến các đạo sĩ đắc định thỏa mãn, tự tin rao giảng về một sự “giải thoát vĩ đại”. Thực ra, “Một là tất cả, Tất cả là một” chỉ có nghĩa là “Tiểu ngã là Đại ngã, Đại ngã là Tiểu ngã” đó là một giải thoát của cái tôi nhỏ bé đến cái tôi rộng lớn hơn trong các tầng trời mà chưa phải là giải thoát khỏi sáu nẻo luân hồi, theo cái nhìn của Đạo Phật. Mahathera Henepola Gunaratana trong cuốn “Con đường Thiền Chỉ và Thiền Quán” (bản dịch của Ỳ Khưu Pháp Thông) đã nhận định:

“Trái với các bậc Alahán Tuệ giải thoát, những vị Alahán Câu phần giải thoát hưởng được hai loại giải thoát. Nhờ thành thục các thiền chứng vô sắc họ được giải thoát khỏi sắc thân (rūpakāya) hay thân vật lý, nghĩa là các vị có thể an trú trong các thiền tương ứng với các cảnh giới vô sắc ngay trong kiếp sống này. Nhờ chứng Alahán quả, các vị được giải thoát khỏi thân tâm lý hay danh thân (nāmakāya), tức ngay trong hiện tại thoát khỏi mọi phiền não và bảo đảm sự giải thoát tối hậu khỏi các sanh hữu tương lai. Các vị Alahán tuệ giải thoát chỉ có được loại giải thoát thứ hai trong hai loại giải thoát này mà thôi.”

Hơn thế nữa, thiền định khi phát triển đúng cách có khả năng đem lại năm tuệ đặc biệt gọi là “thắng trí” tức thần thông. Trong lịch sử, Đức Phật đã không hài lòng với những tuệ và thần thông phát sinh từ các tầng thiền định nên Ngài đã phải thực hiện thêm một phương pháp riêng gọi là Tuệ Quán (Vipassanā). Nói như vậy không có nghĩa là Đức Phật đã loại trừ thiền định, vốn là công phu trong sáu năm tu tập của ngài, mà chỉ có nghĩa là ngài đã cộng thêm vào công phu thiền định, một phương pháp tu tập gọi là tuệ quán, để đạt đến giải thoát tối thượng.

2. Ánh sáng tâm trí

Bản chất của thiền định (Jhāna) trong Phật Giáo Nguyên Thủy là sự vắng lặng và tập trung. Nhưng bên cạnh đó, một công năng to lớn của thiền định từ lâu không được bàn tới, là tạo ra “ánh sáng tâm trí”. Các đạo sĩ Ấn Độ rất quen thuộc với các loại thiền định và ánh sáng tâm trí, ví dụ hiện nay giáo phái San Mat vẫn đang tu tập ánh sáng này. Nếu Đạo Phật còn sống trên đất Ấn có lẽ Phật tử sẽ không ngạc nhiên gì nhiều với cái gọi là “ánh sáng tâm trí”. Rất tiếc Đạo Phật lại không còn được tồn tại trên chính vùng đất đã sản sinh ra nó. Khi đi ra ngoài Ấn Độ, sự thực hành thiền định trong Đạo Phật ít đi, lâu ngày “ánh sáng tâm trí” trở nên một điều xa lạ. Có thể hiểu “ánh sáng’ ở đây theo cả hai nghĩa, nghĩa bóng hoặc nghĩa đen. Ajhan Brahm đã cố gắng mô tả loại ánh sáng này trong cuốn sách nhỏ “The Jhāna” [18]. Định tâm mạnh mẽ sẽ tạo ra ánh sáng mạnh mẽ, và chính nhờ ánh sáng ấy mà hành giả có thể đi sâu hay thể nhập vào sự thực chân đế (paramattha sacca). Ánh sáng tâm trí đã được Đức Phật giải thích trong Tăng Chi Kinh, chương nói về Hào quang (ābhāvagga) như sau:

- Này các Tỳ khưu, có bốn lại hào quang. Thế nào là bốn? Hào quang của mặt trăng, hào quang của mặt trời, hào quang của lửa và hào quang của trí tuệ (paññābhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn lại ánh sáng rực rỡ. Thế nào là bốn? Ánh sáng rực rỡ của mặt trăng, ánh sáng rực rỡ của mặt trời, ánh sáng rực rỡ của lửa, ánh sáng rực rỡ của trí tuệ (paññā pabhā).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại ánh sáng. Thế nào là bốn? Ánh sáng của mặt trăng, ánh sáng của mặt trời, ánh sáng của lửa, ánh sáng của trí tuệ (paññā-āloko).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại sáng chói. Thế nào là bốn? Sự sáng chói của mặt trời, sự sáng chói của mặt trăng, sự sáng chói của lửa, sự sáng chói của trí tuệ (paññā-obhāso).
- Này các Tỳ khưu, có bốn loại rực rỡ. Thế nào là bốn? Sự rực rỡ của mặt trăng, sự rực rỡ của mặt trời, sự rực rỡ của lửa, sự rực rỡ của trí tuệ (paññā-pajjoto) [AN. 11.139]

3. Các pháp chân đế

Ánh sáng của Định của Định rất mạnh mẽ, đặc biệt là nó có khả năng “nhận biết rõ ràng” hoặc “nhận biết như thực” những thực thể vi tế gọi là “các pháp chân đế” (paramattha dhamma). Đây là sự thực nội hàm trong mọi hiện hữu mà tri giác bình thường không nắm bắt được. Bằng thiền quán kết hợp với năng lực của cận định khi vừa xuất ra từ chánh định, vị thiền sư nhận biết, hay đôi khi còn gọi là “nhìn thấy”, cơ thể vật chất (sắc, rūpa) và tâm (danh, citta) của chính mình như sau:

· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)

Ánh sáng của Định của Định rất mạnh mẽ, đặc biệt là nó có khả năng “nhận biết rõ ràng” hoặc “nhận biết như thực” những thực thể vi tế gọi là “các pháp chân đế” (paramattha dhamma). Đây là sự thực nội hàm trong mọi hiện hữu mà tri giác bình thường không nắm bắt được. Bằng năng lực đặc biệt của tâm khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc khi vừa xuất ra khỏi cận định (upacāra samādhi), vị thiền sư nhận biết, hay đôi khi còn gọi là “nhìn thấy”, cơ thể vật chất (sắc, rūpa) và tâm (danh, citta) của chính mình như sau:

· 28 loại sắc pháp và các tổ hợp sắc (rūpa-kalāpa)

Thế giới vật chất thực sự không có tính khối (thể tích), mà được cấu tạo bởi các thành phần cơ bản gọi là “sắc pháp”. Có 28 loại sắc pháp căn bản. Các sắc pháp lại tập hợp chung với nhau thành các tổ hợp Kalapa (rūpa-kalāpa). Có ba loại tổ hợp rūpa-kalāpa, một loại có 8 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp tám”, một loại có 9 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp chín”, và một loại có 10 thành phần cơ bản gọi là “tổ hợp mười”:

1 – Các tổ hợp tám (sắc) – aṭṭhaka (tám sắc căn bản)
2 – Các tổ hợp chín (sắc) – navaka (tám sắc căn bản cộng với sắc thứ chín)
3 – Các tổ hợp mười (sắc) – dasaka (chín sắc cộng với sắc thứ mười)

Nói chung sắc thân của chúng ta bao gồm ba loại tổng hợp sắc này trộn lẫn với nhau theo những cách khác nhau vậy thôi [19].

blank

 

Tổ hợp tám sắc: không có sự sống

Tổ hợp chín sắc: có sự sống (vì có sắc mạng căn)

Tổ hợp mười sắc: có sự sống và có rất nhiều loại vì yếu tố thứ10 gồm nhiều loại khác nhau.

Nhận biết vật chất, ở mức độ các sắc pháp và tổ hợp Kalāpa, gọi là… thấy “như thực”. Cách thấy biết và phân tích vật chất ra thành nhiều thành phần cơ bản trong Đạo Phật, rất giống như cách khoa học phân tích vật chất gồm các nguyên tử, nguyên tố và hợp chất khác nhau. Các thiền sư nhìn thấy các tổ hợp kalāpa và các sát na tâm sinh ra rồi diệt đi rất nhanh, nên suy ra các pháp chân đế được nhìn thấy có thể là các thành phần còn nhỏ hơn nguyên tử, tức là ở cấp độ hạt. Mới đây khoa học cũng tìm thấy các hạt Higgs là các hạt vừa sinh ra liền biến mất! Trong tương lai, cấu tạo vật chất theo mô hình kalāpa cũng có khả năng gợi ý một hướng phát triển mới cho khoa học..

· Sát-na tâm và các lộ trình của tâm

Năng lực của thiền quán khi phối hợp với chánh định cũng có thể nhận biết và phân biệt từng sát-na tâm cụ thể cũng như từng lộ trình của tâm (cittavīthi). Abhidhamma mô tả chi tiết 121 tâm và chi tiết các giai đoạn của các lộ trình tâm:

- Tri giác qua năm giác quan (năm môn) đã được mô tả đến từng sát-na tâm, qua một tiến trình gọi là ngũ môn lộ trình tâm. Theo sơ đồ bên dưới, Tri giác qua thị giác sẽ là một loạt tâm xuất hiện theo đúng một qui trình không đổi là 17 tâm liên tục kế tiếp nhau gọi là một lộ trình tâm (hay qui trình tâm). Đối với thị giác thì đây gọi là Nhãn môn lộ trình tâm.

 

blank


- Ý thức (có nhiều loại) ngang qua ý môn cũng có thể được các thiền sư quán sát “như thực” trong từng sát na tâm, qua những tiến trình gọi là Ý môn lộ trình tâm.

 

blank


4. Sự cần thiết của thiền định:

Bằng thiền quán, với năng lực của tâm khi vừa xuất ra khỏi an-chỉ định (appanā-samādhi) hay cận định (upacāra samādhi), thiền sư có thể biết và thấy các thành phần vi tế của tâm và vật, tức các pháp gọi là chân đế. Sự thấy rõ các pháp chân đế là điều cần thiết để thực hiện thiền quán (Vipassanā) một cách đúng đắn. Thế nào là đúng đắn? Trong suốt các bộ kinh, Đức Phật đã nhắc lại nhiều lần phải nhận biết, phải nhìn giáo pháp của ngài một cách như thật rõ biết với nghĩa “đen”(literal) của nó:

- Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định. Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rõ biết (pajānāti). Và như thật rõ biết gì?

Như thật rõ biết: "Đây là Khổ". Như thật rõ biết: "Đây là Khổ tập". Như thật rõ biết: "Đây là Khổ diệt". Như thật rõ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt".

