(Xem: 1864)
Đại Lễ Dâng Y Kathina 2023 tại Vô Nôn Thiền Tự, California USA
(Xem: 2304)
Đại Lễ Vesak 2023 (Tam Hợp) đã được cử hành long trọng tại Vô Môn Thiền Tự USA, ngày 11 tháng 6 năm 2023. Theo Tam Tạng giáo điển Pali của Phật giáo Nam tông (Nam truyền Thượng tọa bộ), ngày trăng tròn tháng Tư âm lịch là ngày lịch sử, kỷ niệm một lúc 3 thời kỳ: Bồ Tát Đản sanh, Thành đạo và Phật nhập Niết bàn, Phật giáo thế giới gọi ngày ấy là lễ "Tam Hợp", ngày lễ Vesakha. ngày rằm tháng Tư không những là kỷ niệm ngày Bồ Tát Đản sanh, mà còn là ngày Thành đạo và Phật nhập Niết bàn. Ngày nay, cứ mỗi khi đến ngày rằm tháng Tư, ngày đại lễ Tam Hợp, Phật tử Việt Nam cũng như Phật tử trên thế giới đều hướng tâm về đức Phật.

Đại tạng kinh: Đọc và suy ngẫm về Kinh điển

08 Tháng Hai 201312:00 SA(Xem: 19876)
ĐẠI TẠNG KINH
Đọc và suy gẫm về kinh điển
.
***Trích đăng Cảm nghĩ của một Phật tử trong Trang Phật T***

KINH ĐIỂN
Phật Giáo gồm có 3 phần, là:
Kinh, Luật Tạng và Vi Diệu Pháp.

Trong 3 phần Giáo Điển Phật Giáo, Tạng KINH là quan trọng nhất, nhiều người quan tâm tìm hiểu nhất.
Khi tìm Kinh của Phật để đọc, bạn cần biết:
-Thời nay, có hai loại Kinh sách đang hiện hành, đó là Kinh Tạng và Tạp Kinh. Trong số đó, tạp giáo đã phổ biến thịnh hành hơn.
Kinh Phật Giáo là thuần túy lời dạy của chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết giảng. Tạp giáo là của những người khác tự sáng tác thêm; trong đó, rất ít có lời Phật dạy; mà phần nhiều là lời biện luận, mơ hồ, cạn cợt, rối rắm, sai lạc...

Muốn đọc Kinh Phật để hiểu biết, để thực hành, để tăng trưởng trí tuệ; thì chỉ nên tìm đọc bản chính, tức là ta đã biết cách tìm đến với Phật Pháp. Nếu đọc vào tạp giáo; thì chẳng những sẽ hiểu biết không đúng, thực hành sai lạc, không tăng trưởng trí tuệ; mà còn thêm si mê, thêm tà kiến, thêm ngạo mạn, thêm phóng dật...; và hậu quả chắc chắn là sẽ hướng tới khổ giới, cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Nói đến bản chính, tức là nói đến: ĐẠI TẠNG KINH.

Có 2 bộ Kinh thuộc về Đại Tạng Kinh. Khi in ấn để phát hành các loại sách, thì cũng chỉ có 2 bộ kể trên là đã có in rõ ràng các chữ: "Đại Tạng Kinh" ở trên bìa. Đó là:
1. Bộ Nikaya Sutta được dịch từ tiếng Pali.
2. Bộ Kinh A Hàm được dịch từ tiếng Trung Hoa.
 
 So sánh 2 bộ Kinh trên; thì bộ Nikaya Sutta là chính xác hơn, bởi vì chỉ phiên dịch 1 lần. Bộ A có một vài chỗ sai lầm, bởi vì đã phiên dịch 3 lần; tức là: từ chữ Phạn, dịch ra chữ Trung Hoa, sau đó dịch ra chữ Việt .

Hiện nay, Bộ Đại Tạng Kinh Nikāya đã phát hành rộng rãi. Bạn có thể mua ở các nơi bán nhiều Kinh sách hoặc thỉnh ở các tự viện.

Bạn cũng có thể tìm Kinh Nikaya để đọc tại một số trang Web của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam:

Nếu có ít thời gian và chỉ muốn biết Giáo Pháp căn bản để thực hành, đặc biệt là để tu thiền; thì bạn chỉ cần đọc vào 1 trong 2 bộ sau đây:
1. KINH TRƯỜNG BỘ.
2. KINH TRUNG BỘ.
Các bộ sau đây cũng có giá trị tương đương 2 bộ kể trên, nhưng nội dung phân tán hơn. Đó là:

3. KINH TĂNG CHI BỘ.

4. KINH TƯƠNG ƯNG BỘ.
Nếu bạn là nữ giới; hoặc là người già, người cao tuổi; hoặc các bạn nhỏ tuổi; rất thích thể loại Truyện Cổ, thì bạn nên đọc vào:

5. KINH TIỂU BỘ.
Tiểu Bộ có 10 quyển (không kể các quyển Hạnh Tạng, Phật Sử) thì có:
-Tập II, là câu chuyện Cung Trời và loài Quỷ Đói.
-Tập IV, V, VI, VII, VIII, IX và X là những chuyện Tiền Thân của Đức Phật và một số vị Thánh.
Nếu bạn có rất ít trí nhớ; chỉ quen với các câu Kinh đơn giản như thể loại thơ, hoặc văn vần; thì bạn nên tìm đọc vào:

—Kinh PHÁP CÚ.
(trong Tiểu Bộ, Tập I)

Bây giờ sẽ nói đến:
cách đọc Kinh của Đức Phật.
-Bạn hãy đọc Kinh của Phật Giáo với mọi cơ hội, mọi thời gian mà bạn có thể tận dụng được.
-Nên đọc Kinh Điển trong những lúc không gian yên lặng nhất và những lúc tâm hồn của bạn thanh thản nhất.
-Như vậy, bạn có thể tập trung tâm ý và tư duy với mức độ cao nhất.

--KHI ĐỌC,
nếu bạn gặp mục nào chưa (hoặc không) phù hợp với nhu cầu tìm hiểu của bạn; hoặc gặp mục khó hiểu, thì bạn nên đọc qua mục khác.
-Bạn hãy đọc từ từ để tư duy, nghiên cứu. Đọc càng nhiều lần càng tốt. Đọc bằng đầu tốt hơn đọc bằng miệng.
-Sau khi đã đọc và ghi nhớ một mục, một đoạn nào đó; mà bạn đã thấy hay, thấy hợp lý, thấy tâm đắc; thì bạn nên quán sát, suy tư sâu xa hơn về ý nghĩa của mục, của đoạn ấy; trong mọi thời gian có thể.
-Khi suy tư, quán sát như vậy, cũng đồng nghĩa là bạn đang thực hành theo từng phần lời dạy trong Kinh Tạng.

-Kết quả là, đến một lúc nào đó, bạn sẽ cảm thấy đã hiểu được mục ấy, đoạn ấy; rất sâu sắc, rất thiết thực và rất lợi ích cho tâm linh, cho cuộc sống của bạn. Khi đó, cả người bạn sẽ cảm thấy mát lạnh toát lên, dâng lên, bao phủ, tẩm ướt toàn thân. Nước mắt sẽ tuôn trào ra, không thể kiềm chế được. Một cảm giác xúc động, hạnh phúc, thanh cao xâm chiếm, lan tỏa khắp toàn thân và tâm của bạn; tồn tại trong mấy chục phút và sẽ còn dư âm trong một khoảng thời gian rất dài.
-Khi chọn một mục, hoặc một đoạn để suy tư, quán sát; thì bạn không nên coi thường các đoạn, các câu Kinh; hoặc các đoạn Kệ, câu Kệ mà khi đọc sẽ cảm thấy nghĩa lý rất "đơn giản"; cảm tưởng như chỉ cần đọc lướt qua là đã hiểu biết trọn vẹn.
-Hơn nữa, có những câu Kinh, câu Kệ; mà vừa đọc qua, bạn sẽ cảm thấy là không hoàn toàn hợp lý.
-Nhưng, khi bạn suy tư, quán sát; cho đến lúc bạn thực sự hiểu biết trọn vẹn về mục đó, đoạn đó, câu đó; thì ngay lập tức, cơ thể của bạn sẽ phải run lên, run bắn lên; lông tóc dựng ngược, rợn tóc gáy; toàn thân nổi da gà, gai ốc; toàn thể thân và tâm đều lạnh toát, thấm sâu từ trong xương tủy đến đầu cọng tóc; bao phủ, đầy tràn cảm giác lạnh buốt ấy, khắp cả toàn thân không sót một chỗ nào.
-Khi đó, bạn sẽ khởi lên ý nghĩ:
-Thật không thể ngờ, một lời dạy của Đức Phật tưởng như là đơn giản mà thâm sâu đến mức độ nầy!
-Hãy đọc và thực hành theo Tạng Kinh. Hy vọng, sau một thời gian, bạn sẽ hưởng được niềm hạnh phúc ấy. Từ đó, bạn sẽ nhận ra rằng:
-Các loại khác, ngoài Chánh Pháp, là chỉ xứng đáng để làm rác rưởi! ,

Lúc ấy, trong tâm trí của bạn chỉ tôn thờ, chỉ quý trọng, chỉ tin kính một đối tượng cao quý đang hiện hữu ở trên đời. Đó chính là Chánh Pháp mà thôi. Đồng thời, ngay lúc ấy bạn cũng sẽ hết lòng cung kính, tôn thờ và sẽ khởi tâm quy y trong chánh tín; về một đấng tối thượng, đã từng vì hạnh phúc của Chư Thiên và Nhân Loại để hiện ra trong đời; là Người đã tuyên thuyết về Giáo Pháp.
 
-Đó là Đức Phật, chính Ngài.

-Kể từ giây phút ấy, bạn đã thực sự quy y Nhị Bảo; bằng cả trái tim, tâm hồn (thậm chí có thể nói là bằng cả sinh mạng) và trí tuệ của chính mình.
 
-Đó là một
Trí Tuệ có được nhờ Chánh Kiến do Giáo Pháp sanh.
-Sau một thời gian, tùy theo nhân duyên, bạn sẽ biết đến các vị Sư thực sự tu hành với mục đích giải thoát và bạn phát tâm quy y Tăng.
-Như vậy, từ đó bạn đã thực sự QUY Y TAM BẢO.

Nhưng nếu như, sau khi bạn đã quy y Đức Phật và Giáo Pháp; mà bạn phát tâm xuất gia vì mục đích giải thoát; thì cũng đồng nghĩa là bạn đã quy y Tam Bảo; đủ 3 ngôi, ngay từ lúc ấy.

Nguồn: Trang Phật Tử

Gửi ý kiến của bạn
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 78631)
Để giúp cho đọc giả có thể nắm được sự khác biệt giữa thiền định (chỉ quán) và thiền Vipassana (tuệ quán), sư Phước Nhân, một hành giả của thiền viện Phước Sơn, nói rõ về thiền định, thiền Vipassana, sự khác biệt giữa hai phương pháp tập cũng như khái quát phương thức tu tập và kết quả mà mỗi phương thức tu tập đem lại.
(Xem: 81221)
Khi tập ngồi thiền, điều khó khăn trước tiên là phải làm ngưng cái đầu ồn ào của mình. Nhiều người, dù cố gắng, cũng không thể nào làm yên được những tạp niệm trong đầu mình.
(Xem: 75951)
Một Tăng đoàn Phật giáo hoạt động đúng phải gồm bốn chúng: Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, nữ cư sĩ và nam cư sĩ. Tất cả đều cần thiết như nhau để duy trì và hỗ trợ truyền thống và thực hành giáo pháp của Đức Phật.
(Xem: 51692)
Những lời Kinh tụng có linh nghiệm hay không? Sám hối có hết tội không? Làm sao để biết có sự linh nghiệm khi chúng ta tụng Kinh hoặc sám hối? Nếu những lời Kinh tụng chính là những bài Kinh do chính Đức Phật thuyết giảng (Giáo Pháp), khi chúng ta tụng, có nghĩa là chúng ta trùng tuyên hay lập lại
(Xem: 152249)
Thời gian an cư là 16/6 ÂL đến 15/9 ÂL, còn gọi là Tiền An cư (purimika vassūpanāyika). Nhờ có sự an cư kiết hạ mà chư Tăng, Ni mới làm cho Phật pháp được sống còn, vì có an cư kiết hạ mà Giới, Định, Tuệ mới có điều kiện phát huy. Nơi nào còn Giới, Định, Tuệ, nơi đó mới còn Phật pháp
(Xem: 32226)
45 năm, 45 mùa an cư kiết hạ của Đức Thế Tôn đã trải qua. Thời gian qua đi không bao giờ trở lại được nhưng những bước chân của Ngài và chư Tăng trên khắp nẻo đường để thuyết pháp tế độ chúng sanh vẫn lưu lại. Đó là hình ảnh đẹp, tấm gương sáng về một bậc vĩ nhân duy nhất trong tam giới này.
(Xem: 112406)
Quyết định chọn ngày lễ Tam Hợp như là ngày lễ Đức Phật Đản Sanh đã được nghi thức hoá tại hội nghị lần thứ nhất của Hội Đồng Phật Giáo Thế Giới - World Fellowship of Buddhists (W.F.B.) diễn ra tại Tích Lan vào năm 1950, mặc dù ngày nay các ngày lễ Phật giáo trên thế giới đã có truyền thống từ hàng thế kỷ nay.
(Xem: 24798)
Tứ Vô Lượng Tâm giúp con người trở nên toàn thiện và có lối sống của bậc thánh, trong kiếp hiện tại. Tứ Vô Lượng Tâm có khả năng biến đổi người thường ra bậc siêu nhân, phàm ra thánh. Bốn đức độ cao thượng ấy cũng được gọi là Appamannà (vô lượng). Gọi như vậy bởi vì Từ, Bi, Hỷ, Xả rộng lớn bao la, không bờ bến, không biên cương, không bị hạn định.
(Xem: 21957)
Kinh văn Pāli có ý nghĩa rõ ràng, không phải là mật chú. Người đọc tụng các bài Kinh Pāli nếu hiểu được ý nghĩa thì tín tâm sẽ được hun đúc, trí tuệ sẽ được phát triển, và phước báu càng thêm tăng trưởng. Nhờ vậy thời công phu tụng Kinh sẽ được thành tựu oai lực trọn vẹn, không những có kết quả hộ trì trong thời hiện tại, mà còn là nhân duyên để không bị xu huớng theo tà kiến ngoại đạo, để được gặp Phật, rồi nhờ vào thiện pháp đã tích lũy mà được thoát khỏi các nỗi khổ đau, và thành tựu quả vị giải thoát không còn sanh tử luân hồi trong ngày vị lai
(Xem: 26824)
Trong truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy - Nam Tông, câu kệ lễ Phật "Namo Tassa bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa" (phiên âm theo tiếng Việt: Ná-mô tá-sá phá-gá-vá-tô á-rá-há-tô sâm-ma sâm-bút-thá-sá) được dịch nghĩa theo kinh tụng Phật giáo Nam tông Việt Nam là "Con đem hết lòng thành kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy"
(Xem: 22945)
12 nhân duyên sanh tử luân hồi được hình thành hay cụ thể hoá trong vòng bánh xe luân hồi. Sau này đối với bên Hán học bên Bắc Tông cụ thể là HT Minh Châu dịch là Duyên Khởi và sau này đối với Ngài Tịnh Sự thì đôi khi Ngài dịch là Duyên Sinh, đôi khi Ngài dịch là Liên Quan Tương Sinh, rồi sau cuối cùng của đời Ngài dịch là Y Tương Sinh
(Xem: 21905)
Sau ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày kết thúc an cư mùa mưa, chư Tăng phải hội lại tại trú xứ mà mình nhập hạ để làm lễ tự tứ (pavāraṇā). Ngày Tự tứ có thể thực hiện vào ngày rằm tháng 9, cuối tháng 10 hoặc là trễ lắm là vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, nghĩa là phải làm lễ tự tứ trong thời gian mùa mưa, không được quá mùa mưa. Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu hay nói cách khác là sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ khưu đương sự thấy lỗi của mình mà sửa sai và hoàn thiện bản thân.
(Xem: 19785)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng tại gia cư sĩ cũng được tìm thấy.
(Xem: 24932)
Đây là lễ hội hàng năm duy nhất của Phật giáo có từ thời Đức Phật còn tại thế. Đối với những người dân theo Phật giáo Nguyên thủy, đại lễ dâng y kathina mang một ý nghĩa hết sức to lớn, vừa thể hiện thiện tâm của người phật tử đối với việc hộ trì tăng đoàn, vừa tạo nên niềm vui lớn trong mùa lễ hội cho người phật tử tại gia, đồng thời đại lễ dâng y cũng còn nhắc nhở cho tứ chúng, cả hàng phật tử xuất gia và tại gia, luôn nhớ về và trân trọng tấm lòng của đàn tín.
(Xem: 92938)
Trong chín chương ngắn chiếm khoảng 50 trang in, tác giả cung cấp tóm lược quán xuyến cả một bộ phận phức tạp cuả học thuyết Phật giáo . Tài năng cuả ông là tóm lấy được cốt tuỷ cuả hế thống ấy, và sắp xếp chúng theo một định dạng dễ hiểu cho đến nổi tác phẩm cuả ông đã trở thành quyển sổ tay chuẩn mực cho việc nghiên cưú luận tạng trong toàn bộ các quốc gia Phật giáo Therevada ở Nam và Đông Nam Á.
(Xem: 30296)
Sự thờ phượng nói lên lòng kính ngưỡng đối với Tam Bảo. Phần hình thức tuy không tuyệt đối cần thiết nhưng là trợ duyên thù thắng cho sự hành trì Phật Pháp. Chỗ thanh tịnh rất tốt cho sự lễ bái và tập thiền. Sự tỉnh lặng rất cần thiết cho sự tập trung tinh thần. Trang nghiêm là điều cần lưu tâm trong sự thờ phượng
(Xem: 20524)
Đó không phải chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa học. Theo cách dùng thông thường, từ mindfulness trong tiếng Anh có ý nghĩa đơn giản là biết, hay lưu ý. Sati có ý nghĩa phong phú hơn, vì thế những ai muốn thực hành thiền Phật giáo cần phải hiểu rõ từ này và những từ liên quan khác dựa trên những văn liệu có thẩm quyền nhất có thể có được. Nếu không, thiền Phật giáo sẽ nhanh chóng phát triển thành một loại tư tưởng “đây và bây giờ” hồ đồ, mà nơi đó, sự thâm sâu và phong phú của những truyền thống thiền Phật giáo siêu việt sẽ bị mai một.
(Xem: 36812)
Có một hành giả học giả (vì biết vị này có ngồi thiền và cũng có nghiên cứu Kinh điển) làm research cho biết rằng: Ở bản dịch Trung Bộ Kinh có tới 232 chữ chánh niệm, còn chữ sammāsati (23) sammāsatiyā (3) sammāsatiṃ (2) sammāsatissa (2), chỉ gặp có 30 lần. Cũng như đã gặp ở 1 đề tài gần đây về chữ satimā (được dịch là “chánh niệm”, thay vì CÓ NIỆM. khiến số lượng các chữ “chánh niệm” nhiều hơn đến 202 lần. Trong ngôn ngữ thường ngày hình như chữ “chánh niệm” được sử dụng cũng nhiều, ví dụ như vị Trụ Trì của Sư ngày xưa thường hay nhắc nhở rằng: “Mấy Sư phải có chánh niệm một chút.” Vậy nên hiểu NIỆM VÀ CHÁNH NIỆM như thế nào đây ?
(Xem: 105113)
Tỉnh thức là thực hiện hành động với đầy đủ ý thức, ngay cả trong lúc thở, đi, đứng, nằm, ngồi, v.v. Mục đích của sự chú tâm là kiểm soát và làm lắng dịu tâm. Đây là một trong những điểm trọng yếu của thiền tập trong Phật giáo, bao gồm việc tu tập tỉnh thức thân, khẩu và ý để hoàn toàn tỉnh thức về việc mình làm và cái mình muốn.
(Xem: 101895)
Phương pháp tu thiền vipassana là con đường dẫn đến giải thoát mọi ràng buộc khổ đau; nó đoạn trừ tham, sân, si là nguyên nhân của mọi khổ đau. Hành giả vipassana tu tập để dời đi, một cách tuần tự, căn nguyên của khổ và thoát ly sự đen tối của những căng thẳng từ trước để dẫn đến cuộc sống sung túc, lành mạnh và hạnh phúc