TUỆ & GIÁC NGỘ
BS. Phạm Doãn
Phần hai(Tiếp theo)
Tuệ phát sinh do tu tập Thiền Định và Tuệ Quán
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
2. Nguyên lý của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti,
seeing as it is)
3. Thế nào là “hành thâm bát nhã”.
4. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
5. Bốn đạo lộ
6. Việc kiểm chứng các trải nghiệm trong khi tu tập
7. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học: Quy nạp và Diễn dịch
II. Tuệ Quán
1. Phương pháp Tuệ Quán (Vipassanā)
Là một sáng tạo
riêng của Đức Phật, là con đường dùng trí tuệ để thực hiện giải thoát. Có thể
có rất nhiều pháp môn cũng nói về trí tuệ, nhưng ngoài giáo pháp của Đức Phật
không có sự mô tả chi tiết về các tuệ, cũng như không hề có sự mô tả về các qui
trình thực hiện các tuệ. Cùng đặt cơ sở trên kinh điển như Kinh Quán Niệm hơi
thở, Đại Niệm Xứ (Mahāsatipatthāna) v.v.., nhưng hiện nay có rất nhiều qui
trình tu tập Vipassanā khác nhau được các trường phái đề xướng. Hoặc nghiêng về
quán thân (Kayānupassanā), hoặc nghiêng về quán Tâm (Cittānupassanā), hoặc
nghiêng về quán thọ (Vedanānupassanā). Hoặc có kết hợp với thiền định hoặc
không kết hợp với thiền định. Hoặc kết hợp với một mưc độ định thật sâu, hoặc
kết hợp với một mức định vừa hoặc nhẹ hơn. Dưới đây là liệt kê (chỉ có tính sơ
sài) về một số các trường phái Vipassanā kết hợp với mức độ định sâu, vừa hoặc
nhẹ như sau :
- Vipassanā kết hợp với định rất sâu :
Sayadaw Pa Auk Tawya, Myanmar
- Vipassanā kết hợp với mức độ định vừa
Ajahn Brahmavamso, người Anh, West Australia
- Vipassanā kết hợp với mức độ định nhẹ
Ayya Khemal, người Đức gốc Do Thái
Bhante Gunaratana, người Sri Lanka, Washington DC, U.S.A
Ajahn Thanissaro, người Mỹ, San Diego, Cali, U.S.A
- Vipassana trong kinh Nikayas
Có người cho rằng từ “Vipassana” không có trong kinh, mà chỉ là một từ được
thêm vào phương pháp tu tập của Theravada, rất muộn về sau này. Điều công kích
này hoàn toàn không đúng. Chữ Vipassana có trong rất nhiều kinh Nikaya. Dưới
đây là một vài ví dụ:
- Samyutta 35.245: ‘Sīghaṃ dūtayugan’ti kho, bhikkhu, samathavipassanānetaṃ
adhivacanaṃ.
- Anguttara 2:173.“Dveme, bhikkhave, dhammā. Katame dve? Samatho ca vipassanā
ca. Ime kho, bhikkhave, dve dhammā”.
Hoặc Anguttara,4,2:10
Yo hi koci, āvuso, bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ
byākaroti, sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena.
Katamehi catūhi? Idha, āvuso, bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti.
Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ
āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto
saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1003 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti. Tassa
vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati
bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saṃyojanāni
pahīyanti, anusayā byantīhonti.
1004 Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa
samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati
bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto
saṃyojanāni pahīyanti, anusayā byantīhonti.
- Mười sáu tầng Tuệ:
Theo Kinh Trạm Xe (Rathavinīta Sutta) và theo Thanh Tịnh Đạo, sự tu chứng được
thực hiện qua bảy giai đoạn thanh tịnh tâm: Hai giai đoạn đầu là Thanh tịnh tâm
bằng Giới và thanh tịnh tâm bằng Định. Năm giai đoạn kế là thanh tịnh tâm bằng
tuệ quán để thực hiện 16 tuệ căn bản:
1. Thanh tịnh giới,
Sīla-visuddhi (purification of morality)
2. Thanh tịnh tâm bằng định
Citta-visuddhi (purification of the mind by concentration)
3. Kiến thanh tịnh
Diṭṭhi-visuddhi (purification of view)
4. Đoạn Nghi thanh tịnh
Kaṅkhāvitaraṇa-visuddhi (purification by overcoming doubt)
5. Đạo và Phi Đạo Tri kiến thanh tịnh
Maggāmagga-ñāṇa-dassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of what
is the path and what is not the path)
6 Đạo Hành Tri Kiến thanh tịnh
Paṭipadā-ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision of the way)
7. Tri Kiến thanh tịnh
Ñāṇadassana-visuddhi (purification by knowledge and vision)
“Với sự trợ giúp của ánh sáng sáng xuyên thấu, rực tỏa từ một tâm có phối hợp
với chánh định (sammāsamādhi), thiền giả thấu suốt vào các pháp chân đế
(paramattha), tức là các pháp tạo nên tâm và thân. Thiền giả xác định rõ từng
tâm (citta), từng tâm sở (cetasika), và từng loại sắc chân đế (rūpa) bằng
phương tiện là các đặc tính (lakkhaṇa), phận sự (kicca), biểu hiện
(paccupaṭṭhāna) và các nhân gần (padaṭṭhāna) tương ứng của chúng. Kế tiếp, phân
biệt các nhân sanh ra danh-sắc này bao gồm các mối quan hệ nhân quả trong Lý Duyên
Khởi (Paṭiccasamuppāda). Sau đó, hành giả quán xét ba đặc tính của các hành
theo nhiều cách đặc biệt như đã được miêu tả trong Thanh Tịnh Đạo (Visuddhi
Magga) để tu tập đúng đắn minh sát tuệ (vipassanāñāṇa) theo từng tuệ một để có
thể chứng đạt mục tiêu tối hậu của thiền vipassanā – chứng ngộ Niết-bàn.” [30]
Phải thấy được rằng, sự phân tích rạch ròi và sự mô tả chi li các tuệ và trí,
chính là tinh hoa đặc thù của chánh pháp. Đức Phật là người dạy về các tuệ cần
thiết để giải thoát và người tu phải dùng trải nghiệm cá nhân để thực chứng
chân lý đó. Sự hiểu biết sâu rông về Pháp Học cũng như sự tin tưởng mạnh mẽ
(Tín) về pháp học vẫn chưa đủ cho sự giác ngộ. Giống như khi ta chỉ biết một
người nhưng chưa hề gặp mặt và nói chuyện (chưa có trải nghiệm) thì ta chưa đủ
hiểu biết về người đó. Chỉ sau khi mặp mặt, bắt tay, nói chuyện trao đổi (đã có
trải nghiệm) thì mọi sự hiểu biết (tuệ) về người ấy mới được đầy đủ. Phải “Biết
cùng với Thấy” (Knowing and Seeing) mới sinh ra tuệ giác đầy đủ. Pháp Học,
giảng bởi Đức Phật, chỉ được coi như một triết lý tức lý thuyết đối với người
chưa giác ngộ. Nhưng ngay sau khi pháp học được trải nghiệm (experienced) thấy
rõ như thực (bằng năng lực của Tuệ kết hợp với Định), người tu bấy giờ trở nên
giác ngộ.
2. Nguyên lý của Tuệ quán: Thấy như thực (yathābhūtaṁ pajānāti, seeing as it is)
Chỉ khi nhìn thấy rõ ràng (bằng năng
lực của cận định) các pháp “như chúng thực là”, chúng ta mới được hoàn toàn
giác ngộ. Rất nhiều sách về tâm linh và tôn giáo cũng nói về trạng thái nhìn
“thấy như thực” hoặc “thấy sự vật như nó là” (seeing everything as it is). Tuy
nhiên cách giải thích thì hoàn toàn không đúng, ví dụ giải thích “thấy như
thực” là quan sát sự vật mà không dựa vào cảm tính hay tiên kiến (prejudge) chủ
quan. Đạo Phật nguyên thủy dùng chữ “thấy như thực” theo một ý nghĩa khác. Đó
là thấy “như thực” cái thực tại nội hàm bên trong sự vật. Việc tu tập bắt đầu
bằng quan sát ngay trong thân thể của người tu, bởi vì lúc khởi đầu minh sát
còn yếu. Khi thuần thục thì có thể chuyển minh sát ra các đối tượng ngoài thân.
Thấy cái “thực tại nội hàm bên trong” nếu liên hệ với Phật giáo phát triển,
giống như là thấy “Tánh” hay “kiến tánh” (nếu muốn gọi kiểu như vậy). Con mắt
xuyên thấu của Tuệ quán (Vipassana) có thể “nhìn thấy như thực” nghĩa là nhìn
thấy sự-vật ở mức độ chân đế: Danh, Sắc cấu tạo như thế nào? Ngũ uẩn, duyên-hợp
vận hành ra làm sao? v.v…Điều này giác quan và tâm trí trong điều kiện bình
thường không thể làm được. Từ lúc Đạo Phật suy tàn, hơn hai ngàn năm cho đến
tận hôm nay, biết bao công sức tu tập đã trôi sông trôi biển, vì không hiểu ý
nghĩa của việc thấy “như chúng thực sự là”. Vì thế cũng không hiểu “kiến tánh
thành Phật” là kiến cái “tánh” nào và bằng “phương pháp” nào!
Thế giới của Danh và Sắc mà chúng ta đang thấy chỉ là hiện tượng bên ngoài.
Thấy cái hiện tượng bên ngoài đó không phải là thấy như thực! Chỉ có thiền
quán, dựa trên định lực mạnh mẽ, mới biết và thấy sự vật “như chúng thực là”.
Triết học Tây phương bế tắc vì không nhìn thấy được sự vật “như chúng thực là”.
Họ biết là trong mỗi vật hay hiện tượng có hàm chứa một nội dung mà tri giác
(perception) con người không nắm bắt được và gọi đó là vật tự thân
(thing-in-itself, chose-en-soi, noumenon) [31]. Vật tự thân nói lên giới hạn
của tri giác con người trong điều kiện sinh lý bình thường. Mặc dù khoa học
cũng có thể dùng các công cụ tinh xảo để thâm nhập vào vật tự thân, nhưng cái
biết và thấy đó chỉ là gián tiếp vì phải qua trung gian của công cụ. Đôi khi
cái biết của khoa học cũng chỉ là một giả thuyết (hypothese) hợp lý, như giả
thuyết về cấu trúc và các cầu nối giữa những nguyên tử v.v…Đó là những cấu trúc
mà con người không trực tiếp nhìn thấy. Tuệ quán (với năng lực của cận định)
giúp tri giác con người vượt qua điều kiện bình thường để thâm nhập trực tiếp
vào thế giới của vật tự thân. Cái biết và thấy của thiền quán do đó khác với
cái biết và thấy của khoa học. Các tổ hợp kalapa của vật chất, được trải nghiệm
qua tuệ quán, khác với mô tả của khoa học về các nguyên tố và hợp chất. Đây là
điều kỳ diệu và phi thường về cái biết và thấy như thực của tuệ quán!
Tuệ tri như chúng thực sự là (yathābhūtaṁ pajānāti’) chính là nguyên lý của tuệ
quán và chính là phương pháp của Đạo Phật để nhìn thấy sự thực, tức các pháp
chân đế (paramattha), nằm bên dưới các hiện tượng bề mặt. Do biết và thấy các
pháp chân đế, do thu đạt được đủ các tuệ cần thiết, người tu tiến dần tới Đại
giác ngộ. Trong lịch sử thời giáo pháp nguyên thủy, các bộ Nikaya hoàn toàn
không ghi nhận được trường hợp nào không có thiền định, không có tuệ quán, không
thấy các pháp như thực, mà lại… hốt nhiên đại ngộ!
3. Mối liên hệ giữa Tuệ Quán và Thiền Định
Thông tin đại chúng hiện nay không biết gì nhiều đối với một số sự thực về Đạo
Phật. Trái với một lịch sử lâu dài hơn 2500 năm, được rất nhiều người châu Á sùng
bái và tu tập dưới hình thức một Đạo Phật “tín ngưỡng”, Đạo Phật “giải thoát”
thực sự đã suy tàn và dần dần biến mất. Trước tiên, Đạo Phật biến mất tại Ấn
Độ, cái nôi sinh trưởng ra nó [33]. Sau đó Đạo Phật suy tàn tại Sri Lanka, nơi
mà nó đã có một thời gian dài tránh khỏi sự đàn áp của đạo Bà La Môn Ấn Độ. Nới
trú ngụ sau cùng của giáo pháp nguyên thủy hiện nay là tại Myanmar, một quốc
gia lấy Đạo Phật làm quốc giáo. Tất cả những di tích về Đạo Phật mới chỉ tìm
thấy trong thời gian khoảng 100 năm trở lại đây. Đặc biệt Lumbini, nơi Đức Phật
sinh ra, chỉ mới được Unessco xác nhận là di tích lịch sử vào năm 1997. Các
kinh điển Pali quí giá cũng mới được phương Tây dịch ra Anh ngữ, khi Ấn Độ còn
là thuộc địa của người Anh. Vì giáo pháp của Đức Phật quá vĩ đại và sâu sắc nên
qua thời gian, toàn bộ tinh hoa của giáo pháp nguyên thủy (do Đức Phật dạy) đã
không còn được hiểu biết cặn kẽ nữa. Giáo pháp gọi là “nguyên thủy” hiện giờ
chỉ dựa vào những suy luận trên Luật, Kinh, Thắng pháp và những cuốn chú giải.
Khác với Đạo Phật “dạng tín ngưỡng” lúc nào cũng lan tràn phổ biến khắp nơi,
giáo pháp nguyên thủy, tức giáo pháp thực sự do Đức Phật dạy để giúp con người
đạt tới giải thoát, nói chung, phải được coi như đang trong thời kỳ phục dựng
lại. Một Phật tử chân chánh phải nhìn thấy sự thực này và phải chấp nhận sự
thực này nếu muốn phục hồi lại tinh hoa của chánh pháp! Các vị A La Hán cần
phải xuất hiện và đồng thời các Phật tử phải phân biệt được và nhận ra sự xuất
hiện của các vị A La Hán ấy. Giáo pháp của Đức Phật chỉ phục sinh nếu nó thực
sự đưa lại giác ngộ. Nghĩa là, chỉ khi nào sự tu chứng trở nên phổ biến và lần
lượt có các vị đắc chứng các quả Thánh!
Sự phục hồi của Vipassanā sau những năm dài thất lạc mới chỉ được khôi phục
khoảng năm mươi năm trở lại đây, nhờ công của ngài Mahasi sau lần kiết tập kinh
đển lần thứ sáu tại Yangon (1954). Vì mới phục dựng, nên mối quan hệ giữa thiền
định và tuệ quán vẫn còn chưa được hiểu hết, không những ở giới cư sĩ mà ngay
trong các tăng đoàn của các quốc gia mà Đạo Phật là quốc giáo! Tại thời điểm
này, trong các tăng đoàn Theravada người ta thấy rất nhiều phương pháp tu tập
khác nhau. Có quan điểm lại đứng trên lập trường của Phật giáo phát triển, cho
rằng chỉ cần giữ đúng nguyên lý tu tập, còn về phương pháp thì có thể khác
nhau. Nói đến phương pháp tức là nói đến pháp thực hành (patipatti) chứ không
thể nói đến giáo thuyết hay pháp học được. Vậy nguyên lý trong pháp hành của
giáo pháp nguyên thủy là gì? Có phải là nguyên lý “nhìn thấy như thực” Khổ Đế,
Tập Đế, Diệt Đế và khi giác ngộ, nhìn thấy như thực các lộ trình tâm của bốn
Đạo và bốn Quả sa môn. Trong sự không thống nhất các phương pháp thực hành,
xuất hiện quan điểm xem nhẹ thiền định. Trong một thời gian dài, Phật tử
Theravada dường như không còn nắm được ý nghĩa của thiền định nữa. Ví dụ như
khi nói về định, các Phật tử thường lập lại lời dạy truyền thống: Định để làm
gì? Định như hòn đá đè cỏ, dở hòn đá ra, cỏ mọc trở lại! Sự rập khuôn của người
tu, do qui phục những định kiến truyền thống, vô tình đánh mất một nửa pháp
hành của Đức Phật! Có người còn sợ, còn hoài nghi thiền định là ngoại đạo Bà La
môn. Trong lịch sử, Bà La Môn cũng có thiền định với tám tầng thiền chứng. Dù
có giống nhau ở điểm nào nhưng mục đích của thiền định Phật giáo và Bà La môn
giáo là hoàn toàn khác nhau. Không có một sự vật hay hiện tượng hay khái niệm
nào có thể xuất hiện và tồn tại một cách độc lập với những mối liên hệ xung
quanh.. Đạo Phật cũng xuất hiện, tồn tại trong mối tương quan mật thiết với nền
văn minh gốc rễ của nó. Lúc bắt đầu đi tu, sa môn Gautama cũng xuất phát từ các
giáo thuyết của Bà La Môn, cũng được dạy và tu tập các thiền định của Bà la Môn
như những tu sĩ khác trong rừng Khổ Hạnh (Uruvela). Chỉ sau này, khi giác ngộ
hoàn toàn, ngài mới phê bình các quan điểm sai lầm của triết học Vệ Đà để hoàn
chỉnh một giáo pháp riêng. Đối với pháp hành của Đạo Phật, chỉ có Tuệ Quán
(Vipassanā) là phương pháp đặc thù riêng mà các Bà La Môn đương thời và trước
đó chưa biết đến. Trong thời điểm hiện tại, sự thực về Đức Phật và giáo pháp
của ngài chỉ còn lại trong các bộ kinh, coi như là bằng chứng duy nhất. Do đó,
không có chọn lựa nào khác ngoài việc dựa trên kinh điển (một cách thận trọng)
để tìm lại giáo pháp thực sự của Đức Phật. Trong các bộ Nikaya đã có sự mô tả
rõ ràng phương pháp tu tập của Đức Phật, ví dụ kinh Saccaka kể lại việc Đức
Phật đã thực hành Thiền quán sau khi đã vào tứ thiền:
“…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não,
nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến
Lậu tận trí. Ta biết như thật: “Đây là Khổ”, biết như thật: “Đây là Nguyên nhân
của khổ”, biết như thật: “Đây là sự Diệt khổ”, biết như thật: “Đây là Con đường
đưa đến diệt khổ”, biết như thật: “Đây là những lậu hoặc”, biết như thật: “Đây
là nguyên nhân của lậu hoặc”, biết như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”,
biết như thật: “Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc”. Nhờ biết
như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu,
thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự
hiểu biết: “Ta đã giải thoát.” Ta đã biết: “Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành,
việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa”. Này
Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh
diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm,
tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng
không chi phối tâm Ta. …”
Như mô tả của đoạn kinh trên: “…Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không
cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như
vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến …” rõ ràng phải có tâm tương ứng với định mới có
thể giúp người tu nhìn thấy rõ “như thực” các pháp chân đế (paramattha). Thực
hành tuệ quán trên các pháp chân đế mới có thể thu hoạch các tuệ toàn mãn và
nhờ đó mới đạt được giác ngộ. Nhờ có định lực mạnh mẽ người tu có thể nhận thấy
rõ từng tâm (citta) trong qui trình tâm (vīthicitta) của mình và biết được sự
chuyển biến của tâm lúc giác ngộ, lúc chuyển phàm thành thánh. Không có Định
việc thực hành Vipassana không mang lại đủ tuệ cần thiết cho sự giác ngộ.
5. Bốn đạo lộ
Tuy nhiên, một cách chính xác theo kinh, có khả năng có đến bốn đạo lộ tu tập
[34] xét về sự kết hợp giữa Định và Tuệ. Ngài Anan nói với các tỳ khưu, như
sau:
- Ở đây, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập
quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy,
tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung
mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỳ-khưu tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu
tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường
ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho
sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do
vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy
thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường
ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm
dứt.
· Lại nữa, này chư Hiền, Tỳ-khưu với các dao động đối với các pháp được hoàn
toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa,
nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường
ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho
sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt. (Kinh Gắn Liền
Cột Chặt, Tăng Chi Bộ kinh, IV.170)
Giải thích:
- Đạo lộ thứ nhất “Định trước Tuệ sau”: người tu phải cố đạt được từ một cho
đến tám tầng thiền chứng. Bốn định hữu sắc và bốn định vô sắc là tám tầng thiền
chứng (satipattana). Cách tu này rất khó tại thời điểm bắt đầu, sau đó đi rất
nhanh qua các tầng tuệ vì năng lực Định đã rất vững mạnh..
- Đạo lộ thứ hai “Tuệ trước định sau” cũng rất phổ biến và người tu tập theo
đạo lộ này gọi là “hành giả thuần quán”. Trái với mọi hiểu biết thường cho rằng
thuần quán là không tu tập định gì cả. Vì như đã trình bày, nếu không có định,
sẽ không thu được một tầng tuệ nào cả. Sayadaw Pa Auk giải thích như sau:
Những hành giả hành thẳng thiền Minh-sát (Vipassana) không có bất cứ một thiền
chứng nào được gọi là thuần quán hành giả hay khô quán hành giả
(sukkhavipassaka). Trước tiên họ phải hành thiền tứ đại, vốn là một đề mục
thiền căn bản và bắt buộc cho mọi hành giả thuần quán. Với sự trợ giúp của định
mạnh và vững chắc do hành thiền tứ đại đem lại, họ sẽ thấy các tổng hợp sắc
(rūpakalāpa), hay các phân tử nhỏ của vật chất. Nhờ phân tích các kalāpa và thể
nhập vào sắc tối hậu (sắc chân đế), họ phá vỡ được tính rắn chắc của sắc (vật
chất). Kế đó họ phân biệt các căn xứ và đối tượng của danh cùng nhau để giúp
cho việc quán các trạng thái tâm thiện và bất thiện. Sau đó, họ phải phân biệt
các nhân của danh & sắc, và rồi quán sắc, danh và các nhân của chúng như vô
thường, khổ và vô ngã. Theo cách này, khi minh sát trí của họ thuần thục, họ sẽ
chứng ngộ Niết-bàn. Dĩ nhiên đây chỉ là một sự giải thích tóm tắt về sự thực
hành của các hành giả thuần quán mà thôi. (Các câu hỏi và trả lời, Pa Auk
Sayadaw).
Còn các Đạo lộ thứ ba và thứ tư, hiện chưa biết được trường phái nào đang thực
hành!
Pháp Tuệ Quán luôn phải dùng cận định làm nền tảng dù đó là pháp tuệ quán của
các hành giả đi theo con đường gọi là “thuần quán”! Xin nhấn mạnh một lần nữa,
về thắc mắc rằng trong trạng thái định, tâm cột chặt vào đối tượng, lấy gì quan
sát các hiện tượng đang xảy ra? Các thiền sư giải thích:
Khi nhập vào chánh định (appanā-samādhi) hay ở trạng thái cận định- upacāra
samādhi) tâm trở nên trong sáng rực rỡ, thiền giả xuất ra khỏi định. Tâm khi
vừa xuất ra khỏi định rất mạnh, có thể quan sát tất cả các pháp vi tế ở mức độ
gọi là chân đế như đã mô tả ở trên! Quan sát và thấy “như thực” có nghĩa là như
vậy!
6.Việc kiểm chứng các
trải nghiệm trong khi tu tập
Khi thiền sinh thành tựu một bậc thiền, hoặc một tuệ minh
sát thì thiền sinh phải trình các trải nghiệm của mình cho một vị thày phụ
trách. Với sự hiểu biết tinh tế và các câu hỏi kiểm tra tế nhị, vị thầy có thể
xác nhân sự thành công hay chưa thành công của từng thiền sinh. Nếu thiền sinh
nói dối hay cường điệu các trải nghiệm của mình, thì chắc chắn sẽ bị phát hiện.
Nói đến điều này để thấy rằng cái gì cũng cần tiêu chuẩn để xác chứng. Một bậc
thiền, ví dụ sơ thiền phải được xác nhận với năm thiền chi (mental factors).
Thế nào là Hỷ, Lạc, Tầm, Tứ, Định nhất tâm v.v.. . Hiện tại có các thiền sư nổi
tiếng nói về sự an lạc khi an trú trong hiện tại, nhưng trạng thái tâm đó được
xác nhận như thế nào? Chánh pháp của Đạo Phật không hề mơ hồ về điều này, các
tiểu chuẩn đã được liệt kê đầy đủ trong kinh điển để tránh cho người tu tập lầm
lẫn giữa một cái an lạc dạng “tâm lý trị liệu” và một cái an lạc thực sự của
một bậc thiền được xác chứng. (nhắc lại an lạc không phải là mục đích của thiền
định như đa số mọi người lầm tưởng). Một tầng tuệ cũng được duyệt xét bởi vị
thày hướng dẫn. Không thể có gian dối trong môi trường giới luật của Đạo Phật
chân chính. Một điểm vô cùng đặc biệt trong giáo pháp nguyên thủy, là người tu
thiền có thể nhìn thấy cụ thể và rõ ràng lô trình tâm giác ngộ của chính mình.
Khi thực hành thành công, dù với niềm vui sướng nhưng thiền sinh luôn được
khuyên rằng chỉ nên trao đổi với người cùng tu tập. Lý do: sự công kích mãnh
liệt của thế gian! Chính vì lý do này, hiện nay mạch ngầm của chánh pháp vẫn âm
thầm chảy! Khi thời điểm thuận lợi đến, nó sẽ dần hé lộ cho người đủ hữu duyên!
6. Định và Tuệ trong phương pháp luận khoa học
Khoa học, cho đến nay, vẫn sử dụng những phương pháp lý luận (logic) chính, như
diễn dịch, qui nạp, loại suy, phân tích, tổng hợp, biện chứng. Phương pháp quy
nạp (induction) ví dụ như từ một thí nghiệm có tính riêng lẻ ta rút ra được một
qui luật chung có tính phổ quát.
Khi nhập vào Định, thiền giả có được rất nhiều trải nghiệm mới lạ mà một tâm
trí bình thường không thể có được như các chiều kích mới của không gian và thời
gian, sự vắng lặng, tỉnh táo, sáng tỏ, tương quan chủ thể- khách thể thay đổi
v.v… Đó là các tuệ do Định sinh ra. Có người đã nhân ra trong an chỉ định
(appanā-samādhi) một tuệ về trạng thái bất nhị vì khi nhập vào chánh định,
người nhận thức và đối tượng được trở thành một [16]. Từ những trải nghiệm này,
khi xuất ra khỏi định, người tu định rút ra được những tri kiến, những quy luật
về thế giới hoàn toàn mới mẻ mà trong đời sống trước đây, lúc chưa nhập định,
họ chưa hề biết tới. Qui trình rút ra những tri kiến mới mẻ, từ trải nghiệm tâm
linh (spiritual experiences) của thiền định, giống như qui trình qui nạp trong
lý luận khoa học.
Phương pháp diễn dịch (deduction): ví dụ như từ một lý thuyết (theory) coi như
tiền đề (premise), qua thực nghiệm minh chứng, ta xác chứng được lý thuyết đúng
hay sai. Trong thực hành Tuệ Quán, với qui trình tu tập các tuệ minh sát được
hướng dẫn sẵn (tức một lý thuyết có tính tiền đề) ta thực hiện trải nghiệm
thiền quán, sau đó xác nhận tính chân lý của qui trình (và nhờ trải nghiệm “như
thực” đó ta giác ngộ). Qui trình này giống hệt như qui trình diễn dịch trong
các ngành khoa học hiện nay.
Cách mô tả, diễn giải và biện giải trong Kinh, Vi Diệu Pháp, Phân Tích Đạo,
Thanh Tịnh Đạo…đều là phương pháp phân tích khoa học. Trong giáo pháp nguyên
thủy có đề cập tới năng lực của bốn Tuệ phân tích của các bậc Thánh, thường gọi
là Tứ Tuệ phân tích:
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ý nghĩa là trí về sự phân tích các ý
nghĩa,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các pháp là trí về sự phân tích các pháp,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các ngôn từ là trí về sự phân tích các ngôn
từ,
- Tuệ về tính chất khác biệt của các phép biện giải là trí về sự phân tích các
phép biện giải là (có ý nghĩa) thế nào?
Như vậy, thật bất ngờ, ta thấy phương pháp luận trong Đạo Phật là một phương
pháp cũng có logic giống như các phương pháp luận của khoa học. Đề cập đến mối
liên hệ giữa cách tu tập trong đạo Phật với các logic khoa học như trên, chỉ
nhằm mục đích loại bỏ quan niệm cho rằng trong tu tập cần phải bỏ qua lý trí mà
chỉ cần trực giác. Trực giác (tuệ) không thể phát sinh nếu không có tu tập. Tuệ
không phải tự dưng đột nhiên mà có nếu không có phương pháp đúng đắn do lý trí
hướng dẫn. Dù là pháp học hay pháp hành yếu tố lý trí vẫn cần phải có. Qui
trình tu tập Định và Tuệ rất xa với thần bí mà rất gần với khoa học.
B.S Phạm Doãn
Hiệu đính: 01/ 09/2011
Chú thích
[30] Kinh ngụy tạo(Apocrypha) http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2114
[31] Vì sao Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ, Diwan Chand Ahir, 2005
http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?mid=2328&prev=2329&next=2314
[32] Bốn đạo lộ tu tập http://vn.360plus.yahoo.com/phamdoan52/article?new=1&mid=2308