Đã qua một thời gian rất lâu, ý nghĩa “như thật rõ biết” của Đức Phật đã không còn thật rõ biết nữa. Đa số hiểu lầm “như thật rõ biết” là sự hiểu biết bằng các khái niệm của trí óc. Ngay đây, chúng ta thấy rằng phương pháp luận phân tích trong Đạo Phật, có phần tương đồng với phương pháp luận phân tích của khoa học. Mọi vật, mọi hiện tượng trong thế giới, đều được khoa học cắt chẻ chi li. Dĩ nhiên cũng phối hợp với sự tổng hợp. Nếu vật chất không được biết tới cấp độ nguyên tử và hạt cơ bản thì làm sao có điện học và điện tử học. Làm sao ta có nền văn minh đồ sộ như ngày nay! Thứ nữa, những điều vừa trình bày ở trên, cho thấy thiền định là năng lực cần thiết phải có để thực hiện các tuệ minh sát, ngay cả đối với tuệ đầu tiên đó là Tuệ phân biệt Danh và Sắc. Không có thiền định thì không có khả năng nhận biết các sự thực vi tế, các pháp chân đế, do đó không thể thực hiện thành công thiền quán về các tuệ giải thoát! Sự cần thiết của thiền định, chỉ mới vừa được nêu ra trong thời gian gần đây. Có một số thiền sư khi thực hiện thiền quán phối hợp với chánh định, đã thành công đúng như mô tả trong kinh điển và chú giải. Sự phục hồi giáo pháp nguyên thủy gồm đầy đủ tam học Giới-Định- Tuệ, đang dựa vào kết luận rất quan trọng này.

5. Đạo Phật sử dụng thiền định như công cụ để thực hiện tuệ quán

Có một điều rất thú vị, nếu ta lại so sánh phương pháp “dùng Định để đạt Tuệ” với việc khoa học dùng các công cụ để đạt hiểu biết về thế giới khách quan bên ngoài. Vì sự giới hạn của các giác quan, con người không thể trải nghiệm “như thực” toàn bộ thế giới. Do đó để tìm hiểu thế giới chung quanh cho sự phát triển khoa học, con người cần có các công cụ hổ trợ. Ví dụ, thoạt đầu là kính hiển vi thô sơ để nhìn các sinh vật nhỏ, kính thiên văn để nhìn các thiên thể xa v.v…khoa học bây giờ cần đến những công cụ tối tân hơn nữa như kính hiển vi điện tử, các vệ tinh để thám sát, các kính viễn vọng to lớn như Hubble được phóng trên quĩ đạo. Mọi ngành khoa học đều có những công cụ riêng, để thực hiện nghiên cứu khoa học của riêng nó. Tương tự như vậy, vì trí óc người tu bình thường không thể thám sát và nhìn thấy cấu tạo vi tế của vật chất (Sắc) cũng như sự xuất hiện vi tế của tâm (Danh) nên phải cần có một năng lực đặc biệt để quán sát được các pháp “như thực”, đó chính là thiền định.

Đối tượng của Tuệ Quán là các pháp “chân đế” (paramattha), tức là các vật chất rất vi tế, các hiện tượng sinh ra và diệt đi rất nhanh. Do đó Tuệ Quán rất cần năng lực “nhìn xuyên thấu” với “tốc độ cao” của thiền định để làm công cụ. Năng lực của Tuệ quán, phối hợp với tâm vừa xuất ra khỏi an-chỉ định, có thể nhìn thấy rõ Danh (các tâm) và Sắc (vật chất) ở cấp độ vi tế. Có nghĩa là người tu định có thể tri giác từng tâm và các qui trình tâm, ngay cả có thể thấy vật chất ở cấp độ các tổ hợp Kalapa (rūpa kalāpa) tức thành phần cơ bản của vật chất (theo cái nhìn của Định). Năng lực của định có thể quan sát được tính vô thường của ngũ uẩn, những điều mà trí óc bình thường (mind) không thể trải nghiệm trọn vẹn được. Đây là chức năng thật sự của thiền định có trong giáo pháp nguyên thủy. Tuy nhiên, sau một thời gian dài bỏ qua pháp tu thiền định, các trường phái Theravāda trở nên xa lạ với sức mạnh phi thường này của thiền định. Vai trò của thiền định trong tu tập của Đạo Phật mới chỉ được phục hồi và phổ biến trong những năm gần đây!

Có rất nhiều tu sĩ luôn đặt câu hỏi: Làm sao trong tình trạng tâm vắng lặng cố định mà lại quan sát được các hiện tượng tâm và quá trình tâm, những cái vốn luôn vận hành? Đây chỉ là một vấn đề kĩ thuật, nhưng kĩ thuật này đã thất lạc khi thiền định đã bị quên lãng trong một thời gian quá lâu! Tại thời điểm này, khi Đạo Phật nguyên thủy đột nhiên có dấu hiệu hồi sinh, một số không ít các thiền sư có chứng đắc thiền định đã chứng minh được rằng:

- Khi vừa xuất ra từ an-chỉ định (appanā-samādhi) hoặc cận định (upacāra samādhi), tâm có trạng thái đặc biệt mạnh mẽ. Với tâm này, thiền sư có thể quán sát các hiện tượng vi tế của thân và tâm ở mức độ chân đế (paramattha). Thấy các pháp chân đế như thực là điều mà từ lâu rồi ít có người tin. Bằng an-chỉ định của các bậc thiền, người tu trong đời nay đã có thể thực hiện được điều rất khó tin đó. Tùy theo xuất ra từ một bậc thiền cao hay thấp, mà sự quan sát trở nên mạnh mẽ, rõ ràng nhiều hay ít. Trước đây không ai tin rằng có thể kết hợp Cận định với thiền quán mà thường lý luận rằng chỉ có Sát na định (khaṇika samādhi) [20] mới có thể kết hợp với thiền quán. Thực hành thiền quán với năng lực của sát na định dần dần trở thành niềm tin truyền thống của hầu hết các trường phái Theravāda.

Trong cuộc sống phát triển như hiện nay rất khó tu tập thành công các bậc định (theo các chú giải thì ngay từ xưa các thiền định cũng rất khó thực hiện). Đối với một người tu mà không thể đạt được an-chỉ định (appanā-samādhi) của một bậc thiền nào thì Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) đề nghị tuệ quán phải được kết hợp với một mức tối thiểu là cận định (upacāra samādhi) của một bậc định thấp nhất (sơ thiền). Hoặc nếu người tu không có khả năng tu tập bắt đầu với thiền định, thì người đó có thể chọn cách bắt đầu tu tập bằng thiền tứ đại (Catudhātu Vavatthana) [21] vì năng lực của thiền tứ đại cũng tương đương với mức cận định.

Sự phục hồi việc tu tập thiền định trong Đạo Phật, tạo ra một loạt các phản ứng (giống như là một phản ứng tự vệ) từ các các quan điểm cũ, tức quan điểm không ủng hộ thiền định. Vì thế rất có nhiều hoài nghi và chất vấn được đưa ra:

6. Giải thích một số các chất vấn

Visuddhimagga

Cuốn Thanh Tịnh đạo (Visuddhimagga) xuất hiện và được Theravada bảo tồn cách đây 1500 năm. Đây là một trong những cuốn chú giải tin cậy bên cạnh cuốn Giải Thoát Đạo (Vimuttimagga). Thanh Tịnh Đạo mô tả rất rõ ràng về bản chất cũng như cách tu tập hệ thống tám định Jhanas: Bốn định hữu sắc (rupa jhanas) và bốn định vô sắc (arupa jhana). Bên cạnh đó, mô tả đạo lộ tu chứng qua bảy giai đoạn thanh tịnh với sự nhấn mạnh vai trò thiền định và năng lực phi thường của Jhana khi kết hợp với thiền quán. Thanh Tịnh Đạo Luận dĩ nhiên không phải là quan điểm cá nhân của Ngài Buddhaghosa như những lời công kích. Tất cả kiến giải của Thanh Tịnh Đạo luận được rút ra từ các kinh Nikaya, Phân Tích Đạo (Tiểu Bộ) và Abhidhamma. Thời gian mới đây, khi có một số vị sư thực hành thành công đạo lộ mà Thanh Tịnh Đạo đã mô tả, thì có một số nghi vấn được nêu lên:

Các tu sĩ đó có thực sự đắc định, đắc tuệ hay không? Làm sao kiểm chứng? (Vì từ rất lâu, không thấy có ai thành công trên đạo lộ này!). Theo giới luật, các tu sĩ sẽ không công bố các định chứng hay sự giác ngộ của mình cho những người khác, ngoại trừ với các bậc tôn túc có mưc độ tu tập cao hơn. Nếu tin vào Giới luật, nhất là giới không vọng ngữ của các tu sĩ, thì có lẽ không cần đến câu trả lời.

Jhānas


“Jhāyati” là một động từ, có hai nghĩa: một là thiêu đốt phiền não, hai là gắn tâm sâu vào đối tượng thiền để thiêu đốt phiền não. Danh từ của jhayati là jhāna. Trong Kinh Pali, từ Jhana được phổ biến trong nhiều bài kinh. Ví dụ bài kinh Mahasaccaka, Trung Bộ, số 36:

- Tassa mayhaṃ, aggivessana, etadahosi – ‘abhijānāmi kho panāhaṃ pitu sakkassa kammante sītāya jambucchāyāya nisinno vivicceva kāmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharitā.

- Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: “Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ”. (Thích Minh Châu dịch sang tiếng Việt)

Vì trong kinh (suttas) không có phần giảng dạy chi tiết về cách thực hiện jhana, cho nên Ngài Buddhaghosa đã phải chú giải về cách thực hiện Jhana trong cuốn chú giải Thanh Tịnh Đạo. Từ đây nảy sinh bất đồng, với ý kiến cho rằng jhana giảng theo ngài Buddhaghosa là không chắc đúng với cách dạy của Đức Phật, mà hiện nay còn thất lạc! Thực vậy nếu cách thực hiện Jhana theo Đức Phật còn tồn tại thì sẽ không nảy sinh vấn đề gì cả. Tại thời điểm này người tu chỉ có hai lựa chọn: Một là theo sự hướng dẫn của ngài Buddhaghosa. Hai là phải tự đi tìm lại cách thực hiện Jhana được cho là “nguyên thủy” hơn.

Ta thử nhìn lại Jhāna theo Thanh Tịnh Đạo qua hai phần: hình thức tu tập và nội dung trải nghiệm.

- Hình thức tu tập: Định jhāna được phát triển từ niệm hơi thở đúng theo kinh Anapanasati, thêm vào sự tập trung tại mũi (touching point) đúng như có ghi chép trong kinh Tiểu Bộ (Patisambhidamagga).

- Nội dung trải nghiệm: ánh sáng nimitta (dùng làm chuẩn mực của sự nhập định) và ánh sáng trí tuệ (dùng để thực hiện Vipassana). Ánh sáng trí tuệ thì có mô tả rõ trong Tăng Chi Bộ kinh, nhưng Nimitta chỉ được mô tả trong Luận.

Jhana theo Thanh Tịnh Đạo bị công kích là tạo ra sự tưởng tượng (Paccavekkhā, imagination) khiến người tu nhìn thấy nimitta, các tổ hợp Kalapa, các sát na tâm và ngay cả các tuệ giải thoát!

Trả lời: các tu sĩ khi thực hiện Jhana (theo Thanh Tịnh Đạo) luôn biết rằng nimitta là do nghiệp cá nhân tác động vào sự nhận biết. Vì thế nimitta luôn có những hình tướng khác nhau tùy theo từng cá nhân riêng biệt. Khi thực hiện Vipassana, ngay cả đến giai đoạn thấy hào quang tràn ngập thân thể, trí tuệ minh mẫn cùng với niệm, tịnh, hỉ, lạc, xả v.v… thì các tu sĩ cũng được cảnh giác để nhận biết rằng đó chính là giai đoạn Vipassana bị ô nhiễm (upakkilesa). Pháp học đầy đủ với sự cảnh giác trong tu tập luôn là đối pháp để tránh mọi sai lệch trong thực hành. Thái độ phủ định “sạch bóc” mọi trải nghiệm, mọi thiền chứng như vừa nói ở trên cũng chính là thái độ phủ định sạch bóc một số kinh và các bộ luận như bô Phân Tích Đạo, bộ Vi Diệu Pháp…! Vậy Đạo Phật còn lại những gì? Những trường phái chống đối Thanh Tịnh Đạo chỉ có thể chứng minh tính đúng đắn của mình nếu thực sự đưa ra được một cách tu tập Jhana và Vipassana khác để thay thế. Hiện giờ thì vẫn chưa thấy có một đạo lộ tu tập nào khác được hoàn chỉnh để dẫn đến các Thánh quả một cách khẳng định!

 

Nguồn gốc của Jhana

Ngài trưởng lão U. Acinna, trường thiền Pa Auk, đã phát biểu về nguồn gốc Bà la môn của các định jhana hữu sắc và vô sắc (trong Thanh Tịnh Đạo) như sau:

“…Absorption concentration (appana samadhi) is also called Jhana. And there are eight types of Jhana: the four fine material Jhanas (rupa-jhana), and the four immaterial jhanas (arupa-jhanas). They also called the eight attainements (attasamapatti). The eight attainments are not unique to a Buddha Dispensation. Outside the Dispensation of a Buddha, they are taught by ascetics and wanderers, by Bodhisattas bound for full Enlightenment, and by Wheel turning kings.

(Quoted from: The workings of kamma, by Pa Auk Tawya sayadaw, pp. 94)

Điều xác nhận này, từ một trưởng lão tu tập theo Thanh Tịnh Đạo, thể hiện quan điểm coi Jhana (dù có nguồn gốc từ đâu) cũng vẫn có thể dùng làm phương tiện để thực hiện thành công pháp thiền quán của Đức Phật.

Rất nhiều quan điểm, rất nhiều tranh cãi về Định Jhana. Sau đây là thêm một ví dụ về Định Jhana dưới cây táo hồng:

Trong kinh Trung Bộ số 36, Đại kinh Saccaka, Đức Phật nhớ lại hồi còn bé đã trải nghiệm jhana dưới cây táo hồng (jambu) và Đức Phật quyết định thực hiện lại loại thiền định này dưới cội Bồ Đề. Ngài Ajahn Brahm đã cho rằng loại định này gọi là Jhana. Jhana có từ thời Đức Phât Ca Diếp trong quá khứ và do Đức Phật Gautama tái phát hiện sau một thời gian dài bị biến mất tại Ấn Độ [22]. Cũng với đoạn kinh như vậy, Ngài Thông Lạc tại Việt Nam lại cho rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là định của Bà la Môn và Đức Phật đã thực hiện một loại định riêng khác dưới cội Bồ Đề![23] . Tuy nhiên hầu hết mọi người, căn cứ trên văn mạch rõ ràng của đoạn kinh, đều hiểu rằng “Jhana dưới cây táo hồng” là loại định riêng của Đức Phật không phải của Bà La Môn. Hiện nay, dù vẫn có sự phân biệt về Jhana “theo Kinh” hay Jhana “theo Luận”, đa số các nguồn Phật học Tây phương vẫn chỉ dùng một chữ Jhana để nói về thiền định của Phật Giáo.


Nimitta

Đối với nimitta-samadhi (thiền định có đi kèm dấu hiệu), nimitta là phương tiện để nhập thiền. Nimitta có nguy hiểm gì cho người tu tập không? Hoàn toàn không! Ngược lại chỉ có lợi ích, đó là thâm nhập vào an-chỉ định trở nên dễ dàng hơn. Sự thực về nimitta-samadhi chỉ có vậy, còn chấp nhận hay không dĩ nhiên là tùy vào sự lựa chon của người tu tập. Bên cạnh đó còn có các chất vấn liên quan như: Tại sao trong kinh (suttas) chỉ nói đến hệ thống bốn thiền mà Vi Diệu Pháp, Thanh Tịnh Đạo lại liệt kê đến năm thiền? Tại sao trong sơ- thiền, có nhiều bài kinh không nhắc đến “Định nhất tâm” (ekaggata) mà Vi Diệu Pháp hay Thanh Tịnh Tịnh Đạo đều có liệt kê như một trong năm thiền chi? [24] . Theo Thanh Tịnh Đạo, khi thiền lấy hơi thở làm đề mục, lúc đạt cận định, có sự xuất hiện của ánh sáng Nimitta [25]. Nimitta nghĩa là dấu hiệu (sign, “tướng”) của hơi thở. Nimitta của đề mục hơi thở có thể có nhiều hình tướng khác nhau. Các loại đề mục thiền khác nhau có thể cho ra các nimitta (signs) khác nhau. Thực tế là khoảng ba mươi năm trở lại đây, có những thiền sư thực hành niệm hơi thở với điểm xúc chạm ở mũi, thì trải nghiệm sự xuất hiện Nimitta giống như Thanh Tịnh Đạo đã mô tả ở trên. Có nhiều cách giải thích về Nimitta, theo một số các thiền sư, nimitta chính là hơi thở được cảm nhận ở mức độ các tổ hợp kalapa. Khi tâm thanh tịnh và tập trung các tổ hợp này phát sáng. Nimitta và ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko) là hai thực thể khác nhau. Có người có Nimitta trước rồi mới có ánh sáng trí tuệ, có người thì ngược lại. Nhờ có Nimitta làm đối tượng, các thiền sư mới có thể thâm nhập (absorbed) vào mức an-chỉ định (appanā-samādhi). Nếu như thiền định được dùng làm phương tiện thực hiện tuệ quán thì Nimitta cũng chỉ được dùng làm phương tiện để thực hiện an-chỉ định (appanā-samādhi). Tâm khi vào mức an chỉ định của tứ thiền có ánh sáng trí tuệ rất mạnh.

Các vị thày Theravada người Tây phương vốn thường không chấp nhận các chú giải (Atthakatha, commentaries), do đó phần nhiều cũng không chấp nhận Nimitta, không chấp nhận ánh sáng trí tuệ quá sáng, quá rực rỡ theo như cách mô tả của Thanh Tịnh Đạo. Bhikkhu Sona nói rằng các tu sĩ nên cẩn thận, tránh để các chú giải hướng dẫn sai [26]. Bởi vì nếu căn cứ vào Phân Tích Đạo (đoạn giảng về niệm hơi thở vào, hơi thở ra) và sự trải nghiệm của chính ông thì tâm thiền chỉ có thể sáng tựa “trăng thoát mây che”.[27].

Giáo pháp nguyên thủy đã dùng sánh sáng tâm trí để nhận biết các pháp chân đế, rồi từ đó đạt được các tuệ cần thiết cho giác ngộ cuối cùng. Giáo phái bí mật San Mat (thuộc đạo Sikh) cũng thiền để có ánh sáng, khi có ánh sáng thì cho là giác ngộ, ngoài ra không có lý luận giải thích gì cả! San Mat [28], khi truyền vào Việt Nam gọi là “pháp môn quán âm”. San Mat gọi hiện tượng thấy ánh sáng trong thiền định là thành Phật (vì hầu hết tín đồ San Mat tại Việt Nam là Phật tử). Cùng là ánh sáng xuất hiện trong thiền định nhưng sự hiểu biết đúng về bản chất loại ánh sáng đó thì rất khác nhau. Sự phục hồi của thiền định chắc chắn sẽ điều chỉnh một số hiểu lầm đáng tiếc về vai trò của thiền định trong thời gian vừa qua:

Cận-định

Vì bị bỏ quên quá lâu, không thực sự có trải nghiệm, nên sự hiểu biết về thiền định trong Phật giáo hiện nay chưa được phổ biến. Chỉ có một số ít các trường phái tu tập thiền định mới hiểu rõ cận định thực sự như thế nào! Ai cũng biết cận định (upacāra samādhi) là một trạng thái tâm ngay ngưỡng cửa, trước khi bước vào an-chỉ định (appanā-samādhi). Nhưng vần đề là nếu một người chưa từng nhập vào chánh định, chưa từng đi ngang qua nó, thì rõ ràng khó mà biết được cái ngưỡng cửa đó ra làm sao! Từ sự hiểu lầm đó, nên đã có sự ngạc nhiên và nghi ngờ đối với khả năng của cận định khi phối hợp với thiền quán.

Sát na định vs cận định

- An-chỉ định (appanā-samādhi) là lúc tâm “hòa nhập” (absorption) vào đối tượng, không phân biệt được chủ thể và đối tượng. Cận định (upacāra samādhi) là trạng thái tâm trước khi đi vào mức an chỉ, tức khi chủ thể còn phân biệt được với đối tượng. Khi vừa xuất ra khỏi an chỉ định hoặc cận định, tâm đặc biệt mạnh mẽ, có thể quan sát được các đối tượng của thiền quán ở mức chân đế và trong sự sinh diệt nhanh chóng của chúng . Ở trạng thái định và cận định có rất nhiều ánh sáng trí tuệ (paññā-āloko) như mô tả của Kinh Tăng Chi [AN. 11.139]. Nhờ có ánh sáng trí tuệ, thiền định có khả năng phối hợp với tuệ quán (Vipassanā) để nhìn thấy các pháp vi tế thuộc chân đế như thành phần cấu tạo của tâm và vật chất (danh và sắc).

- Sát-na định (khaṇika samādhi) được giảng dạy phổ biến trong đa số các trường phái Theravada như là khả năng định trong vài sát na, dùng để di chuyển nhanh chóng khi quan sát các đối tượng. Tuy nhiên, kèm theo cách giải thích về sát-na định này là một ngụ ý không cần đến sự tu tập thiền định [20]. Thực ra sát na định của một người có tu tập định thì hoàn toàn khác với sát na định của một người không có tu tập định. Khác biệt ở chỗ nào? Sát na định của một người có định, có cường độ mạnh hơn, và năng lực nhận biết tinh vi hơn, nhờ ánh sáng tâm trí. Đối với những người có tu tập định thì Sát Na Định được hiểu như sau:

“A meditator uses either access concentration or jhāna concentration as the foundation of vipassanā and undertakes vipassanā defining mentality-materiality as impermanent (anicca), painful (dukkha) and not-self (anatta). The concentration that is associated with insight knowledge (vipassanā) in this way is called “khanikasamādhi”. [29]

Một thiền giả dùng hoặc cận định hoặc định bậc thiền (jhāna) như là nền tảng của thiền Vipassanā và thọ trì thiền Vipassanā xác định danh và sắc là vô thường (aṇicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Định kết hợp với minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo cách này được gọi là “khanikasamādhi” (sát-na định).

Một số các tên gọi của Định

- An Chỉ Định (appana samadhi) là mức định hoàn hảo dùng để so sánh với cận định (upacara samadhi) là mức định chưa hoàn hảo.

- Chánh Định (samma samadhi) là thiền định do Đức Phật dạy, khởi sinh do sự ly dục ly ác pháp. Chánh định khác với Tà Định, cái được ám chỉ Định không phải do Đức Phật dạy.

- Định xuất thế gian (lokuttara samadhi, supra mundiane samadhi, Thánh định) dùng để đối lập với Định thế gian (lokiya samadhi, mundiane samadhi, định của phàm phu)

- Thánh Định dùng để ám chỉ Định của các bậc thánh trong Đạo Phật. Thánh Định chính là Định xuất thế gian. Một người đắc Định nhưng chưa có Tuệ giải thoát thì cái Định này vẫn còn là Định phàm phu. Một vị thánh nhập vào Định thì Định đó là Thánh Định hay Định xuất thế gian. Vần đề này tham khảo thêm tại đây:

http://www.palikanon.com/english/the_jhanas/jhanas05.htm#top

- Nimitta samadhi (Định có đi kèm dấu hiệu): Các định Jhana

- Animitta samadhi (Định không có dấu hiệu), sunnata samadhi, apanihita samadhi:
Các Định có được từ tuệ minh sát, tuệ Đạo, tuệ Quả (theo Mahathera Ledi Sayadaw)

- Animitta cetosamadhi (Vô tướng tâm định): Định thứ chín trong quá trình tu tập định của ngài Moggallana, được đề cập đến trong kinh Godatta, Tương ưng tâm, chương VII, 41, Tương Ưng Bộ Kinh.

Sự phân biệt giữa các tên gọi về Định rất quan trọng. Tuy nhiên hiện vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về các danh từ này. Ví dụ thế nào mới là ý nghĩa thực của CHÁNH ĐỊNH (samma samadhi). Vì chánh định là một chi trong bát chánh đạo nên đương nhiên đa số mọi người cho rằng Định của Đức Phật đề cập trong kinh mới là Chánh Định. Định mô tả trong Thanh Tịnh Đạo hay các Định của Bà La Môn (gồm nhiều giáo phái) thì không phải là Chánh Định. Có quan điểm cho rằng chỉ có pháp Tuệ Quán (Vipassana) mới là pháp riêng biệt đặc thù của Đạo Phật, còn Định mà Đức Phật dạy cũng có cội nguồn từ di sản chung của nền Đạo học Ấn Độ. Nhưng có người khẳng định rằng Định của Đức Phật là riêng của giáo pháp Đức Phật vì nó là Định sinh ra từ sự ly dục ly ác pháp. Thật là rắc rối, vì có ai dám chắc rằng Định của Bà La Môn là loại Định của những người không ly dục, không ly ác pháp! Vì Bà La môn (Brahmin) nghĩa là những người chuyên gìn giữ phạm hạnh tức là đã có sự tu tập ly dục ly ác pháp rồi!

Ly dục, ly ác pháp

Thiền định trực tiếp sinh ra các tuệ cho sự giải thoát đối với các tôn giáo và giáo phái ở Ấn Độ, và đóng góp gián tiếp cho sự giải thoát của Đạo Phật nguyên thủy, qua phương pháp tuệ quán. Thiền định rất khó thực hiện vì cơ sở của sự đắc định (theo kinh điển) là một trạng thái thanh tịnh do Giới hạnh, do “ly dục, ly ác pháp”. Trong thời đại hiện nay, xã hội phát triển mạnh về đời sống vật chất, con người rất dễ bị xáo động bởi các giá trị vật chất và đánh mất sự thanh tịnh tâm trí. Khi một thời đại mà cả thế giới bị dục và tham khuấy động thì chắc chắn thiền định không đủ duyên để thành tựu. Điều đó lý giải tại sao, trong một thời gian dài, thiền định biến mất trong sự tu tập. Có những thắc mắc có vẻ rất bế tắc, ví dụ: rằng làm sao để tu tập thiền định khi chưa có giác ngộ? Bởi vì sau lúc giác ngộ ta mới có thể ly dục ly ác pháp. Nói cách khác là điều kiện “ly dục ly ác pháp” cho việc tu tập thiền định là hoàn toàn mâu thuẫn và vô lý! Câu trả lời là: Trạng thái gọi là ly dục, ly ác pháp lúc ấy, phải hiểu là cách ly dục, cách ly ác pháp (tạm thời) trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Trạng thái ly dục ly ác pháp “tạm thời” thường không xảy ra với những người có cuộc sống căng thẳng, hoặc có tâm ô nhiễm nặng nề. Đối với người ít ô nhiễm, cuộc sống tu tập thích hợp, sẽ có một khoảng thời gian đặc biệt nào đó khi tâm tạm thời xa dục xa ác pháp, thì đó là thời điểm của sự đắc thiền. Dĩ nhiên chuyện có thể tu tập thiền định thành công hay không chỉ được xác nhận bởi những người đắc định. Hữu duyên cho ai được tiếp xúc với những vị này!

Định thế gian (hiệp thế) và xuất thế gian (Thánh Định)

Khi chứng trú trong thiền định, người hành thiền cũng cố được tình trạng ly dục ly ác pháp đó. Tuy nhiên khi xuất khỏi thiền định thì trạng thái ô nhiễm có thể quay lại. Bởi vậy, trong trường hợp này, khi người hành thiền định chưa có giác ngộ thì thiền định của người đó được gọi là định “thế gian” (mundane Jhana). Tại sao biết là định thế gian mà vẫn phải thực hành? Vì thực hành định thế gian là rèn luyện một công cụ cần thiết để thực hành thiền quán. Trong sự thực hành đạo lộ đi tới giác ngộ, thiền định nên được xem là một phương tiện, hơn là một cứu cánh. Sau khi chứng nghiệm các tầng tuệ và giác ngộ, tức đạt một trong bốn quả Thánh, khi vị ấy nhập vào thiền định thì lúc này định của vị ấy được gọi là định “xuất thế gian” (supramundane jhana) mà nhiều người gọi là Thánh định. Phải khẳng định rằng một người khi bắt đầu tu tập thì không thể nào tu tập Thánh Định được cả, bởi vì Thánh Định tức Thánh Quả Định (Phalasamāpatti) chỉ có được sau khi giác ngộ! Thánh Quả Định là một loại thiền siêu thế có Níp Bàn làm đối tượng. Mong rằng tất cả những trình bày, phân tích về các vấn đề phức tạp và tế nhị này, có thể giúp xóa đi các định kiến gọi là sự “vô ích” và “nguy hiểm” của thiền định! Và cũng để hiểu rằng tại sao người tu phải chấp nhận một loại Định dùng làm phương tiện gọi là Định thế gian hay hiệp thế (mundane jhana)

7. Mục đích của thiền định để thực hiện cái gọi là “như thực rõ biết”

Hãy nghe lời Đức Phật giải thích về vai trò của thiền định trong Phẩm Định, chương XII, Tương Ưng sự thật, tập V, chương Đại phẩm:

 “ Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rõ biết (yathābhūtaṁ pajānāti) các pháp (dhamma). Và như thật rõ biết gì? Như thật rõ biết: "Đây là Khổ". Như thật rõ biết: "Đây là Khổ tập". Như thật rõ biết: "Đây là Khổ diệt". Như thật rõ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt".

Này các Tỷ-kheo, hãy tu tập định.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có định, như thật rõ biết các pháp. Do vậy, này các Tỷ-kheo, một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Khổ". Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Khổ tập". Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Khổ diệt". Một cố gắng cần phải làm để rõ biết: "Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt".

8. Đức Phật đã tu tập thiền định và ca ngợi sự tu tập thiền định

Đức Phật có khuyến khích tu tập thiền định hay không? Hãy xem lại kinh điển. Có rất nhiều những bài kinh, đoạn kinh, nói về sự cần thiết và lợi ích của viêc tu tập thiền định. Ví dụ phẩm Thiền Định 1 và 2 (chương Một pháp, Tăng Chi Bộ Kinh), phẩm Định, tương ưng sự thật (chương XXII, Tương Ưng Bộ Kinh), kinh Đại Bát Niết Bàn (Trung Bộ Kinh) và vố số những bài kinh khác trong năm bộ Nikaya… Trong đoạn trích từ Đại Kinh Saccaka dưới đây: Đức Phật kể lại sự tu tập bốn thiền hữu sắc của Ngài:

“…Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Đạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Đây là đạo lộ đưa đến giác ngộ".

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện".

Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực, ăn cơm chua". Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Aggivessana, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Aggivessana, khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc".

Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 Cuối cùng trước khi nhập diệt, lời di huấn của Đức Phật để lại trong Kinh Đại Bát Níp Bàn (D.N, Mahaparinibbana):

“ Đây là Giới, đây là Định, đây là Tuệ. Định cùng tu với Giới sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tuệ cùng tu với Định sẽ đưa đến quả vị lớn, lợi ích lớn. Tâm cùng tu với Tuệ sẽ đưa đến giải thoát hoàn toàn các món lậu hoặc, tức là dục lậu, hữu lậu (tri kiến lậu), vô minh lậu…. »

Chú thích

[17] Xem The Jhana, phần III, Chuẩn mốc của các bậc thiền by Ajahn Brahm. http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2010/06/20/d%E1%BB%8Bnh-jhana/?preview=true&preview_id=3572&preview_nonce=2748e43101

[18] Xem The Jhana, phần II, Nimitta giai đoạn cuối của quá trình nhập định

[19] Theo “Biết và Thấy”, bài pháp thoại 4, Làm thế nào để phân biệt sắc. Tác giả Pa Auk Tawya Sayadaw, Tỳ Khưu Pháp Thông dịch ra tiếng Việt.

[20] Sát na định (khaṇika samādhi) được hiểu là giữ định trong vài sát na rồi di chuyển đến đối tượng khác.U Silananda coi Sát na định cũng như là Chánh định:

http://www.buddhanet.net/budsas/uni/u-dainiemxu/dnx04d.htm (phần chánh định)

http://www.sachnoiphatgiao.org/news.php?act=detail&id=187

[21] Thiền Tứ Đại (Catudhatu Vavatthana) http://thienviennguyenthuy.wordpress.com/2009/09/19/thi%E1%BB%81n-t%E1%BB%A9-d%E1%BA%A1i-catudhatu-vavatthana/

[22] No real differencies in various kinds of Jhanas

http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2262

[23] Ánh sáng và Nimitta, Bhikkhu Dhammapala

 

http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=1305

 

[24] The Mystery of the Breath Nimitta by Bhikkhu Sona

 

http://www.urbandharma.org/udharma/nimitta.html

[25] Patisamdhidamagga, đoạn giảng về niệm hơi thở

http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2342&prev=2348&next=2329

[26] http://en.wikipedia.org/wiki/Contemporary_Sant_Mat_movements

[27] “Breakthrough in Tranquillity Meditation (Samatha)” and “Breakthrough in Insight Meditation (Vipassanā)”, Main paper, introduction, by Sayadaw Āciṇṇa and prof. Mehm Tin Mol, Ph.D. Yangon Myanmar 2004. trang 43

[28] “Breakthrough in Tranquillity Meditation (Samatha Bhavana)” and “Breakthrough in Insight Meditation (Vipassanā)”, Đồng tác giả: Pa Auk Tawya sayadaw & Mehm Tin Mol. Ph D. Trang 76-77

[29] Vật tự thân (Thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon)

http://www.britannica.com/EBchecked/topic/592145/thing-in-itself


Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn