(Xem: 1823)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2280)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

02-Giải đáp về Ngũ giới (1)

23 Tháng Năm 201312:00 SA(Xem: 8416)

Giải Đáp Thắc Mắc Người Cư Sĩ
Pháp sư Thông Kham-Mahā Medhivongse


Chủ đề Ngũ giới
(1)

 
Hỏi: Thưa ông, giáo lý của Đức Phật thật là cao sâu mầu nhiệm. Vậy Phật pháp có ích gì cho nhân loại, cho hạng tại gia cư sĩ?

ĐÁP: Người trần thế chia ra làm hai hạng:

* Hạng không phải Phật tử, quan niệm rằng: ở đời cần có nhiều tiền, danh vọng lớn, uy quyền to, vì những điều ấy mang lại hạnh phúc cho họ. Vì hạng người này không bao giờ lưu tâm tìm hiểu Phật giáo.

* Hạng Phật tử mặc dầu còn trong vòng thế tục, nhưng có xem kinh nghe pháp, nên nhận thấy Phật giáo là con đường đi đến chân hạnh phúc. Hạng Phật tử được thừa hưởng rất nhiều lợi ích trong Phật pháp. Nhưng có ba điều lợi ích là:

1. Lợi ích tránh xa tội lỗi.
2. Lợi ích hành theo lẽ chính (Làm việc lành).
3. Lợi ích dập tắt phiền não, giữ lòng thanh tịnh, để tiến lần ra khỏi vòng luân hồi khổ não.

Xin giải thích ba điều lợi ích kể trên.

Điều 1: Đức Thế Tôn dạy tránh xa tội ác thông thường:
1. Làm hại người và vật có thức tánh.
2. Trộm cướp, lường gạt, gian lận, cưỡng bách để đoạt của người về làm của mình.
3. Tà dâm.
4. Nói dối, nói đâm thọc, nói lời vô ích.
5. Chửi rủa.
6. Nói lời hung ác.
7. Tham lam.
8. Suy nghĩ phương thế làm hại người.
9. Cột oan trái, oán thù.
10. Tà kiến là không tin nhân quả luân hồi.

Muốn tránh 10 tội ác trên thì nên hành 10 Pháp đối trị:
1. Không làm hại người, vật, nghĩa là không sát sinh.
2. Không trộm cắp, lường gạt, gian lận, cưỡng bách để cướp lấy của người.
3. Không tà dâm.
4. Không nói dối, nói lời đâm thọc, nói lời vô ích.
5. Không chửi rủa.
6. Không nói lời hung ác.
7. Không tham lam.
8. Không bao giờ nghĩ đến sự làm hại người.
9. Không cột oan trái oán thù.
10. Chính kiến nghĩa là tin nhân quả luân hồi.

Chúng ta thấy rõ rằng: Phật giáo chủ trương dạy người tránh điều ác, làm việc lành, hầu xây dựng hạnh phúc cho mình và cho xã hội, đây là điều lợi ích thứ nhất của Phật pháp.

Điều 2: Làm việc lành như hành theo chính pháp, tức là tuân theo lời giảng dạy của Đức Phật lấy luân thường, đạo đức làm nền tảng, xây dựng xã hội lành mạnh. Đối với đạo, phải căn cứ trên tinh thần tự độ tự tha.

Muốn xây dựng đời:
 
1. Phải giúp đỡ lẫn nhau trong việc hoan, hôn, tang, tế, và chung sức lập cơ quan từ thiện, hầu cứu trợ đồng bào trong cơn hoạn nạn, nhất là giúp đỡ cô nhi quả phụ, cùng người già cả cô đơn, tật bệnh.

Phật giáo không chấp nhận sử dụng tiền của phát sanh do tà mạng như tiền trộm cắp, gian lận, vào mọi công tác từ thiện, vì tiền bất chính của kẻ bất chính làm việc thiện để che mắt thế gian và quảng cáo bản thân cho ra vẻ ta đây là người đạo đức.
Sự cung cấp rượu và nha phiến cho người ghiền, không phải là việc làm từ thiện của Phật tử.
2. Bố thí cho người hành khất, rải vật thực cho thú như cho chim ăn, hoặc mua thú phóng sanh, hoặc cung cấp vật cần thiết cho tu sĩ.
3. Cha mẹ có phận sự nuôi dưỡng và dạy bảo con cho nên người dân lương thiện đối với quốc gia, cho trở nên người đệ tử chân chính đối với đạo đức. Phật giáo dạy cha mẹ phải áp dụng 5 pháp đối với con:

a. Răn cấm con không cho làm tội ác.
b. Khuyên dạy con làm thêm những việc lành.
c. Cho con học nghề lương thiện hoặc học chữ tùy theo sở thích của con.
d. Chọn nơi xứng đáng dựng vợ gả chồng cho con.
e. Phân chia sự nghiệp cho con.
4. Làm con phải đền đáp cho tương xứng với công ơn cha mẹ theo đúng 5 pháp:

a. Phụng dưỡng cha mẹ cho chu đáo.
b. Giúp đỡ cha mẹ mọi việc, không nên đợi cha mẹ sai bảo mới làm.
c. Luôn luôn vâng lời dạy bảo của cha mẹ.
d. Gìn giữ tài sản của cha mẹ đã chia cho, không để hư hoại.
e. Khi cha mẹ đã quá vãng phải tùy sức làm mọi việc từ thiện và hồi hướng phước báo đến cha mẹ.
5. Người bề trên thương yêu kẻ dưới như thân thuộc họ hàng phải đối xử theo 4 pháp dưới đây:
a. Mở rộng tình thương.
b. Giúp đỡ trong khi họ thiếu thốn, bệnh hoạn hoặc khi họ có tai nạn.
c. Nâng đỡ họ lên địa vị cao.
d. Đối xử công bằng không thiên vị.

6. Kẻ dưới đối với người bề trên cũng phải áp dụng theo 4 nguyên tắc:
a. Không lẩn tránh phận sự.
b. Hết lòng làm tròn nhiệm vụ.
c. Không bê trễ, không làm hỏng công việc.
d. Làm việc mau chóng và tốt đẹp.


Điều 3: Diệt trừ phiền não để giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.

Điều này quan trọng nhất và lại khác hẳn với quan niệm của đời. Vì đời thường tìm hạnh phúc giả tạm trong vật chất nên không thông hiểu nổi tinh thần siêu việt của đạo giải thoát.

Diệt phiền não để thoát khỏi luân hồi đến nơi hạnh phúc tuyệt đối của Niết bàn thật khó cho người đời lãnh hội được. Vì đạo và đời tương phản nhau, theo quan niệm người đời thì càng kiếm thêm được nhiều tiền của lợi danh càng hay, còn theo lý đạo biết tri túc (tự biết đủ) là thượng sách.

Hơn nữa người đời ít hiểu phiền não là gì, hay có biết chăng nữa cũng chỉ biết một cách lờ mờ, nhiều người cho đó là nết hư tật xấu. Nhưng cũng có lắm chuyện tốt mà cũng là phiền não. Như ta muốn làm giàu, cặm cụi tối ngày quên ăn bỏ ngủ, nếu việc làm này đúng theo chính mạng thì không tội lỗi gì. Nhưng vì sự làm lụng quá mức ấy, đời sống sẽ giảm thọ, mất vui và quên trau dồi bề đạo đức nên kiếp vị lai cũng không hơn gì kiếp này mà còn e rằng kiếp sau càng tệ hơn kiếp này. Chính cái lo chạy theo tiền tài danh vọng ấy là phiền não, vì nó đem sự khổ đến cho ta. Khi bị thất bại thì đã đành rồi, nhưng nếu may ra có thành công cũng chẳng sung sướng gì hơn, vì còn phải để tâm giữ gìn của ấy nữa.
Vì thế nên Đức Thế Tôn dạy chúng ta rằng: Phiền não có rất nhiều loại và mang nhiều hình thái khác nhau, lắm khi hết sức vi tế khiến các bậc xuất gia trí thức mà vẫn còn chưa phân biệt được rõ rệt, nhưng cái lầm ấy chẳng hạn như khi tham thiền, niệm một đề mục nào như niệm sổ tức quán, tức là niệm hơi thở, bỗng dưng thấy kim thân Đức Thế Tôn hay thấy rõ ràng Đức Thế Tôn hiện ra, vì thấy đề mục khác với cái niệm của mình, nhưng cái thấy ấy lại là thấy Phật thì vị Đại đức ấy chấp cho là thật nên rất vui thích nên khoe khoang rằng: Ta đã gặp Phật. Thật ra đó chỉ là một hiện tượng của vọng tâm, đó là một phiền não rất vi tế và tai hại, vì nó có thể đưa hành giả đến nơi tà đạo và làm ngăn trở con đường giải thoát.

Tóm lại, phiền não là nguyên nhân làm cho tâm nhơ đục, bẩn thỉu. Phiền não có rất nhiều, nhưng không ngoài ba nguyên nhân chính là Tham lam, Sân hận, Si mê.
Cũng có thể hiểu cho dễ là: Những ác pháp trói buộc chúng sinh không cho giải thoát khỏi vòng thống khổ.

HỏI: Xin hỏi, Phiền não có nơi gọi là tham lam và ái dục, vậy sự khác nhau như thế nào?
ĐÁP: Trong tham lam sẵn chứa sự khao khát. Sự khao khát ấy Đức Phật gọi là ái dục. Ái dục cũng đồng nghĩa với dục tình. Dục tình là cái bẩm tính khao khát không ngừng nghỉ của Lục căn đối với Lục trần.

HỏI: Ngoài sự ham muốn sâu xa gọi là Tham lam, còn có hạng ham muốn tốt đẹp, vậy sự ham muốn tốt đẹp ấy có gọi là Phiền não, là Ái dục được không?
ĐÁP: Xin ông cho tôi biết định nghĩa sự Tốt Đẹp của ông?

HỏI: Tốt đẹp nơi đây tôi ngụ ý chỉ sự sang giàu danh vọng. Nhưng tôi không nói sự sang giàu danh vọng bất chính, nghĩa là sang giàu do nơi tạo tác của tôi, trong cái sang giàu ấy không lẫn tội ác như lường gạt.
ĐÁP: Người đời vì còn ham giàu mặc dầu là cái sang giàu ấy không làm hại ai, chính mình tạo ra bằng tài năng của mình, thật ra không xấu, nhưng đối với Phật Pháp thì đó cũng không phải hoàn toàn tốt đẹp.

HỏI: Xin giải thích thêm vì tôi còn hoài nghi chỗ tôi không làm tội mà cũng không lành?
ĐÁP: Vì tất cả sự tham muốn xấu cũng như tốt, đều là do nơi phiền não và ái dục. Nên bao giờ còn Tham muốn thì còn gây Nhân, tức là tạo Nghiệp, khi còn có Nghiệp thì vẫn còn trầm luân trong biển khổ, còn bị trôi giạt trong luân hồi.

HỏI: Người làm phước như bố thí có phải là Phiền não không?
ĐÁP: Bố thí có phiền não hay không còn tùy theo tác ý của người bố thí. Sự bố thí có hai tác ý khác nhau:
1. Người bố thí mà tâm còn mong được giàu sang, được sanh vào cõi Nhân, Thiên để hưởng quả, hoặc tác ý mong người được thọ thí trả ơn, người có tác ý như thế tất nhiên phải luân hồi tái sinh lại để hưởng quả. Đức Thế Tôn gọi sự bố thí ấy là Vattagàminikusala có nghĩa là Phước hữu lậu, có ý nói phước ấy còn đem con người luân hồi. Chẳng những là bố thí, nếu Trì giới hay Tham thiền mà tác ý còn muốn gặt hái quả lành thì không bao giờ diệt được phiền não vượt qua khỏi luân hồi.
2. Người làm bất cứ phước gì mà tác ý mong cầu giải thoát khỏi sanh tử luân hồi, và phát nguyện cho mau khỏi được biển Trầm luân. Phước báu ấy Đức Thế Tôn gọi là Vivattagàmini-kusala nghĩa là Phước vô lậu, ý nói phước này không còn dư sót phiền não nên không còn luân hồi nữa.

Người Phật tử nên gieo phước lành theo thể thức thứ nhì, và nên tìm tòi học hỏi cho thông hiểu các loại phiền não, hầu gìn giữ tâm khỏi bị cảnh trần chi phối. Khi tâm không còn bị phiền não nhiễu nhương thì trí tuệ phát sanh thấy rõ: Luân hồi là nơi đáng kinh sợ nhất, cũng như người kinh sợ hầm chứa đầy rắn độc, thì không bao giờ dám mê luyến và trái lại càng cố gắng chạy cho xa mau ra khỏi nơi đầy sự kinh khủng ấy. Khi đã biết chán chê, ghê sợ phiền não và luân hồi thì con người sẽ thản nhiên trước sự vật được hay mất, vui hay buồn. Khi đã nhận được lý vô thường, khổ não và vô ngã thì cũng đã hiểu rõ thân này là của mượn thì hà tất phải mến tiếc sự vật ngoài thân ta. Đây là lý thuyết tuyệt đối của Phật giáo.

Muốn đạt được chân lý ấy, người Phật tử chân chính nên thực hành theo ba điều:

1. Nên cố xa lánh tất cả những tội ác (tức là Trì giới).
2. Nên làm cho mình trở nên người toàn thiện toàn mỹ, ý nói là phải làm tất cả các việc lành như bố thí, tham thiền, nhẫn nại, từ bi v. v…
3. Nếu cố gắng dập tắt tất cả phiền não, nghĩa là phải dùng trí tuệ quan sát cho thấy rõ là thân này thật không bền vững, hằng đem đau khổ đến cho ta, và vật nào không thường hằng đem khổ đến, nó không phải là của ta, là vô ngã.

Hỏi: Vậy trong kiếp này người giàu có, sang trọng gọi là người có hạnh phúc hay có phước, nếu muốn kiếp sau cũng được như thế này hay là được giàu sang hơn nữa, thì người ấy phải làm thế nào? Ý tôi muốn hỏi là phải tu theo hạnh nào? Trong khi chính người ấy chưa rõ đủ trình độ giải thoát, và chỉ mong tu tập từng bước một thôi.
ĐÁP: Đây là ước vọng chung của hàng Phật tử có chính kiến và có óc thực tế, biết tận dụng nghiệp lành sẵn có để xây dựng hạnh phúc cho tương lai. Những người ấy chắc sẽ tiến mãi từ thấp lên cao theo nhịp cầu nhân thiên và sẽ tạo đủ duyên lành để đắc đạo quả trong ngày vị lai.
Đối với những người ấy, Đức Phật dạy những phương pháp sau đây:
1. Hãy ghê sợ tội lỗi, không xu hướng theo kẻ ác và cũng không dám nghĩ tới tội ác. Phải hổ thẹn tội lỗi khi ta lỡ phạm tội lỗi nơi khuất mắt và phải chừa cải. Hoặc khi ta vừa nghĩ đến tội lỗi liền tự thẹn lấy mình mà không dám hành động. Pháp này thật là quý báu, không khác nào bức tường kiên cố ngăn chặn tướng cướp sát nhân.
2. Thành thật tiếp độ vợ con và họ hàng quyến thuộc: nên tùy sức mình mà bố thí.
3. Phụng dưỡng mẹ cha.
4. Dành một phần thời gian học hỏi Phật pháp nơi các bậc Trí thức.
5. Nên thọ trì ngũ giới cho sạch, nếu có thể nên thọ thêm Bát quan trai giới.
6. Nên dùng trí nhớ và trí tuệ quan sát coi từ sáng đến tối khi đi ngủ thân tâm làm và nghĩ những gì, làm tội hay phước, nghĩ đến tội hay phước, hay nói cho rõ hơn là đã tạo được bao nhiêu điều thiện, và bao nhiêu việc ác, rồi thành thật sám hối khi nhận thấy mình có làm tội và nên tự nguyện không dám tái phạm nữa.

Hỏi: Tôi đã hiểu 6 điều kể trên và xin cố gắng thực hành theo, xin vui lòng giải thích rộng thêm về ngũ giới cho tôi được rõ?

Đáp: Trước khi giải thích về ngũ giới, cũng nên nói sơ lược về lợi ích của Phật giáo để ông hiểu thêm.
Phật giáo ví như mặt trời soi đường cho khách lữ hành, kẻ đi tầm hạnh phúc khỏi bị sa vướng vào cạm bẫy của Ma vương. Trước tiên có ba điều lợi ích:
1. Đức Phật dạy phương pháp kiểm soát thân tâm chặt chẽ để tránh những tai hại trong kiếp này và kiếp sau. Do đó người Phật tử phải nghiêm trì giới luật để kiềm chế lục căn không cho mê luyện theo lục trần. Sử dụng giới luật làm hàng rào ngăn chặn các ác pháp, người Phật tử chỉ sống theo lẽ chính, làm toàn việc lành, và trở thành phần tử tốt đẹp trong gia đình và những công dân gương mẫu trong xã hội. Nhờ đó mà quốc gia được thịnh trị, cần chi có nhà giam, có trại cải huấn, có cảnh sát, có tòa án v.v…
Phật giáo có phương châm xây dựng tình thương. Trước hết, Ngài dạy thương mình, sau lại thương kẻ khác, và ban bố tình thương cho tất cả chúng sinh. Nếu những điều luật răn cấm của Đức Thế Tôn được mọi người tuân theo thì không có sự giết hại lẫn nhau, không còn cướp bóc, giặc dã, chiến tranh, thế giới sẽ được hòa bình.
2. Đức Phật dạy tín đồ phải cố gắng làm cho mình trở nên người hoàn toàn trên hai phương diện:
a. Đối với đời, nên học cho thông một nghề nào cho phù hợp theo sở thích của mình.
b. Đối với đạo, phải sưu tầm học hỏi cho thông hiểu giáo lý của Đức Phật.
Ngoài đời phải siêng năng làm phận sự của mình, khi có nghề phải hết lòng khai thác với lương tâm nghề nghiệp. Như làm một vị bác sĩ phải tận lực cứu chữa bệnh nhân, không phân biệt người thân kẻ thù, giàu, nghèo, chỉ biết có một điều là giành giật sinh mạng của bệnh nhân trên tay tử thần.
Đối với Đạo, khi thấu rõ chân lý, nên đem ra phổ biến cho mọi người, hầu cùng nhau thực hành theo chính pháp để đem sự lợi ích cho xã hội.
3. Phật giáo làm cho xã hội loài người được tốt đẹp. Mỗi xã hội đều có phong tục tập quán riêng tùy theo xu hướng và tín ngưỡng của mỗi dân tộc, cốt yếu là để xây dựng hạnh phúc an vui cho gia đình và hòa bình thịnh trị cho xứ sở. Mặc dù vậy, nhưng cũng không tránh khỏi được sự xáo trộn của những phần tử ngỗ nghịch khiến cho nhiều gia đình không được đầm ấm, an vui, vợ chồng xung khắc, cốt nhục phân ly, xã hội điêu tàn.
Đức Phật cho rằng: Không bao giờ có hạnh phúc, ngoài cuộc đời trong sạch căn bản trên nguyên tố đạo đức về tinh thần. Người học Phật mà không màng tới hạnh phúc xã hội, và không màng đến sinh hoạt kinh tế của dân gian là không hiểu rõ Phật giáo.
Phật giáo chủ trương tổ chức một xã hội an ninh thanh bình, một xã hội chỉ biết tôn kính người nào tự thắng phục được lòng mình, một xã hội đem tình thương rửa sạch hận thù, biết lấy lòng từ bi trả lại sự hung ác, lấy lòng khoan dung đối với mọi người.

Hỏi: Thưa ông, bây giờ ta nên trở lại vấn đề Giới. Khi ta thọ trì giới được trong sạch, ai là người được hưởng quả ấy? Và người ấy được hưởng những gì?

ĐÁP: Điểm quan trọng trong sự giữ giới là cố ý xa lánh điều ác: Sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ, và uống rượu. Đức Phật dạy trì giới là tỏ ý muốn cho con người trở nên thuần lương đạo đức.

Vì thường con người thiên về tội lỗi bởi bẩm tính Tham, Sân, Si nên không nhận định được điều tội lỗi để xa lánh. Vì sự tối mê không nhận định được chính tà nên Đức Phật gọi là vô minh. Vô minh là phiền não quan trọng nhất, nó là nguyên nhân đưa chúng ta luân hồi mãi mãi không ngừng. Khi Đức Thế Tôn còn tại thế, Ngài thường dạy ta nên cố mau mau xa lánh đời để tìm giải thoát. Vì chúng ta còn nhiều phiền não nên không giác ngộ được các pháp cao sâu mầu nhiệm là Thánh pháp.

Hôm nay chúng ta có được chút duyên lành gặp Phật pháp, vậy chúng ta nên gia tâm học sưu tầm chân lý hầu mạnh tiến trên con đường giải thoát của Ngài đã vạch sẵn.
Khi ta trì Giới được trong sạch, thì chính bản thân ta được hưởng quả an vui, đồng thời người chung quanh ta như vợ con, quyến thuộc sẽ được ảnh hưởng đạo đức của ta, người trì giới là người tự tạo hạnh phúc cho mình, và làm cho người khác vui thích hạnh thanh cao để hành theo. Sự an vui của người xung quanh mình là trong gia đình, ông chồng là người có giới đức thì bà vợ được an vui, vì không còn sợ chồng mình làm những việc xấu xa nhất như tà dâm. Cha mẹ không lo sợ con mình phạm vào 5 điều tội lỗi. Đó là kết quả ta trông thấy hiện tại là cái quả nhỏ nhất, kế tiếp là khi những người nhỏ trong nhà như con em thấy vậy kính nể và noi theo gương mà hành theo. Người có giới đức trong sạch được hưởng quả tối thiểu là không sợ vi phạm pháp luật quốc gia, không lo có oán thù, không sợ có oan trái. Nhờ có tu giới người Phật tử dọn đường để tu định, và nhờ có giới định nên tuệ được tiến hóa đến nơi giải thoát Niết Bàn.

Trở lại vấn đề trì Giới, trì Giới là xây nền móng vững chắc của người tu giải thoát. Người giữ giới gọi là người xây nền tảng rất kiên cố cho thân và tâm, khi ấy thân tâm mới kiến thiết lâu dài “Định và Tuệ”. Vì vậy Giới là điều quan trọng nhất mà người Phật tử chân chính cần phải có, nói một cách khác Giới là bước đầu tiên của người tu Phật.
Còn nói về nền tảng thì chắc ông đã hiểu rõ sự cần thiết của nó đến độ nào rồi. Phàm một cái nhà nhỏ mà chưa có nền chắc cũng không được, huống chi xây cất một tòa lầu, hay đắp một quan lộ mà thiếu nền móng vững chắc thì thật là tai hại. Phần đông người đời, quen xem hình dáng hào nhoáng bên ngoài của sự vật, ít ai chịu khó nhìn cho thấy rõ nền tảng trọng yếu bên trong. Như người lái xe chỉ thấy đường bằng phẳng thôi chớ không chịu nghĩ nhờ biết bao nhiêu công phu khó nhọc lúc bắt đầu khởi đắp nền móng vững chắc, nên ngày nay con đường mới được êm ái như vậy. Như người chỉ trông thấy lâu đài nguy nga đẹp đẽ nhưng mấy ai nghĩ đến lâu đài ấy cần phải có một nền tảng kiên cố chắc chắn, tốn hao công lực đến chừng nào. Tuy nhiên xem xét nền móng một quan lộ, một lâu đài tương đối là dễ. Nhưng khi xem nền tảng của một tu sĩ, hay căn bản của sự tu học của chính bản thân ta, quả là một điều khó vô cùng. Ví như một nhà quí phái rất dễ nhận được sự sang trọng, nói năng hoạt bát bên ngoài, nhưng ta làm sao biết người ấy là người Thiện hay Ác.

Muốn biết được nền tảng đạo đức bên trong của người nào thì ta phải xem xét hành động và lời nói của người ấy, hay nói cho rõ hơn là phải lưu ý tới năm thói quen xấu sau đây:

1. Hung ác (sát sinh, hành hạ người hay thú).
2. Mau tay (trộm cắp).
3. Tâm lẹ (là Tà dâm, ý nói người thích tà dâm khi trông thấy sắc đẹp tâm chạy theo liền, ta dễ nhận thấy tính này bằng cặp mắt lố lăng hay cử chỉ của họ).
4. Nói dối, nói lời hung ác, chửi rủa, mắng nhiếc, nói thâm thọc).
5. Thiếu trí nhớ (ý nói uống rượu say sưa tâm trí lu mờ).

Người có một trong năm tật xấu trên là người thiếu nền tảng đạo đức vững chắc, người ấy là người chưa đắp được con đường giải thoát chắc chắn.
Phàm người có được trong năm điều ấy thì không làm việc gì nên, chỉ chuốc lấy cái hại cho mình thôi. Nếu ta dùng phải người ấy trong chuyện gì thì càng đem lại tai hại cho ta mà thôi. Sự tu hành để đến nơi giải thoát cần có một nền tảng đạo đức kiên cố. Nền tảng này không thể làm bằng xi măng cốt sắt, nhưng lại bằng Ngũ giới: không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, không vọng ngữ, không uống rượu. Năm điều này là nền tảng chắc chắn nhất của người tu giải thoát.

Khi ở trong một tòa nhà nguy nga lộng lẫy mà có một chỗ nứt rạn thì lòng ta chẳng yên vì ta không biết nó sụp đổ ngày nào. Cũng như người tại gia cư sĩ mà phạm một điều nào trong năm giới răn thì làm cho thân nhân hằng lo sợ dùm mình, như trẻ con tính tình ngỗ nghịch cha mẹ biết rõ nó không thể giữ một trong năm điều răn cho trong sạch, khi đứa bé ấy đi đâu cha mẹ thường phập phòng lo sợ, vì không biết con mình sẽ bị tai hại lúc nào do bởi quả của người không có giới đức hoàn toàn trang nghiêm.

Hỏi: Xin cho biết trì Giới ấy chính nghĩa là gì?

ĐÁP: Theo Phạn ngữ trì Giới là “Giữ cho được tự nhiên”. Trước hết, tôi xin giải thích tiếng Giới có nghĩa là tự nhiên, rồi sau sẽ giải thích đến tiếng thọ trì.
Thí dụ mặt trời mọc ở hướng Đông, lặn ở hướng Tây, không bao giờ thay đổi vị trí, đó là tự nhiên của nó. Sự mọc lặn của mặt trời từ vô thủy đến bây giờ vẫn y như vậy nên gọi là tự nhiên.

Thân người có nhiều cơ quan khác nhau để dùng tùy theo chức năng của nó, như mắt để xem, vì đó là tự nhiên của mắt, không thể dùng mắt để nghe hay ăn. Nếu ta dùng ngũ quan không đúng chức năng của nó thì trái với tự nhiên sẽ không được việc.
Tất cả mọi việc gì yên tịnh, thuận tình, hợp cảnh đó là Tự nhiên. Một trận bão to đột ngột làm hại người, sự việc đó không còn là tự nhiên nữa. Những ví dụ trên cho thấy rằng: Vạn vật đều có sự tự nhiên của nó.
Muốn hiểu về giới tự nhiên ta cần nên biết tới lời khuyên của Đức Thế Tôn như giới không sát sinh chẳng hạn. Thử hỏi giết hại và không giết hại, điều nào tự nhiên? Chắc chắn ai cũng đáp: “Tự nhiên là sự không giết hại”. Nếu sự giết hại là tự nhiên của con người thì chúng ta không còn ai sống sót tới ngày nay. Vì nếu ta tránh được người này thì chắc chắn không thoát khỏi tay người khác, mà rồi Pháp luật cũng không trừng phạt kẻ sát nhân. Bởi vậy cho nên mới nói người giữ giới không sát sinh là người giữ được tự nhiên vậy.
Bốn điều tự nhiên còn lại trong ngũ Giới đều có thể hiểu như lời giảng trên.

Hỏi: Thưa ông, nếu nói trì Giới là giữ được sự tự nhiên thì có gì gọi là cao thượng?

ĐÁP: Người trì giới là người giữ cái bản năng tự nhiên, ông cho là không cao thượng và quí báu, bởi vì ông nghĩ cái gì tự nhiên đều là thông thường. Nhưng thử hỏi trong đời này có mấy ai dám tự hào đã giữ được cái bản chất tự nhiên một cách hoàn toàn? Thật ra người ráng giữ mình cho được tự nhiên không phạm Giới là người rất hiếm có, thật là người cao thượng vậy.

Tiếng nói tự nhiên đây đồng nghĩa với tiếng thanh tịnh. Có thể nói người phạm giới là người mất tự nhiên, mất yên tịnh, thường thường ở trong tình trạng bối rối và lo âu trước mọi người khác. Trì giới là một việc làm tối quan trọng đối với người tu hành, vì nó là nền tảng đầu tiên, sẽ đem đến cho ta những điều lành khác. Giới ví như miếng đất có bón phân. Thiền định như trồng cây trên miếng đất ấy. Tuệ ví như cây đơm bông trổ trái. Sở dĩ cây mọc tốt có trái nhiều ấy cũng do nơi miếng đất màu mỡ. Cũng như Định và Tuệ phát sinh dễ dàng là nhờ Giới trong sạch.
Đức Thế Tôn có dạy: Giới năng sanh Định, Định năng sanh Tuệ. Người có Giới trong sạch, khi bố thí mới có quả báu nhiều hơn người không có giới bố thí.

Hỏi: Có nhiều vị Đại đức dạy: Trì giới là một phương pháp xa lánh ác nghiệp chớ không phải là lành. Xin ông vui lòng giải thích rộng thêm cho dễ hiểu?

ĐÁP: Dạy thế cũng đúng, vì trên thực tế trì giới cốt ý là để tránh xa điều ác, không tạo nghiệp dữ. Trì giới giúp ta ngăn ngừa được thói quen tật xấu như tham lam, sân hận chẳng hạn. Nhưng nếu muốn trừ tính bỏn sẻn phải hành pháp bố thí tức là làm lành, vì trong trường hợp này trì giới không còn công hiệu. Hơn nữa bố thí còn tạo cho lòng từ nẩy nở mạnh thêm. Nên nhớ rằng: Phật pháp dạy từng giai đoạn nghĩa là dạy từ thấp lần lần lên, càng lúc càng cao siêu mầu nhiệm. Ngài dạy từ dễ đến khó. Trước hết lánh dữ, sau dạy phải làm lành.

Có thể ví dụ trì giới như tạo hàng rào kiên cố. Bố thí như của quí để trong nhà. Sở dĩ hàng rào có ích lợi là để giữ gìn của quí trong nhà. Nếu hàng rào kiên cố mà trong nhà trống trơn thì vẫn còn thiếu sót nhiều.

Nói về quả báo thì trì giới để khỏi đọa vào con đường ác. Làm lành như bố thí chẳng hạn sẽ sinh vào cảnh nhân thiên để hưởng sự giàu sang phú quý.
Như vậy Bố thí và trì giới là hai pháp lành bổ túc cho nhau.
Nếu luận về tâm lý thì trì Giới là tác ý lành giữ cho Tâm được trong sạch không để ô nhiễm điều ác. Giới là một trong mười phương pháp lành Đức Thế Tôn gọi là Punnakiriyàvatthu có nghĩa là Pháp làm cho phát sanh ra phước.
Trì Giới cho được trong sạch thật khó. Vì ta phải cố gắng hết sức giữ cho tâm không cho rung động xu hướng theo sự vật bên ngoài. Đó là phương pháp thay đổi tâm từ xấu đến tốt, từ động đến tịnh.

Đức Phật dạy muốn thọ giới phải có Tác ý, nghĩa là người có ý muốn tránh xa điều ác do giới qui định. Nói cách khác là phải tự mình nguyện không để phạm vào những giới cấm. Người như vậy mới gọi là người có trì giới. Còn như kẻ cướp kia đang bị giam giữ trong ngục, không có phương tiện để trộm cướp được, chớ sự thật không phải là trì giới, hay không gọi là người có giới. Một người chưa thọ trì giới cũng vậy, sở dĩ họ chưa hành ác vì chưa gặp cơ hội, người này cũng không gọi là người có giới.

Tóm lại người có giới là người có tác ý lành và nguyện ra lời là phải cố tránh xa không phạm những điều răn cấm của Đức Phật. Đức Phật có dạy Cetanàham bhikkhave sìlam vadàmi. Này các thầy Tỳ khưu, Như Lai dạy rằng: Tác ý là giới. Quả báo của giới là tâm được an tịnh không sợ sệt tội lỗi khi còn sống cũng như lúc sắp lâm chung.
Chỉ có người trì Giới mới nhận thấy quả báo của giới, cũng như người nằm mộng mới thấy cảnh trong mộng của mình. Người trì Giới trong sạch mới hưởng được sự an vui trong thâm tâm mình.

Tâm cố gắng xa lánh điều ác là nhân làm cho phiền não càng lúc càng xa ta, đồng thời đặc ân cao quý của tâm thiện càng bành trướng, ác nghiệp càng giảm bớt dần.
Sự cố tâm thọ trì giới luật Phạn ngữ gọi là Samàdàna. Sự cố tâm xa lánh tội ác sinh lên ngay khi ta phát nguyện thọ trì những điều ngăn cấm của Đức Phật. Người Phật tử phải cố gắng giữ giới cho được trong sạch, không nên dễ duôi, vì nếu dễ duôi thì phiền não sẽ len lỏi vào tâm ta, nó sẽ xâm chiếm bành trướng và phá hoại tâm ta.
Quả báo của sự trì giới có ba, mỗi khi thọ giới xong nhà sư thường nhắc Sìlena sugatim yanti. Người được sinh về cõi Trời cũng nhờ giữ giới. Sìlena bhogasampadà, được giàu sang cũng nhờ giữ giới. Sìlena nibbutim yanti, người được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới.

Hỏi: Nếu nói giữ giới được giàu sang tại sao chư vị Tỳ khưu giữ đến 227 giới mà không thấy quý Ngài giàu sang, trái lại còn phải đi khất thực?

ĐÁP: Câu hỏi này cần phải chia ra làm nhiều đoạn giải thích cho dễ hiểu. Phạn ngữ “Bhoga” được dịch là tài sản hay là của cải có hai nghĩa là:
- Upabhoga, của cải là vật dụng.
- Paribhoga, của cải là vật thực.

Về phương diện thọ dụng có hai tính cách:
- Tạo của cải.
- Và dùng của cải đã có.

Mặc dầu thuộc loại một hay loại hai, hay là được tạo ra hoặc được sử dụng bằng cách nào, chung quy cứu cánh của tài sản (của cải) là phải đem lại sự an vui, thỏa thích và hạnh phúc đến cho con người.

Trên đời này có nhiều cách làm ra của cải, nhưng cũng không ngoài hai lối Thiện và Ác. Đề cập đến sự thiện ác, lành dữ ta mới thấy điều lợi ích thực tiễn của sự trì giới. Thử hỏi, một người không biết giữ giới, hàng ngày tạo ra của cải tài sản bằng lối sát sinh, trộm cắp, lường gạt, tà dâm v.v… mặc dầu có giàu sang chăng nữa người như vậy có hoàn toàn an vui, sung sướng không? Hay mãi lo âu sợ sệt, một ngày nào đó mưu mô thủ đoạn xảo trá của mình bị khám phá rồi sẽ bị truy tố, bắt bớ giam cầm khổ thân. Người sống với một tâm trạng như vậy thật không yên vui chút nào. Lại nữa người không thông hiểu đạo đức, không giữ giới, thì không biết tham lam là tai hại, thường là người làm nô lệ cho lòng ham muốn vô bờ bến của mình. Khi có của cải nhiều rồi càng muốn cho có nhiều hơn nữa, vì lòng tham nên bao giờ cũng thấy thiếu thốn, rồi mải chạy theo dục vọng, lo thu góp tài sản cho thật nhiều, không còn thì giờ rảnh đâu mà an hưởng. Một đời sống như vậy, dù có của cải nhiều đến đâu cũng vô bổ vì nó không đem đến an vui và hạnh phúc bao giờ.

Sao bằng người trì giới biết chắc chắn là tài sản của cải của mình có đây là nhờ chính nghiệp, chính mạng, nên lúc nào tâm trí cũng thảnh thơi thỏa thích, yên vui và được hạnh phúc.

Cũng có thể hiểu câu nói trên dạy về quả báo của sự trì giới. Hiện tại được giàu sang là do nhờ từ trước đã có giữ giới. Do nhân giữ giới hiện tại, sau này sẽ được quả vui, có nhiều của cải. Nhưng ngay bây giờ người giữ giới trong sạch tinh nghiêm có lợi ích là được nhiều người khen ngợi yêu mến, tin cậy, sẵn sàng giúp đỡ. Và người có giới như vậy sẽ được dễ dàng hành theo bốn pháp:

1. Siêng năng làm việc.
2. Biết cách giữ gìn tài sản của mình.
3. Có bạn lành.
4. Nuôi mạng chân chính.

Chính nhờ bốn pháp này mà làm cho con người trở nên khá giả nếu không nói là giàu có.

Tóm lại trì giới là nhân, của cải là quả. Một người trì giới cho trong sạch dù chưa giàu sang nhưng cũng được an vui, hạnh phúc.
Còn như ông hỏi tại sao vị Tỳ khưu thọ 227 giới mà không có vị nào giàu sang, là tại vì ông chưa hiểu rõ giới hạnh, nguyện vọng và nhất là của cải hay tài sản của một vị xuất gia.

Trì giới đối với các Ngài cũng có nghĩa là tự nguyện từ bỏ của cải thế gian, các Ngài đã tỉnh ngộ. Đối với các Ngài vinh hoa phú quý tài sản danh vọng ở cõi trần gian này không khác nào miếng mồi thơm móc ở lưỡi câu. Người nào chạy theo bả danh lợi không khác nào cá đớp mồi. Càng nuốt vô sâu, càng bị lưỡi câu móc chắc vào miệng vào bao tử thì càng thêm khổ.

Đối với quý Ngài tài sản ví như món thuốc độc có hòa vào một chút mật ong, khi mới nếm thì ngon thật đấy, nhưng khi đã thấm thuốc rồi thì sẽ biết chất độc ấy hành hạ thế nào. Người ham mê tài sản cũng vậy, khi được thì cũng vui thật, khi bị mất cũng như bị cháy, nước cuốn trôi hay bị người cướp giật thì mới thấy cái buồn thấm thía, hay biết rằng có người muốn cướp giật nhưng ta không thể nào giao cho họ được, chừng ấy mới thấy rõ có của cải là chuốc thêm khổ. Khi các Ngài (Tỳ khưu) hiểu rõ thật như vậy các Ngài càng thêm chán nản, ghê sợ, không vị nào dám mong cầu giàu sang phú quý bao giờ. Trái lại các Ngài lo hành pháp tri túc, tức là biết vừa đủ và giảm thiểu nhu cầu của mình đến mức tối thiểu, chỉ còn có ba y và bình bát là của cải.

Giới hạnh cao quí nhất của các Ngài là càng xa lánh của cải chừng nào hay chừng ấy. Các Ngài có một nguyện vọng và xa lánh những gì mà người thế gian có, Ngài chỉ muốn một cuộc đời thanh bạch cho đúng câu “Hạnh phúc là thoát ly trần tục”. Nói thế không phải phủ nhận tất cả tài sản của cải của các bậc xuất gia. Chính nhờ các Ngài giữ giới hạnh thanh cao tinh khiết mà các Ngài được người đời và hàng thiện nam tín nữ tôn trọng lễ bái cúng dường. Các Ngài là phước điền của nhân loại. Vị nào trì giới được trong sạch tinh nghiêm thì suốt đời không sợ thiếu thốn Tứ vật dụng. Điều này cũng có thể gọi là tài sản vô tận của các Ngài.

Ngoài hai thứ vật chất kể trên, các Ngài còn có một tài sản thứ ba còn cao quí hơn, tuy khó nhận thấy được vì nó là vật vô hình, đó là duyên lành hay gọi là phước báu, hay cũng gọi là vật thực dành để ăn khi đi đến Niết bàn. Trong Tam giới này không có tài sản nào quý báu bằng quả phước thiện, người đi đường trong cõi Ta-bà này phải mang theo. Nhưng của quý này khỏi phải mang gánh hay chở chuyên chi hết, mà chính nó chạy theo mình, đây mới là đặc điểm quý báu nhất khó mà có vật nào sánh bằng. Vì lý do này nên các bậc trí thức hay xuất gia chân chính bỏ cả cái giàu sang hạnh phúc cõi này để tạo cái hạnh phúc cao quý hơn. Các Ngài coi giới luật còn quý hơn mạng sống của mình.
Còn một điều nữa xin đừng hiểu lầm vì nghèo khổ mà các Ngài phải đi xin ăn. Trì bình khất thực là một hạnh cao thượng của các bậc xuất gia.

Nếu nói vì nghèo quá nên mới đi xin? Vậy xưa kia Thái tử Siddhattha (Tất Đạt Đa) xuất gia đi trì bình khất thực độ nhật cũng vì quá nghèo hay sao?

Hỏi: Xin ông giải thích thêm cho tôi biết sự trì giới còn có lợi ích nào khác nữa không?

ĐÁP: Người trì giới còn là nguồn an vui cho xã hội. Sự thật tất cả sự an vui của nhân loại đều do sự an tịnh hay thái bình mà có. Khi sự an tịnh hay thái bình mất đi thì sự an vui cũng chẳng còn. Người có giới đức là người biết làm cho mình an tịnh thái bình, người trì giới trong sạch thì không bao giờ biết làm khổ ai, do đó nên luôn luôn được an vui mà còn làm cho người khác được an vui. Nếu mọi người trong xã hội này đều tự biết làm cho mình an tịnh thì thế giới này là một thiên đàng vậy. Riêng trong gia đình người Phật tử là một tiểu xã hội nếu ai ai cũng lo giữ giới nghĩa là làm cho bản thân mình được an tịnh, thì gia đình ấy là một tiểu thiên đàng trong trần gian.

Ngoài đời có luật lệ để giữ gìn trật tự, thì trong Phật giáo cũng có giới răn cấm làm cho con người trở nên người tốt đẹp. Giáo lý của Đức Phật dạy khởi từ một cá nhân. Nhưng khi tất cả mọi người đều biết giữ giới cho tròn phận sự mình thì trong gia đình cũng như ngoài xã hội đều được an vui. Vì vậy nên lời dạy của Đức Phật lúc nào cũng hợp thời, hợp tình hợp lý. 

Hỏi: Những điều răn mà Đức Thế Tôn đã dạy, hàng Phật tử phải thừa hành như thế nào?

ĐÁP: Theo Phật pháp gọi đó là điều học. Người Phật tử phải học cho hiểu rõ lời dạy của Đức Thế Tôn rồi hành theo cho thật đúng.

Đối với hàng tại gia cư sĩ, Đức Phật khuyên giữ năm điều học và mỗi điều học đều có chia ra bốn phần khái quát:

1. Trọng điểm của điều học.
2. Ý nghĩa của điều học (cũng gọi là giới răn).
3. Chi tiết của điều học. Nghĩa là tất cả mọi khía cạnh, mọi trường hợp phụ thuộc để dễ biết khi nào phạm và khi nào không phạm.
4. Nhân và Quả của mỗi điều học.
Điều học thứ nhất: Tránh xa sự sát sinh.
Trọng điểm. Trọng điểm đây có nghĩa là sự quan trọng của điều học mà mình đã thọ trì. Ta nên đặt câu hỏi: Tại sao Đức Phật khuyên không nên sát sinh? Có phải ngài sợ thú vật chết hết không? Vậy điều học thứ nhất này có mục đích gì?
Đức Phật dạy không nên sát sinh, và cần phải tự nguyện không giết hại một sinh vật nào, dù là một con kiến nhỏ. Đó là Đức Phật muốn dạy cho con người phải có lòng Từ (là thương lẫn nhau dù người hay thú).

Ý nghĩa của điều học thứ nhất: Không nên sát sinh, nghĩa là không nên giết hại chúng sinh có thức tánh. Điều này dạy cho chúng ta có lòng thương yêu nhau. Người trì giới phải tránh xa ba điều hành động:
- Sự giết.
- Sự hủy hoại thân thể của người và thú.
- Sự hành hạ người hay thú.

Giải rộng thêm:
a. Sự giết có nghĩa là làm cho chúng sinh không còn sống.
* Tội của sự giết: Giết chúng sinh có thức tánh là phạm vào giới sát. Nhưng còn tùy theo trường hợp tội lỗi có nặng nhẹ khác nhau.

* Đối tượng của giới sát: Nói về thú, giết thú vật nuôi trong nhà hữu ích cho nhân loại tội nặng hơn thú rừng thú dữ.

Nói về giết người, giết người hung ác như trộm cướp, hay người không có giới đức, tội nhẹ hơn giết người lương thiện, giết những người lương thiện tội còn nhẹ hơn giết người tu sĩ hay bậc ân nhân của mình (như ông bà, cha, mẹ, thầy tổ). Giết cha, mẹ, A La Hán hay làm cho Đức Phật chảy máu vì ác ý phải phạm vào ngỗ nghịch đại tội. Sau khi chết phải đọa vào ngục a tỳ.

* Tác ý của người phạm giới: Khi giết mà cố tâm vì sân hận, oán thù hay giết mướn, tội nặng hơn khi bị bắt buộc phải giết để tự vệ.
* Phương pháp giết: Nếu giết bằng cách hành hạ cho phải thật khổ sở chết từ từ trong sự rên siết đau đớn, tội này rất nặng.

Ngoài ra còn có hạng người si mê giết thú để tiêu khiển (như đi săn) giết để khoe tài như đấu bò, đem thú thả cho chạy rồi thì đua nhau bắn xem ai bắn giỏi. Hạng người này mua vui bằng cách không lương thiện đã phạm vào điều ác mà không hay. Nếu những người này đến lò sát sinh họ sẽ trông thấy con thú biết chảy nước mắt khi bị đem đi giết, vì chúng nó cũng biết tham sống sợ chết như người vậy.
Ba tội ác trên đều do sự hành động khác nhau, dĩ nhiên hậu quả cũng sẽ nặng nhẹ không đồng nhau.

b. Sự hủy hoại thân thể như chặt tay, chân, hay khoét mắt… làm cho người bị tàn tật suốt đời.

c. Sự hành hạ là sự đày đọa khổ sở đánh đập người dưới quyền hoặc kẻ thù của mình. Sự hành hạ có nhiều cách:

1. Sử dụng như bắt thú kéo xe nặng quá sức mà còn đánh đập không hề thương hại, không cho ăn uống đầy đủ. Đối với người cũng xử sự như với loài vật.

2. Nhốt thú lại để tự mình xem chơi, hoặc cho người khác coi, nhưng nếu nuôi dưỡng tử tế, không để thiếu thốn, cực khổ tạm cho là được. Nhưng về một phương diện khác là muốn làm cho vừa lòng mình mà làm mất sự tự do của chúng sinh khác, thì cũng không tránh khỏi nghiệp ác. Thử hỏi nếu có ai nuôi ta đầy đủ, nhưng chỉ cho ở trong phạm vi một căn phòng nhỏ hẹp, thiếu sự tự do, ta có bằng lòng không?
Nhốt thú dù với dụng ý nào, mà không cho ăn uống đầy đủ đều thuộc về việc làm khổ hay hành hạ.

3. Đem đi, như đem gà vịt đi bằng cách cột chân tréo cánh, treo theo xe, phơi nắng không cho ăn uống… đều phạm vào tội hành hạ súc vật.

Chi tiết của điều học thứ nhất

Muốn biết có phạm giới hay không, coi theo năm chi tiết dưới đây:
1. Pànà, chúng sinh có thức tánh.
2. Pànasannito, biết chúng sinh có thức tánh.
3. Vadhakacittam, tính giết.
4. Upakkamo, ráng sức giết.
5. Tena maranam, chúng sinh chết bởi sự ráng ấy.
Tự mình giết, bảo kẻ khác giết hay nói khéo bằng cách này cách khác, hay ra dấu cho người khác biết để giết. Khi thấy giết được rồi lấy làm thỏa thích. Cả hai, kẻ xúi giết cũng như người giết, đều phạm vào tội sát sinh.

Nhân và quả:

Thông thường hay nói Tội và Phước cho gọn và để lãnh hội, thật ra, hiểu theo giáo lý của Đức Thế Tôn chỉ có trạng thái vui buồn, hoặc sướng hay khổ của thân tâm mà thôi. Đức Phật dạy không có một đấng uy quyền tối cao nào hay một vị Thiên vương nào có thể ban phước cho ta như phần đông ta lầm tưởng. Sự thật thì mọi việc gì đến với ta đều do ta mà có hết. Chỉ có sự hành động và kết quả của sự hành động mà thôi. Nói và hiểu theo Phật pháp là luật Nhân Quả, làm lành được vui, làm ác gặp khổ. Thân này khi già thì phải chết, có người chết trước tuổi già, nhưng trái lại tâm là phần vô hình thì không bao giờ chết, khi chết tư tưởng cuối cùng đưa con người đi tái sinh một cảnh nào tùy theo tốt xấu mà mình đã tạo. Cái gọi là tư tưởng cuối cùng ấy có nghĩa là khi mình sắp chết có hiện tượng sinh ra trước mắt người sắp lâm chung. Phạn ngữ gọi Gatinimitta nghĩa là Kiển mộng. Sở dĩ có kiển mộng là vì do chúng ta tạo nghiệp, khi sắp lâm chung, Nghiệp ấy hiện ra một cảnh vui hay khổ tùy theo nghiệp mà mình đã tạo.

Tóm lại, luân hồi hưởng cảnh an vui hay chịu khổ cũng do nơi ba phiền não tham lam, sân hận, si mê. Khi tâm thanh cao được sinh về cảnh an vui, tâm xấu xa đê hèn phải sinh về cõi khổ. Con người đang tu hành tinh tấn, tâm đang trong sạch mà bị phiền não ấy sinh lên rồi thiếu trí nhớ, không kiểm soát được tâm để phiền não xâm nhập làm cho tâm tối mê quên giới răn, không khác nào như người xuống thang vậy. Bậc thang cuối cùng của tâm là khi đã phạm giới.

Mỗi một bước xa giới răn là một bậc thang của tâm và đi gần đến nơi khổ sở là ác đạo.
Tội thật ra là hậu quả xấu của sự hành động trái với giới luật làm cho thân tâm trở nên nhơ bẩn và con người phải đau khổ mãi mãi.

Hỏi: Tại sao trong năm điều học Đức Thế Tôn lại để giới không sát sinh đứng đầu? Đây là sự tình cờ hay Đức Phật có ý sắp như vậy?

ĐÁP: Đức Phật là đấng Toàn giác. Nên mỗi lời Ngài đã giảng dạy đều có một ý nghĩa cao siêu, không phải vì tình cờ mà nói. Trước khi nói Ngài đã dùng tuệ giác xem xét, và nói với sự giác ngộ chớ không phải như chúng sinh nói mà không suy nghĩ. Đức Phật đặt giới không sát sinh hàng đầu vì nó là giới quan trọng hơn hết. Ngài thấy chúng sinh không thương yêu nhau, và người không thương gì bằng thương thân ta. Mất thân này đối với chúng sinh là mất hết tất cả. Mặc dù thế giới này là một khối kim cương đi nữa cũng vô ích, một khi chúng sinh không có thân này để hưởng, vì thế chúng sinh quý mạng sống này nhất không gì sánh bằng.

Đời người có hai điều quan trọng nhất: Sống và Chết. Ai ai cũng ham sống sợ chết, có chăng một số rất ít, vì thất vọng, thực tại vì quá khổ không còn chịu nổi nên muốn tự tử mà thôi. Cái muốn trọng đại nhất của người đời là muốn sống mãi.

Nếu phải chọn ba điều:
- Một người phụ nữ tuyệt đẹp.
- Tiền của thật nhiều.
- Và sự sống.

Chắc chắn con người sẽ chọn sự sống, và trái lại còn muốn sống thật lâu nữa là khác.

Trên đời này không vật gì quan trọng bằng sinh mạng vì vậy tất cả các tội lỗi ở đời không tội nào bị kết án nặng bằng tội giết người.

Trên thế gian này các tôn giáo tuy bề ngoài có khác nhau nhiều điểm nhưng có một điểm giống nhau là cấm giết người, và một vài con vật mà tôn giáo ấy không được phép giết như Bà la môn giáo cấm giết bò, trái lại còn thờ bò, Hồi giáo cấm giết heo. Chỉ có Phật giáo khuyên chớ giết người và tất cả động vật có thức tánh dù thật nhỏ. Đối với Đức Phật, tất cả những loài hữu tình (có sinh mạng) đều có giá trị ngang bằng nhau. Vì vậy nên Ngài gọi một tiếng là Chúng sinh, ý Ngài gọi tất cả nhân vật Thiên vương, Phạm thiên. Ngài biết rõ đã là chúng sinh thì chúng sinh nào cũng tham sống sợ chết. Vậy chúng ta không nên vì tư lợi, oán thù hay vì một lý do gì mà giết hại nhân vật khác. Loài thú không có tài sản như chúng ta, nhưng cũng có tài sản quý nhất là mạng sống của nó. Sinh mạng là vật có giá trị rất cao quý riêng của mỗi chúng sinh. Vì những lý do kể trên, nên Đức Thế Tôn khuyên tất cả hàng Phật tử nên thương yêu nhau, không nên giết hại một nhân vật nào vì một lý do gì.
Hỏi: Thưa ông, nói giết nhân vật ngoài mình ra có tội đã đành, còn nếu tự mình giết mình, có tội hay không?

ĐÁP: Nói về vấn đề tự sát, ta hãy tìm nguyên nhân của sự hành động đó. Khái quát ta phải hiểu ba lý do là:

- Tự tử để trốn cái khổ mà chính mình không còn chịu đựng nổi.
- Tự tử để phản đối việc làm của người khác.
- Tự tử để tỏ ra lòng cương quyết của mình.

Nếu đem ba nguyên nhân trên để so sánh với mạng sống của con người là vật vô giá thì sinh mạng của con người còn quý hơn nhiều. Trên đời này không có vật gì quý bằng sinh mạng. Vì vậy chúng ta không nên cẩu thả nhất thời thiếu suy nghĩ mà tự tử hay hủy hoại nó.

Theo giáo lý của Đức Phật thì tự sát cũng có tội. Vì khi người tự sát là người đang ở trong trạng thái của tâm Si mê, không còn sáng suốt nhận định được phải quấy lành dữ, người chết trong trạng thái như vậy chỉ bỏ cái xác thân vô dụng này. Chủng tử là mầm của tâm si mê sẽ đưa người đi tái sinh vào cảnh tối tăm tương xứng với tâm si mê và cũng tiếp tục hứng chịu tất cả hậu quả mà đã tạo. Đã nói là nghiệp thì không khi nào chúng ta trốn nó được, vì vậy nên Đức Phật có dạy: Nghiệp là nơi sinh ta ra – Kammasakomhi… người Phật tử chân chính không nên làm chuyện quá si mê như thế.

Hỏi: Nếu người này giết người kia để trả thù cho mình hay cho cha mẹ mình hoặc thân nhân mình, như vậy có tội hay không? Theo ý kiến tôi thì không tội. Vì sở dĩ mà người ấy phải giết người kia để trả thù nghĩa là người đi giết người kia không còn chịu nổi cái khổ của người bị giết gieo vào lòng họ. Thì tôi nghĩ không tội.

ĐÁP: Sự cố ý giết người với tâm ác, thì làm sao khỏi tội được, khi đã giết được kẻ thù rồi ta cũng không mập thêm mà cũng không ăn thịt người ấy được, trái lại còn mang thêm tội lỗi oan trái oán thù. Lòng ta luôn luôn phập phồng lo sợ, vì sợ ngày nào đó tội sát nhân bị khám phá thì bị tù đày giam cầm khổ sở. Nếu may ra mà trốn tránh được khỏi luật trên đời này rồi cũng chưa yên vì tâm hằng phập phồng lo sợ con cháu họ trả thù. Người ấy sống với một tâm trạng lo âu như vậy, thử hỏi làm sao yên vui được. Do đó nên gọi là Tội. Người Phật tử chân chính biết giữ giới rất trọng giới luật của mình, hết sức không cho phiền não phát sinh.

Đức Phật dạy sở dĩ chúng sinh phải bị luân hồi, một phần cũng vì còn lòng sân hận ngoan cố không chịu dứt bỏ sự thù oán và oan trái. Vì có trả thù nên mới có oan trái triền miên không bao giờ ngừng nghỉ. Vì vậy nên Ngài có dạy trong kinh Pháp cú rằng;
Lấy oan trái cột oan trái thì oan trái ấy không bao giờ dứt.
Lấy ơn trả oán, oán ấy mới tiêu tan.
(Kinh Pháp cú câu 3, 4, 5.)

Đức Phật thường dạy Phật tử thà là mình chịu khổ, đừng làm khổ kẻ khác. Trên thực tế Ngài dạy chúng ta nên cố nhẫn nại, hỷ xả để tha lỗi kẻ khác.

Nơi đây tôi xin nhắc lại một tích, mặc dù có hơi dài, nhưng không ngoài ý chỉ cho ta thấy oan trái không nên cột, đây là tích trong kinh Pháp cú. (Kinh Pháp cú câu 5, Tích Người sinh làm nữ Dạ xoa. Xin xem thêm “Chú giải Kinh Pháp cú” do Ngài Trưởng lão Pháp Minh dịch, xuất bản năm 1997, 1998.)

Có một gia đình khá giả, nhưng chỉ sinh được có một người con trai. Sau khi cha đã quá vãng, một mình phải lo việc đồng áng còn lo việc gia đình thật là cực nhọc. Bà mẹ thấy con quá lao lực nên lấy làm thương hại, nên bà lo cưới vợ cho con trai bà để có người phụ lo việc trong nhà. Dâu bà cũng là con nhà khá giả, hiền lành, bà cũng hết lòng thương yêu, nhưng khổ nỗi dâu bà không sinh nở gì cả. Vì vậy nên bà định cưới vợ lẽ cho con bà.

Cô dâu nghe tin ấy nghĩ rằng: “Ta nên cưới vợ bé cho chồng ta, nếu để cho bà đứng cưới thì về sau này ta sẽ không có quyền gì với cô vợ bé ấy cả.” Cô liền lo kiếm nơi xứng đáng cưới về cho chồng, không lâu cô vợ bé có thai.

Cô vợ lớn mới nghĩ rằng: “Nếu nàng này mà có con thì sẽ làm chủ gia đình này. Vậy ta phải làm cho nó không có con mới được. “Nghĩ rồi cô mới nói với cô vợ bé rằng: “Khi nào em có thai, em hãy bảo cho chị biết, để chị chia vui với em.”

Cô vợ bé là người chất phác thật thà nên cô mới nói thật với người vợ lớn là cô đã có thai. Cô vợ lớn mới tìm thuốc phá thai cho cô vợ nhỏ uống. Vì vậy nên thai ấy hư. Đến lần thứ nhì cũng vậy. Đến lần thứ ba, người hàng xóm lấy làm lạ mới hỏi cô vợ bé, và cô ta mới thuật cho mà nghe. Khi biết chuyện, người hàng xóm mới khuyên cô: “Từ nay trở đi phải giấu đừng cho cô vợ lớn biết.”

Đến lần thứ ba cô vợ lớn biết thì đã muộn lắm rồi, nhưng cô cũng cứ vẫn cố tìm thuốc phá thai cho cô vợ bé uống. Cô vợ lớn nói dối rằng đây là thuốc dưỡng thai. Vì thai bào đã quá lớn nên sức thuốc không phá được. Nhưng cũng hành hạ cô vợ bé thật là khổ sở, rồi thai ấy cũng hư và cô vợ bé cũng chết thảm thiết.

Trong những ngày đau đớn trên giường bệnh, trước khi sắp chết cô ta mới cột oan trái rằng: “Người đã cố làm hại ta hai lần, lần này lại giết ta nữa. Sau khi chết, ta nguyện sinh làm giống gì cũng được miễn là ta ăn thịt lại mẹ con ngươi mới hả lòng.” Sau khi chết cô được tái sinh lại làm mèo trong gia đình ấy.

Còn người chồng sau khi biết rõ chuyện ác đó, ông ta tức giận đánh chết cô vợ lớn, cô này lại tái sinh làm gà mái cũng trong gia đình ấy. Không bao lâu gà đẻ, ấp con, mèo ăn luôn như thế hai lượt, đến lượt thứ ba mèo ăn cả mẹ lẫn con của gà.

Khi gà sắp chết có cột oan trái với mèo rằng: “Ngươi đã ăn con ta hai lần, lần này lại ăn cả ta. Kiếp sau ta nguyện ăn con ngươi và cả ngươi.”

Kiếp sau đó người vợ lớn sinh làm cọp, người vợ bé sinh làm nai. Khi nai sinh, cọp đến ăn con của nai hai lần, đến lần thứ ba ăn cả mẹ lẫn con.

Nai tức giận mới cột oan trái rằng: “Ngươi ăn con ta hai lần trước rồi, hôm nay ngươi lại ăn cả mẹ con ta nữa. Ta nguyện kiếp sau ta ăn cả mẹ lẫn con của ngươi lại.”
Kiếp sau đó, nai sinh làm Dạ xoa, còn cọp sinh làm con gái của một gia đình trong thành Sàvatthì. Khi lớn lên cô cũng có chồng người thành Sàvatthì.

Khi cô ấy sinh, Dạ xoa hóa thành một người đến thăm, rồi bắt đứa trẻ ấy ăn. Đến lần thứ nhì cũng vậy. Đến lần thứ ba cô nọ có thai gần ngày sinh mới nói với chồng rằng: “Nơi đây có Dạ xoa và đã đến ăn con ta hai lần rồi, vậy lần này cho tôi về sinh ở gia đình tôi.” Chồng cô bằng lòng.

Vì Dạ xoa bận việc nên năm tháng sau khi sinh của cô kia, Dạ xoa mới trở lại tìm cô vợ lớn để ăn thịt con cô. Tìm khắp nơi mới biết cô kia đi về sinh ở bên gia đình cô, Dạ xoa lập tức đi đến nơi ấy, nhằm lúc hai vợ chồng đang trên đường về nhà. Khi vừa đi đến chùa Kỳ Viên nơi ao tên Pokkharanì là nơi mà Đức Thế Tôn hằng ngự đến tắm (ao ấy ở ngoài vòng chùa Kỳ Viên), lúc ấy trời đang nóng, cô trao con cho chồng để xuống ao tắm. Khi tắm xong, lên bồng con thay chồng xuống tắm, thì Dạ xoa cũng vừa đến. Cô lấy làm kinh sợ ngó trước sau không thấy nơi nào có thể trốn khỏi Dạ xoa, cô liền bồng con chạy thẳng vào tịnh xá Kỳ Viên nơi Đức Thế Tôn đang ngự. Cố nhiên khi Đức Thế Tôn ngự nơi nào đều có chư Thiên theo hầu nơi ấy, nên Dạ xoa vừa đến nơi ấy bị chư Thiên không cho vào. Còn cô kia thì quá kinh sợ, không còn biết gì hết. Cô thấy Đức Thế Tôn đang ngự trên pháp tọa thuyết pháp giữa hàng tứ chúng, cô để đại đứa bé vào tay Đức Phật và bạch: “Bạch Đức Thế Tôn, con xin cúng dường đứa bé này cho Ngài, xin nhờ oai đức Ngài cứu sống mạng nó.”

Khi ấy Đức Thế Tôn mới dạy Đại đức Ananđa ra gọi Dạ xoa vào hầu Phật. Ngài dạy:

- Tại sao ngươi tạo ra ác nghiệp như thế này? Nếu hai người không gặp được Như Lai hôm nay thì các người còn cột oan trái đến cả kiếp (Đức Phật muốn ám chỉ Kiếp là tuổi của trái đất chớ không phải một đời người). Cũng như oan trái giữa rắn và chồn, hay con gấu và cây căm xe, hoặc như con quạ và chim mèo. Oan trái mà dứt được là nhờ nơi không cấu kết với nhau. Đức Thế Tôn dạy thêm rằng: “Từ cổ chí kim, oan trái không khi nào dứt được vì sự cấu kết với nhau, nhưng oan trái sẽ dứt nhờ sự diệt bỏ oan trái. Đây là pháp tối cổ, làm dứt oan trái là con đường đi của bậc Thánh nhân như Thanh văn, Duyên giác, Độc giác hay Chính Đẳng Chính Giác.

Khi Đức Thế Tôn thuyết vừa dứt câu Dạ xoa đắc quả Tu đà hườn. Đức Thế Tôn mới bảo cô gái kia:
- Ngươi hãy trao con ngươi cho Dạ xoa.
Cô ấy đáp:
- Bạch Đức Thế Tôn con vẫn còn sợ quá.
Đức Thế Tôn dạy:
- Ngươi chớ lo, sự tai hại giữa ngươi và Dạ xoa không còn nữa.
Nghe vậy cô mới trao con cho Dạ xoa. Dạ xoa bồng con hôn rồi trả lại cho cô kia. Trả xong, Dạ xoa lại khóc.
Đức Thế Tôn phán hỏi:
- Tại sao ngươi khóc?
- Bạch Đức Thế Tôn, bởi vì tôi không còn nuôi mạng sống được như xưa nữa. Từ nay tôi không biết phải sống bằng cách nào.

Đức Thế Tôn biết người đã đắc quả Tu đà hườn rồi thì không còn phạm một tội nào rất nhỏ trong Ngũ giới. Dạ xoa là hạng ăn thịt sống thì làm sao sống theo đúng chính pháp được. Đức Thế Tôn dạy cô kia đem Dạ xoa về nuôi, cả hai thương yêu nhau và dứt bỏ oan trái, oán thù. Nhờ đó mà cả hai sống an vui.

Khi ấy Đức Thế Tôn thuyết câu kệ:
“Akkochimam avadhinam ajininam ahàsi me ye ca tam upaneyyanti veram tesam na sammati…
Na hi verena veràni samantidha kudàcanam. Averena ca sammanti esa dhammo sanandano”

Nghĩa là:
Kẻ nào cột oan trái rằng, họ đã giết ta, đã đánh ta, đã thắng ta, đã cướp của ta, oan trái của người ấy không bao giờ dứt. Người nào không còn oan trái như thế, thì oan trái của người ấy sẽ dứt. Và từ cổ chí kim, oan trái không bao giờ dứt được bởi sự cột oan trái. Oan trái chỉ dứt được bởi sự không cột oan trái.

Cột oan trái: nghĩa là cố nhớ tội lỗi hay điều mà người ta đã làm trái nghịch với ta, và có cơ hội đặng trả thù trả oán. Người hành động như thế gọi là kết cấu oan trái oán thù. Khi người cột oan trái oán thù cũng như vay rồi trả, trả xong lại vay, không biết chừng nào mới hết, nếu người không có trí tuệ để nhận định chân lý về cái khổ của mình khi bị người làm hại. Trước khi muốn dứt oan trái thì người nên dẹp sự giận hờn, oán ghét và gieo mầm từ ái trong tâm mình, rồi rải lòng từ đến cho tất cả chúng sinh, người làm được như thế mới mong giải thoát khỏi sự oán thù và oan trái.

Trở lại vấn đề giết để trả thù. Người cố tâm trả thù. Trước hết trong tâm người ấy chứa đầy sự oán giận, căm hờn. Tâm ấy thuộc về tâm ác, đó là nhân tạo ác nghiệp. Gây thêm oan trái. Tâm người nghĩ muốn trả thù là tâm đã hướng về điều ác, hay đang đi trên con đường tới nơi khổ là bốn đường ác. Người mà nghĩ đến trả thù, họ không nghĩ rằng, họ đang tăng thêm sự lo sợ và khổ vào lòng họ, đã gọi là giết thì dù với nguyên nhân nào cũng đều phạm vào giới sát, nếu khi nhận thấy đủ chi tiết.

Hỏi: Còn một điều nữa mà tôi lấy làm nghi ngờ là: Khi tôi còn nhỏ thấy chó hoang bệnh, đói nằm một chỗ, trông thật là khổ não, mà nhất là mùa rét. Tôi nghĩ nhất định con chó này thế nào cũng chết không sớm thì muộn. Nếu để nó sống thế này mãi thì nó càng bị kéo dài chuỗi ngày đau khổ. Vì thương hại nó nên tôi đập nó chết. Tác ý tôi là để giúp con chó mau thoát khổ để sinh vào kiếp khác. Thưa ông như vậy tôi có tội không?

ĐÁP: Theo trong câu hỏi này có hai điều lẫn lộn nhau là tâm Từ và tâm Ác. Chiếu theo kinh luật của Đức Thế Tôn như đã giải thì ông đã phạm vào tội sát sinh có đầy đủ tất cả năm chi.

Giờ đây tôi xin nhắc lại sự làm tội do nơi ba nguyên nhân là:
- Lobhahetu – Nguyên nhân làm tội do lòng tham lam.
- Dosahetu – Nguyên nhân làm tội do lòng sân hận.
- Mohahetu – Nguyên nhân làm tội do lòng si mê.

Vì si mê nên không nhận định phải quấy rồi làm tội mà cho là phước. Giờ hãy suy nghĩ xem việc tội giết con chó do nguyên nhân nào? Có phải là si mê không? Theo việc làm của ông thật là thiếu sáng suốt. Mặc dù thấy chó khổ, nhưng làm sao biết rằng: Nó muốn chết hay không? Điều này khó mà cả quyết được.

Còn như ông bảo đập nó chết để giúp nó mau tái sinh vào kiếp khác khỏi khổ thì lấy gì làm bằng chứng mà dám tin chắc như vậy. Hơn nữa, ông làm sao biết được nghiệp con chó ấy hết hay chưa?

Theo Phật giáo thì chỉ có những chúng sinh nào không còn nghiệp ác mới khỏi bị đọa vào các cảnh khổ, chúng sinh nào tạo nghiệp thiện mới được sinh vào nơi nhàn cảnh.
Cái chết dù chớp nhoáng hay dây dưa trong tình trạng bị bệnh tình hành hạ oằn oại cũng chưa hẳn là dứt được cái khổ.

Muốn thoát khổ chỉ có con đường duy nhất là trì giới, lo tu hành, sống một đời sống đạo đức đúng theo chính pháp.

Như vậy thử hỏi làm sao biết được con chó kia ở trong trường hợp nào mà dám quả quyết chết như vậy nó sẽ mau được tái sinh kiếp khác an vui khỏi khổ hiện tại.
Thật là một điều đáng tiếc cho ông vì thiếu sáng suốt và kém thông hiểu Phật Pháp. Nên cho việc quấy là phải.

Hỏi: Thưa ông nếu trường hợp mình gặp một chúng sinh khổ như thế, ta là Phật tử phải làm thế nào giúp đỡ, không lẽ để vậy, lấy mắt nhìn hay sao?

ĐÁP: Trong trường hợp đó, có hai điều ta cần làm nếu ta có thể thực hành là:
- Nếu có thể ta cho thuốc trị bệnh hay là cho tiền của, cơm nước tùy theo hoàn cảnh.
- Nếu tự mình không đủ sức làm việc trên thì tìm người khác có đủ phương tiện hơn để giúp đỡ. Nếu trường hợp này mà là nhà sư thì chỉ có một phương pháp là rải lòng từ, hồi hướng phước báo cho người hay vật đang thọ khổ ấy hết bệnh hay khỏi khổ. Ngoài ra không còn phương tiện nào khác hơn.

Điều học thứ nhì: Tránh xa sự trộm cắp

Hỏi: Thưa ông? Tôi đã rõ được điều học thứ nhất, xin ông giải cho tôi điều học thứ nhì.

ĐÁP: Điều học thứ nhì: Adinnàdànà-veramanì là: Tác ý lánh xa sự trộm cắp.

Hỏi: Trọng điểm của điều học này ở chỗ nào?

ĐÁP: Trọng điểm của điều học này là chỉ cho ta thấy rõ cái khổ vì bị mất của và dạy cho người Phật tử ăn ở cho thành thật. Theo Phật giáo gọi là chính mạng.

Điều răn này có ba là:
a. Corakammam - Việc làm của kẻ trộm cắp, cướp bóc. Điều này có thể chia ra làm 14 chi:
1. Trộm nghĩa là lén lấy của người ta, trong khi chủ nhân không hay biết chi hết.

2. Giật nghĩa là đoạt ngang trên tay người khác khi mà chủ nhân không bằng lòng cho, hay không để ý rằng sẽ bị giật.

3. Dọa nghĩa là nói những gì làm cho người khác kinh sợ phải đem của mình ra cho, hoặc ăn uống trong tiệm xong rồi làm cách cho chủ sợ, như làm lòi dao, hay súng rồi nói khéo làm cho người chủ nghe biết mà không dám đòi tiền.

4. Cướp nghĩa là dùng bạo lực để uy hiếp tài gia lấy của, không kiêng nể pháp luật.

5. Phao vu nghĩa là đưa tin không đúng với sự thật như nói: Nhà người kia có chứa đồ quốc cấm, người ấy là kẻ sát nhân v.v… để làm cho chủ nhân kinh sợ đưa tiền ra.

6. Lường nghĩa là lừa dối, bịp bợm người để lấy của.

7. Gạt nghĩa là lừa đảo có tác ý nói cho người tin theo để đưa của ra cho mình. Lời nói này là lời nói dối. Nhưng tác ý là lấy cho được của. Như thường thấy có người đến than khóc kể lể nói chồng con hay quyến thuộc chết trong bệnh viện, nhưng không có tiền mua hòm chôn… khi người hảo tâm thấy vậy động lòng thương giúp đỡ.

8. Lừa tráo nghĩa là Thiếu như những người buôn gian bán lận, mua cân già bán cân non. Như kẻ không tàn tật nhưng giả bộ bị tàn tật, để đi xin ăn.

9. Giả nghĩa là không đúng sự thật, như hàng nội hóa nói hàng ngoại mới nhập cảng, để bán giá cao. Hay vàng giả nói vàng thật để làm cho người lầm.

10. Mượn nghĩa là không chịu trả, vì người chủ quên.

11. Ăn lời nghĩa là làm không đúng sự thật, như người làm công mua đồ cho chủ rẻ nói cho đắt để được lời một số tiền. Hoặc hùn vốn buôn bán với nhau khi chia lời, chia cho mình nhiều, cho phần của kẻ khác ít hơn, mặc dù vốn góp và công sức bỏ ra như nhau.

12. Đổi nghĩa là của mình giá rẻ đem đổi lấy cái giá đắt hơn, hay của mình cũ đổi lấy cái mới của kẻ khác.

13. Lậu thuế nghĩa là buôn bán không chịu đóng thuế, hay đóng mà khai gian, nhiều khai ít.

14. Thụt két nghĩa là lấy cắp tiền trong quỹ do mình được giao giữ; như người được chủ tin cậy giao cho một số tiền rồi lấy trốn đi, hoặc khi đi thu tiền được xong trốn luôn không đem về cho chủ.
Mười bốn phép kể trên thuộc về tội trộm cắp.

b. Anulomacorakammam - tạm gọi là trộm cướp, điều này không hẳn là trộm cắp, vì tác ý có khác hơn 14 điều trên. Điều này lại chia ra làm ba chi khác nhau:

1. Đồng lõa nghĩa là giúp mua đồ do trộm cắp được hay trốn lậu thuế, hoặc oa trữ của bất chính, để kẻ trộm cho hoa hồng, hay giúp đỡ cơm gạo vật ăn thức uống.

2. Chơi thân nghĩa là chơi thân với kẻ trộm vì thâm tâm muốn kẻ trộm cho tiền của khi lấy được của người khác.

3. Hối lộ nghĩa là trường hợp công chức có thế lực ăn của đút lót để tha hoặc chỉ cách cho người khác để qua mặt pháp luật. Khi xong việc được người đền ơn.
Nếu điều thứ ba này người giúp cho kẻ gian làm hại cho quốc gia hay cho nhiều người khác thì luật lệ hiện hành sẽ lên án nặng vì nó là một trọng tội.

c. Chayācorakammam - bóng dáng của sự trộm cướp, điều này có hai ý nghĩa khác nhau:

1. Làm cho người bị phá sản, hay bị mất đi một phần nào tài sản. Không đem của cải ấy về cho mình, nhưng chỉ cốt làm cho người bị mất hay bị hại.

2. Lấy của người vì nghĩ rằng: Nếu chủ nhân biết hoặc thấy cũng bằng lòng cho ta, vì là chỗ thân bằng quyến thuộc.

Giới này khi phạm đầy đủ năm chi gọi là phạm vào tội trộm cắp.
Năm chi ấy là:

1. Parapariggahatam - Vật có chủ gìn giữ.
Có nghĩa là vật ấy có chủ, ta lấy họ không hay biết chi hết. Người chủ của ấy là người thường, hay của chùa, của hội hoặc của cơ quan chính phủ…

2. Parapariggahanam - Biết rõ rằng, vật này có chủ, nghĩa là người biết rõ rằng: vật ấy có chủ ta lấy họ không biết, hoặc bán đồ thuộc loại quốc cấm như nha phiến, nha phiến trắng, hoặc đồ ấy phải đóng thuế, nhưng lại trốn thuế. Nếu thật tình không biết đồ này phải đóng thuế hay thuộc loại quốc cấm, không dối lòng mình thì không phạm giới, nhưng đối với pháp luật hiện hành thì không dung chế được.

3. Theyyacittam - Tính trộm cắp hay cố ý trộm cắp. Câu này có nghĩa là: khi người lấy của ấy có tác ý là chỉ mượn thôi. Nhưng khi không ai thấy mình lấy và khi dùng coi thích quá nên không trả, hoặc khi thấy của rơi, trước hết tác ý chỉ lượm đem trình cho nhà chức trách, nhưng khi nghĩ lại làm cho lòng tham phát sinh lấy làm của mình luôn.

4. Upakkamo - Ráng sức làm đủ cách để chiếm lấy. Nghĩa là đang rình rập hay đi đến chỗ trộm cắp đồ vật, khi đưa tay ra lấy được vật ấy về cho mình là phạm giới trộm cắp. Hoặc giả viết thư hoặc nói ra lời phao vu cho người tài gia để lấy của ấy. Khi lấy được là phạm vào tội trộm cắp.

5. Tenaharanam - Trộm cắp được do nơi sự cố gắng ấy.
Theo điều học này cho chúng ta nhận thấy rằng: Chính yếu của điều học là do nơi tác ý. Vì tác ý là nguyên tố làm cho con người hành động.
Điều học thứ nhất và thứ nhì liên quan mật thiết đến đời sống hàng ngày của con người, hai điều này thuộc về chính mạng một chính đạo trong Bát chính đạo. 
Người đời thường nghĩ rằng: Nuôi mạng là chuyện riêng về vật chất, thì tại sao lại có liên quan đến tinh thần? Có người lại nghĩ sở dĩ khuyên tránh xa trộm cắp là không muốn cho kẻ khác buồn rầu thất vọng khổ sở vì mất của. Nhận định như vậy thật đúng, nhưng chỉ đúng một phần nào thôi. Sự thật người trộm cắp muốn làm giàu bằng sự cực nhọc của kẻ khác. Đây là về phương diện vật chất, còn về phương diện tinh thần, người trộm cắp là người muốn được an vui trên cái đau khổ buồn rầu của kẻ khác.

Do nhân chẳng lành ấy, người trộm cắp thường bị tù đày về phần thể xác (vật chất). Về phương diện tinh thần, tức là tâm của người đó cũng không bao giờ được bình tĩnh để hưởng an vui, luôn luôn sống trong phập phồng lo âu sợ sệt, ăn năn, hối tiếc tội lỗi đã làm.

Đó là chưa kể tâm người trộm cắp càng ngày càng bị ô nhiễm tánh tham lam, vì ác pháp là nguyên nhân đem phiền não đến cho người kiếp này và đời vị lai.
Người không giải thoát hay đang mang nặng tội lỗi nên cố mài giũa, nếu có thể được thì nên quăng bỏ được của nhiều chừng nào càng tốt chừng ấy. Tham lam là một gánh thật nặng nề của con người còn trong luân hồi.

Trong năm chi trộm cắp, hết bốn chi thuộc về phần Tâm rồi. Bốn chi ấy là:
1. Biết rõ rằng của lấy trộm ấy có chủ.
2. Nghĩ đến sự trộm của ấy.
3. Cố ráng hết sức mình tìm phương kế trộm cắp.
4. Đã đem của ấy về cho mình (đoạn này thuộc về Tâm và Thân).

Ta có thể ví như người có thói quen xấu hay lân la gần bên hầm phân, rồi té xuống đó. Nếu không sớm vớt lên, chất hôi thối càng ngày càng ngấm vào người, hoặc sẽ phải uống nhiều nước phân, để rồi phải chết chìm luôn trong đó.
Tâm kia cũng vậy, nếu không sớm thức tỉnh ngăn ngừa các ác ý xâm chiếm, thì càng ngày càng đi sâu vào tội lỗi, y như chứng bệnh, nếu không sớm lo chuyên trị thì sẽ trở thành nan y.

Hỏi: Xin giải thích rõ thêm 5 chi trên cho dễ hiểu?

ĐÁP: Năm chi ấy có thể hiểu đại cương như thế này:
1. Của có chủ (khi người mới nghĩ đến của này có chủ, nơi đây chưa có thể nói là phải tội hay không, nó còn lưng chừng).
2. Biết rằng vật ấy có chủ, (đoạn này cũng còn trong vòng chưa phải là tội hay không).
3. Tính trộm cắp (nơi đây tâm đã bắt đầu bị phiền não xâm chiếm quấy nhiễu rồi và cũng bắt đầu quên điều lành. Tâm đã hướng vào tội lỗi, giới luật bắt đầu bị đe dọa).
4. Cố gắng hay ráng sức trộm (đoạn này tâm đã tụt xuống một bậc thật thấp vì nó đã quá khắng khít với tội ác). Đến giai đoạn này thật cũng khó cho người kéo tâm trở lại được, phải cần có nhiều nghị lực và hai pháp hổ thẹn và ghê sợ tội lỗi cho mạnh.
5. Khi chính mình biết rằng: đã trộm được vật mà mình cố ráng đem về rồi (đây là tội thật sự, và cũng đã đi tới mức cuối cùng của tâm trộm cắp).
Trên đây tôi phân tích sơ lược để ông dễ nhận xét về những giai đoạn của tâm, nhưng nếu nói về sát-na của tâm thì rất là lẹ, thật ra trong tam thế này không có gì lẹ bằng sát-na của tâm. Tâm con người hằng vọng động, sự luân hồi của chúng sinh không ai có thể đoán trước được. Khi còn trong Tam giới có thể mới là một vị Thiên vương sẽ trở lại làm người hay là súc sanh ngạ quỉ v.v… tùy theo sát-na cuối cùng xấu hay tốt của tâm. Vậy chúng ta đang có được thân này hiện tại đây chứng tỏ kiếp trước, chúng ta có tâm thanh cao tinh khiết, nếu nay sớm biết tội nên lánh xa tội và mau mau cố tạo thêm thiện pháp là tạo cho mình con đường xán lạn về ngày vị lai.

Sở dĩ Đức Thế Tôn khuyên không nên trộm cắp của kẻ khác. Điều này nếu chúng ta giữ được là có ích cho bản thân ta chớ không lợi gì cho Ngài. Nhưng chỉ vì lòng Từ bi muốn chúng sinh mau giải thoát khỏi đời sống lầm than cơ cực này. Đức Phật dạy sự biết kính nể quyền lợi của kẻ khác. Phạn ngữ gọi là Manussa-dhamma có nghĩa là Pháp trong tâm của con người (ta cũng có thể gọi là nhân đạo hay lòng nhân đạo).
Người có học và hiểu lý đạo thấy rõ rằng: Cướp bóc, lường gạt của kẻ khác đem về xài cho toại lòng tham lam đó không phải là khôn ngoan hay có trí tuệ mà trái lại là sự dại dột và thường bị lỗ lã. Vì khi ta lấy được của người bằng cách bất chính nào để nuôi dưỡng thể xác này, còn Tâm là một vật rất quý báu thì lại để thoái hóa, nếu không muốn nói là đã tụt xuống thấp.

Sự trộm cắp hay sang đoạt của người bằng phương pháp nào đem về cung phụng cho thể xác nhơ nhớp này và người trong gia tộc, chỉ được một thời gian nào đó thôi, nhưng rồi sau bị trả quả sẽ thọ khổ trong bốn đường ác không có hạn định năm tháng bằng con số được, mà khi chịu khổ ấy quyến thuộc, vợ con ta không ai chịu thế cho ta được. Thật là dại dột làm tội để kẻ khác thọ hưởng. Nói đây tôi không dám ám chỉ người ích kỷ chạy trốn phận sự làm chồng, làm cha, làm con, nhưng người muốn làm tròn phận sự thì phải làm việc chân chính Phật giáo gọi là Chính nghiệp.

Hỏi: Thưa ông, giới răn không trộm cắp rất hữu ích cho một cá nhân, nhưng đối với xã hội có ích lợi gì hay không?

ĐÁP: Nói về ích lợi cho xã hội, thì không thể kể hết được. Nếu trong xã hội mà toàn là kẻ trộm cướp, thì thử nghĩ coi chính phủ phải khổ tâm đến độ nào? Chính phủ làm sao có đủ nhà giam để giam giữ kẻ trộm cướp ấy. Tài chính đâu để trả cho cảnh sát canh phòng. Đất đâu mà chôn cho đủ những kẻ trộm cướp giết hại nhau.
Phật dạy chúng sinh tránh tội lỗi không phạm vào điều ác được bao nhiêu người, thì đỡ cho xã hội bấy nhiêu. Thí dụ như Việt Namcó 80% tín đồ Phật giáo giữ giới, thì chính phủ Việt Nam khỏi lo 80% dân số ấy phạm vào tội trộm cắp. Vậy Phật giáo có đem lợi ích cho quốc gia xã hội hay không?




Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn